Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC - QUY LUẬT HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN Ý THỨC XÃ HỘI - VẬN DỤNG TRONG XEM XÉT GIẢI QUYẾT NHỮNG VẤN ĐỀ CẤP BÁCH CỦA NQTW4 KHÓA XI HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (191.16 KB, 26 trang )

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
1.
1.1.
1.2.
2.

2.1.
2.2.

KẾT
LUẬN

Thực chất quy luật hình thành, phát triển của ý
thức xã hội
Một số quan điểm tiếp cận quy luật hình thành,
phát triển của ý thức xã hội
Quan điểm tiếp cận quy luật hình thành, phát
triển của ý thức xã hội của chủ nghĩa duy vật lịch
sử
Vận dụng quy luật hình thành, phát triển của ý
thức xã hội trong xem xét và giải quyết vấn đề
suy thoái đạo đức của một bộ phận cán bộ, đảng
viên theo tinh thần Nghị quyết Trung ương
4(khóa XI) của Đảng
Vận dụng trong xem xét vấn đề suy thoái đạo đức
của một bộ phận cán bộ, đảng viên theo tinh thần
Nghị quyết Trung ương 4(khóa XI) của Đảng
Vận dụng trong giải quyết vấn đề suy thoái đạo
đức của một bộ phận cán bộ, đảng viên theo tinh


thần Nghị quyết Trung ương 4(khóa XI) của
Đảng


MỞ ĐẦU
Quy luật hình thành, phát triển của ý thức xã hội là một nội dung rất quan
trọng của chủ nghĩa duy vật lịch sử, nó chẳng những góp phần làm cho chủ
nghĩa duy vật biện chứng phát triển và trở nên triệt để, hoàn bị hơn khi nghiên
cứu lĩnh vực xã hội loài người mà còn làm cho “Chủ nghĩa duy vật lịch sử của
Mác là thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng khoa học” 1. Quan hệ biện chứng
giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội là cơ sở khoa học trực tiếp của quy luật
hình thành, phát triển của ý thức xã hội. Quy luật hình thành, phát triển của ý
thức xã hội là chìa khóa để nhận thức khoa học mọi hiện tượng tinh thần của
đời sống xã hội.
Sự hình thành, phát triển của đạo đức với tư cách là một hình thái ý thức
xã hội luôn tuân theo quy luật hình thành, phát triển của ý thức xã hội phản
ánh tồn tại xã hội dưới dạng quan niệm về thiện, ác, lương tâm, trách nhiệm,
hạnh phúc... và về những quy tắc đánh giá, điều chỉnh hành vi ứng xử giữa cá
nhân với xã hội, giữa cá nhân với cá nhân trong xã hội. Mọi biểu hiện về ý
thức và hành vi đạo đức tích cực hay tiêu cực của con người đều có nguồn
gốc từ tồn tại xã hội và quá trình nội tại của nó. Vì vậy, nghiên cứu và làm rõ:
“Quy luật hình thành, phát triển của ý thức xã hội và vận dụng trong xem
xét, giải quyết những vấn đề cấp bách của Nghị quyết Trung ương 4 khóa
XI hiện nay” có ý nghĩa rất quan trọng để khẳng định tính khách quan của
vấn đề suy thoái đạo đức của một bộ phận cán bộ, đảng viên và tầm tư duy
triết học trong giải quyết vấn đề này của Đảng hiện nay.

NỘI DUNG
1. Thực chất quy luật hình thành, phát triển của ý thức xã hội
1


V.I.Lênin, Toàn tập, Nhà xuất bản TB, M. 1980, tập 23, tr 258


1.1. Một số quan điểm tiếp cận quy luật hình thành, phát triển của ý
thức xã hội
Với tính cách là một bộ phận không thể thiếu của đời sống tinh thần của
xã hội nên trong lịch sử đã có nhiều cách tiếp cận khác nhau khi nghiên cứu
về sự hình thành, phát triển của ý thức xã hội. Trong đó nổi bật nhất là quan
điểm tiếp cận và cách phân chia quy luật hình thành, phát triển của ý thức xã
hội của một số nhà triết học Nga.
A.D.Ses-su-nốp đã chia quy luật hình thành, phát triển của ý thức xã hội
thành hai nhóm:
Nhóm thức nhất, sự hình thành, phát triển của ý thức xã hội phụ thuộc
vào sự tác động của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội.
Nhóm thứ hai, sự hình thành, phát triển của ý thức xã hội phụ thuộc vào
quy luật vận động, phát triển nội tại của ý thức xã hội.
V.V.Ru-rap-lep đã chia quy luật hình thành, phát triển của ý thức xã hội
thành ba nhóm:
Nhóm thư nhất, quy luật tác động trực tiếp đến ý thức xã hội (tác động
của tồn tại xã hội đến ý thức xã hội).
Nhóm thứ hai, quy luật phát triển của chính tồn tại xã hội tác động đến ý
thức xã hội.
Nhóm thứ ba, quy luật bên trong của ý thức xã hội gắn với quy luật của
từng kiểu ý thức xã hội.
Đ.Gưrđép cũng chia quy luật hình thành, phát triển của ý thức xã hội
thành ba nhóm:
Nhóm thứ nhất, những quy luật chung nhất theo ba quy luật cơ bản của
phép biện chứng duy vật.
Nhóm thứ hai, những quy luật chung của các kiểu ý thức xã hội.

Nhóm thứ ba, những quy luật đặc thù của từng kiểu ý thức xã hội.


Những quan điểm tiếp cận và cách phân chia của các nhà triết học Nga
đã chứa đựng những yếu tố hợp lý và khoa học khi nghiên cứu quy luật hình
thành, phát triển của ý thức xã hội. Các quan điểm tiếp cận và cách phân chia
trên mặc dù có những khác nhau nhưng đều đề cập đến quy luật hình thành,
phát triển của ý thức xã hội là sự tác động biện chứng giữa tồn tại xã hội với ý
thức xã hội và sự vận động nội tại của chính ý thức xã hội.
1.2. Quan điểm tiếp cận quy luật hình thành, phát triển của ý thức xã
hội của chủ nghĩa duy vật lịch sử
Bằng phương pháp biện chứng duy vật trong nghiên cứu lịch sử xã hội đi
từ cơ sở của sản xuất vật chất để giải thích các hiện tượng của đời sống xã
hội, chủ nghĩa duy vật lịch sử khi nghiên cứu quy luật hình thành, phát triển
của ý thức xã hội đã tiếp cận và phân chia theo hai nhóm:
* Nhóm thứ nhất, quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã
hội và ý thức xã hội.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng định quy luật hình thành, phát triển của
ý thức xã hội phụ thuộc vào tồn tại xã hội.
Sự khác biệt về chất giữa Triết học Mác – Lênin với các triết học khác là
phát triển chủ nghĩa duy vật đến đỉnh cao, xây dựng quan điểm duy vật về
lịch sử và lần đầu tiên giải quyết khoa học về quy luật hình thành, phát triển
của ý thức xã hội.
Khẳng định ý thức xã hội phụ thuộc vào sự phát triển của tồn tại xã hội
vì: trong đời sống xã hội tồn tại thuộc về mặt vật chất, mặt khách quan của
đời sống xã hội; còn ý thức xã hội thuộc về mặt tinh thần, mặt chủ quan của
đời sống xã hội. Trong mối quan hệ đó, ý thức phụ thuộc vào vật chất. Mặt
khác xét trong quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng thì tồn tại
xã hội gắn liền cơ sở hạ tầng, còn ý thức xã hội là bộ phận của kiến trúc
thượng tầng. Xét trong quá trình cụ thể thì tồn tại xã hội là cái có trước, là

tính thứ nhất. Ý thức xã hội là sự phản ánh tồn tại, nó là cái có sau là tính thứ


hai. Mối quan hệ tồn tại xã hội và ý thức xã hội là sự cụ thể hoá mối quan hệ
vật chất ý thức trong đời sống xã hội. Sự phụ thuộc của ý thức xã hội đối với
tồn tại xã hội được biểu hiện ở các phương diện như: tính chất, nội dung, sự
vận động phát triển.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử đã khẳng định rằng: đời sống tinh thần của xã
hội hình thành, phát triển trên cơ sở đời sống vật chất rằng không thể tìm
nguồn gốc của tư tưởng, tâm lý xã hội trong bản thân nó, nghĩa là không thể
tìm trong đầu óc con người mà phải tìm trong chính hiện thực vật chất. Sự
biến đổi của một thời đại nào đó cũng sẽ không giải thích được nếu chỉ căn cứ
vào ý thức thời đại đó. Các Mác viết: “Không thể nhân định được về một thời
đại đảo lộn như thế, căn cứ vào ý thức của thời đại đó. Trái lại, phải giải thích
ý thức ấy bằng những mâu thuẫn của đời sống vật chất, bằng sự xung đột hiện
có giữa các lực lượng sản xuất xã hội và những quan hệ sản xuất ấy”1.
Sự hình thành, phát triển của ý thức xã hội là do tồn tại xã hội quyết
định, ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội, phụ thuộc vào tồn tại xã hội.
Nghĩa là tồn tại xã hội quyết định nội dung phản ánh của ý thức xã hội: nó
quyết định ý thức xã hội ở sự nghèo nàn, phong phú hay đơn điệu trong nội
dung phản ánh. Tồn tại xã hội cũng quyết định tính chất cách mạng hay phản
ánh cách mạng, đối kháng hay không đối kháng trong sự hình thành, phát
triển của ý thức xã hội. Khi tồn tại xã hội thay đổi, nhất là phương thức sản
xuất thay đổi thì những tư tưởng và lý luận xã hội, những quan điểm về chính
trị pháp quyền, triết học, đạo đức, văn hóa nghệ thuật…sớm hay muộn cũng
thay đổi theo. Cho nên, chúng ta thấy ở những thời kỳ lịch sử khác nhau có
những quan điểm, lý luận, tư tưởng xã hội khác nhau thì đó chính là do những
điều kiện khác nhau của đời sống vật chất quyết định. Trong “Lời tựa” của tác
phẩm “Góp phần phê phán chính trị - kinh tế học”, Mác viết: “Phương thức
sản xuất đời sống vật chất quyết định quá trình sinh hoạt xã hội, chính trị và

1

C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Nxb. CTQG, H1993, tập 13, tr 15


tinh thần nói chung. Không phải ý thức của con người quyết định sự tồn tại
của họ; trái lại chính sự tồn tại xã hội của họ quyết định ý thức của họ”2.
Thực tế trong lịch sử đã chứng minh điều đó. Trong xã hội nguyên thuỷ,
do trình độ của lực lượng sản xuất còn hết sức thấp kém, mọi người còn sống
chung, làm chung, hưởng chung nên chưa có quan niệm tư hữu, chưa có ý
thức bóc lột. Nhưng khi chế độ công xã nguyên thuỷ tan rã, chế độ tư hữu ra
đời xã hội phân chia giầu nghèo, bóc lột và bị bóc lột thì ý thức con người
cũng thay đổi căn bản: tư tưởng ăn bám, tư hữu, bóc lột, chủ nghĩa cá nhân…
xuất hiện. Nhưng các nhà tư tưởng của giai cấp nô lệ vẫn ca ngợi chế độ nô
lệ, xem đó là sự tồn tại hợp tự nhiên, cần thiết.
Nhưng khi chế độ chiếm hữu nô lệ suy tàn thì trong xã hội cũng xuất
hiện tư tưởng xem chế độ chiếm hữu nô lệ là trái với chính nghĩa cần xoá bỏ.
Trong xã hội phong kiến, khi quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa ra đời và dần
dần lớn mạnh thì cũng nảy sinh quan niệm cho rằng sự tồn tại của chế độ
phong kiến là trái công lý, không phù hợp với lý tính con người phải được
thay thế bằng xã hội công bằng, bình đẳng, bác ái. Ngay cả khi chủ nghĩa tư
bản mới ra đời, đã xuất hiện các trào lưu tư tưởng xã hội chủ nghĩa không
tưởng phê phán những mâu thuẫn trong lòng chủ nghĩa tư bản, đề xuất xây
dựng một xã hội mới tốt đẹp hơn, thay thế chế độ tư bản. Nhưng ở thời điểm
đó các nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng không thể giải thích được bản chất
của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và không hiểu những điều kiện
khách quan dẫn tới thắng lợi của chủ nghĩa xã hội. Điều đó chỉ rõ xã hội tư
bản chủ nghĩa mới ra đời đã mang trong mình nó những mâu thuẫn, song
những điều kiện xây dựng xã hội mới thay thế xã hội tư bản chủ nghĩa chưa
đến độ chín muồi.

Triết học Mác Lênin với quan điểm về nguồn gốc ý thức không chỉ dừng
lại ở chỗ xác định sự phụ thuộc của ý thức xã hội vào tồn tại xã hội mà còn
2

C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Nxb. CTQG, H1993, tập 13, tr 15


chỉ ra rằng: tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, không phải một cách đơn
giản, trực tiếp mà thường thông qua các khâu trung gian.
Không phải bất cứ tư tưởng quan niệm, lý luận hình thái ý thức xã hội
nào cũng phản ánh rõ ràng và trực tiếp những quan hệ kinh tế của thời đại, chỉ
khi nào xét đến cùng thì mới thấy rõ những mối quan hệ kinh tế được phản
ánh bằng cách này hay cách khác trong các tư tưởng ấy. Chủ nghĩa duy vật
lịch sử đòi hỏi phải có thái độ biện chứng khi xem xét sự phản ánh tồn tại xã
hội của ý thức xã hội.
Sự hình thành, phát triển của ý thức xã hội không những phụ thuộc vào
tồn tại xã hội mà còn là quy luật về sự tương ứng của ý thức xã hội với tồn tại
xã hội. Quy luật này chỉ ra sự tương ứng trong một thời gian nhất định, trong
một hoàn cảnh lịch sử nhất định nào đó của ý thức xã hội với tồn tại xã hội.
Sự tương ứng của ý thức xã hội với tồn tại xã hội thể hiện sự thống nhất giữa
ý thức xã hội và tồn tại xã hội trong một điều kiện hoàn cảnh lịch sử cụ thể là
điều kiện để tồn tại một chế độ xã hội cụ thể trong lịch sử. Trên cơ sở tồn tại
xã hội, ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội tương ứng với nội dung, tính chất
của tồn tại xã hội trong giai đoạn lịch sử đó. Điều đó đã được chứng minh
trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, tương ứng với tồn tại xã hội của
mỗi chế độ xã hội sẽ là ý thức xã hội của chế độ xã hội đó. Ý thức xã hội của
xã hội cộng sản nguyên thủy chỉ tương ứng với tồn tại xã hội của xã hội cộng
sản nguyên thủy. Khi tồn tại xã hội phát triển từ chế độ cộng sản nguyên thủy
sang chiếm hữu nô lệ thì ý thức xã hội của chế độ cộng sản nguyên thủy
không còn tương ứng, phù hợp với tồn tại của xã hội mới. Và điều đó luôn

đúng trong mỗi bước phát triển của xã hội loài người. Sự tương ứng của ý
thức xã hội với tồn tại xã hội còn bao hàm cả sự phá vỡ sự tương ứng. Sự phá
vỡ tính tương ứng này trở thành động lực bên trong thúc đẩy sự phát triển của
ý thức xã hội và tồn tại xã hội.


* Nhóm thứ hai, quy luật về tính độc lập tương đối của ý thức xã hội
hay quy luật nội tại của ý thức xã hội.
Khi khẳng định vai trò quyết định của tồn tại xã hội với sự hình thành,
phát triển của ý thức xã hội, còn ý thức xã hội là phản ánh tồn tại xã hội phụ
thuộc vào tồn tại xã hội, chủ nghĩa duy vật lịch sử không xem ý thức xã hội
như một yếu tố hoàn toàn thụ động mà trái lại còn nhấn mạnh sự tác động tích
cực trở lại của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội, nhấn mạnh tính độc lập
tương đối của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội. Tính độc lập tương đối của
ý thức xã hội được thể hiện:
Tính lạc hậu trong sự hình thành, phát triển của ý thức xã hội: Tính lạc
hậu của ý thức xã hội ở đây cần được hiểu theo nghĩa: ý thức xã hội thường ra
đời sau khi tồn tại xã hội đã ra đời và thường mất đi sau khi tồn tại xã hội đã
mất đi.
Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội là do: ý thức xã
hội là các phản ánh tồn tại xã hội nên nó chỉ biến đổi sau khi có sự biến đổi
của tồn tại xã hội, sự biến đổi của tồn tại xã hội do tác động thường xuyên
mạnh mẽ và trực tiếp của những hoạt động thực tiễn của con người, nên nó
thường diễn ra với tốc độ rất nhanh mà ý thức xã hội có thể không phản ánh
kịp và trở nên lạc hậu; do sức mạnh của thói quen, truyền thống, tập quán
cũng như do tính lạc hậu, bảo thủ của một số hình thái ý thức xã hội; ý thức
xã hội luôn gắn với lợi ích của những nhóm, những tập đoàn người, những
giai cấp nhất định trong xã hội. Vì vậy, những tư tưởng cũ lạc hậu thường
được các lực lượng xã hội phản tiến bộ lưu giữ và truyền bá chống lại các lực
lượng xã hội tiến bộ.

Lịch sử xã hội cho thấy, nhiều khi xã hội cũ mất đi, thậm chí mất đi rất
lâu, nhưng ý thức xã hội do xã hội đó sinh ra vẫn tồn tại dai dẳng. Tính độc
lập của ý thức xã hội thể hiện rõ nhất trong lĩnh vực tâm lý xã hội: trong


truyền thống tập quán, thói quen… Lênin cho rằng sức mạnh tập quán được
tạo ra qua nhiều thế kỷ là sức mạnh ghê gớm nhất.
Khuynh hướng lạc hậu của ý thức xã hội cũng biểu hiện rõ trong điều
kiện xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhiều hiện tượng ý thức có nguyên nhân sâu
xa trong xã hội cũ vẫn tồn tại dai dẳng trong xã hội mới như lối sống ăn bám,
lười lao động, tham nhũng, chủ nghĩa cá nhân…
Những ý thức lạc hậu, tiêu cực không mất đi một cách dễ dàng. Vì vậy,
trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới phải thường xuyên tăng cường công tác
tư tưởng, đấu tranh chống lại những âm mưu và hành động phá hoại của các
thế lực thù địch về mặt tư tưởng. Đồng thời kiên trì xoá bỏ những tàn dư ý
thức cũ kết hợp với phát huy những truyền thống tư tưởng tốt đẹp của dân tộc.
Ý thức xã hội có tính kế thừa trong sự hình thành, phát triển của mình vì
kế thừa là quy luật chung của các sự vật, hiện tượng nên trong quá trình vận
động của ý thức xã hội nó cũng phải có tính kế thừa. Mặt khác, sự tồn tại,
phát triển của ý thức xã hội là phản ánh tồn tại xã hội, mà tồn tại xã hội cũng
có tính kế thừa, nó vận động liên tục nên ý thức xã hội cũng phản ánh quá
trình đó, nó có tính kế thừa. Lịch sử phát triển đời sống tinh thần của xã hội
cho thấy rằng những quan điểm lý luận của mỗi thời đại không nảy sinh trên
mặt đất trống không mà được tạo ra trên cơ sở kế thừa những thành tựu lý
luận của các thời đại trước. Chủ nghĩa Mác - Lênin, kế thừa tinh hoa tư tưởng
của loài người đã đạt được trước đó mà trực tiếp là nền triết học cổ điển Đức,
nền kinh tế chính trị học cổ điển Anh và chủ nghĩa xã hội không tưởng ở
Pháp.
Từ tính kế thừa của ý thức xã hội, nên không thể giải thích được một tư
tưởng nào đó nếu chỉ dựa vào những quan hệ kinh tế hiện có, không chú ý đến

các giai đoạn phát triển tư tưởng trước đó. Lịch sử phát triển của tư tưởng
nhân loại cho thấy: những giai đoạn phát triển hưng thịnh hay suy tàn của triết
học, văn hóa, nghệ thuật … nhiều khi không phù hợp hoàn toàn với những


giai đoạn hưng thịnh hay suy tàn của kinh tế. Tính kế thừa trong sự phát triển
của ý thức xã hội là một trong những nguyên nhân chỉ rõ vì sao một nước có
trình độ phát triển tương đối kém về kinh tế nhưng tư tưởng lại ở trình độ phát
triển cao. Ở nước Pháp thế kỷ XVIII nền kinh tế kém phát triển hơn nước
Anh, nhưng tư tưởng lại tiên tiến hơn nước Anh, hoặc so với nước Anh, Pháp
nửa đầu thế kỷ XIX, nước Đức lạc hậu hơn về kinh tế, nhưng lại có sự phát
triển triết học ở trình độ cao hơn.
Trong xã hội có giai cấp, tính kế thừa của ý thức xã hội gắn với tính giai
cấp của nó. Những giai cấp khác nhau kế thừa những nội dung ý thức khác
nhau của các thời đại trước. Các giai cấp tiên tiến kế thừa những di sản tư
tưởng tiến bộ của xã hội cũ để lại. Khi tiến hành cách mạng tư sản các nhà tư
tưởng tiên tiến của giai cấp tư sản đã kế thừa, khôi phục những tư tưởng duy
vật, nhân bản thời cổ đại.
Ngược lại, những giai cấp lỗi thời và các nhà tư tưởng của nó thì tiếp thu,
khôi phục những tư tưởng, những lý thuyết xã hội phản tiến bộ của các thời
kỳ lịch sử trước. Giai cấp phong kiến trung cổ vào thời kỳ suy thoái đã khai
thác triết học duy tâm của Platon và những yếu tố duy tâm trong hệ thống triết
học Arixtot của triết học Hy lạp cổ đại, biến chúng thành cơ sở triết học của
các giáo lý đạo thiên chúa. Hoặc bước vào nửa sau của thế kỷ XIX đầu thế kỷ
XX, các thế lực tư sản phản động đã phục hồi và phát triển những trào lưu
triết học duy tâm, tôn giáo dưới những cái tên mới như chủ nghĩa Cantơ, chủ
nghĩa Tôma mới nhằm chống phong trào cách mạng của giai cấp công nhân
và chống chủ nghĩa Mác Lênin. Chính vì thế, nên khi tiến hành cuộc đấu
tranh giai cấp trên lĩnh vực ý thức xã hội thì không những phải vạch ra tính
chất phản khoa học, phản tiến bộ của những trào lưu tư tưởng phản động

trong điều kiện hiện tại, mà còn phải chỉ ra những nguồn gốc lý luận của nó
trong lịch sử. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử về tính kế thừa của ý
thức xã hội có ý nghĩa rất to lớn đối với sự nghiệp xây dựng nền văn hóa tinh


thần của xã hội xã hội chủ nghĩa. Lênin nhấn mạnh rằng, văn hóa xã hội chủ
nghĩa cần phải phát huy những thành tựu và truyền thống tốt đẹp nhất của
nhân loại từ cổ chí kim trên cơ sở thế giới quan Mácxít. Người nhấn mạnh:
“Văn hoá vô sản phải là sự phát triển hợp qui luật của tổng số những kiến
thức mà loài người đã tích luỹ được dưới ách thống trị của xã hội tư bản, xã
hội của bọn địa chủ và xã hội của bọn quan liêu”1.
Tính tiên tiến trong sự hình thành, phát triển của thức xã hội: Chủ nghĩa
duy vật lịch sử khi khẳng định tính lạc hậu của ý thức xã hội so với tồn tại xã
hội thì đồng thời thừa nhận rằng trong những điều kiện nhất định, tư tưởng
của con người, đặc biệt là những tư tưởng khoa học tiên tiến có thể vượt trước
sự phát triển của tồn tại xã hội. Tư tưởng đó có thể dự báo được tương lai, có
tác dụng chỉ đạo, tổ chức hoạt động thực tiễn của con người, hướng hoạt động
của con người vào giải quyết những nhiệm vụ mới do sự chín muồi của đời
sống vật chất tạo ra. Sự ra đời, phát triển của chủ nghĩa Mác Lênin là một
minh chứng. Chủ nghĩa Mác Lênin là hệ tư tưởng của giai cấp công nhân giai cấp cách mạng nhất của thời đại. Tuy ra đời vào thế kỷ XIX, trong lòng
chủ nghĩa tư bản nhưng chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ rõ qui luật của chủ
nghĩa tư bản nói riêng. Qua đó khẳng định rằng chủ nghĩa tư bản nhất định sẽ
bị thay thế bằng chủ nghĩa cộng sản mà giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội.
Học thuyết đó đã trang bị cho giai cấp công nhân và chính đảng cộng sản vũ
khí lý luận sắc bén để giải phóng mình và giải phóng nhân dân lao động, các
dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới thoát khỏi ách nô dịch, bóc lột, xây dựng
một xã hội hoàn toàn tốt đẹp. Trong thời đại ngày nay, chủ nghĩa Mác Lênin
vẫn là thế giới quan và phương pháp luận chung nhất cho nhận thức và cải tạo
thế giới trên mọi lĩnh vực, vẫn là cơ sở lý luận và phương pháp khoa học cho
sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng định tư tưởng tiên tiến có thể đi trước
tồn tại xã hội không có nghĩa nói rằng trong trường hợp này ý thức xã hội
1

V.I Lênin, Toàn tập, NXB Tiến bộ Mátxcơva, 1997, tập 41, trang 361


không còn bị tồn tại xã hội quyết định nữa. Tư tưởng khoa học tiên tiến không
thoát ly tồn tại xã hội mà phản ánh sâu sắc tồn tại xã hội.
Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội trong sự hình thành,
phát triển của ý thức xã hội là một biểu hiện của tính độc lập tương đối của ý
thức xã hội. Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội làm cho mỗi
hình thái có những mặt, những tính chất không thể giải thích được một cách
trực tiếp bằng tồn tại xã hội hay bằng các điều kiện vật chất mà phải thông
qua mối quan hệ tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội.
Lịch sử hình thành, phát triển của ý thức xã hội cho thấy, thông thường ở
mỗi thời đại, tuỳ theo hoàn cảnh lịch sử cụ thể, có những hình thái ý thức xã
hội nào đó nổi lên hàng đầu và tác động mạnh đến cách hình thái ý thức khác.
Ở Hy Lạp cổ đại, triết học và nghệ thuật đóng vai trò đặc biệt quan trọng,
còn ở Tây Âu thời trung cổ, tôn giáo ảnh hưởng mạnh mẽ đến mọi mặt của
đời sống tinh thần xã hội như triết học, nghệ thuật, đạo đức, chính trị, pháp
quyền, ở giai đoạn lịch sử sau này thì ý thức chính trị lại đóng vai trò to lớn
tác động đến các hình thái ý thức xã hội khác nhau. Ở Pháp cuối thế kỷ XVIII
và Đức cuối thế kỷ XIX triết học và văn hóa là công cụ quan trọng nhất để
tuyên truyền những tư tưởng chính trị, là vũ đài của cuộc đấu tranh chính trị
của các lực lượng xã hội tiên tiến.
Trong sự tác động lẫn nhau giữa các hình thái ý thức xã hội, ý thức chính
trị có vai trò đặc biệt quan trọng, ý thức chính trị của giai cấp cách mạng định
hướng cho sự phát triển theo chiều hướng tiến bộ của các hình thái ý thức
khác. Trong điều kiện của nước ta hiện nay, những hoạt động tư tưởng như

triết học, văn học, nghệ thuật, đạo đức… mà tách rời đường lối chính trị đổi
mới đúng đắn của Đảng sẽ không tránh khỏi rơi vào những quan điểm sai
lầm, không thể đóng góp tích cực vào sự nghiệp cách mạng của nhân dân.
Sự tác động trở lại của thức xã hội đối với tồn tại xã hội: Chủ nghĩa duy
vật lịch sử không những chống lại quan điểm tuyệt đối hoá vai trò của ý thức


xã hội mà còn bác bỏ quan điểm duy vật tầm thường phủ nhận vai trò tích cực
của ý thức xã hội trong đời sống xã hội. Ăngghen đã khẳng định “Sự phát
triển về mặt chính trị, pháp luật, triết học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật…đều
dựa vào sự phát triển kinh tế. Nhưng tất cả chúng cũng có ảnh hưởng lẫn nhau
và ảnh hưởng đến cơ sở kinh tế”1.
Mức độ ảnh hưởng của tư tưởng đối với sự phát triển của xã hội phụ
thuộc vào những điều kiện lịch sử cụ thể, vào tính chất các mối quan hệ kinh
tế mà trên đó tư tưởng nảy sinh, vào vai trò lịch sử của giai cấp mang ngọn cờ
tư tưởng vào mức độ phản ánh đúng đắn của tư tưởng đối với các nhu cầu
phát triển xã hội, vào mức độ thâm nhập của tư tưởng đó vào quần chúng. Vì
vậy, cần phân biệt vai trò của ý thức tư tưởng tiến bộ và ý thức của tư tưởng
phản tiến bộ đối với sự phát triển của xã hội.
Khẳng định về tính độc lập tương đối của ý thức xã hội, chủ nghĩa duy
vật lịch sử đã chỉ ra bức tranh phức tạp của lịch sử hình thành, phát triển của ý
thức xã hội và của đời sống tinh thần xã hội nói chung. Nó bác bỏ mọi quan
điểm siêu hình, máy móc tầm thường về mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý
thức xã hội.
2. Vận dụng quy luật hình thành, phát triển của ý thức xã hội trong
xem xét và giải quyết vấn đề suy thoái đạo đức của một bộ phận cán bộ,
đảng viên theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4(khóa XI) của Đảng
2.1. Vận dụng trong xem xét vấn đề suy thoái đạo đức của một bộ
phận cán bộ, đảng viên theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4(khóa XI)
của Đảng

Quy luật hình thành, phát triển của ý thức xã hội là cơ sở lý luận, là chìa
khóa để nhận thức, xem xét một cách khoa học các hiện tượng tinh thần của
đời sống xã hội trong đó có vấn đề suy thoái về đạo đức của một bộ phận cán
bộ, đảng viên theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4(khóa XI) hiện nay.
1

C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội, 1990, tập 1, trang 39,271


Có thể khẳng định rằng, trong ý thức của mỗi cán bộ, đảng viên và quần
chúng nhân dân đều có sự thống nhất trong nhận thức về tư tưởng căn bản của
Nghị quyết Trung ương 4(khóa XI): “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng
Đảng hiện nay” là vấn đề suy thoái đạo đức của một bộ phận cán bộ, đảng
viên hiện nay. Suy thoái về phẩm chất chính trị tư tưởng, đạo đức, lối sống là
một thực tế đang tồn tại trong đời sống đạo đức của một bộ phận cán bộ, đảng
viên. Suy thoái đạo đức là hiện tượng tiêu cực trong đạo đức của người cán
bộ, đảng viên như trong Nghị quyết đã đánh giá: “Một bộ phận không nhỏ cán
bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả
một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với
những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân
ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ,
tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc...”. Vì vậy, Đảng ta đã xác định:
“kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên,
trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp” là vấn đề trọng tâm, xuyên suốt
và cấp bách nhất.
Sự suy thoái về phẩm chất chính trị tư tưởng, đạo đức, lối sống của một
bộ phận cán bộ, đảng viên là sản phẩm của mặt trái nền kinh tế thị trường.
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội nên trong quá trình nảy sinh, hình
thành và phát triển luôn chịu sự quy định của tồn tại xã hội mà trước hết và

chủ yếu nhất là phương thức sản xuất. Với luận điểm đó, Mác đã đem đến cho
loài người chìa khóa để khám phá tất cả các hiện tượng xã hội trong đó có đạo
đức. Với tư cách là sự phản ánh tồn tại xã hội, đạo đức là sản phẩm của những
điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội, của cơ sở kinh tế: “Xét cho cùng, mọi
học thuyết về đạo đức đã có từ trước đến nay đều là sản phẩm của tình hình
kinh tế của xã hội lúc bấy giờ”1. Suy thoái đạo đức là biểu hiện mặt tiêu cực
1

C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội, 1994, tập 20, trang 137


trong đạo đức của người cán bộ, đảng viên, là sản phẩm của mặt trái nền kinh
tế thị trường ở Việt Nam.
Đất nước ta đang trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội với chủ
trương phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đó là
hướng đi đúng, phù hợp với đặc điểm của nước ta. Kinh tế thị trường là sản
phẩm chung của nền văn minh nhân loại. Do đó, kinh tế thị trường không chỉ
có giá trị đối với chủ nghĩa tư bản mà còn có giá trị đối với thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Với tính cách là sản phẩm chung của nền văn minh nhân loại, kinh tế thị
trường đã mang lại những tác động tích cực đối với mọi lĩnh vực trong đời
sống xã hội ở nước ta trong đó có đạo đức. Những thành quả về kinh tế trong
sự nghiệp đổi mới ở nước ta đã khẳng định tính tích cực của nền kinh tế thị
trường. Trong lĩnh vực đạo đức, kinh tế thị trường đã góp phần hình thành
những thang giá trị đạo đức tiến bộ trong đời sống tinh thần của nhân dân ta.
Tuy nhiên, với đặc trưng về quan hệ giữa các cá nhân, các chủ thể trong nền
kinh tế thị trường là quan hệ cạnh tranh nhằm mục đích đạt được lợi ích cá
nhân đã và đang tạo ra những tác động tiêu cực trên mọi mặt của đời sống
kinh tế - xã hội trong đó có vấn đề đạo đức của đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Đại hội X của Đảng cho phép đảng viên được làm kinh tế tư nhân tức là

tham gia vào nền kinh tế thị trường. Quá trình tham gia vào nền kinh tế thị
trường, đạo đức của đội ngũ cán bộ, đảng viên cũng trực tiếp tham gia vào các
mối quan hệ đặc trưng của nền kinh tế ấy. Chúng ta không “đổ thừa” cho nền
kinh tế thị trường, nhưng rõ ràng từ khi đảng viên trực tiếp làm kinh tế tư
nhân, vấn đề suy thoái về phẩm chất chính trị tư tưởng, đạo đức, lối sống của
đội ngũ này ngày càng trầm trọng hơn làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối
với Đảng như Nghị quyết Trung ương 4 đã khẳng định những yếu kém,
khuyết điểm đó “nếu không được sửa chữa sẽ là thách thức đối với vai trò
lãnh đạo của Đảng và sự tồn vong của chế độ”. Vấn đề suy thoái đạo đức của


đội ngũ cán bộ, đảng viên đã được Đảng chỉ ra “có nguyên nhân khách quan
do việc thực hiện đổi mới kinh tế phải vừa làm, vừa rút kinh nghiệm, chưa
lường hết được những tác động của mặt trái cơ chế thị trường, hội nhập quốc
tế”. Đạo đức của người cán bộ, đảng viên là đạo đức cách mạng, phấn đấu vì
mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, là công bộc của nhân dân, suốt
đời tận tụy phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Theo đó, đạo đức của người
cán bộ, đảng viên phải đặt lợi ích xã hội, lợi ích quốc gia dân tộc lên trên hết
và trước hết. Thế nhưng, dưới sự tác động của mặt trái nền kinh tế thị trường,
một bộ phận cán bộ, đảng viên đã hạ thấp thậm trí còn chà đạp lên lợi ích xã
hội, quốc gia dân tộc để đạt lợi ích cá nhân của riêng mình. Kinh tế thị trường
đã sản sinh ra “hai đứa con hư” trong đời sống đạo đức của đội ngũ cán bộ,
đảng viên đó là “kiếm tiền” và “hưởng thụ”. Để nuôi “hai đứa con hư” đó,
một bộ phận cán bộ, đảng viên trong đó có cả cán bộ cấp cao giữ những vị trí
quan trọng của Đảng đã chạy theo tiền tài, lợi ích cá nhân, tham nhũng, hưởng
lạc… quên đi trách nhiệm với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân.
Như vậy, vấn đề suy thoái phẩm chất chính trị tư tưởng, đạo đức, lối
sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên theo tinh thần Nghị quyết Trung
ương 4 trước hết là do sự tác động của mặt trái nền kinh tế thị trường với đặc
trưng đề cao lợi ích cá nhân. Bên cạnh đó, do là một hình thái ý thức xã hội

nên đạo đức có sự tác động qua lại với các hình thái ý thức xã hội khác như
chính trị, pháp luật, nghệ thuật…Do đó, sự suy thoái phẩm chất chính trị tư
tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên hiện nay còn là
sự tác động của những yếu tố chính trị trong và ngoài nước; của sự yếu kém
trong hệ thống pháp luật, kỷ luật của Đảng; sự hạn chế tác động tích cực của
nghệ thuật mà phạm trù trung tâm là cái đẹp không được đề cao và phát huy
trong đời sống đạo đức của cán bộ, đảng viên.
Sự suy thoái phẩm chất chính trị tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ
phận cán bộ, đảng viên là hệ quả của những hạn chế trong công tác giáo dục


chính trị của Đảng và âm mưu chính trị của các thế lực thù địch đối với cách
mạng nước ta.
Chính trị là mối quan hệ giữa các giai cấp đối với vấn đề nhà nước, đứng
về mặt lịch sử chính trị chỉ xuất hiện khi có nhà nước còn đạo đức xuất hiện
rất sớm cùng với sự xuất hiện xã hội loài người. Giữa đạo đức và chính trị
luôn có mối quan hệ tác động qua lại với nhau. Các quan hệ đạo đức thường
lẫn vào chính trị và phản ánh quan điểm chính trị, ngược lại có những quan
điểm chính trị phản ánh những giá trị đạo đức. Đạo đức mang tính giai cấp
nên khi giai cấp và nhà nước tiên tiến thì nó thường gắn liền với những quan
điểm đạo đức tiến bộ, ngược lại giai cấp suy tàn, phản tiến bộ thì gắn liền với
quan điểm đạo đức lạc hậu, phản tiến bộ, bảo thủ kiềm hãm sự phát triển của
xã hội.
Đạo đức của người cán bộ, đảng viên của Đảng là đạo đức cách mạng,
tiên tiến là đạo đức của giai cấp vô sản, đạo đức phục vụ cho mục tiêu chính
trị của Đảng. Theo đó, bằng công tác giáo dục chính trị, Đảng phải làm cho
đạo đức của đội ngũ cán bộ, đảng viên phản ánh mục tiêu chính trị của Đảng.
Quá trình đó sẽ hình thành ở đội ngũ cán bộ, đảng viên những phẩm chất
chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống phù hợp với mục tiêu vì độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn. Đạo đức cách mạng

của đội ngũ cán bộ, đảng viên gắn với mục tiêu chính trị của Đảng không phải
tự nhiên mà có, nó phụ thuộc rất quan trọng vào công tác giáo dục chính trị
của Đảng. Công tác giáo dục chính trị của Đảng thực chất là hiện thực hóa
vai trò tác động của chính trị đối với đạo đức của đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Nếu công tác giáo dục chính trị được tiến hành có hiệu quả thì phẩm chất
chính trị tư tưởng, đạo đức, lối sống của đội cán bộ, đảng viên sẽ được nâng
cao theo mục tiêu chính trị của Đảng, ngược lại công tác này yếu kém sẽ là
nhân tố dẫn đến sự suy thoái về phẩm chất chính trị tư tưởng, đạo đức, lối
sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên. Chính vì vậy, sự suy thoái về phẩm


chất chính trị tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên
hiện nay đã được Đảng thừa nhận có sự hạn chế trong công tác giáo dục chính
trị như Nghị quyết Trung ương 4 đã nêu: “Công tác tuyên truyền, giáo dục
chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống nhiều khi còn hình thức, chưa đủ sức
động viên và thường xuyên nâng cao ý chí cách mạng của cán bộ, đảng viên”.
Sự suy thoái về phẩm chất chính trị tư tưởng, đạo đức, lối sống của một
bộ phận cán bộ, đảng viên hiện nay, bên cạnh có sự tác động của mặt hạn chế
trong công tác giáo dục chính trị còn là hậu quả của những tác động từ yếu tố
chính trị của các thế lực thù địch, đặc biệt là chiến lược “diễn biến hòa
bình”. “Diễn biến hòa bình” là chiến lược chính trị của các nước tư bản chủ
nghĩa chống lại chủ nghĩa xã hội. Thực hiện mưu đồ chính trị đó, các thế lực
thù địch tăng cường các hoạt động chống phá, chia rẽ nội bộ Đảng với thủ
đoạn mua chuộc một bộ phận cán bộ trong Đảng, kể cả cán bộ cấp cao, đang
giữ những những vị trí trọng trách trong bộ máy quản lý nhà nước và hệ thống
chính trị, cán bộ hoạch định chiến lược, cán bộ làm công tác tư tưởng lý luận,
công tác, tổ chức...Đồng thời lợi dụng sự tạm thời thoái trào của chủ nghĩa xã
hội, những hạn chế sai lầm của Đảng chúng ra sức tuyên truyền nói xấu Đảng
và chế độ xã hội chủ nghĩa, dùng những lời lẽ xảo quyệt ca ngợi chủ nghĩa tư
bản. Chính vì vậy, sự tác động của yếu tố chính trị bên ngoài, đặc biệt là âm

mưu “phi chính trị hóa” trong “diễn biến hòa bình” đã tác động đến một bộ
phận cán bộ, đảng viên trong Đảng không giữ vững được lập trường, suy
thoái về phẩm chất chính trị tư tưởng, đạo đức, lối sống. Sự tác động đó đã
được Nghị quyết khẳng định: “các thế lực thù địch không từ bỏ âm mưu và
hoạt động "diễn biến hòa bình", thúc đẩy "tự diễn biến", "tự chuyển hóa",
tăng cường hoạt động chống phá, chia rẽ nội bộ Đảng và phá hoại mối quan
hệ gắn bó giữa Đảng với nhân dân, làm suy yếu vai trò lãnh đạo của Đảng”.


Sự suy thoái phẩm chất chính trị tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ
phận cán bộ, đảng viên xuất phát từ những yếu kém, hạn chế của hệ thống
pháp luật của Nhà nước và kỷ luật của Đảng.
Đạo đức và pháp luật mặc dù có những điểm khác biệt nhưng giữa chúng
luôn có mối quan hệ tác động qua lại với nhau. Trong mối quan hệ đó, pháp
luật có vai trò điều chỉnh, trừng trị đối với những quan hệ đạo đức phản tiến
bộ. Pháp luật Việt Nam, kỷ luật của Đảng quy định quyền, nghĩa vụ, trách
nhiệm và hình thức xử phạt, kỷ luật đối với những hành vi vi phạm pháp luật,
kỷ luật Đảng của người cán bộ, đảng viên. Pháp luật của Nhà nước, kỷ luật
của Đảng thể hiện tính khoa học, nghiêm minh có chức năng điều chỉnh,
hướng dẫn, quy định hành vi của người cán bộ, đảng viên trong đó có hành vi
đạo đức. Bởi, hành vi đạo đức của người cán bộ, đảng viên là hành vi cách
mạng chân chính, do đó phải phù hợp với pháp luật của Nhà nước và kỷ luật
của Đảng. Mọi hành vi đạo đức phản tiến bộ, vi phạm pháp luật và kỷ luật
Đảng của người cán bộ, đảng viên đều phải bị xử phạt, kỷ luật nghiêm minh.
Quá trình đó sẽ giúp cho việc ngăn chặn những vi phạm về mặt phẩm chất
chính trị tư tưởng, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên có hiệu quả và
không ngừng nâng cao đạo đức cách mạng. Nếu xử phạt không nghiêm những
hành vi vi phạm pháp luật, kỷ luật Đảng sẽ là nhân tố tiếp tay cho những vi
phạm đó của đội ngũ cán bộ, đảng viên ngày càng trầm trọng hơn. Thực tiễn
lãnh đạo của Đảng trong công tác xây dựng chỉnh đốn Đảng đã cho thấy

những tác động tiêu cực của việc xử lý kỷ luật không nghiêm đối với những
hành vi vi phạm của một bộ phận cán bộ, đảng viên. Vấn đề suy thoái về
phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống dẫn đến hiện tượng tham nhũng đã
được đặt ra và thực hiện ngăn chặn từ Nghị quyết Trung ương 6(lần 2) khóa
VIII, nhưng đến nay vấn đề này không những không được cải thiện mà còn
ngày càng trầm trọng hơn. Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng
này là do những yếu kém trong việc xây dựng, ban hành pháp luật, kỷ luật


Đảng và công tác xử lý kỷ luật còn thiếu nghiêm minh, thiếu tính răn đe, giáo
dục. Điều đó đã được Nghị quyết đánh giá: “Việc tổ chức thực hiện các chủ
trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, các nghị quyết, chỉ thị, quy định về
xây dựng, chỉnh đốn Đảng ở một số nơi chưa đến nơi đến chốn, kỷ cương, kỷ
luật không nghiêm, nói không đi đôi với làm, hoặc làm chiếu lệ”, “Việc
nghiên cứu, sửa đổi, ban hành cơ chế, chính sách, pháp luật thích ứng với quá
trình vận hành của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chưa
kịp thời; nhiều văn bản quy định thiếu chế tài cụ thể”, “những sai sót, vi phạm
không được phê phán, xử lý nghiêm minh. Công tác kiểm tra, giám sát, giữ
gìn kỷ cương, kỷ luật ở nhiều nơi, nhiều cấp chưa thường xuyên, ráo riết; đấu
tranh với những vi phạm còn nể nang, không nghiêm túc”.
Sự suy thoái phẩm chất chính trị tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ
phận cán bộ, đảng viên là do cái đẹp trong đời sống đạo đức của đội ngũ này
không được đề cao và phát huy.
Cái đẹp là phạm trù trung tâm của nghệ thuật, giữa đạo đức và nghệ thuật
mà trung tâm là cái đẹp có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Cái đẹp là hiện
thân của cái thiện và chỉ có cái thiện mới có thể đẹp. Thậm chí, khi nghệ thuật
miêu tả cái ác, cái xấu xa cũng nhằm mục đích đạt đến cái đẹp, cái thiện. Cái
đẹp cung cấp cho con người tình cảm đạo đức tốt đẹp thông qua hình tượng
nghệ thuật, do vậy nó sẽ dễ đi vào lòng người và có tác động tích cực đến đạo
đức của con người.

Cái đẹp trong đời sống xã hội nói chung và đời sống của cán bộ, đảng
viên nói riêng được hiện hữu ở nhiều góc độ khác nhau, trong đó quan trọng
nhất là cái đẹp của những tấm gương đạo đức, gương người tốt, những việc
làm đúng. Cái đẹp của người cán bộ cách mạng là cái đẹp của những giá trị,
chuẩn mực đạo đức cách mạng theo tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh. Chủ tịch Hồ Chí Minh là biểu tượng sáng ngời của cái đẹp về đạo đức
cách mạng. Tư tưởng và tấm gương đạo đức của Bác có ảnh hưởng rất lớn


đến quá trình hình thành và phát triển đạo đức cách mạng, lối sống của đội
ngũ cán bộ, đảng viên. Chính vì vậy, trong những năm qua, toàn Đảng, toàn
dân và toàn quân đã tích cực học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh nhằm hình thành những giá trị, chuẩn mực đạo đức cách mạng cho mọi
người, trong đó có đội ngũ cán bộ, đảng viên. Thực hiện cuộc vận động học
tập và làm theo tấm gương đạo đức của Bác, trong Đảng đã xuất hiện nhiều
tấm gương tốt, những việc làm đúng có tác động rất tích cực đến đạo đức của
đội ngũ cán bộ, đảng viên. Tuy nhiên, những việc làm đúng, những gương
người tốt đó lại không được đề cao, không được nhân rộng, thậm chí có
những tấm gương người tốt, người làm đúng bị trù dập. Do đó, cái đẹp trong
những việc làm đúng, những gương người tốt không tạo được tình cảm tác
động tích cực tới đạo đức của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Vì vậy, vấn đề suy
thoái phẩm chất chính trị tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ,
đảng viên theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 một phần xuất phát từ
“một số nơi có tình trạng những việc làm đúng, gương người tốt không được
đề cao, bảo vệ” dẫn đến cái đẹp không có điều kiện, môi trường để phát triển
tác động tích cực đến đời sống đạo đức của cán bộ, đảng viên.
2.2. Vận dụng trong giải quyết vấn đề suy thoái đạo đức của một bộ
phận cán bộ, đảng viên theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4(khóa XI)
của Đảng
Nghiên cứu quy luật hình thành, phát triển của ý thức xã hội không

những là cơ sở để xem xét vấn đề suy thoái đạo đức của một bộ phận cán bộ,
đảng viên theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4(khóa XI) của Đảng mà còn
là cơ sở khoa học để giải quyết, khắc phục vấn đề này trong giai đoạn hiện
nay. Quán triệt và vận dụng quy luật hình thành, phát triển của ý thức xã hội
trong giải quyết vấn đề suy thoái đạo đức của một bộ phận cán bộ, đảng viên
cần phải thực hiện tốt một số nội dung cơ bản sau:


Một là, phải hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa làm cơ sở cho việc khắc phục suy thoái đạo đức của một bộ phận cán
bộ, đảng viên. Điều quan trọng hàng đầu là, phải nhận thức đúng đắn về tính
phổ biến và tính đặc thù của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa; để trên cơ sở đó, hoàn thiện khung khổ pháp lý, nhằm đảm bảo cho
mọi hành vi đạo đức phù hợp với quy luật vận hành của nền kinh tế thị
trường, cũng như để giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình
phát triển. Theo đó, phải xây dựng chế độ, chính sách phù hợp kinh tế thị
trường, điều tiết sản xuất, lưu thông và phân phối theo nguyên tắc thị trường
nhằm khắc phục những khiếm khuyết của thị trường tự phát nói chung đảm
bảo sự cân đối, hài hòa phát triển bền vững giữa tăng trưởng kinh tế với tiến
bộ và công bằng xã hội nhất là vấn đề hạn chế sự phân hóa giàu nghèo, bất
công trong xã hội . Tiếp tục thể chế hóa các quan điểm của Đảng về phát triển
đa dạng các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế và các loại hình doanh
nghiệp; đảm bảo mọi thành phần kinh tế, các chủ thể tham gia thị trường đều
được coi trọng, hợp tác, cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh, trong đó kinh tế
nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Cần khắc phục những kẽ hở của pháp luật kinh
tế, của bản thân cơ chế, hạn chế đến mức tối thiểu ảnh hưởng của mặt trái nền
kinh tế thị trường đến văn hóa tinh thần và đạo đức của cán bộ, đảng viên.
Hai là, thường xuyên đổi mới công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho
cán bộ, đảng viên. Tăng cường và đổi mới giáo dục lý luận chính trị trong
Đảng và trong xã hội. Trên cơ sở đẩy mạnh công tác tổng kết thực tiễn,

nghiên cứu lý luận, phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
tập trung làm rõ hơn những vấn đề mới và bức xúc do thực tiễn đặt ra để hoàn
thiện các giáo trình giảng dạy lý luận chính trị, đào tạo bồi dưỡng đội ngũ
giảng viên lý luận chính trị, đổi mới phương pháp giảng dạy. Đưa giáo dục lý
luận chính trị thành nền nếp, nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục
chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Cương lĩnh, đường lối của


Đảng; tăng cường sự thống nhất cao trong Đảng và sự đồng thuận trong xã
hội đối với Cương lĩnh, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước; kiên định những vấn đề quan điểm có tính nguyên tắc. Các cấp ủy đảng
phải chủ động nắm diễn biến nhận thức tư tưởng chính trị của cán bộ đảng
viên; thường xuyên cung cấp thông tin, cập nhật kiến thức mới cho cán bộ,
tạo sự nhất trí cao về quan điểm, đường lối của Đảng; uốn nắn những lệch lạc,
phê phán và xử lý nghiêm những đảng viên vi phạm nguyên tắc tổ chức của
Đảng, truyền bá những quan điểm tư tưởng xấu, phát tán những tài liệu trái
với Cương lĩnh, đường lối của Đảng.
Tăng cường hoạt động nghiên cứu lý luận chính trị, hoạt động báo chí,
tuyên truyền miệng, văn hóa văn nghệ để đánh bại từng thủ đoạn của chiến
lược “Diễn biến hòa bình”, “xâm lăng văn hóa”, bạo loạn lật đổ, gắn chặt với
cuộc đấu tranh chặn đứng, đẩy lùi “tự diễn biến” “tự chuyển hóa” trong nội
bộ.
Ba là, nâng cao chất lượng trong xây dựng, ban hành và thi hành pháp
luật của Nhà nước, kỷ luật của Đảng đối với cán bộ, đảng viên. Bám sát thực
tiễn nảy sinh các quan hệ pháp lý hiện thực trong xây dựng các văn bản quy
phạm pháp luật và kỷ luật Đảng. Để làm được việc này cần phải có những
nghiên cứu đánh giá thực tiễn. Có quy trình báo cáo đánh giá toàn bộ các quy
định có liên quan trước khi xây dựng các văn bản mới.
Kết hợp hài hòa giữa chi tiết và khái quát trong mỗi văn bản. Cụ thể để
văn bản dễ dàng và nhanh chóng đi vào cuộc sống, nhưng lại tránh quá chi

tiết, thiếu sự bao quát dẫn đến những khó khăn khi gặp phải những vấn đề
mới nảy sinh, không có trong quy định. Các văn bản pháp luật, kỷ luật của
Đảng phải quy định rõ trách nhiệm của cá nhân và tổ chức. Rà soát lại các văn
bản hiện có; hủy bỏ những quy định đã không còn hiệu lực, hoặc không còn
phù hợp với thực tiễn; sửa chữa, bổ sung các quy định cho rõ; hạn chế tình
trạng chồng chéo, mâu thuẫn giữa các văn bản, tạo sự phù hợp với tình hình


phát triển kinh tế - xã hội và trong việc quy trách nhiệm khi sai phạm. Phải
nâng cao trách nhiệm của các cơ quan trong xét xử, thi hành và đảm bảo tính
nghiêm minh của pháp luật Nhà nước và kỷ luật Đảng đối với mỗi hành vi vi
phạm của cán bộ, đảng viên.
Bốn là, đẩy mạnh và nâng cao chất lượng cuộc vận động “Học tập và
làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” trong toàn Đảng bằng nhiều biện
pháp, hình thức thiết thực, hiệu quả theo hướng tăng cường giáo dục, hướng
dẫn từng đối tượng cán bộ, đảng viên nhất là cán bộ chủ chốt các cấp gương
mẫu học tập, tu dưỡng rèn luyện đạo đức, lối sống gắn chặt với việc thực hiện
nhiệm vụ, trách nhiệm của từng cấp, từng người. Bằng nhiều hình thức phát
hiện, cổ vũ, động viên, nhân rộng những điển hình tập thể, cá nhân nêu gương
sáng về đạo đức lối sống; đồng thời phê phán, đấu tranh với mọi biểu hiện sa
sút về tư tưởng chính trị, vi phạm những chuẩn mực đạo đức, lối sống. Đẩy
mạnh và nâng cao chất lượng cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh” trong toàn Đảng là cơ sở để khắc phục sự suy thoái
đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên. Đồng thời tạo ra môi trường đạo đức
tích cực để nâng cao đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên đáp ứng sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của Đảng hiện nay.


KẾT LUẬN
Sự hình thành, pháp triển của ý thức xã hội được chủ nghĩa duy vật lịch

sử giải quyết trên lập trường duy vật triệt để. Đây chính là sự phát triển cao
của phép biện chứng trong lĩnh vực xã hội. Đồng thời tống cổ chủ nghĩa duy
tâm ra khỏi nơi trú ân cuối cùng. Bằng việc luận giải đúng đắn, khoa học quy
luật hình thành, phát triển của ý thức xã hội trên nền tảng mối quan hệ biện
chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, chủ nghĩa duy vật lịch sử đã cung
cấp cho chúng ta chìa khóa trong nhận thức và cải tạo thế giới, đặc biệt là các
vấn đề của đời sống tinh thần, ý thức xã hội.
Nhận thức và vận dụng quy luật hình thành, phát triển của ý thức xã hội
có một ý nghĩa quan trọng trong xem xét và giải quyết vấn đề suy thoái về
phẩm chất chính trị tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng
viên theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4(khóa XI) để khẳng định sự đánh
giá, nhìn nhận một cách khách quan và khoa học của Đảng về vấn đề này.
Đồng thời nó thể hiện tầm tư duy triết học của Đảng trong quá trình lãnh đạo
ra chủ trương, biện pháp, tổ chức và triển khai thực hiện Nghị quyết trong giai
đoạn hiện nay.


×