CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC
CỦA NGÀNH NGÂN HÀNG
KHI VIỆT NAM GIA NHẬP TPP
Lớp
: Cao học K25
Kinh doanh thương mại
Môn học
: Marketing Quốc tế
GVHD
: Nguyễn Đông Phong
Hoàng Cửu Long
Thực hiện : Lưu Yến Diễm
Trần Thanh Huy
TP.HCM
THÁNG 01/2016
MỤC LỤC
2
2
I.
MỞ ĐẦU
Quá trình toàn cầu hoá đã và đang diễn ra vô cùng mạnh mẽ khắp các quốc gia trên toàn thế
giới, đặc biệt là ở các nước đang phát triển. Internet và hệ thống công nghệ thông tin đã trở
thành nền tảng vững chắc, là động lực thúc đẩy thế giới loài người chuyển biến và thay đổi
nhanh chóng. Thế giới đã và đang tiến dần đến xu hướng “mở” hầu như ở mọi mặt, mọi lĩnh
vực. Thế giới ngày càng phẳng hơn, nền kinh tế toàn cầu vận hành nhanh chóng và dễ dàng
hơn. Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế đó. Bằng chứng là hơn một thập kỷ qua, Việt
Nam đã ký kết, tham gia hàng loạt hiệp định thương mại song phương, đa phương, trở thành
đối tác chiến lược của hơn 10 quốc gia trên thế giới.
Kể từ khi chính thức gia nhập Tổ chức Kinh tế Thế giới (WTO) vào năm 2007, Việt Nam đã
có những chuyển biến mạnh mẽ, rõ rệt ở mọi mặt. Quá trình mở cửa hội nhập với nền kinh tế
thế giới đã tạo động lực thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam phát triển vượt bậc, kéo theo các khía
cạnh khác như văn hoá, giáo dục, xã hội...chuyển biến nhanh chóng. Bên cạnh những lợi ích
mà việc “mở cửa” mang lại, cũng không thể phủ nhận những thách thức to lớn mà chúng ta
phải đối mặt như: khủng hoảng kinh tế toàn cầu; du nhập văn hoá nước ngoài làm lu mờ
những giá trị, bản sắc văn hoá dân tộc; kiểm soát, điều hành kinh tế vĩ mô, an sinh xã hội, văn
hoá, giáo dục...trở nên phức tạp hơn bao giờ hết.
Và bây giờ, Việt Nam lại sắp đón nhận một bước chuyển mình vô cùng lớn với việc tham gia
Hiệp định Đối tác Kinh tế Chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP). Những cơ hội và thách
thức nào mà chúng ta sẽ gặp phải? Những lợi ích gì chúng ta sẽ đạt được sau khi gia nhập
TPP? Việt Nam đã chuẩn bị được gì và sẽ phải chuẩn bị thêm điều gì cho những thay đổi sắp
tới? Đó là những câu hỏi mà các doanh nghiệp Việt Nam phải nghiêm túc trả lời để chuẩn bị
nguồn lực cũng như các chiến lược kinh doanh cho thời gian sắp tới, cũng chính là lý do và
mục tiêu mà đề tài này hướng tới.
Vì lý do giới hạn thời gian và phạm vi nghiên cứu, nhóm chúng em lựa chọn lĩnh vực Ngân
hàng để thực hiện đề tài này.
II.
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
Như đã trình bày ở phần Mở đầu, đề tài này tập trung phân tích nhũng cơ hội và thách thức mà
ngành ngân hàng Việt Nam sẽ gặp phải khi gia nhập TPP. Đồng thời, thông qua việc phân tích
thực trạng ngành ngân hàng Việt Nam giai đoạn trước khi gia nhập TPP. Đề tài sẽ chỉ ra những
điểm mạnh, điểm yếu của hệ thống ngân hàng Việt Nam hiện tại. Từ đó, đề ra những kiến nghị
và giải pháp nhằm nắm bắt những cơ hội và đối phó với những thách thức để tăng cường năng
lực cạnh tranh cho các ngân hàng Việt Nam.
III.
3
NỘI DUNG
3
1. Giới thiệu tổng quan Hiệp định Đối tác Kinh tế Chiến lược xuyên Thái Bình Dương
(TPP)
1.1.
Khái niệm
Hiệp định Đối tác Kinh tế Chiến lược xuyên Thái Bình Dương (tiếng Anh: Trans-Pacific
Strategic Economic Partnership Agreement - viết tắt là TPP) là một hiệp đinh, thỏa thuận
thương mại tự do được ký kết giữa 12 nước với mục đích hội nhập các nền kinh tế thuộc khu
vực châu Á-Thái Bình Dương. TPP được kỳ vọng là mô hình mới về hợp tác kinh tế khu vực,
tạo thuận lợi tối đa cho thương mại, đầu tư và nếu có thể sẽ trở thành hạt nhân để hình thành
Hiệp định thương mại tự do (FTA) chung cho toàn khu vực châu Á – Thái Bình Dương.
1.2.
Lộ trình đàm phán và ký kết hiệp định
TPP được sáng lập bởi 4 nước thành viên đầu tiên bao gồm: Brunei, Chile, New Zealand và
Singapore. Thoả thuận đầu tiên được đàm phán và ký kết vào ngày 03/06/2005 và có hiệu lực
từ ngày 28/05/2006. Sau đó, Australia, Malaysia, Peru, Hoa Kỳ, và Việt Nam tiến hành đàm
phán để gia nhập, nâng tổng thành viên TPP lên 9 thành viên. Ngày 14/11/2010, ngày cuối
cùng của Hội nghị thượng đỉnh APEC tại Nhật Bản, lãnh đạo của 9 nước (8 nước trên và Nhật
Bản) đã tán thành lời đề nghị của tổng thống Obama về việc thiết lập mục tiêu của các cuộc
đàm phán thuộc Hội nghị thượng đỉnh APEC năm 2011 diễn ra tại Hoa Kỳ.
Tiến trình đàm phán cho hiệp định bị đình hoãn nhiều lần do thiếu tiếng nói chung xoay quanh
nhiều vấn đề như: giảm thuế xuất-nhập khẩu, bảo trợ hàng hóa nội địa, quyền sở hữu trí tuệ…
Ngày 05/10/2015 tại Atlanta, Hoa Kỳ, tiến trình đàm phán hiệp định đã kết thúc thành công.
Hiện tại, 12 thành viên của TPP bao gồm: Úc, Brunei, Chile, Malaysia, Mexico, New Zealand,
Canada, Peru, Singapore, Vietnam, Mỹ và Nhật Bản.
1.3.
Mục tiêu
Mục tiêu chính của TPP là xóa bỏ các loại thuế và rào cản cho hàng hóa, dịch vụ xuất nhập
khẩu giữa các nước thành viên. Ngoài ra, TPP sẽ còn thống nhất nhiều luật lệ, quy tắc chung
giữa các nước này, như: sở hữu trí tuệ, chất lượng thực phẩm, hay an toàn lao động…
Bên cạnh đó, TPP còn thắt chặt hơn mối quan hệ kinh tế giữa các quốc gia thành viên, thông
qua các biện pháp giảm (thậm chí là loại bỏ hoàn toàn trong một số trường hợp) các hàng rào
thuế quan giữa các nước, giúp tăng cường trao đổi hàng hóa và dịch vụ. Cùng với tăng cường
dòng chảy vốn, TPP cũng được kỳ vọng sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của các quốc gia này.
Mỹ muốn TPP sẽ là điểm chốt mới của họ tại Châu Á sau nhiều năm Mỹ đã lún quá sâu vào
khu vực Trung Đông. Ngoài ra, nhiều học giả còn cho rằng Mỹ muốn sử dụng TPP để tạo ra
một nền kinh tế hợp nhất trong khu vực có thể đối trọng lại với sự phát triển quá nhanh của
Trung Quốc. Trung Quốc đã có lúc thể hiện ý định muốn tham gia TPP, nhưng nhiều điều
4
4
khoản hiện tại của TPP dường như được thiết kế để cố tình không cho Trung Quốc có cơ hội
tham gia vào thỏa thuận này.
1.4.
Tầm quan trọng của TPP
Tất cả các quốc gia thành viên của TPP đều thuộc Tổ chức hợp tác kinh tế châu Á Thái Bình
Dương (APEC) với tổng dân số 650 triệu người, trung bình thu nhập bình quân đầu người đạt
31.481 USD (năm 2011), tổng GDP lên đến hơn 20 nghìn tỷ USD, chiếm 40% GDP của cả thế
giới và 30% khối lượng thương mại toàn cầu. Khi có hiệu lực, TPP tạo ra một thị trường
chung đầy tiềm năng cho các doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, không thể không chú ý đến việc đây là sáng kiến do Mỹ dẫn đầu. Mỹ là nền kinh
tế lớn nhất thế giới và luôn coi khu vực châu Á – Thái Bình Dương là chìa khóa để tăng
trưởng trong tương lai. Một số ý kiến còn cho rằng Mỹ đang cố gắng sử dụng TPP làm công
cụ để tạo ra một nền kinh tế hợp nhất trong khu vực có thể đối trọng lại với sự phát triển quá
nhanh của Trung Quốc. Nhiều người cũng tin rằng các thành viên khác của APEC cũng sẽ
tham gia TPP trong vài năm tới, khiến TPP càng quan trọng hơn.
WTO hiện có tới 161 thành viên, vì vậy một trong những nhược điểm của tổ chức này là sự
khó khăn và dài lâu để tiến đến một thỏa thuận chung liên quan đến bất kỳ vấn đề gì.
Hơn thế nữa, TPP sẽ đặt ra được các luật lệ quốc tế mà vượt qua phạm vi WTO như: chính
sách đầu tư, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, kiểm soát các công ty nhà nước, chất lượng sản phẩm
và lao động….
Hiện tại, phạm vi đàm phán của TPP đã nới rộng, bao gồm 22 lĩnh vực với các lĩnh vực đàm
phán ưu tiên hiện nay như môi trường, công đoàn, lao động, đầu tư và sở hữu trí tuệ… Đặc
biệt, dịch vụ tài chính là lĩnh vực đàm phán được các nước TPP chú trọng quan tâm. Với kỳ
vọng đưa TPP trở thành hiệp định tự do hóa của thế kỷ 21, các nước thành viên đã cùng đưa ra
những cam kết sâu rộng về tăng cường tiếp cận thị trường tài chính, đặc biệt là mở cửa các
loại hình dịch vụ tài chính - ngân hàng. Tính đến nay, sau 19 phiên đàm phán chính thức và
nhiều phiên đàm phán nhóm, các nước tham gia TPP đã đạt được sự thống nhất về 16/21 điều
khoản trong dự thảo Chương dịch vụ tài chính liên quan đến nguyên tắc về chính sách quản lý,
tự do hóa và mở cửa thị trường. Một số nghĩa vụ cam kết chính bao gồm không phân biệt đối
xử giữa nhà cung cấp dịch vụ tài chính trong nước và nước ngoài, cho phép các tổ chức tài
chính nước ngoài cung cấp dịch vụ tài chính qua biên giới trên một số lĩnh vực, sản phẩm tài
chính, bảo hộ nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực tài chính, nghĩa vụ về minh bạch hóa…
Tuy nhiên, với số lượng thành viên lớn, ở nhiều trình độ phát triển khác nhau, mối quan tâm
khác nhau, đàm phán dịch vụ tài chính – ngân hàng vẫn còn một số vấn đề nhạy cảm cơ bản
chưa đạt được sự thống nhất như : đưa mua sắm chính phủ và trợ cấp chính phủ vào chương
dịch vụ tài chính; cơ chế ràng buộc các nước thành viên khi tiến hành sửa đổi các biện pháp
5
5
bảo lưu thì việc sửa đổi và mức độ sửa đổi sẽ tự động trở thành nghĩa vụ ràng buộc mức độ tự
do hóa thị trường của nước đó, nghĩa vụ cấp phép dịch vụ tài chính mới cho bất kỳ nước thành
viên TPP nào không gắn với việc sửa đổi luật trong nước, cơ chế giải quyết tranh chấp giữa
nhà đầu tư và nhà nước sở tại.
1.5.
Một số điều khoản liên quan đến lĩnh vực tài chính – ngân hàng
Hiệp định TPP gồm có 30 chương điều chỉnh thương mại và các vấn đề liên quan tới thương
mại, bắt đầu từ thương mại hàng hóa và tiếp tục với hải quan và thuận lợi hóa thương mại; vệ
sinh kiểm dịch động thực vật; hàng rào kỹ thuật đối với thương mại; quy định về phòng vệ
thương mại; đầu tư; dịch vụ; thương mại điện tử; sở hữu trí tuệ; lao động; môi trường; các
chương về “các vấn đề xuyên suốt” nhằm bảo đảm Hiệp định TPP đạt được tiềm năng của
mình về phát triển, tính cạnh tranh và tính bao hàm; giải quyết tranh chấp; ngoại lệ và các điều
khoản về thể chế. Cụ thể như sau:
1. Các điều khoản ban đầu và định nghĩa chung
2. Thương mại hàng hóa
3. Dệt may
4. Quy tắc xuất xứ
5. Quản lý hải quan và thuận lợi hóa thương mại
6. Các biện pháp vệ sinh, kiểm dịch động thực vật
7. Hàng rào kỹ thuật đối với thương mại (TBT)
8. Phòng vệ thương mại
9. Đầu tư
10. Thương mại dịch vụ qua biên giới
11. Dịch vụ tài chính
12. Nhập cảnh tạm thời của khách kinh doanh
13. Viễn thông
14. Thương mại điện tử
15. Mua sắm chính phủ
16. Chính sách cạnh tranh
17. Các doanh nghiệp nhà nước và các đơn vị độc quyền
18. Sở hữu trí tuệ
19. Lao động
20. Môi trường
21. Hợp tác và Nâng cao năng lực
22. Cạnh tranh và Tạo thuận lợi kinh doanh
23. Phát triển
24. Doanh nghiệp vừa và nhỏ
25. Sự đồng nhất về quy định
26. Minh bạch hóa và Chống tham nhũng
27. Các điều khoản về hành chính và thể chế
28. Giải quyết tranh chấp
29. Ngoại lệ
30. Các điều khoản cuối cùng
6
6
Trong đó, có 2 chương liên quan trực tiếp đến lĩnh vực tài chính – ngân hàng là Đầu tư và
Dịch vụ tài chính. Một số nội dung chính như sau:
•
Thị trường các nước là mở hoàn toàn đối với các nhà đầu tư nước ngoài, trừ khi các
•
thành viên đưa ra một ngoại lệ.
TPP cho phép việc bán dịch vụ tài chính cụ thể qua biên giới sang một thành viên TPP
từ một nhà cung cấp dịch vụ của một thành viên TPP khác, không yêu cầu nhà cung
•
cấp dịch vụ phải thành lập một cơ sở tại một nước khác để bán các dịch vụ của mình.
Một nhà cung cấp dịch vụ của một thành viên TPP có thể cung cấp một dịch vụ tài
chính mới tại thị trường của nước TPP khác nếu các công ty trong nước tại thị trường
•
này được phép cung cấp dịch vụ đó.
Hiệp định TPP bao gồm các cam kết cụ thể về quản lý danh mục đầu tư, dịch vụ thanh
•
toán thẻ điện tử và chuyển thông tin để xử lý dữ liệu.
Hiệp định TPP bao gồm các ngoại lệ duy trì quyền linh hoạt lớn cho các nhà quản lý
tài chính của TPP thực hiện các biện pháp thúc đẩy sự ổn định tài chính và sự toàn vẹn
của hệ thống tài chính.
2. Thực trạng ngành Ngân hàng Việt Nam trước thềm gia nhập TPP
2.1.
Năng lực tài chính
Tính đến Quý III năm 2015, các chỉ số về sức khoẻ tài chính của các ngân hàng Việt Nam đã
tương đối ổn định. Nhờ đề án tái cơ cấu hệ thống do Ngân hàng Nhà nước chỉ đạo, hệ thống
ngân hàng Việt Nam đã loại bỏ được nhiều ngân hàng yếu kém, nâng cao năng lực cạnh tranh
cho các ngân hàng còn lại. Trong năm qua, hàng loạt các vụ mua bán, sáp nhập trong ngành
ngân hàng đã và đang diễn ra sôi nổi hơn bao giờ hết (MHB - BIDV, PG Bank - Vietinbank,
Mekong Bank - Maritime Bank, Southern Bank – Sacombank,....). Cùng với các diễn biến sáp
nhập, mua bán như vậy, năng lực tài chính của các ngân hàng cũng được tăng lên đáng kể
thông qua việc tăng vốn điều lệ, tăng tổng tài sản.... Các ngân hàng nằm ngoài làn sóng sáp
nhập trên cũng ráo riết tự tái cấu trúc, làm sạch và làm mạnh bản thân mình thông qua việc
tăng vốn điều lệ từ nhiều nguồn, nhiều hình thức khác nhau, đồng thời tái định vị thương hiệu
và tạo dựng hình ảnh hoàn toàn mới nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh.
Theo đó, sau khi PGBank sáp nhập vào VietinBank thì vốn điều lệ của VietinBank tăng thêm
3.000 tỷ đồng, đạt hơn 42.000 tỷ đồng. Tổng tài sản của ngân hàng này sẽ tăng thêm 25.000 tỷ
đồng, nợ tín dụng tăng thêm 15.000 tỷ đồng, huy động vốn tăng 18.000 tỷ đồng. Sau khi MHB
sáp nhập BIDV, thì BIDV có vốn điều lệ là 31.512 tỷ đồng. Hoặc bằng phương án mời thêm
nhà đầu tư, DongABank đã cùng Công ty cổ phần Kinh Đô tăng vốn từ 5.000 tỷ đồng lên
6.000 tỷ đồng và mục tiêu đến cuối năm, DongABank sẽ tăng vốn lên 8.000 tỷ đồng. Tính đến
tháng 06/2015, sau khi nhận sáp nhập Southern Bank và thực hiện kế hoạch tăng vốn điều lệ
từ lợi nhuận kinh doanh, Sacombank đã tăng vốn điều lệ từ 12.425 tỷ đồng lên gần 18.853 tỷ
7
7
đồng. Ngân hàng TMCP Quân đội (MB) cũng đã xin ý kiến cổ đông để tăng vốn điều lệ từ
11.594 tỷ đồng lên 16.000 tỷ đồng trong năm nay.
Các ngân hàng nhỏ hơn cũng nỗ lực gọi vốn từ các cổ đông hiện hữu. Ngân hàng TMCP Sài
Gòn (SCB) thực hiện tăng vốn từ 12.294 tỷ đồng lên 14.294 tỷ đồng từ 27/4, Ngân hàng
TMCP Sài Gòn Hà Nội (SHB) dự kiến sẽ tăng vốn điều lệ từ mức 8.865 tỷ đồng lên mức
10.486 tỷ đồng trong năm 2015.
2.2.
Thị phần
Tính đến hết tháng 09/2015, theo các báo cáo từ Ngân hàng Nhà nước, quy mô vốn điều lệ của
khối Ngân hàng thương mại Nhà nước thấp hơn nhiều so với khối Ngân hàng thương mại Cổ
phần nhưng lại sở hữu khối tài sản và thị phần cho vay vượt trội.
Theo số liệu thống kê cập nhật đến tháng 09/2015, tổng quy mô vốn điều lệ của khối Ngân
hàng thương mại Nhà nước ở mức 137,7 nghìn tỷ đồng, chỉ chiếm 30,16% tổng vốn điều lệ
toàn hệ thống. Tuy nhiên, tổng tài sản của khối này đã tăng lên tới 3.157 nghìn tỷ đồng, chiếm
tới 45,96% toàn hệ thống. Bên cạnh đó, huy động vốn của khối Ngân hàng thương mại Nhà
nước vẫn chiếm thị phần lớn nhất trong toàn hệ thống với 46,19%; thị phần cho vay còn
chiếm mức cao hơn với 50,89%.
So với khối ngân hàng ngoại, hệ thống Ngân hàng Việt Nam tính đến thời điểm này vẫn chiếm
phần lớn thị phần. Theo đó, từ đầu năm đến nay Việt Nam đã có 47 chi nhánh ngân hàng nước
ngoài, có 5 ngân hàng 100% vốn nước ngoài, 53 văn phòng đại diện và 4 ngân hàng liên
doanh. Tuy nhiên, thị phần của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài chỉ chiếm 6,92% tổng thị
phần, trong khi ngân hàng 100% vốn và ngân hàng liên doanh chỉ chiếm tương ứng khoảng
3% và 0,75% tổng thị phần (xét theo tổng tài sản). Về tốc độ tăng thị phần, mặc dù vốn điều
lệ/vốn được cấp có xu hướng tăng khá nhanh từ mức 13% lên đến 19,1% (chưa kể gần 5%
vốn góp, mua cổ phần của khối ngân hàng nước ngoài tại các ngân hàng thương mại cổ phần
Việt Nam), tuy nhiên, thị phần tổng tài sản và huy động vốn của khối ngân hàng nước ngoài
chỉ tăng nhẹ (thị phần tổng tài sản tăng từ 10,4% năm 2009 lên 10,67% năm 2014, thị phần
huy động vốn tăng từ 7,9% năm 2009 lên 8,19% năm 2014).
Có thể thấy, tuy hiện tại chưa xuất hiện nguy cơ chiếm lĩnh thị trường và cạnh tranh quá mức
đối với các tổ chức tín dụng Việt Nam từ các ngân hàng nước ngoài nhưng với hàng loạt các
hiệp định tự do thương mại và kinh tế dự kiến có hiệu lực, các ngân hàng nước ngoài, nhất là
các ngân hàng khu vực, sẽ tập trung nhiều hơn vào Việt Nam. Từ đó, bức tranh thị phần ngành
ngân hàng ở Việt Nam hoàn toàn có thể thay đổi nếu các ngân hàng trong nước không có
chiến lược kinh doanh thích hợp.
2.3.
8
Tốc độ tăng trưởng
8
Năm
Doanh thu
Tăng
2007
26,746.36
trưởng
19.47%
2008
36,971.06
2009
40,451.14
2010
59,225.04
2011
84,462.41
2012
85,247.01
2013
85,951.15
2014
92,903.25
doanh thu
Bảng 1: Doanh thu và tốc độ tăng trưởng doanh thu toàn ngành (đơn vị: tỷ đồng)
Sau khi hình thành năm 1990 ngành Ngân hàng có tốc độ phát triển rất mạnh mẽ. Kể từ năm
2007 tới nay tốc độ tăng trươn̉ g doanh thu toàn ngành được xác định mức 19.47%, đây là mức
tăng trưởng cao hơn 3 lần với tốc độ tăng trươn̉ g GDP trung bình (2007 - 2014) 6,14% của
toàn nền kinh tế Việt Nam kể từ năm 2007.
Qui mô và tầm quan trọng của ngành Ngân hàng so với nền kinh tế cũng tăng lên theo thời
gian và kể từ năm 2007 qui mô tín dụng/GDP trong nền kinh tế luôn ở mức hơn 80%, đồ thị 1.
Bảng 2: ROE trung bình ngành, và của nhóm ngân hàng đại diện.
Qui mô ngành tăng lên, đi kèm với mức lợi suất ROE toàn ngành cũng được duy trì ở mức rất
cao, trung bình ngành ở mức trên 10%, trong cả điều kiện xấu của nền kinh tế, và suy thoái
9
9
của ngành theo nền kinh tế, và nếu xét theo trung bình một chu kỳ kể từ năm 2008 - 2014 thì
ROE trung bình ngành Ngân hàng ở mức 15,42%, như số liệu ở bảng 2.
Tốc độ tăng trưởng doanh thu cao hơn tốc độ tăng trươn̉ g GDP, ROE ngành cao hơn các ngành
còn lại trong nền kinh tế, cho thấy rằng ngành Ngân hàng đang ở giai đoạn tăng trưởng.
Cho tới thời điểm hiện tại, nguồn thu từ lãi vay của hệ thống các ngân hàng Việt Nam chiếm
khoảng 75% - 80% tổng doanh thu, và điều này dẫn tới kết quả kinh doanh của các ngân hàng
biến động theo chu kỳ của nền kinh tế và các chính sách thắt chặt hay nới lỏng tiền tệ của
NHNN.
Tốc độ tăng trươǹ g doanh thu của ngành hoàn toàn biến động theo tốc độ tăng trưởng GDP
của Việt Nam, khi nền kinh tế suy thoái ngay lập tức doanh thu hệ thống ngân hàng sụt giảm,
và ngược lại khi tốc độ tăng trươn̉ g nền kinh tế tăng lên thì doanh thu toàn ngành phục hồi. Từ
đó, có thể thấy chu kỳ biến động kinh tế có tác động mạnh đến chu kỳ kinh doanh ngành Ngân
hàng.
Đồ thị 2: Tăng trưởng doanh thu ngành và tăng trưởng GDP.
2.4.
Chất lượng sản phẩm, dịch vụ
Dịch vụ tiền gửi: là một trong những sản phẩm đầu vào mang tính cạnh tranh cao của các
ngân hàng. Yếu tố cạnh tranh cuả sản phẩm được thể hiện qua mức lãi suất huy động, triển
khai các chương trình khuyến mãi, các chính sách ưu đãi đến từng đối tượng khách hàng
(khách hàng cá nhân, khách hàng doanh nghiệp).
10
10
Bảng 3: So sánh mức lãi suất huy động các kỳ hạn (2014-2015Q1)
(Nguồn: Theo cập nhật của công ty chứng khoán Ngân hàng BIDV (BSC))
Nếu trước nay, các ngân hàng trong nước cạnh tranh nhau thông qua cuộc chạy đua lãi suất
huy động thì đến thời điểm đầu tháng 3 năm 2015, hàng loạt ngân hàng thương mại cổ phần
đã niêm yết biểu lãi suất tiền gửi mới theo xu hướng giảm từ 0,1%-0,5%/năm, ở tất cả các kỳ
hạn. Hiện tiền gửi kỳ hạn 1 tháng tại Sacombank còn 4,3%/năm và kỳ hạn 12 tháng là
5,7%/năm. Theo khảo sát, Vietcombank là ngân hàng có mức lãi suất kỳ hạn 1 tháng thấp nhất
trên thị trường là 4%/năm, tiền gửi kỳ hạn 12 tháng đạt 6%/năm. Việc giảm lãi suất như thế,
giúp mặt bằng lãi suất trở về thực chất hơn bởi Việt Nam đang có lãi suất cao bậc nhất thế
giới. Không những vậy, việc hạ lãi suất huy động sẽ tiết giảm chi phí đầu vào khi hoạt động
tín dụng chưa thật sự khởi sắc, tạo cơ hội giảm thêm lãi suất cho vay từ 1%-1,5%/năm trong
năm nay, các ngân hàng sẽ phát triển tốt sản phẩm tín dụng.
Dịch vụ tín dụng: ngày càng đa dạng và phát triển mạnh mẽ. Tín dụng là một trong những sản
phẩm kinh doanh sinh lời chủ yếu cuả ngân hàng. Với mọi nỗ lực cuả mình, các ngân hàng
Việt Nam đang đẩy mạnh các gói cho vay cá nhân và doanh nghiệp thông qua việc cạnh tranh
lãi suất vay, rút ngọn các thủ tục rườm rà… Tuy nhiên, do các quy định tín dụng nhà nước còn
nhiêù phức tạp, tình hình kinh tế chưa ổn định và sự xuất hiện các hình thức tín dụng “đen” đã
tạo nhiêù trở ngaị cho các ngân hàng khi muốn phát triển mảng dịch vụ này.
Dịch vụ thanh toán trong nưóc và dịch vụ thanh toán quốc tế: có sự phát triển không đồng đều
về chất lượng và số lượng. Mặc dù, mỗi ngân hàng thương mại đều có bộ phận phụ trách
nghiên cứu, phát triển, thực hiện các lệnh thanh toán từ các cá nhân, doanh nghiệp nhưng do
trình độ chuyên môn còn hạn chế, tác nghiệp chưa chuyên nghiệp tạo nên sự chênh lệch giữa
các ngân hàng trong nước. Một số ngân hàng như Vietcombank, Sacombank là một trong
những ngân hàng hàng đầu trong lĩnh vực thanh toán, chuyển tiền trong nước và quốc tế. Tiểu
biểu là Vietcombank đã 2 lần liên tiếp (gần nhất vào tháng 4 năm 2015) nhận Giấy chứng
nhận Ngân hàng đạt chất lượng cao trong xử lý thanh toán tự động điện STP từ Ngân hàng
Standard Chartered (SCB).
Dich vụ khác như mua bán ngoại tệ, giữ hộ vàng… cũng được phát triển nhưng không mạnh,
các ngân hàng vẫn còn e dè, nhạy cảm trước những biến động tình hình ngoại tê trên thế giới.
11
11
2.5.
Công nghệ
Theo một kết quả khảo sát cuối năm 2014 của Bộ Thông tin và Truyền thông về thực trạng
ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) trong các ngành cho thấy: Ngành ngân hàng được xem
là một trong những ngành ứng dụng CNTT sâu rộng nhất: 98% các chi nhánh đã tham gia kết
nối mạng WAN, 96% ngân hàng đã có hệ thống đảm bảo an ninh mạng, 92% ngân hàng có
chính sách quản lý rủi ro dựa trên nền tảng CNTT,…
Hiện tại, hệ thống ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam đã xây dựng được một hạ tầng
CNTT tương đối hiện đại theo mô hình tập trung hóa tài khoản, nhiều tiện ích ngân hàng đã
được sử dụng phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và chủ động hội nhập với khu vực và
thế giới. Không dừng lại ở những thành quả đã đạt được, các ngân hàng thương mại VN vẫn
tiếp tục đầu tư đẩy mạnh ứng dụng những công nghệ hàng đầu của thế giới để tăng cường tính
bảo mật và chất lượng dịch vụ khách hàng. Đến cuối năm 2014, Techcombank đã ký kết thỏa
thuận hợp tác cùng Integro Technologies để triển khai hệ thống Quản lý Tài sản đảm bảo và
Hạn mức tín dụng SmartLender (CLIMS) với mục đích cải thiện hệ thống quản trị.
Việc ứng dụng CNTT có thể đem lại cho khách hàng rất nhiều lợi ích khác nhau. Lợi ích nhìn
thấy rõ nhất là sự thuận tiện từ mạng lưới ATM rộng và hoạt động ổn định. Khách hàng có thể
tự thực hiện giao dịch nhanh chóng và an toàn trên internet hay điện thoại di động mà không
phải đến ngân hàng. Các yêu cầu vay vốn được xử lý nhanh chóng, nhu cầu tài chính của
khách hàng được dự báo và chủ động hỗ trợ và đáp ứng đúng. Ông Phùng Quang Hưng, Giám
đốc khối Công nghệ và Vận hành của Techcombank chia sẻ.: “Các ứng dụng của CNTT hiện
đại trong ngân hàng còn mang lại hiệu suất, hiệu quả hoạt động cao nhờ vậy giảm chi phí, giá
thành và giá bán đến khách hàng, giảm tổng thể chi phí tài chính và phi tài chính của khách
hàng khi giao dịch tài chính với ngân hàng và ngược lại tăng lợi ích tài chính và phi tài chính
cho khách hàng”. Điều này có thể thấy rõ qua hiệu quả ứng dụng CNTT tại Techcombank. Ví
dụ như hệ thống tự động hóa quy trình tín dụng cá nhân đã số hóa toàn bộ quy trình tín dụng
bán lẻ: từ bước tiếp xúc, tiếp nhận thông tin nhu cầu của khách hàng tại các đơn vị bán cho
đến khi hồ sơ được phê duyệt, giải ngân, quản lý hồ sơ sau giải ngân. Giúp cho các đơn vị có
thể theo dõi trạng thái xử lý hồ sơ trực tuyến, giảm thiểu mất mát, sai sót thông tin do trao đổi
thông tin qua các kênh như email, điện thoại, hay chuyển hồ sơ vật lý. Quản lý tập trung và
bảo mật hệ thống đánh giá và xếp hạng tín dụng của khách hàng.
2.6.
Nguồn nhân lực
Theo BizLIVE, số lượng nhân sự của 10 ngân hàng là BIDV, Vietcombank, Vietinbank, MB,
Sacombank, SHB, ACB, Eximbank, VIB, VPBank từ năm 2012 đến tháng 6/2015
12
12
Nhìn chung, tình hình nhân sự tại các ngân hàng Việt Nam từ năm 2012 đến 6 tháng đầu năm
2015 có dấu hiệu ổn định và gia tăng ít. Trong đó, bất ổn về nhân sự nhất trong nhóm các ngân
hàng là Ngân hàng TMCP Á Châu (ACB). Khi nhắc đến ngân hàng ACB, chúng ta đều nhớ
đến giai đoạn sa thải hàng loạt nhân viên do khó khăn trong năm 2013, 2014. Tuy nhiên, báo
cáo tài chính 2 năm này của ACB lại cho thấy một kết quả khác hơn. Năm 2013, ACB sa thải
nhiều nhất với số lượng nhân viên lên đến 1.144 người. Nếu năm 2012, ACB có 10.275 nhân
viên thì năm 2013 chỉ còn 9.131 nhân viên. Bắt đầu từ năm 2014, ACB bắt đầu tuyển người
trở lại. Tất nhiên, số lượng tuyển khá khiêm tốn và chưa về trở lại với số lượng nhân viên của
năm 2012. Cụ thể, năm 2014 là 9296 nhân viên, 6 tháng đầu năm 2015 có 9767 nhân viên.
6 tháng đầu năm 2015 ghi nhận sự tăng đột biến về nhân sự của Ngân hàng TMCP Đầu Tư và
Phát Triển Việt Nam (BIDV) và Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng (VPBank) do sáp
nhập. Cụ thể, BIDV nhận MHB và nhân sự tăng lên 22.952 người, trong khi năm 2014 là
18.681 người, tăng thêm 4.271. VPBank cũng có sự tăng đột biến về nhân sự trong 6 tháng
đầu năm 2015 với con số lên 11.331 người, trong khi cuối năm 2014 chỉ có 9.501 người, tăng
thêm 1.830 người. Sự tăng về nhân sự này là do VPBank mua lại Công ty tài chính Than –
Khoán sản Việt Nam (CFM). Ngoài ra, VPBank liên tục tuyển nhân sự trong những năm qua
với số lượng khá lớn như năm 2013 có 6.795 nhân viên, tăng thêm 2.468 người so với năm
2012. Năm 2014 cũng ghi nhận tăng thêm 2.706 nhân sự.
Tính đến thời điểm hiện nay, đội ngũ nhân lực trên đã cơ bản đáp ứng được sự phát triển của
ngành ngân hàng, tuy nhiên so với sự phát triển của ngành tài chính hiện nay thì chất lượng
nguồn nhân lực vẫn còn thấp. Đối với các sinh viên sau khi tốt nghiệp đi làm tại các ngân
hàng còn thiếu một số kỹ năng (thái độ làm việc, kỹ năng làm việc nhóm, trình độ tiếng Anh,
khả năng giao tiếp) và chưa nắm vững kiến thức về lĩnh vực ngân hàng, tài chính. Do đó, hầu
như các ngân hàng đều phải mất thời gian đào tạo lại mới có thể đáp ứng được yêu cầu công
việc. Đối với nguồn nhân sự hiện hữu, một số lĩnh vực chuyên sâu, đòi hỏi chuyên môn cao,
13
13
ngân hàng vẫn còn thiếu và các ngân hàng phải mất nhiều chi phí để thuê chuyên gia nước
ngoài tư vấn, thực hiện.
Tuy nhiên, với nhiều áp lực và thách thức trong công việc đã thúc đẩy các cán bộ, nhân viên
ngân hàng tự học hỏi, trau dồi thêm các kiến thức chuyên môn để có thể đáp ứng tốt hơn yêu
cầu của công việc. Từ đó, làn sóng dich chuyển nhân sự sẽ xảy ra, những nhân viên có kinh
nghiệm, có năng lực sẽ tìm kiếm môi trường làm việc tốt hơn, chuyên nghiệp hơn, chế độ đãi
ngộ tốt, như vậy nhân sự ngành ngân hàng sẽ có thêm động lực nâng cao trình độ nghiệp vụ
và kỹ năng.
3. Những cơ hội và thách thức đối với ngành Ngân hàng khi Việt Nam gia nhập TPP
3.1.
Cơ hội
Như đã trình bày ở phần trước, TPP là một hiệp định thương mại có tầm quan trọng và sức
ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế toàn thế giới. Việc được tham gia vào một hiệp định thương
mại có tầm vóc lớn như vậy sẽ đem lại nhiều cơ hội cho ngành tài chính – ngân hàng. Cụ thể:
3.1.1. Các luồng vốn đầu tư quốc tế vào thị trường tài chính Việt nam sẽ tăng trưởng mạnh,
lĩnh vực tài chính – ngân hàng tại Việt Nam sẽ được mở rộng và phát triển.
TPP mở ra với các yêu cầu và cam kết có độ mở sâu rộng trên nhiều lĩnh vực, trong đó quan
hệ thương mại và đầu tư giữa Việt Nam với các nước thành viên TPP dự kiến sẽ phát triển
mạnh mẽ. Gia nhập TPP, thị trường tài chính Việt Nam sẽ thu hút vốn đầu tư nước ngoài, bao
gồm: đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp thông qua thị trường chứng khoán. Cụ thể hơn, ngày
3/1/2014, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 01/2014/NĐ-CP về việc nhà đầu tư nước ngoài
mua cổ phần của tổ chức tín dụng (TCTD) Việt Nam. Theo đó, tỷ lệ sở hữu cổ phần của một
nhà đầu tư chiến lược nước ngoài không được vượt quá 20% vốn điều lệ của một TCTD Việt
Nam. Quy định mới cao hơn 5% so với quy định cũ tại Nghị định 69/2007/NĐ-CP đang áp
dụng. Việc nới room (tỷ lệ sở hữu) đầu tư nước ngoài sẽ giúp các ngân hàng Việt Nam sẽ có
thêm nhiều đối tác chiến lược nước ngoài. Khi có sự tham gia sâu rộng của các nhà đầu tư
nước ngoài, ngân hàng nội địa sẽ có điều kiện mở rộng hợp tác, nâng cao năng lực quản trị và
tài chính, tiếp cận công nghệ hiện đại, gia tăng cơ hội phát triển ngang tầm và hội nhập thị
trường tài chính - ngân hàng toàn cầu.
Bên cạnh đó, làn sóng mua bán và sáp nhập (M&A) tại Việt Nam đang gia tăng nhanh chóng
cả về số lượng và giá trị trong vòng 5 năm gần đây, theo đó, các nhà đầu tư nước ngoài sẽ mua
lại hoặc sát nhập với một số ngân hàng trong nước. Các ngân hàng đang suy yếu sẽ có cơ hội
gia tăng lợi thế cạnh tranh cũng như cơ hội tiếp cận nguồn vốn, tăng cường thanh khoản, gia
tăng danh mục đầu tư .
3.1.2. Các NHTM Việt Nam sẽ có thêm nguồn thu lớn dịch vụ thanh toán quốc tế và cơ hội
14
14
phát triển các mảng dịch vụ liên quan.
Doanh thu của dịch vụ thanh toán quốc tế của các ngân hàng chủ yếu từ hoạt động thương mại
giữa các công ty xuất nhập khẩu trong nước với công ty nước ngoài. Hiệp định TPP sẽ tạo
triển vọng cho ngành thương mại Việt Nam đạt mức tăng trưởng mạnh mẽ vì TPP được đánh
giá như một hàng rào giảm sự lệ thuộc thương mại giữa Mỹ và các nước trong TPP với Trung
Quốc. Khi tham gia TPP, Việt Nam được hưởng nhiều ưu đãi thuế khi xuất khẩu sang các
nước trong TPP, điều đó giúp thúc đẩy, khuyến khích gia tăng sản xuất. Với năng lực sản xuất
hiện tại, trong tương lai Việt Nam vì thế có cơ hội thay thế cho Trung Quốc trong việc cung
cấp hàng hóa cho TPP. Thanh toán quốc tế là khâu quan trọng của giao dịch mua bán hàng
hóa, dịch vụ giữa các cá nhân, tổ chức thuộc các quốc gia khác nhau. Khi ngành thượng mại
tại Việt Nam phát triển, thì dịch vụ thanh toán quốc tế là phương thức duy nhất và tốt nhất
trong việc giải quyết vấn đề thanh toán tiền tệ giữa hai công ty ở hai quốc gia khác.
Khi hoạt động thanh toán quốc tế được thực hiện tốt, ngân hàng sẽ có thêm cơ hội mở rộng
hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu, phát triển hoạt động kinh doanh ngoại tệ, bảo lãnh ngân
hàng trong ngoại thương, tài trợ thương mại và các nghiệp vụ ngân hàng quốc tế khác…
Hoạt động thanh toán quốc tế là kênh tiếp cận tốt nhất với thị trường tài chính quốc tế. Nếu
ngân hàng Việt Nam nắm bắt được cơ hội phát triển thì ngân hàng Việt Nam sẽ mở rộng quan
hệ với các ngân hàng nước ngoài, nâng cao uy tín của mình trên trường quốc tế, trên cơ sở đó
khai thác được nguồn tài trợ của các ngân hàng nước ngoài và nguồn vốn trên thị trường tài
chính quốc tế để đáp ứng nhu cầu về vốn của ngân hàng.
3.1.3. Thị trường mở rộng, cơ hội đầu tư ra các quốc gia khác.
Hiện nay, nhiều NHTM đã mở chi nhánh và văn phòng đại diện ở nước ngoài, đó là Ngân
hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) có văn phòng đại diện tại Singapore;
Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) mở văn phòng đại diện tại Lào,
Campuchia, Myanmar, CH Séc; Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương tín (Sacombank) mở chi
nhánh ở Lào, Campuchia, Sacombank còn thành lập ngân hàng 100% vốn nước ngoài tại
Campuchia (10/2011); Ngân hàng Quân đội (MB), Ngân hàng TMCP Sài Gòn - Hà Nội (SHB)
cũng đã khai trương chi nhánh tại Lào và Campuchia.
Số lượng
15
Ngân hàng
VPĐD/chi nhánh
Vietcombank
tại nước ngoài
1
Vietinbank
3
BIDV
4
Ghi chú
VPĐD tại Singapore
Đức (2 CN), Lào (1 CN)
VPĐD (Lào, Campuchia, Myanmar, CH
Séc)
15
Sacombank
8
MB
2
Lào (1 CN, 1 PGD), Campuchia (1 SGD,
5 CH) (số liệu tính đến 31/3/2013)
Lào (1 CN), Campuchia (1 CN)
Lào (1 CN), Campuchia (1 CN)
SHB
1
Bảng 4: Số lượng văn phòng đại diện/chi nhánh tại nước ngoài của một số ngân hàng
Việt Nam ( TÍNH ĐẾN 31/12/2012)
(Nguồn: Tổng hợp từ Báo cáo thường niên năm 2012 của các ngân hàng Vietcombank, BIDV,
Vietinbank, Sacombank, SHB, MB)
Từ các con số trên, chúng ta có thể thấy các ngân hàng trong nước đang bắt đầu đẩy mạnh
việc thâm nhập thị trường thế giới. Gia nhập TPP, các ngân hàng Việt Nam sẽ có thêm cơ hội
mở rộng hoạt động đến các thị trường tiềm năng, rộng lớn của các thành viên trong TPP. Tuy
nhiên, nếu xét các yếu tố về nguồn lực và sức mạnh cạnh tranh thì ngân hàng Việt Nam khó có
thể cạnh tranh với các ngân hàng nước ngoài trong TPP. Vì thế, để chuẩn bị cho hoạt động mở
rộng thị trường, các ngân hàng đang chú trọng đầu tư vào Dịch vụ ngân hàng số hóa (Digital
Banking). Với số hóa thì không nhất thiết phải mở chi nhánh, phòng giao dịch vẫn có thể
vươn tới các khách hàng ở nhiều khu vực khác nhau. Yếu tố nữa là ngân hàng có thể sử dụng
công nghệ số hóa để tăng lợi nhuận với nhiều sản phẩm hoặc tích hợp với các nhà cung cấp
dịch vụ khác để cung cấp các dịch vụ khác nhau, mang lại giá trị tốt hơn cho khách hàng trong
thời gian tới. Đặc biệt, hiện nay trên thế giới, tỷ lệ người sử dụng internet và smartphone ở
mức khá cao cũng là điều kiện cho sự chuyển dịch, đẩy mạnh các sản phẩm dịch vụ ngân hàng
số hóa.
3.2.
Thách thức
Bên cạnh một số cơ hội kể trên, cũng không thể phủ nhận những thách thức to lớn mà TPP
mang đến cho hệ thống tài chính – ngân hàng của Việt Nam. Là một trong những ngành trụ
cột và được xem như “huyết mạch” của nền kinh tế, lĩnh vực tài chính – ngân hàng luôn luôn
là một lĩnh vực nhạy cảm và có mức độ mở cửa thị trường hạn chế, dè dặt nhất. Với Hiệp định
thương mại song phương Việt – Mỹ, dịch vụ tài chính – ngân hàng đã làm quá trình đàm phán
kéo dài mất 4 năm mới hoàn tất. Sau khi Hiệp định này được ký kết vào năm 2000, Việt Nam
cũng chỉ mở cửa một cách hạn hẹp cho Mỹ tham gia vào cung ứng dịch vụ ngân hàng – tài
chính cùng nhiều quy định hạn chế. Trong khi đó, tham gia vào TPP, Việt Nam phải cam kết
mở rộng ngành dịch vụ tài chính – ngân hàng với mức độ sâu hơn, xóa bỏ dần các điều kiện
tiếp cận thị trường trong lĩnh vực này và không chỉ cam kết với riêng Mỹ mà với 12 nước có
trình độ phát triển khác nhau nên tác động của việc mở cửa dịch vụ tài chính – ngân hàng
cũng sẽ lớn hơn.
3.2.1. Áp lực cạnh tranh trong ngành tài chính – ngân hàng sẽ ngày càng tăng lên.
16
16
Với sự tham gia ngày càng sâu rộng của ngân hàng nước ngoài, đặc biệt các định chế tài chính
đến từ Mỹ, Nhật Bản và Úc thì áp lực cạnh tranh trong ngành sẽ ngày càng tăng lên. Các ngân
hàng nước ngoài với tiềm lực tài chính và khả năng quản trị chuyên nghiệp sẽ gia tăng sức ép
đối với khối ngân hàng trong nước. Những nổ lực trong việc cải tổ hệ thống ngân hàng Việt
Nam đã cho thấy sự chuyển biến tích cực về sức khoẻ tài chính của các ngân hàng. Tuy nhiên,
những sự thay đổi này vẫn là chưa đủ so với yêu cầu đặt ra cho cả ngành ngân hàng khi Việt
Nam gia nhập TPP. Cụ thể:
Tỷ lệ vốn tự có/tổng tài sản chứa rủi ro (CAR) của ngân hàng thương mại Việt Nam so với
khu vực vào thời điểm 31/12/2014 theo công bố của NHNN là 12,8%, thấp hơn hầu hết các
nước trong TPP, tương đương với Trung Quốc và Ấn Độ. Ngay cả những nước có điều kiện
kinh tế tương tự như Indonesia các ngân hàng cũng có hệ số CAR trung bình cao hơn:19,8%;
Philippines là 17%; Thái Lan là 15,6%.
Tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng thương mại Việt Nam là 3% thời điểm 30/9/2015 theo NHNN, so
với con số của các ngân hàng khu vực thời điểm 31/12/2014 thì chỉ đứng sau Nga (6,7%),
Pakistan (12,3%) và Ấn Độ (4,3%).
ROE (lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu) cuối năm 2014 của Việt Nam thấp nhất trong khu vực, ở
mức 5,5% trong khi ở các nước khác: Thái Lan 16,2%, Singapore 17,1%, Trung Quốc 19%,
Indonesia 18%, Malaysia và Philippines 13,5%.
Quy mô tổng tài sản của ngân hàng Việt Nam theo thống kê trên trang web của các ngân hàng
này cho thấy, ngân hàng có tổng tài sản lớn nhất Việt Nam (Agribank) có tổng tài sản chưa
bằng một nửa ngân hàng trung bình của Indonesia (Bk Mandiri) hay Thái Lan (Bangkok
Bank).
Quy mô thị trường tài chính Việt Nam (gồm cả ngân hàng, bảo hiểm, trái phiếu và chứng
khoán) so với khu vực đứng thứ 10 trong 14 nước. Quy mô thị trường tài chính Việt Nam so
với GDP khoảng 130% GDP, chỉ lớn hơn Lào, Indonesia và Campuchia. Trong khi đó, quy mô
thị trường tài chính Nhật Bản gần 500% GDP, Trung Quốc khoảng 220% GDP, Hàn Quốc
17
17
khoảng 330% GDP, Malaysia 370% GDP, Thái Lan 280% GDP, Singapore 350% GDP và Mỹ
400% GDP.
3.2.2. Nguy cơ bị thâu tóm và chi phối bởi các tổ chức tài chính – ngân hàng nước ngoài.
Việc mở “room” tuy giúp các ngân hàng nội địa có thể tiếp nhận luồng vốn từ các nhà đầu tư
nước ngoài nhiều hơn. Song song đó, sức ép bị thâu tóm và chi phối bởi các ngân hàng nước
ngoài cũng tăng cao. Viễn cảnh các doanh nghiệp niêm yết trong lĩnh vực sản xuất – thương
mại đã từng bị nhà đầu tư nước ngoài chi phối, thao túng có thể sẽ lặp lại trong lĩnh vực tài
chính - ngân hàng. Và điều này càng có thể xảy ra khi NHNN vẫn chưa đưa ra được bài toán
giải quyết rõ ràng cho vấn đề sở hữu chéo giữa các ngân hàng Việt Nam. Đề án tái cấu trúc hệ
thống ngân hàng đã có những thành công bước đầu. Một vài ngân hàng yếu kém, đã được sáp
nhập hoặc có kế hoạch tái cấu trúc rõ ràng và khả thi. Tuy nhiên, nhìn chung, hệ thống ngân
hàng Việt Nam vẫn còn khá cồng kềnh. Số lượng ngân hàng thì nhiều nhưng chất lượng các
ngân hàng thì kém. So với các quốc gia trong khu vực, số lượng ngân hàng tại Việt Nam còn
khá nhiều và hoạt động chưa hiệu quả. Cách đây 20 năm, số lượng ngân hàng tại Malaysia là
40 ngân hàng nhưng hiện nay đã rút lại còn 10 ngân hàng. Thêm nữa, do năng lực cạnh tranh
của các ngân hàng vừa và nhỏ còn khá yếu nên trong tương lai khi TPP chính thức có hiệu lực,
các ngân hàng yếu, kém này có thể sẽ trở thành mục tiêu cho sự chi phối, thao túng từ nhà đầu
tư nước ngoài.
3.2.3. Thách thức trong việc điều hành, quản lý ngân hàng sẽ tăng cao.
Như đã trình bày ở những phần trước, TPP sẽ mở ra một môi trường kinh doanh rộng hơn cho
các ngân hàng Việt Nam. Đồng thời, điều này cũng sẽ làm thay đổi hoàn toàn môi trường kinh
doanh trong nước. Thị trường trong nước sẽ ngày càng đa dạng hơn, phức tạp hơn rất nhiều.
Những biến động của thị trường, thị hiếu khách hàng sẽ khó lường trước, khó kiểm soát hơn
nữa. Những thay đổi này sẽ đặt ra thách thức rất lớn cho các nhà lãnh đạo ngân hàng trong
nước. Trong bối cảnh hiện nay, việc điều hành tốt một ngân hàng yếu, kém đã khó, tình trạng
sở hữu chéo giữa các ngân hàng lại càng tạo ra khó khăn trong việc quản trị. Xét về kinh
nghiệm và năng lực điều hành, đội ngũ lãnh đạo cấp cao của các ngân hàng Việt Nam vẫn còn
yếu so với các nước trong khu vực. Xét về hệ thống quản trị rủi ro, hiện nay các ngân hàng
trên Thế giới đã dần hoàn thành chuẩn Basel II và đang tiệm cận đến chuẩn Basel III. Trong
khi đó, các ngân hàng Việt Nam vừa mới hoàn thành chuẩn Basel I và đang loay hoay áp dụng
chuẩn Basel II.
18
18
4. Một số giải pháp và kiến nghị
4.1.
Đẩy nhanh và thực hiện quyết liệt hơn nữa đề án tái cơ cấu hệ thống ngân
hàng Việt Nam
Năm 2015 là một năm thành công về mặt ngoại giao của Việt Nam. Hàng loạt hiệp định
thương mại tự do đã được ký kết và sắp có hiệu lực như AEC, TPP... Lộ trình thực hiện các
hiệp định này đang đến rất gần. Trong khi đó, hệ thống ngân hàng Việt Nam vẫn còn tồn tại
rất nhiều điểm yếu cần khắc phục. Như đã trình bày ở các phần trước, năng lực nội tại của các
ngân hàng Việt Nam còn cách khá xa so với các ngân hàng trong khu vực. Các hệ số về sức
khoẻ tài chính vẫn chưa tốt và còn thấp hơn mức trung bình so với các nước khác. Bên cạnh
đó, vấn đề sở hữu chéo trong hệ thống ngân hàng chưa được giải quyết triệt để, gây ra tính
không minh bạch trong hoạt động kinh doanh ngành ngân hàng. Thêm nữa, số lượng ngân
hàng tại Việt Nam là quá nhiều so với mức cần thiết để hoạt động nền kinh tế có hiệu quả.
Chất lượng của các ngân hàng trong hệ thống không đồng đều và chênh lệch quá xa. Khoảng
cách giữa các ngân hàng mạnh, top đầu ngành so với các ngân hàng yếu kém là rất lớn. Vì
vậy, đẩy nhanh tốc độ thực hiện đề án tái cơ cấu hệ thống ngân hàng Việt Nam là điều cần
thiết và cấp bách. NHNN và bản thân các ngân hàng Việt Nam cần ý thức hơn nữa trong hoạt
động tái cấu trúc hệ thống này. Chuẩn bị được một hệ thống ngân hàng “mạnh” và “khoẻ” mới
đáp ứng được làn sóng cạnh tranh sắp tới, đồng thời sẽ tránh được sự thao túng và chi phối bởi
những nhà đầu tư nước ngoài khi Việt Nam gia nhập TPP.
4.2.
Nâng cao trình độ của đội ngũ nhân lực ngành tài chính – ngân hàng
Lĩnh vực tài chính – ngân hàng là một lĩnh vực đặc thù và nhậy cảm. Đặc thù ở chỗ đây là
ngành dịch vụ, kinh doanh các sản phẩm vô hình nên yếu tố con người luôn đóng vai trò nồng
cốt và cực kỳ quan trọng. Bên cạnh đó, được xem như “huyết mạch” của nền kinh tế, ngành
19
19
tài chính – ngân hàng dù ở bất kỳ quốc gia nào cũng nhận được sự quan tâm đặc biệt. Lĩnh
vực này gắn liền với hiệu quả kinh tế và sự phát triển của quốc gia. Vì vậy, yêu cầu về nguồn
nhân lực trong ngành là khá cao, cả về số lượng và chất lượng. Thực trạng nguồn nhân lực tài
chính – ngân hàng tại Việt Nam trong những năm gần đây cho thấy, các ngân hàng Việt Nam
đang trong tình trạng thừa lao động ở trình độ trung bình và thấp, cực kỳ thiếu các lao động có
trình độ cao. Do đó, vấn đề cấp bách hiện nay là cải thiện chất lượng nguồn nhân lực trong
lĩnh vực tài chính – ngân hàng. Điều này đòi hỏi bản thân các ngân hàng trong nước phải ý
thức được tầm quan trọng của vấn đề và tự học hỏi, nâng cao năng lực, trình độ. Đồng thời,
thực hiện mạnh mẽ công tác tái cơ cấu nguồn nhân lực tại mỗi ngân hàng nhằm tiết giảm chi
phí và nâng cao hiệu quả hoạt động.
Cũng cần lưu ý rằng, vấn đề về nhân lực kể trên không loại trừ các lãnh đạo cấp cao. Bởi vì
đây mới chính là những người có tác động lớn nhất đến hoạt động và hiệu quả kinh doanh của
toàn ngành.
4.3.
Hoạch định chiến lược kinh doanh rõ ràng, có mục tiêu cụ thể, phù hợp
Một trong những sai lầm mà hầu hết các ngân hàng Việt Nam thường mắc phải là việc xác
định thị trường mục tiêu và chiến lược kinh doanh phù hợp. Khối ngân hàng nội địa lâu nay
vẫn loay hoay trong việc tìm ra sự độc đáo và tạo ra nét riêng của mình. Đa số các ngân hàng
đều đặt mục tiêu trở thành ngân hàng “bán lẻ” hàng đầu hoặc ngân hàng “đa năng”, “hiện
đại”... Ví dụ:
•
Sacombank xác định tầm nhìn của mình như sau: “Trở thành Ngân hàng bán lẻ hiện
•
đại và đa năng hàng đầu Khu vực”.
Techcombank công bố tầm nhìn của mình là: “Trở thành Ngân hàng tốt nhất và doanh
•
nghiệp hàng đầu Việt Nam”.
Tầm nhìn của MBBank: “Trở thành Ngân hàng thuận tiện cho Khách hàng”
Những định hướng này nhìn chung rất bao quát, thiếu tính tập trung và cụ thể. Vì vậy, chiến
lược kinh doanh mà các ngân hàng nội địa đề ra cũng sẽ thiếu tính khả thi và khó định hướng
hành động. Trong tương lai, khi thị trường TPP mở ra, các ngân hàng nước ngoài sẽ ồ ạt đầu
tư vào Việt Nam. Thị trường tài chính – ngân hàng Việt Nam vốn dĩ đã rất đông về số lượng sẽ
ngày càng đông hơn. Nếu vẫn kinh doanh một cách thiếu tập trung và chuyên môn hoá, các
ngân hàng nội địa sẽ dễ dàng mất dần thị phần vào tay các ngân hàng ngoại.
Mặt khác, một thực trạng dễ dàng nhận thấy hiện nay là hệ thống ngân hàng Việt Nam tuy có
số lượng lớn nhưng mật độ bao phủ không đồng đều, tập trung chủ yếu ở các khu đô thị lớn,
đông dân cư, dẫn đến khả năng tiếp cận các sản phẩm tài chính – ngân hàng không cao. Ở
những nơi đông dân, sự cạnh tranh giữa các ngân hàng lại diễn ra rất gay gắt. Để thu hút và
giữ chân khách hàng ở những khu vực này đòi hỏi mỗi ngân hàng phải tốn nhiều chi phí và
20
20
nguồn lực. Trong khi đó, đa số các ngân hàng lại bỏ lỡ thị trường tiềm năng ở các khu vực
nông thôn. Ở những nơi này, sự cạnh tranh là không nhiều nhưng lại có tiềm năng phát triển
cao do tốc độ đô thị hoá của Việt Nam ngày càng tăng. Nhất là trong giai đoạn Việt Nam gia
nhập TPP sắp tới, khu vực nông sẽ thu hút nhiều nguồn vốn đầu tư hơn. Do đó, ngay từ bây
giờ, các ngân hàng Việt Nam cần thận trọng xác định lại những điểm mạnh, điểm yếu của
mình để tập trung vào một thị trường mục tiêu cụ thể. Mỗi ngân hàng nên chuyên môn hoá
vào một hoặc một vài lĩnh vực nhất định, phục vụ một hoặc một vài nhóm khách hàng cụ thể.
Cần tránh việc xác định mục tiêu quá rộng, phân tán nguồn lực và cạnh tranh trên nhiều mảng
hoạt động. Ví dụ, các ngân hàng lớn có nguồn lực tài chính mạnh như Vietcombank,
VietinBank, BIDV...nên tập trung vào mảng đầu tư và phục vụ nhóm khách hàng lớn và mở
rộng thị trường ra các nước khác trong khu vực.
4.4.
Tăng cường công tác quản trị rủi ro
Như đã trình bày ở phần thực trạng, trong khi các ngân hàng trên thế giới đã dần hoàn thiện
chuẩn quản trị rủi ro Basel II và tiếp cận đến chuẩn Basel III thì hệ thống ngân hàng Việt Nam
vẫn chỉ mới đạt chuẩn Basel I và đang loay hoay áp dụng Basel II. Mặt khác, hoạt động kinh
doanh tài chính – ngân hàng lại là một lĩnh vực nhạy cảm và mang tính hệ thống, tính dây
chuyền rất cao. Do đó, công tác quản trị rủi ro trong ngành này là cực kỳ quan trọng. Thực
tiễn đã cho thấy hậu quả rất nghiêm trọng không chỉ cho ngành ngân hàng mà cho toàn bộ nền
kinh tế (cả phạm vi quốc gia và Thế giới) khi thực hiện quản trị rủi ro kinh doanh ngân hàng
không hiệu quả dẫn đến sụp đổ hệ thống. Ví dụ điển hình là cuộc Khủng hoảng kinh tế toàn
cầu năm 2008 bắt nguồn từ sự sụp đổ của hệ thống tài chính Mỹ và làn rộng ra toàn thế giới.
Vì vậy, để chuẩn bị kỹ càng cho môi trường cạnh tranh khóc liệt mà TPP mang lại, các ngân
hàng Việt Nam cần tăng cường năng lực quản trị rủi ro bằng một số biện pháp sau:
•
Thiết lập và triển khai hoạt động quản trị chiến lược chuyên nghiệp, thông qua xác lập
tính thống nhất về nhận thức trong quản trị kế hoạch chiến lược và gắn kết mối quan
•
hệ với kế hoạch kinh doanh hàng năm.
Xây dựng những quy trình cụ thể nhằm hình thành hoạt động quản trị chiến lược
•
chuyên nghiệp.
Tăng cường và nâng cao chất lươṇ g công tác dự báo, nghiên cứu thị trường phục vụ
•
cho công tác quản trị, điều hành.
Tiếp tục nâng cao năng lực quản trị rủi ro thị trươǹ g và tác nghiệp theo thông lệ quốc
tế: Tách bạch triệt để chức năng nhiệm vụ giữa hai bộ phận kinh doanh và quản trị rủi
•
ro.
Nâng cao vai trò độc lập của hệ thống quản trị rủi ro, từng bước áp dụng quản trị rủi ro
theo định lượng và các mô hình kiểm nghiệm khủng hoảng.
21
21
•
Xây dựng hệ thống cảnh báo sớm và phát triển hệ thống công cụ, chương trình phần
mềm phục vụ công tác quản lý rủi ro thị trường, tác nghiệp theo chuẩn mực và thông lệ
quốc tế.
4.5.
Cải cách thể chế, cách thức điều hành và các chính sách của NHNN
Gia nhập TPP sẽ làm môi trường kinh tế, văn hoá, xã hội Việt Nam thay đổi đáng kể. Do dó,
các thể chế và chính sách điều hành kinh tế trong từng ngành, từng lĩnh vực cũng nên có sự
điều chính thích hợp để đáp ứng với yêu cầu của Hiệp định thương mại này. Bên cạnh những
nổ lực từ chính bản thân các ngân hàng nội địa, dưới áp lực cạnh tranh và các thách thức từ
TPP, chính phủ và NHNN cũng cần có những sự thay đổi, cải cách trong cách điều hành và
thực thi cách chính sách vĩ mô nhằm hỗ trợ, thúc đẩy sự phát triển của hệ thống ngân hàng
trong nước. Cụ thế, NHNN cần xem xét các chính sách thu hút đầu tư cho phù hợp với tình
hình mới, đồng thời, tăng cường thông tin cho các NHTM VN thông qua nhiều kênh khác
nhau. Qua đó, nhấn mạnh vai trò của NHTM VN khi tham gia TPP.
22
22