Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

Người đại diện hợp pháp trong luật tố tụng hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (905.1 KB, 87 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ VÂN HOA

NG¦êI §¹I DIÖN HîP PH¸P TRONG LUËT Tè TôNG
H×NH Sù VIÖT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI – 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ VÂN HOA

NG¦êI §¹I DIÖN HîP PH¸P TRONG LUËT Tè TôNG
H×NH Sù VIÖT NAM

Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Tất Viễn

HÀ NỘI - 2015



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGƯỜI ĐẠI DIỆN HỢP
PHÁP TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ...................................................................... 4

1.1. Khái niệm và vị trí vai trò của người đại diện hợp pháp trong tố
tụng hình sự ........................................................................................................ 4
1.2. Phân loại người đại diện hợp pháp trong Tố tụng Hình sự.............. 10
1.3. Quy định về người đại diện hợp pháp trong Bộ luật Tố tụng Hình
sự năm 2003 ...................................................................................................... 23
1.4. Quy định về người đại diện hợp pháp trong pháp luật Tố tụng Hình
sự của Cộng hòa liên bang Đức và Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ................. 41
Chương 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP
LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ NGƯỜI ĐẠI DIỆN HỢP PHÁP VÀ MỘT SỐ
KIẾN NGHỊ ............................................................................................................... 52

2.1. Những thành tựu đã đạt được ........................................................... 52
2.2. Những khó khăn, vướng mắc trong quá trình áp dụng các quy định
của Bộ luật Tố tụng Hình sự về người đại diện hợp pháp ................................ 53
2.3. Một số kiến nghị về hoàn thiện chế định người đại diện hợp pháp
trong Bộ luật Tố tụng Hình sự .......................................................................... 72
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 78


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và
trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các
nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.

Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Thị Vân Hoa


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

BLDS

: Bộ luật dân sự

BLTTHS

: Bộ luật Tố tụng hình sự

CQĐT

: Cơ quan điều tra

CHND

: Cộng hòa nhân dân

CHLB

: Cộng hòa liên bang


TANDTC

: Tòa án nhân dân Tối cao

TTHS

: Tố tụng hình sự

VKS

: Viện kiểm sát


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020 với nhiệm vụ xây dựng một nền tư pháp
trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước
hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam. Hoạt động tư pháp
mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao.
Thực hiện các nhiệm vụ trên suy cho cùng chính là việc xây dựng và hoàn
thiện pháp luật để bảo đảm quyền con người, quyền tự do dân chủ của công
dân. Để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của những người tham gia tố
tụng, Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2003 đã có những quy định về
quyền và nghĩa vụ của họ. Tuy nhiên, qua tổng kết thực tiễn áp dụng pháp
luật thì BLTTHS vẫn chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu đổi cần mới pháp
luật của các cá nhân, tổ chức và các cơ quan tiến hành tố tụng. Một trong
những vướng mắc, bất cập phải được sửa đổi, bổ sung đó là: Cần có những tư
cách tố tụng cụ thể được quy định trong BLTTHS mà đặc biệt là tư cách tố
tụng của người đại diện hợp pháp để có thể bảo vệ tốt hơn quyền của người

được đại diện cũng như người đại diện. Liên quan đến người đại diện hợp
pháp trong tố tụng hình sự thì hiện nay vẫn còn nhiều quy định chưa rõ ràng
và phù hợp với thực tế thậm chí có những vấn đề còn bỏ ngỏ, chưa có quy
định. Khái niệm về người đại diện hợp pháp trong từng trường hợp cụ thể vẫn
có những cách hiểu khác nhau dẫn đến việc áp dụng pháp luật không thống
nhất. Thực tế cho thấy, vẫn tồn tại các cơ quan tiến hành tố tụng xác định
chưa chính xác tư cách tố tụng của người đại diện hợp pháp và hậu quả là việc
giải quyết vụ án kéo dài, phải xét xử nhiều lần do vi phạm thủ tục tố tụng, ảnh
hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng. Bên cạnh
đó, trình độ hiểu biết pháp luật của nhân dân còn nhiều hạn chế, một số lượng
1


không nhỏ những người đại diện hợp pháp chưa hiểu hết quyền và nghĩa vụ
của mình khi tham gia tố tụng, gây khó khăn trong quá trình giải quyết vụ
việc. Một trong những nguyên nhân dẫn đến những khó khăn, vướng mắc như
trên là do quy định của BLTTHS về người đại diện chưa có hoặc chưa rõ
ràng. Đến thời điểm hiện tại, vẫn chưa có văn bản hướng dẫn áp dụng pháp
luật của các cơ quan có thẩm quyền.
Nhận thức được vai trò quan trọng của việc hoàn thiện hơn nữa những
quy định về người đại diện hợp pháp trong tố tụng hình sự, nhằm đảm bảo
quyền và lợi ích của người được đại diện trong quá trình tham gia tố tụng, tạo
điều kiện để người đại diện thực hiện tốt quyền và nghĩa vụ của mình, hướng
tới việc xây dựng hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất và khả thi theo định
hướng của Đảng. Với lý do trên, học viên đã chọn đề tài: “Người đại diện
hợp pháp trong Luật Tố tụng hình sự Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu luận
văn Thạc sỹ Luật học, chuyên ngành Luật hình sự và tố tụng hình sự.
2. Tình hình nghiên cứu:
Trước đây, đã có một số tác giả nghiên cứu về đề tài người tham gia tố
tụng hình sự, một số đề tài nghiên cứu về người đại diện hợp pháp của người

chưa thành niên, người bào chữa. Tuy nhiên, để có một đề tài nghiên cứu một
cách toàn diện, hệ thống về người đại diện hợp pháp trong tố tụng hình sự
(TTHS) thì hiện vẫn chưa có. Đến nay, một số các bài viết có nội dung đề cập
đến người đại diện hợp pháp như: “Người bị hại trong tố tụng hình sự” của
tác giả Lê Tiến Châu, đăng trên tạp chí Khoa học pháp lý số 1 trang 38 năm
2007. Trong đó, có đề cập đến người đại diện hợp pháp của người bị hại trong
tố tụng hình sự; bài viết “Bàn về người đại diện hợp pháp trong tố tụng hình
sự” của tác giả Đỗ Văn Chỉnh đang trên tạp chí Tòa án nhân dân số 14 tháng
7 năm 2010. Bài viết: Công tác xét xử những vụ án liên quan đến người chưa
thành niên của ThS. Nguyễn Quang Lộc. Cũng đề cập về vấn đề trên, tác giả
2


Đinh Văn Quế đã xuất bản cuốn sách: “ Pháp luật Hình sự, thực tiễn xét xử và
án lệ” nhà xuất bản lao động năm 2005; “Thủ tục phúc thẩm trong Luật TTHS
Việt Nam” nhà xuất bản chính trị quốc gia năm 1998; sách Bình luận khoa
học Bộ luật TTHS của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam của GS.TS
Võ Khánh Vinh nhà xuất bản Tư pháp năm 2013.
3. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng ngiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của đề tài là địa vị pháp lý
về người đại diện hợp pháp trong TTHS và thực tiễn áp dụng các quy định
pháp luật về người đại diện hợp pháp trong điều tra, truy tố và xét xử vụ án
hình sự.
4. Phương pháp nghiên cứu:
* Phương pháp nghiên cứu chung:
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử.
* Các phương pháp nghiên cứu cụ thể: Đề tài sử dụng phương pháp
phân tích, tổng hợp để làm rõ các quy định của Bộ luật TTHS năm 2013,
phương pháp so sánh để làm nổi bật những điểm còn hạn chế, bất cập so với

các ngành luật khác và rút kinh nghiệm từ việc nghiên cứu pháp luật của một
số nước trên thế giới.
5. Cơ cấu của đề tài:
Đề tài gồm 5 phần: Phần mở đầu, Chương 1, Chương 2, Kết luận và
Danh mục các tài liệu tham khảo.

3


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGƯỜI ĐẠI DIỆN HỢP PHÁP
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm và vị trí vai trò của người đại diện hợp pháp trong
tố tụng hình sự
1.1.1. Khái niệm
Luật TTHS là một ngành luật trong hệ thống pháp luật, tổng hợp các
quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong các hoạt
động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự. Để đảm bảo cho
việc phát hiện, xác dịnh tội phạm và người phạm tội được chính xác, xử lý
nghiêm minh, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội đồng thời
bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, Bộ luật TTHS quy định
trình tự, thủ tục khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự.
Nghiên cứu về người đại diện hợp pháp trong TTHS không thể không
tìm hiểu về chủ thể tham gia vào quan hệ TTHS. Có thể liệt kê rất nhiều các
chủ thể khác nhau tham gia vào quan hệ pháp luật TTHS trong đó có thể phân
thành hai nhóm chủ thể đó là: người tiến hành tố tụng và người tham gia tố
tụng. Người tham gia tố tụng bao gồm: Người tạm giữ, bị can, bị cáo, người
bị hại, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người
bào chữa và người bảo vệ quyền lợi của đương sự, người làm chứng, người
giám định, người phiên dịch. Người đại diện hợp pháp thuộc về nhóm người

tham gia tố tụng.
Trên thực tế, để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của bản thân thì
người tham gia tố tụng thường tự mình thực hiện tư cách tố tụng. Tuy nhiên,
có những trường hợp vì một lý do khách quan nào đó mà những người tham
gia tố tụng không thể tự mình thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng chẳng hạn
như bị ốm đau, bệnh hiểm nghèo, thiên tai, địch họa hoặc có nhược điểm về
4


thể chất hoặc tinh thần. Do vậy, những người tham gia tố tụng trên cần thiết
phải có người đại diện cho họ để có thể bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho
mình. Trong một xã hội hiện đại, khi các quyền của con người ngày càng
được coi trọng, nhu cầu cuộc sống của con người ngày càng được đáp ứng
đầy đủ trên mọi mặt của đời sống xã hội thì việc những chủ thể là cá nhân,
pháp nhân và các chủ thể khác có thể ký các hợp đồng dịch vụ với các văn
phòng luật sư, các công ty luật để thay mình tham gia tố tụng, thực hiện
quyền và nghĩa vụ theo phạm vi ủy quyền là việc làm ngày càng trở nên phổ
biến. Tuy nhiên, không phải việc ủy quyền cũng phải nằm trong giới hạn mà
pháp luật cho phép. Đối với một số trường hợp, luật quy định người tham gia
tố tụng phải tự mình thực hiện mà không thể ủy quyền được cho người khác
đặc biệt là những vấn đề liên quan đến trách nhiệm hình sự.
Khái niệm về người đại diện hợp pháp hiện chưa được quy định trong
Luật tố tụng hình sự năm 2003. Như vậy, để hiểu được khái niệm này cần
phải tìm hiểu thông qua từ điển Luật học và các quy định của pháp luật
chuyên ngành như: Bộ luật dân sự và luật tố tụng dân sự và một số các quan
điểm nghiên cứu khác. Theo từ điển Luật học thì: “Đại diện là việc một
người, một cơ quan, tổ chức nhân danh người, cơ quan tổ chức khác xác lập,
thực hiện hành vi pháp lý trong phạm vi thẩm quyền đại diện”[31, tr.501].
Đại diện có đại diện theo ủy quyền và và đại diện theo pháp luật
Theo quan điểm của tác giả Đinh Văn Quế thì: “Người đại diện hợp

pháp của bị cáo là người mà người theo pháp luật hoặc được bị cáo ủy quyền
tham gia tố tụng, có quyền và nghĩa vụ như bị cáo.” [13, tr.15].
Bộ luật dân sự năm 2005, điều 139 quy định: “Đại diện là việc một
người (sau đây gọi tắt là người đại diện) nhân danh và vì lợi ích của người
khác (sau đây gọi tắt là người được đại diện) xác lập, thực hiện giao dịch dân
sự trong phạm vi đại diện”
5


Điều 73 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 quy định: “Người đại diện
trong tố tụng dân sự bao gồm đại diện theo pháp luật và người đại diện theo
ủy quyền…”. Tại điều luật trên cũng quy định rõ đối tượng là đại diện theo
pháp luật và đại diện theo ủy quyền.
Tại khoản 1, điều 54 Luật tố tụng hành chính năm 2011 cũng quy định
về người đại diện: “Người đại diện trong Luật tố tụng hành chính bao gồm
người đại diện theo pháp luật và người đại diện theo ủy quyền...” dễ dàng nhận
thấy quy định này cũng giống như quy định trong Bộ luật dân sự năm 2005.
Tiếp theo khoản 2 điều 54 quy định cụ thể các đối tượng chủ thể là
người đại diện theo pháp luật, theo ủy quyền và điều kiện là người đại diện
theo ủy quyền trong tố tụng hành chính.
Như vậy, có thể hiểu người đại diện hợp pháp là người tham gia vào
quan hệ tố tụng hình sự với tư cách là người tham gia tố tụng. Khi tham gia
vào quan hệ pháp luật này, người đại diện nhân danh người được đaị diện để
thực hiện các quyền và nghĩa vụ trong phạm vi mà mình được ủy quyền (đối
với đại diện theo ủy quyền) hoặc giới hạn bởi quy định của pháp luật (đối với
người đại diện theo pháp luật).
Từ những phân tích và nhận định trên, tác giả xin đưa ra quan điểm của
cá nhân mình về khái niệm người đại diện hợp pháp quy định trong BLTTHS
như sau:
“ Người đại diện hợp pháp trong TTHS tham gia vào quan hệ pháp luật

tố tụng hình sự với tư cách là người tham gia tố tụng, nhân danh người được
đại diện để thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp cho người được đại diện. Người đại diện trong pháp luật TTHS
được thực hiện dưới hai hình thức: người đại diện theo pháp luật và người
đại diện theo ủy quyền.”

6


1.1.2. Vị trí của người đại diện hợp pháp trong Tố tụng Hình sự
Với tư cách là người tham gia tố tụng, người đại diện hợp pháp có vị trí
hết sức quan trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người
được đại diện. Trong thực tế cuộc sống, không phải lúc nào người tham gia tố
tụng (người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi nghĩa
vụ liên quan, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự) cũng tự mình tham gia vào
các quan hệ tố tụng. Điều này xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau, có
thể người được đại diện do có nhược điểm về thể chất hoặc tinh thần, vì sức
khẻ không đảm bảo, khả năng trình bày, lập luận trước các cơ quan tiến hành
tố tụng kém và phần lớn là do thiếu kiến thức pháp luật nên họ không thể tự
mình thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng. Vì vậy, họ phải thông qua người
đại diện để xác lập và thực hiện quyền và nghĩa vụ pháp lý của mình. Theo
quy định của Bộ luật tố tụng hình sự thì tùy vào từng trường hợp cụ thể mà
người đại diện có thể đại diện cho cá nhân và cũng có thể đại diện cho cơ
quan, tổ chức xã hội tham gia vào quan hệ tố tụng để bảo vệ quyền lợi cho
người được đại diện hoặc cho chủ thể khác trong những trường hợp nhất định.
Sự tham gia của người đại diện hợp pháp giúp người được đại diện bảo vệ tốt
hơn các quyền và lợi ích của mình trong quan hệ pháp luật tố tụng hình sự, họ
là người góp phần vào việc làm rõ sự thật khách quan của vụ án. Người đại
diện hợp pháp còn có vai trò giúp đỡ người được đại diện về kiến thức pháp
luật trong quá trình giải quyết vụ án, thúc đẩy quá trình giải quyết vụ án hình

sự được nhanh chóng, thuận tiện và đúng pháp luật. Việc quy định quyền lựa
chọn và thay đổi người bào chữa (điều 57- Bộ luật TTHS năm 2003), quyền
và nghĩa vụ của người bào chữa (trong đó có người đại diện hợp pháp của
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo) tại điều 58- Bộ luật TTHS năm 2003 tạo ra
cơ sở pháp lý trong việc lấy lời khai của người bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can
và nếu được Điều tra viên đồng ý thì được hỏi người bị tạm giữ, bị can và
7


người có mặt trong những hoạt động điều tra khác; xem các biên bản về hoạt
động tố tụng có sự tham gia của mình và các quyết định tố tụng liên quan đến
người mà mình bào chữa; người bào chữa còn có quyền đề nghị Cơ quan điều
tra (CQĐT) báo trước về thời gian, địa điểm hỏi cung bị can để có mặt khi hỏi
cung bị can; có quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám
định, người phiên dịch theo quy định của Bộ luật TTHS; được thu thập tài
liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa từ người bị tạm giữ, bị can,
bị cáo, người thân thích của những người này hoặc từ các cơ quan, tổ chức, cá
nhân theo yêu cầu của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nếu không thuộc bí mật
nà nước, bí mật công tác; được quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu; được
gặp người bị tạm giữ, gặp bị can, bị cáo khi đang bị tạm giam; đọc, ghi chép
và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa sau
khi kết thúc điều tra theo quy định của pháp luật; được quyền tham gia hỏi,
tranh luận tại phiên tòa; khiếu nại các quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan,
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; kháng cáo bản án, quyết định của Tòa
án nếu bị cáo là người chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về tâm thần
hoặc thể chất theo quy định tại điểm b khoản 2 điều 57 của Bộ luật này. Ngoài
việc quy định quyền thì người bào chữa còn có các nghĩa vụ theo quy định tại
khoản 3 điều 58 Bộ luật TTHS như: Sử dụng mọi biện pháp do pháp luật quy
định để làm sáng tỏ những tình tiết xác định người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
vô tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo. Tùy

theo mỗi giai đoạn tố tụng, khi thu thập được tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ
án, thì người bào chữa có trách nhiệm giao cho CQĐT, Viện kiểm sát (VKS),
Tòa án; người bào chữa có nghĩa vụ giúp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo về
mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ; không được từ
chối bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo mà mình đã đảm nhận bào
chữa nếu không có lý do chính đáng; tôn trọng sự thật khách quan; không
8


được mua chuộc, cưỡng ép hoặc xúi giục người khác khai báo gian dối, cung
cấp tài liệu sai sự thật và phải có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án.
Những quy định chi tiết trên về quyền của người bào chữa đã góp phần
tạo cho người đại diện có điều kiện trên thực tế để tìm ra sự thật khách quan
của vụ án. Đảm bảo cho việc giải quyết vụ án hình sự được đúng người, đúng
tội, đúng pháp luật. Quy định trên còn tạo ra cơ chế phối hợp giữa người tham
gia tố tụng với các cơ quan tiến hành tố tụng trên cơ sở pháp luật. Mặt khác,
sự xuất hiện của người đại diện còn góp phần hạn chế được sự vi pháp pháp
luật do lạm dụng quyền hạn của người tiến hành tố tụng. Nói cách khác, sự
tham gia của người đại diện trong quan hệ tố tụng sẽ là hoạt động giám sát
hạn chế sự sai xót của các cơ quan tiến hành tố tụng và tuân thủ nghiêm minh
hơn các quy định của pháp luật. Do vậy, sự thật khách quan của vụ án được
tôn trọng hơn.
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, đã dành riêng chương XXXII quy
định thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên, nó là một thủ tục đặc biệt
của phần thứ bẩy. Sở dĩ có quy định như vậy là do hành vi phạm tội của người
chưa thành niên luôn chịu chi phối của đời sống tâm sinh lý, đặc điểm cá nhân
trong hoàn cảnh xã hội của họ. Mặt khác, ở độ tuổi này họ là những người
non nớt về kiến thức xã hội, thiếu hiểu biết về pháp luật trong khi nhu cầu
khám phá cái mới, thích thể hiện khả năng của bản thân lại lớn. Do vậy, sự
tham gia của gia đình, nhà trường và các tổ chức xã hội trong những vụ án mà

bị cáo là người chưa thành niên là hết sức cần thiết trong việc bảo vệ quyền
lợi hợp pháp của họ. Sự xuất hiện của người đại diện là gia đình, nhà trường,
tổ chức xã hội còn giúp người chưa thành niên ổn định về tâm lý khi trình bày
trước các cơ quan tiến hành tố tụng, phát huy được vai trò, trách nhiệm phối
hợp giữa gia đình nhà trường và Tòa án trong việc giáo dục, cải tạo người
chưa thành niên phạm tội. Đồng thời, qua phiên tòa xét xử Thẩm phán có thể
9


hiểu hơn về hoàn cảnh sống, đặc điểm tâm lý, nguyên nhân và điều kiện phạm
tội để có thể đưa ra quyết định hình phạt một cách đúng đắn đồng thời những
người có mặt trong đó có người đại diện của người chưa thành niên thấy được
vai trò trách nhiệm của họ trong việc phối hợp, giáo dục bị cáo nếu họ trở về
tái hòa nhập với cộng đồng. Từ những phân tích trên cho thấy sự quan trọng
của người đại diện vào tham gia tố tụng. Bởi vậy, Luật Tố tụng hình sự quy
định tại điều 306 quy định về việc tham gia tố tụng của gia đình, nhà trường,
tổ chức là bắt buộc. Trường hợp không có người đại diện tham gia vào hoạt
động tố tụng thì được coi là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng và vì vậy
thực tế đã có rất nhiều vụ án bị cải, sửa do vi phạm điều này.
Bàn về vị trí, vai trò quan trọng của người đại diện hợp pháp trong
TTHS không thể không nói đến vị trí của người đại diện đối với người bị hại
(đặc biệt là trong trường hợp người bị hại chết) và đối với bị can, bị cáo người
có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất. Đối với những người được đại diện
trên thì họ không còn điều kiện để có thể tự mình thực hiện việc tham gia tố
tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bản thân. Do vậy, nhất thiết họ
phải có người đại diện. Việc phải quy định đầy đủ quyền và nghĩa vụ của
người đại diện đối với người bị hại; bị can, bị cáo là người đã thành niên có
nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất trong luật TTHS là hết sức cần thiết
trong quá trình tìm ra sự thật khách quan của vụ án cũng như bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của người đại diện.

1.2. Phân loại người đại diện hợp pháp trong Tố tụng Hình sự:
Trên thực tế, cách phân loại người đại diện hợp pháp trong TTHS dựa
trên những tiêu chí khác nhau. Tiêu chí 1: Dựa vào tư cách của người được
đại diện khi tham gia tố tụng thì có người đại diện hợp pháp của người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ
án, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự. Tiêu chí 2: Dựa vào chủ thể được đại
10


diện có người đại diện cho cá nhân và người đaị diện cho cơ quan, tổ chức.
Tiêu chí 3: Dựa vào hình thức đại diện bao gồm: Đại diện theo ủy quyền và
đại diện theo pháp luật. Cách phân loại theo tiêu chí thứ ba được coi là phổ
biến nhất hiện nay và được quy định khá chi tiết trong pháp luật chuyên
ngành khác mà pháp luật dân sự là một ví dụ. Vì chế định đại diện là để điều
chỉnh các quan hệ dân sự. Do vậy, trong pháp luật dân sự hình thức đại diện
được quy định chi tiết và được xem như đầy đủ nhất so với các quy định ở các
bộ luật chuyên ngành khác. Tại điều 140 Bộ luật dân sự (BLDS) năm 2005
quy định: “Đại diện theo pháp luật là đại diện do pháp luật quy định hoặc do
cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định”. Điều 142 quy định: “Đại diện
theo ủy quyền là đại diện được xác lập theo sự ủy quyền giữa người đại diện
và người được đại diện”.
Do hình thức đại diện được phân loại như trên nên tương ứng với các
hình thức đó có loại người đại diện theo pháp luật và người đại diện theo ủy
quyền trong quan hệ tố tụng dân sự.
Có thể nói, bản chất của việc xác lập quyền và nghĩa vụ giữa người đại
diện và người được đại diện đối với các những người tham gia tố tụng như
nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến
vụ án là quan hệ dân sự và do pháp luật dân sự điều chỉnh. Tuy nhiên, khi
người đại diện và người được đại diện xuất hiện trong luật tố tụng hình sự với
tư cách là người tham gia tố tụng hình sự thì nó còn phải ràng buộc, điều

chỉnh bởi những quy định cụ thể của luật tố tụng hình sự. Điều này giải thích
lý do có sự khác biệt giữa quyền và nghĩa vụ của người đại diện hợp pháp
trong tố tụng dân sự và đại diện hợp pháp trong tố tụng hình sự.
1.2.1. Người đại diện theo pháp luật (người đại diện đương nhiên)
Tại điều 140 BLDS năm 2005 quy định: “Đại diện theo pháp luật là
đại diện được xác lập theo quy định của pháp luật hoặc theo quyết định của
cơ quan nhà nước có thẩm quyền”.
11


Đại diện theo pháp luật trong một số ngành luật khác hiện nay được hiểu
một cách chung, thống nhất giống như trong pháp luật dân sự về người đại
diện, thẩm quyền đại diện và trên thực tế thì các cơ quan tiến hành tố tụng vẫn
áp một cách linh hoạt các quy định của BLDS đối với người đại diện theo pháp
luật của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị
đơn dân sự và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án. Tại điều 141
BLDS năm 2005 quy định về người đại diện theo pháp luật bao gồm:
- Cha, mẹ đối với con chưa thành niên;
- Người giám hộ đối với người được giám hộ;
- Người được Toà án chỉ định đối với người bị hạn chế năng lực hành
vi dân sự;
- Người đứng đầu pháp nhân theo quy định của điều lệ pháp nhân hoặc
quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền;
- Chủ hộ gia đình đối với hộ gia đình;
- Tổ trưởng tổ hợp tác đối với tổ hợp tác;
- Những người khác theo quy định của pháp luật.
Tại khoản 2, điều 22 BLDS năm 2005 quy định: “Giao dịch dân sự của
người mất năng lực hành vi dân sự phải do người đại diện theo pháp luật xác
lập thực hiện”.
Đại diện theo “Quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền” là đại

diện theo Quyết định của cơ quan hành chính trong những trường hợp riêng
biệt. Đó là các trường hợp cụ thể như: người giám hộ cử đối với người được
giám hộ, người được Tòa án chỉ định đối với người bị hạn chế năng lực hành
vi dân sự. Trong một số trường hợp nhất định người đứng đầu pháp nhân có
thể được xác định theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Theo quan điềm nghiên cứu của tập thể các tác giả biên soạn Giáo trình
Luật tố tụng hình sự [7, tr.132] có nêu khái niệm về người đại diện hợp pháp
12


cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là cha mẹ hoặc người giám hộ của người
bị tạm giữ, bị can, bị cáo chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về thể
chất hoặc tâm thần.
Các quan điểm nêu trên tuy có cách diễn đạt khác nhau nhưng đều khá
tương đồng với quan điểm về người đại diện theo pháp luật của Bộ luật dân
sự năm 2005. Tại khoản 5 điều 139 Bộ luật dân sự quy định: Người đại diện
phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, trừ trường hợp quy định tại khoản 2
Điều 143 của Bộ luật này. Điều 19 của Bộ luật trên quy định người thành niên
(tức là người đủ 18 tuổi trở lên) có năng lực hành vi dân sự đầy đủ trừ trường
hợp bị hạn chế hoặc mất năng lực hành vi dân sự. Việc pháp luật quy định độ
tuổi của người đại diện là căn cứ vào sự hình thành và phát triển về mặt thể
chất cũng như tâm sinh lý của lứa tuổi. Ở độ tuổi 18, con người mới có đầy đủ
khả năng nhận thức và điều khiển hành vi. Sở dĩ gọi là người đại diện theo
pháp luật là vì pháp luật có quy định họ phải là người đại diện chứ không phải
chủ thể nào khác. Việc đại diện theo pháp luật còn có thể dựa trên quyết định
của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Bộ luật TTHS năm 2003 không có quy định những chủ thể nào có
quyền có người đại diện theo pháp luật. Quy định trên không quy định trực
tập trung tại một điều cụ thể của Bộ luật TTHS mà đề cập rải rác tại một số
điều của văn bản dưới luật như tại mục 1.1 phần I Nghị quyết của Hội đồng

thẩm phán TANDTC số 05/2005/NQ-HĐTP ngày 08/12/2005 hướng dẫn thi
hành một số quy định tại phần “Xét xử phúc thẩm” nêu: “Bị cáo, người đại
diện hợp pháp (đại diện theo pháp luật) của bị cáo là người chưa thành niên,
người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất có quyền kháng cáo toàn bộ
bản án hoặc quyết định sơ thẩm”. Cũng tại Nghị quyết trên tại mục 1.3 phần I
quy định: “Người bị hại, người đại diện hợp pháp (người đại diện theo pháp
luật) của người bị hại trong trường hợp người bị hại chết hoặc trong trường
13


hợp người bị hại là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần
hoặc thể chất có quyền kháng cáo toàn bộ bản án hoặc quyết định sơ thẩm
theo hướng có lợi cho bị cáo hoặc theo hướng làm xấu hơn tình trạng của bị
cáo. Trong trường hợp người bị hại chỉ kháng cáo phần bản án hoặc quyết
định sơ thẩm có liên quan đến việc bồi thường thiệt hại, thì có thể ủy quyền
cho người khác. Người được ủy quyền có các quyền và nghĩa vụ như người
đại diện hợp pháp của nguyên đơn dân sự”. Như vậy, có thể hiểu rằng chỉ
những người như: người bị tạm giữ; bị can; bị cáo; người bị hại là người chưa
thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất, người bị hại chết
mới được có người người đại diện theo pháp luật trong quan hệ TTHS. Riêng
đối với chủ thể là người bị hại thì tùy trong trường hợp cụ thể như đã nêu trên
mà họ có quyền có người đại diện theo pháp luật hay theo ủy quyền.
Tại Nghị quyết 05/2005/NQ-HĐTP cũng không đề cập việc người tham
gia tố tụng khác như: nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi
nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền có người đại diện theo pháp luật hay
theo ủy quyền. Chính vì vậy nên thực tế việc áp dụng các quy định về đại diện
của những người này vẫn dựa trên những quy định của Bộ luật dân sự và Bộ
luật tố tụng dân sự.
Các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về người đại diện không rõ
nên theo dẫn đến một thực tế là: Đối với người đại diện hợp pháp của người

bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên hoặc người có nhược điểm
về tâm thần hoặc thể chất, có cơ quan tiến hành tố tụng xác định bố mẹ những
người đó là người đại diện hợp pháp và có những cơ quan tiến hành tố tụng
xác định chú, bác, cô, dì là người đại diện hợp pháp hoặc xác định các cơ
quan đoàn thể khác như: đoàn thanh niên, đại diện nhà trường… là người đại
diện hợp pháp. Nghị quyết số 03/2004/NQ-HĐTP ngày 02/10/2004 hướng
dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ nhất “Những quy định chung”
14


của Bộ luật TTHS năm 2003, điểm a, mục 2, phần II nêu: “Đối với bị can, bị
cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể
chất thì họ và người đại diện hợp pháp của họ đều có quyền được lựa chọn
người bào chữa”. Quy định trên còn có điểm vướng mắc đối với trường hợp
cả người người đại diện và người được đại diện cùng đều lựa chọn người bào
chữa thì cơ quan tiến hành tố tụng xử lý ra sao? Và đã là người có nhược
điểm về thâm thần hoặc thể chất có nghĩa là họ có mất hoặc hạn chế năng lực
hành vi thì việc lựa chọn người bào chữa không có cơ sở và không đảm bảo
trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người được đại diện.
Một thực tế nữa đó là: Một người có thể có nhiều người là người đại
diện theo pháp luật. Chẳng hạn trong các trường hợp người bị hại chết, người
bị hại là người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm
thần thì phải có người đại diện hợp pháp tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp củ người bị hại hoặc chính bản thân người đại diện. Đối với
người bị hại chết, khi xác định người đại diện hợp pháp theo pháp luật của
người bị hại cần lưu ý áp dụng quy định tại tiểu mục 1.4 mục 1 phần I Nghị
quyết số 05/2005/NQ-HĐTP ngày 08/12/2005 của Hội dồng thẩm phán Tòa
án nhân dân Tối Cao (TANDTC) hướng dẫn thi hành một số quy định trong
phần thứ tư “Xét xử phúc thẩm” quy định về chủ thể có quyền kháng cáo và
giới hạn của việc kháng cáo bản án hoặc quyết định sơ thẩm được xác đinh

như sau: “Trong trường hợp người bị hại chết mà có từ hai người trở lên đều
là người đại diện hợp pháp của người bị hại (ví dụ cha, mẹ, vợ và con thành
niên của người bị hại) thì phân biệt như sau:
Trường hợp trong quá trình điều tra, truy tố hoặc tại phiên tòa sơ thẩm
những người này đã đồng ý cử một người trong số họ thay mặt tham gia tố
tụng với tư cách là người đại diện hợp pháp của người bị hại (sự đồng ý này
có thể được thể hiện trong văn bản riêng hoặc trong lời khai của họ), thì sau
15


khi xét xử sơ thẩm những người này vẫn có quyền kháng cáo toàn bộ bản án
hoặc quyết định sơ thẩm. Việc kháng cáo có thể do từng người thực hiện hoặc
có thể cử một người trong số họ thay mặt họ thực hiện.”
Về quyền của người đại diện theo pháp luật khi tham gia vào quan hệ tố
tụng hình sự. Họ có các quyền được quy định cụ thể tại Bộ luật TTHS như:
Quyền thay đổi người tiến hành tố tụng (khoản 2, điều 43); về quyền của
người bị hại và người đại diện hợp pháp của họ (khoản 2, khoản 3, khoản 5
điều 51); quy định về lựa chọn và thay đổi người bào chữa và người đại diện
hợp pháp (khoản 1, khoản 2 điều 57) và các quy định khác về quyền tố tụng
của người đại diện như: Quy định về việc giao các quyết định của Tòa án
(khoản 1 điều 182); quy định về biên bản phiên tòa (khoản 4 điều 200); quy
định người có quyền kháng cáo (khoản 1 điều 231); quy định về người bào
chữa cho bị can, bị cáo là người chưa thành niên (khoản 1 điều 305). Như
vậy, người đại diện theo pháp luật của những người được đại diện có các
quyền như người được đại diện. Họ được tham gia tố tụng trong quá trình giải
quyết vụ án theo thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm.
Người đại diện theo pháp luật có thể thay mặt người được đại diện và
sự xuất hiện của họ không làm mất đi quyền của người được đại diện. Trên
thực tế, quan điểm, mục đích giữa người đại diện theo pháp luật và người
được đại diện nhiều khi không thống dẫn đến những mâu thuẫn và bất đồng

quan điểm. Trong trường hợp này, các cơ quan tiến hành tố tụng thường xem
xét và giải quyết trên cơ sở ưu tiên đảm bảo lợi ích cho người được đại diện.
Về vấn đề quyết định đến thời điểm tham gia quan hệ tố tụng hình sự của
người đaị diện thì tùy thuộc vào tư cách tố tụng của người được đại diện và thời
điểm xác nhận quyền của người đại diện. Người đại diện theo pháp luật của bị
can có thể tham gia từ khi có quyết định khởi tố bị can. Người đại diện theo pháp
luật của người bị hại có thể tham gia kể từ khi có quyết định khởi tố vụ án. Đối
16


với những vụ án khởi tố theo yêu cầu của người bị hại thì giai đoạn trước đó
người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ (đối với những trường hợp
pháp luật quy định người bị hại bắt buộc phải có người đại diện hợp pháp) phải
có đơn yêu cầu khởi tố. Khác với người đại diện theo ủy quyền, đại diện theo
pháp luật mang tính chất bắt buộc đối với những trường hợp mà pháp luật quy
định phải có mặt của người đại diện tham gia vào quan hệ pháp luật TTHS.
1.2.2. Người đại diện theo ủy quyền
Bộ luật TTHS năm 2003 cũng không có điều luật nào quy định việc thế
nào là người là người đại diện theo ủy quyền và điều kiện để trở thành người
đại diện theo ủy quyền. Bộ luật TTHS mới chỉ đề cập tới người đại diện hợp
pháp của, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi
và nghĩa vụ liên quan. Theo quy định tại điểm 1.5, điểm 1.6 Nghị quyết số
05/2005/NQ-HĐTP ngày 08/12/2005 của TAND Tối Cao thì những người
tham gia tố tụng như bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có
quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án trong những trường hợp họ không
muốn hoặc không có điều kiện tham gia tố tụng thì có thể ủy quyền cho người
khác có đủ điều kiện thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình trong phạm vi
pháp luật quy định. Đối với những người tham gia tố tụng như người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo, người làm chứng phải bắt buộc tự mình tham gia trực tiếp
vào các hoạt động tố tụng, không được ủy quyền cho người khác.

Đến thời điểm hiện tại, Bộ Luật TTHS và các văn bản hướng dẫn thi
hành chưa có quy định chính thức về chế định ủy quyền. Do vậy, các quy định
về ủy quyền vẫn chủ yếu dựa trên các quy định của pháp luật dân sự. Tại điều
142 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: “ Đại diện theo ủy quyền là đại diện
được xác lập theo sự ủy quyền giữa người đại diện và người được đại diện.
Hình thức ủy quyền do các bên tự thỏa thuận trừ trường hợp pháp luật quy
định việc ủy quyền phải được lập thành văn bản.”
17


Quan hệ pháp luật tố tụng hình sự mang tính chất quyền lực nhà nước,
phát sinh từ việc khởi tố do các cơ quan nhà nước tiến hành. Một trong các
chủ thể của quan hệ pháp luật tố tụng hình sự luôn là cơ quan nhà nước. Do
vậy, mặc dù pháp luật tố tụng hình sự không quy định về hình thức ủy quyền
nhưng với tính chất đặc thù của quan hệ pháp luật tố tụng hình sự như đã nêu
thì nhất thiết việc ủy quyền giữa người đại diện và người được đại diện phải
được lập thành văn bản và nêu rõ nội dung, phạm vi ủy quyền, trách nhiệm
của người được ủy quyền, thể hiện qua một hợp đồng ủy quyền hoặc giấy ủy
quyền (gọi chung là văn bản ủy quyền). Văn bản ủy quyền phải là sự tự do thể
hiện ý chí của người ủy quyền và người được ủy quyền, có nghĩa là quan hệ
ủy quyền không dựa trên sự ép buộc và lừa dối. Văn bản ủy quyền phải do cơ
quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt. Trong trường hợp người đại diện
theo ủy quyền của pháp nhân thì phải được người đại diện của pháp nhân ký
và đóng dấu mới có giá trị pháp lý và người đại diện theo ủy quyền lúc đó có
thể thay người đại diện xác lập các quan hệ pháp luật với các cơ quan tiến
hành tố tụng. Cũng giống như người đại diện theo pháp luật, người đại diện
theo uỷ quyền trong TTHS phải là người có năng lực hành vi đầy đủ. Quyền
và nghĩa vụ của người được ủy quyền được giới hạn bởi phạm vi ủy quyền
trong văn bản ủy quyền. Người ủy quyền có thể ủy quyền toàn bộ quyền
nghĩa vụ tham gia tố tụng hoặc có thể chỉ ủy quyền một phần quyền và nghĩa

vụ tham gia tố tụng.
Bộ luật TTHS năm 2003 đã có quy định về quyền và nghĩa vụ của
người đại diện của người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan,
nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự. Tại điểm e khoản 2 điều 51 Bộ luật TTHS
quy định: “Người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ có quyền khiếu
nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành
tố tụng; kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án về phần bồi thường cũng
18


như về hình phạt đối với bị cáo”. Quyền của người đại diện của người có
quyền lợi nghĩa vụ liên quan, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự được nêu tại
điều 52, điều 53 và điều 54. Người đại diện hợp pháp trong những trường hợp
kể trên theo suy đoán logic thì họ phải là người đại diện theo ủy quyền vì một
lẽ các chủ thể được đại diện không phải là những đối tượng có người đại diện
theo pháp luật và vì vậy người đại diện ở đây chỉ có thể là người đại diện theo
ủy quyền mà thôi.
Việc quy định như trên đồng nghĩa với việc các chủ thể còn lại như
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người làm chứng, người giám định, người
phiên dịch không được ủy quyền cho người khác thực hiện các công việc
trong TTHS theo nội dung ủy quyền.
Có quan điểm cho rằng: Khi xác định quyền và nghĩa vụ của người đại
diện theo ủy quyền đối với nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền
lợi nghĩa vụ liên quan phải dựa vào các quy định của pháp luật dân sự và pháp
luật tố tụng dân sự. Bộ luật TTHS chỉ cần xác định tư cách tố tụng của người
tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị hại, người chưa thành niên hoặc người có
nhược điểm về tâm thần hoặc hoặc thể chất hoặc trong trường hợp người bị
hại đã chết hoặc mất tích và điều này cũng đồng nghĩa với việc các chủ thể
này không được phép ủy quyền cho người khác thay mặt mình khi tham gia
vào quan hệ pháp luật TTHS nói cách khác việc ủy quyền giữa các chủ thể

thuộc về lĩnh vực dân sự và do pháp luật dân sự điều chỉnh.
Pháp luật TTHS cũng không có quy định điều kiện để trở thành người
đại diện theo ủy quyền. Tuy nhiên, Bộ luật dân sự năm 2005 tại khoản 2 điều
143 có quy định: “Người từ đủ 15 tuổi trở lên đến chưa đủ 18 tuổi có thể là
người đại diện theo ủy quyền, trừ trường hợp pháp luật quy định giao dịch
dân sự phải do người từ đủ 18 tuổi trở lên xác lập, thực hiện”. Từ quy định
trên chúng ta có thể nhận thấy: người đại diện theo ủy quyền tham gia vào
19


quan hệ pháp luật dân sự có thể là người chưa thành niên, nhưng không phải
tất cả các giao dịch dân sự dân sự người chưa thành niên đều có thể thực hiện.
Đối với một số giao dịch luật dân sự bắt buộc phải do người thành niên thực
hiện. Nói cách khác người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ có quyền tham
gia vào mọi giao dịch dân sự. Một giao dịch mà vi phạm điều kiện về độ tuổi
của người đại diện có thể dẫn đến sự vô hiệu của văn bản ủy quyền. Đối với
chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự là pháp nhân cũng có thể là
người đại diện theo ủy quyền. Sự ủy quyền đó phải phù hợp với chức năng,
nhiệm vụ của pháp nhân. Có thể nói những quy định về người đại diện theo
ủy quyền trong Bộ luật dân sự là tương đối đầy đủ và đồng nhất.
Mặc dù pháp luật TTHS không có quy định về điều kiện trở thành
người đại diện theo ủy quyền nhưng trong các hoạt động tố tụng của các cơ
quan tiến hành tố tụng trên thực tế không chấp nhận việc ủy quyền do người
chưa thành niên đại diện. Cần lưu ý rằng người đại diện theo ủy quyền trong
hoạt động TTHS chỉ giới hạn giải quyết các vấn đề dân sự trong vụ án hình sự
(ví dụ như việc bồi thường thiệt hại).
Qua sự phân tích trên có thể nêu những điểm chung của người đại diện
hợp pháp (đại diện theo pháp luật và đại diện theo ủy quyền) như sau:
- Người đại diện hợp pháp phải là người có đủ năng lực hành vi đầy đủ
có nghĩa là có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi và là người đã thành

niên. Hoạt động tố tụng hình sự là hoạt động khó khăn, phức tạp nên không thể
sự tham gia của những người bị mất hoặc hạn chế năng lực hành vi hoặc những
người chưa thành niên được. Bởi lẽ, nếu những đối tượng này tham gia vào
hoạt động tố tụng, gây cản trở cho quá trình điều tra, truy tố và xét xử và ảnh
hưởng lớn đến quá trình tìm ra sự thật khách quan của vụ án. Mặt khác, họ
không thể là người thực hiện được quyền và nghĩa vụ với tư cách là người đại
diện theo ủy quyền cho người đại diện. Theo quy định của Bộ luật TTHS thì
20


×