Tài liệu LTĐH
TIẾNG HÁT CON TÀU
(Chế Lan Viên)
A. NỘI DUNG TRỌNG TÂM
1. Ý nghĩa nhan đề và lời đề từ
2. Ý nghĩa hình tượng con tàu và địa danh Tây Bắc
3. Hình tượng nhân vật trữ tình (cái tôi tác giả)
4. Hình tượng Nhân dân trong bài thơ
5. Cảm hứng lãng mạn của bài thơ
6. Chất triết lý (trí tuệ) hòa quyện với cảm xúc của bài thơ
7. Những đặc sắc về nghệ thuật
B. KIẾN THỨC CƠ BẢN
I. Tìm hiểu chung
1. Tác giả
- Tên khai sinh: Phan Ngọc Hoan
- Quê: Quảng Trị
- Thuở nhỏ sống ở Bình Định
- 17 tuổi xuất bản tập thơ đầu: Điêu Tàn
- Sau 1945: về HN tiếp tục hoạt động văn học, nhiều năm tham gia lãnh đạo Hội nhà văn
VN.
- Ông được nhà nước tặng giải thưởng HCM về văn học nghệ thuật 1996.
- Con đường thơ: trải qua nhiều chặng đường với những bước ngoặt đánh dấu sự chuyển
biến tư tưởng và những tìm tòi đổi mới nghệ thuật.
+ Trước CM: thế giới kinh dị, thần bí của “Điêu tàn”.
+ Sau CM: bắt rễ sâu vào đời sống rộng lớn của nhân dân và đất nước.
+ Trong kháng chiến chống Mĩ: nóng hổi tính thời sự, giàu chất sử thi, chất anh hùng
ca và chất chính luận.
+ Từ sau 1975: trở về với đời sống thế sự và những trăn trở, chiêm nghiệm về “cái tôi”
trong mối quan hệ phức tạp của đời sống.
- Phong cách thơ: độc đáo, có vẻ đẹp trí tuệ, có ý thức khai thác triệt để những tương
quan đối lập, giàu chất suy tưởng triết lí với thế giới hình ảnh đa dạng phong phú.
- Năm 1996, ông được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.
- Tác phẩm chính: các tập thơ Điêu tàn (1937), Ánh sáng và phù sa (1960), Hoa ngày
thường, chim báo bão (1967)…
2. Tác phẩm
a. Xuất xứ
- Bài thơ rút từ tập Ánh sáng và phù sa ( 1960 ), một tập thơ xuất sắc, kết tinh tư tưởng
và nghệ thuật thơ Chế Lan Viên trên con đường thơ cách mạng.
1
Tài liệu LTĐH
-Tập thơ thể hiện sự gắn bó, lòng biết ơn của nhà thơ đối với cuộc đời, nhân dân, đất
nước, Đảng, Bác Hồ. Tất cả như “ánh sáng” soi đường và “phù sa” bồi đắp tâm hồn, tình cảm,
nhận thức của nhà thơ.
b. Hoàn cảnh sáng tác
- Tiếng hát con tàu được gợi cảm hứng từ một sự kiện kinh tế - xã hội là cuộc vận động
nhân dân miền xuôi lên tham gia xây dựng Tây Bắc vào những năm 1958-1960 ở miền Bắc.
- Hoàn cảnh và tâm trạng riêng của tác giả khi viết bài thơ Tiếng hát con tàu: sau kháng
chiến chống Pháp, Chế Lan Viên ốm nặng, phải đi chữa bệnh dài ở Trung Quốc. Trở về nước,
ông vẫn còn rất yếu. Trong không khí sôi động của miền Bắc những năm bước vào công cuộc
xây dựng cuộc sống mới, Chế Lan Viên không thể đi đến các vùng đất xa xôi của Tổ quốc, ông
đã thể hiện khát vọng lên đường qua bài thơ này.
- Hướng đến một vấn đề có ý nghĩa lớn lao: Khát vọng đến với nhân dân, đất nước để
tìm đến với cảm hứng sáng tạo thi ca.
=> Bài thơ không đơn giản là sự minh hoạ, tuyên truyền phục vụ cho một chủ trương
chính sách. Với CLV, sự kiện kinh tế xã hội ấy chỉ là một gợi ý, một điểm xuất phát cho nhà thơ
thể hiện khát vọng về với nhân dân, đất nước, với những kỉ niệm sâu nặng nghĩa tình của nhân
dân trong những năm kháng chiến gian khổ, cũng là tìm về nơi ngọn nguồn của hồn thơ.
c. Bố cục: 3 đoạn
- Đoạn 1: 2 khổ đầu: Sự trăn trở và lời giục giã, mời gọi lên đường.
- Đoạn 2: 9 khổ tiếp theo: khúc hát hoài niệm của con tàu tâm hồn khi trở về Tây Bắc.
- Đoạn 3: 4 khổ cuối: Khúc hát lên đường sôi nổi, tin tưởng và say mê.
* Sự vận động tâm trạng của chủ thể trữ tình:
Giọng điệu, âm hưởng của bài thơ biến đổi theo mạch cảm xúc
- Đoạn 1: Lời giục giã với những câu hỏi dồn dập, tăng tiến.
- Đoạn 2:
+ Lời bày tỏ trực tiếp tình cảm và dòng hoài niệm đầy ân tình về nhân dân trong những
năm kháng chiến chống Pháp.
+ Xen với những hình ảnh của hồi tưởng là những chiêm nghiệm về đời sống được đúc
kết trong giọng thơ trầm lắng.
- Đoạn 3: Mang âm hưởng của khúc hát lên đường vừa dồn dập, lôi cuốn vừa bay bổng,
say mê.
II. Phân tích
1. Nhan đề và lời đề từ
a. Nhan đề bài thơ
- Con tàu: đây là hình ảnh mang tính biểu tượng, biểu tượng cho khát vọng ra đi, đến với
những miền xa xôi, đến với nhân dân, đất nước và cũng còn là đến với những ước mơ, những
ngọn nguồn của cảm hứng nghệ thuật.
2
Tài liệu LTĐH
- Tiếng hát: là lời giục giã, là khúc hát lên đường...
Tiếng hát con tàu: chính là tiếng hát của tâm hồn tác giả, là lời giục giã với khát vọng
ra đi…
b. Lời đề từ
- Tây Bắc:
+Là địa danh có thực của đất nước
+ Biểu tượng cho những vùng đất xa xôi của Tổ quốc.
- Ý nghĩa:
+ Câu một nói lên tình cảm cao đẹp, rộng lớn: không chỉ yêu riêng Tây Bắc mà nhà thơ
còn hướng tâm hồn mình đến với mọi miền bao la của đất nước bao la với tất cả tình yêu thương
tha thiết.
+ Câu hai và ba chỉ rõ nguồn gốc của tình cảm cao đẹp đó. Điều kiện chủ quan là khi
lòng ta đã hóa những con tàu, tự thân ta đã sống với một khát vọng đẹp muốn đi tới mọi miền
của Tổ quốc thân yêu để hiến dâng và phục vụ. Điều kiện khách quan là hiện thực xã hội, là
không khí của thời đại: Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát. Đó là một thời kì rất đẹp, rất sôi động
trên miền Bắc nước ta. Nhân dân phấn khởi, hào hứng xây dựng đất nước và cuộc sống mới.
+ Câu bốn là hệ quả tất yếu mà điều kiện chủ quan và khách quan đưa tới: Tâm hồn ta là
Tây Bắc chứ còn đâu ? Câu hỏi tu từ vang lên kiêu hãnh biểu lộ tâm hồn mình đã hòa nhập, đã
gắn bó, đã yêu mến nồng hậu Tây Bắc.
Khát vọng đến với những vùng đất xa xôi của tổ quốc, những vùng đất ấy đang vẫy
gọi - lời vẫy gọi của non sông đất nước, của nhân dân..."bốn bề lên tiếng hát".
--> Cũng có thể thấy giữa ba hình ảnh Tây Bắc, lòng ta và con tàu có một sự tương hợp
và đồng quy trên phương diện ý nghĩa: Tây Bắc (những vùng đất xa xôi) chính là nơi cất giữ
hồn ta, lòng ta – “tâm hồn ta là Tây Bắc” mà lòng ta đã hóa những con tàu còn những con tàu
không gì khác chính là biểu tượng cho những chuyến đi đến những vùng đất xa xôi của Tổ quốc.
Ba hình ảnh quyện hòa trong nhau, đan cài vào nhau đã làm nên ý nghĩa thật sâu sắc cho toàn bộ
bài thơ.
=> Như vậy, bốn câu thơ đề từ là nguồn cảm hứng cho toàn bộ bài thơ đó là cảm hứng
lên đường, cảm hứng hòa nhập vào cuộc đời rộng lớn của nhân dân, từ đó khơi nguồn cảm hứng
sáng tạo cho thơ ca và nghệ thuật.
2. Sự trăn trở và lời mời gọi lên đường
- Hình ảnh:
+ Gió ngàn
+ Vành trăng
-> thực tế cuộc sống rộng lớn, khơi gợi khát khao đẹp đẽ cho con người.
- Một loạt câu hỏi theo chiều hướng tăng cấp xoáy vào chủ thể anh:
"Con tàu này lên TB anh đi chăng?"
3
Tài liệu LTĐH
"Anh có nghe gió ngàn đang rú gọi. Ngoài cửa ô?
"Tàu gọi anh đi, sao chửa ra đi?".
-> Nhân vật trữ tình phân thân, tự hỏi mình mà cũng là hỏi người. --> sự hối thúc, giục
giã
- Đối lập, tương phản:
+ Bạn bè đi xa >< anh giữ trời Hà Nội
+ Đất nước mênh mông >< Đời anh nhỏ hẹp
+ Thơ (bay bổng, diệu kì) >< lòng đóng khép (chật chội, tù túng, ngột ngạt)
--> Day dứt, trăn trở
=> Nghệ thuật không thể nảy sinh khi người nghệ sĩ không mở rộng tâm hồn để đón
nhận những vang động của cuộc đời
--> Những lời thơ đầy tâm huyết được rút ra từ chính bản thân người viết: hãy phá vỡ cô
đơn để hòa nhập với mọi người, để tìm nguồn cảm hứng từ nhân dân đất nước.
3. Khúc hát hoài niệm của con tàu tâm hồn khi trở về Tây Bắc
a. Tây Bắc anh hùng thời kháng chiến (Khổ 4, 5)
- Hình ảnh ẩn dụ :
+máu rỏ: những bền bỉ hi sinh trong suốt 10 năm kháng chiến
+ trái chín :thành quả cách mạng đã đạt được trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội
--> Sức sống mãnh liệt của mảnh đất Tây Bắc anh hùng.
- Hình ảnh khái quát : ơi kháng chiến.
- Hình ảnh biểu tượng:
+Ngọn lửa: ý nghĩa soi đường của chủ nghĩa anh hùng, tình cảm yêu nước, ý chí kiên
cường, tinh thần đoàn kết trong cuộc chiến tranh nhân dân
+ 10 năm: thời gian cụ thể chỉ cuộc đấu tranh của nhân dân
+ Nghìn năm:thời gian không xác định chỉ tương lai lịch sử
--> Khẳng định sức mạnh, sức sống của cuộc kháng chiến, của chủ nghĩa yêu nước anh
hùng cách mạng.
- Dấu chấm cảm + hô ngữ .
- Lối xưng hô thân tình : con , gọi Tây Bắc là Mẹ (quê hương, đất mẹ).
--> Lòng biết ơn sâu nặng của tác giả .
-> Tây Bắc vùng đất kháng chiến anh hùng -> tình cảm yêu thương , gắn bó với Tây Bắc
– mảnh đất hào hùng , nghĩa tình .
b. Niềm vui, ý nghĩa khi gặp lại nhân dân
Hình ảnh so sánh tương đồng:
- Nai về suối cũ:
+ Về với nhân dân
+Tìm lại chính mình trong sự hóa thân kì diệu
4
Tài liệu LTĐH
--> Niềm vui tột độ
- Cỏ đón giêng hai: xanh đến hết mình
- Chim én gặp mùa: trở về nơi ấm áp
--> khao khát, chờ mong
=> Sử dụng quy luật tự nhiên để nói về quy luật tình cảm: niềm khao khát chờ mong
gặp lại nhân dân, niềm vui của sự sinh thành khi gặp lại nhân dân
- Trẻ thơ đói lòng gặp sữa: không đơn thuần là dòng sữa vật chất mà là dòng sữa tình
thương, dòng sữa tinh thần nuôi dưỡng con người về tinh thần và tình cảm
->NT tăng tiến, nhấn mạnh: ý nghĩa lớn lao của cuộc sống gắn bó với nhân dân, sự gắn
bó không thể tách rời.
- Chiếc nôi ngừng gặp cánh tay đưa: sự cưu mang, đùm bọc, chở che
=> Tây Bắc – ngọn nguồn thiết yếu cho sự sống, tâm hồn, các hoạt động sáng tạo
c. Kỉ niệm nghĩa tình đằm thắm
* Con người Tây Bắc:
- Người anh: "chiếc áo nâu suốt một đời vá rách", "cởi lại cho con" vất vả, khổ nghèo
nhưng đầy tình nghĩa --> gợi xúc động sâu xa.
- Người em: "rừng thưa em băng rừng rậm em chờ", "Mười năm tròn chưa mất một
phong thư" thông minh, đầy trách nhiệm trong công việc --> niềm yêu thương trìu mến.
- Mế: "năm con đau mế thức một mùa dài"thương người chiến sĩ như con ruột của
mình, tình nghĩa --> yêu thương, xúc động, biết ơn.
=> những con người hi sinh cho nghĩa tình đằm thắm,gắn bó nhân dân một cách thầm
lặng, lớn lao bằng sự hi sinh, tình thương, sự che chở, đùm bọc rộng lớn => lòng biết ơn sâu
nặng, sự gắn bó tình cảm thắm thiết của nhà thơ.
* Cảnh vật Tây Bắc:
- Hình ảnh: bản sương giăng, đèo mây phủ --> hình ảnh đẹp, thân thương, gần gũi
- Câu hỏi tu từ: Nơi nao qua lòng lại chẳng yêu thương? --> Khẳng định tình cảm yêu
thương, gắn bó với từng địa danh Tây Bắc.
- Triết lý: Khi ta ở...tâm hồn --> Đất: khi ta ở, khi ta đến thì đất tồn tại như một khái
niệm địa lí thông thường nhưng khi chúng ta rời xa mảnh đất đã từng gắn bó với bao nghĩa tình
đó thì tất cả sẽ được bao bọc bởi những kỉ niệm khắc sâu trong tâm khảm, kỉ niệm đó sẽ lắng
sâu vào kí ức thành máu thịt thiêng liêng. --> Khái quát quy luật tinh cảm phổ biến của con
người.
* Tình yêu Tây Bắc
- So sánh: Anh bỗng nhớ em...hoa vàng:
--> Hình ảnh so sánh liên tưởng đổ tràn lên câu thơ một cách đột ngột sáng tạo, gợi ấn
tượng cảm giác lời thơ như rung lên rộn ràng, xôn xao.
- Triết lý: tình yêu làm đất lạ hóa quê hương
5
Tài liệu LTĐH
--> tình yêu quê hương, đất nước càng trở nên sâu đậm, tha thiết khi được gắn với tình
yêu, tình cảm lứa đôi.
- Sự hài hoà tình yêu đôi lứa và tình quân dân:
+ Anh nắm tay em.
+ Vắt xôi nuôi quân - bữa xôi đầu
--> Nhớ một hương nếp xôi mong manh nhưng ngọt ngào, ấm áp tình quân dân > nỗi
nhớ tưởng như mơ hồ nhưng đã lắng sâu nhất (Liên hệ: “hương cốm mới” trong “Đất nước” Nguyễn Đình Thi, “Tây Tiến mùa em thơm nếp xôi” trong “Tây Tiến” – Quang Dũng).
=> Chế Lan Viên đi từ những kỉ niệm kháng chiến khái quát thành chân lí của tình yêu
đất nước diệu kì; từ chân lí cô đúc đi tìm nơi sâu lắng nhất, cái nền tảng, cơ sở của tình yêu
thiêng liêng với tổ quốc – tình yêu lứa đôi, sau đó khẳng định sự hài hoà giữa tình yêu đôi lứa
nồng nàn với tình quân dân đằm thắm.
4. Tiếng hát lên đường
- Câu hỏi tu từ: “đất nước..ta gọi”: từ lời kêu gọi đã trở thành tiếng lòng tự nguyện lên
đường.
- Hình ảnh ẩn dụ:
+Mái ngói đỏ trăm ga, mùa nhân dân giăng lúa chín: cuộc sống của nhân dân nơi những
vùng đất xa xôi của Tổ quốc đang thay da đổi thịt từng ngày, từng giờ --> thu hút sự chú ý của
các văn nghệ sĩ đến để tìm cảm hứng sáng tạo.
+ Vàng ta đau trong lửa: những hi sinh, gian khổ trong chiến tranh --> ý chí quật cường,
vẻ đẹp tâm hồn của nhân dân.
+ Những cơn mơ, một vành trăng: những vẻ đẹp thơ mộng, bay bổng, gợi hồn thơ.
+ Mặt hồng em trong suối lớn mùa xuân: sự thay đổi tươi sáng hơn của những vùng đất
xa xôi của Tổ quốc hòa vào sự thay da đổi thịt của cuộc sống rộng lớn trên miền Bắc xã hội chủ
nghĩa.
--> Vẻ đẹp trữ tình, nên thơ, tươi trẻ của núi rừng Tây Bắc, của những vùng đất xa xôi
của Tổ quốc đang thôi thúc, làm bừng dậy nỗi khát khao, bồn chồn không thể cưỡng lại của các
văn nghệ sĩ trên con tàu đến với “mẹ của hồn thơ”.
- Nghệ thuật:
Âm hưởng sôi nổi, lôi cuốn được tạo nên bởi:
+ Các hình ảnh phong phú, biến hoá, sáng tạo, chủ yếu là những hình ảnh biểu tượng và
ẩn dụ
+ Biện pháp trùng điệp: láy lại và mở rộng một hình ảnh hay một từ ngữ của câu cuối
khổ thơ trên xuống câu đầu của khổ thơ dưới, làm cho các khổ thơ liền mạch, dồn dập và trùng
điệp.(Mắt ta thèm…- Mắt ta nhớ", “Mặt đất nồng nhựa nóng…- nhựa nóng…").
=> Hình ảnh con tàu trở lại trong vai trò như một hình tượng trung tâm đưa nhà thơ cùng
những khát vọng mãnh liệt đi giữa đất nước, giữa nhân dân. Kết cấu trùng điệp tạo âm hưởng
6
Tài liệu LTĐH
liền mạch đầy lôi cuốn , đem đến cảm giác nhà thơ đang cùng con tàu khát vọng băng băng đi
tới cuộc đời , tới với nhân dân và đất nước, cũng là tới với vầng trăng mộng tưởng, cội nguồn
của sáng tạo thi ca.
III. Kết luận
“Tiếng hát con tàu” là một trong những bài thơ thể hiện rõ nét phong cách nghệ thuật
đặc sắc của Chế Lan Viên: Những suy tưởng, triết lý đậm chất trí tuệ và thế giới hình tượng
phong phú, bay bổng của một ngòi bút tài hoa. Bài thơ thực sự là một khúc hát say mê về lòng
biết ơn, tình yêu, sự gắn bó với nhân dân, đất nước của một tâm hồn thơ đã tìm thấy ngọn nguồn
nuôi dưỡng thi ca và con đường đi tới chân trời nghệ thuật của mình.
C. Bài tập vận dụng
Đề 1: Phân tích đoạn thơ sau trong “Tiếng hát con tàu” của Chế Lan Viên để làm rõ
những tình cảm sâu nặng của tác giả đối với nhân dân:
“Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ
…
Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn!”
(Ngữ văn 12, tập I, trang 121)
Gợi ý:
MB: Giới thiệu, dẫn dắt vấn đề
TB:
1.Khái quát về tác giả, tác phẩm
- Chế Lan Viên (1920 - 1989): Nhà thơ lớn của thơ ca hiện đại. Hành trình thơ của ông
đã có sự chuyển biến từ nhà thơ lãng mạn thành nhà thơ cách mạng. Thơ của ông giàu chất trí
tuệ, hình ảnh thơ tráng lệ, phong phú được sáng tạo bởi một ngòi bút thông minh, tài hoa.
“Tiếng hát con tàu” là bài thơ xuất sắc của Chế Lan Viên, ra đời trong không khi miền Bắc đang
dấy lên phong trào đồng bào miền xuôi lên xây dựng kinh tế văn hóa miền núi, trong đó có Tây
Bắc. Nội dung nổi bật nhất là bày tỏ tình cảm sâu nặng của mình đối với nhân dân, là khát vọng
sáng tạo. Bài thơ rất tiêu biểu cho phong cách thơ giàu trí tuệ của Chế Lan Viên.
- Về đoạn trích
+ Nội dung bao trùm: Bày tỏ tình cảm sâu nặng với nhân dân và suy tư sâu sắc về những
chuyển hóa kì diệu của tâm hồn.
+ Trình tự mạch thơ: Đoạn trích có ba phần rõ rệt. Khổ thơ đầu bày tỏ niềm hạnh phúc
lớn lao khi được về với nhân dân, người “Mẹ yêu thương”, cội nguồn cảm hứng nghệ thuật thơ
ca; ba khổ thơ tiếp theo: hồi tưởng về những hi sinh đầy ân tình, ân nghĩa của con người Tây
Bắc, những con người bình dị mà anh hùng; khổ thơ cuối đúc kết triết lí về sự chuyển hóa kì
diệu của tâm hồn con người.
2. Phân tích cụ thể (Xem phần II.3.b)
a. Khổ thơ đầu
7
Tài liệu LTĐH
Tình cảm bao trùm là lòng biết ơn sâu nặng và niềm hạnh phúc lớn lao của cái tôi trữ
tình khi từ bỏ thế giới nhỏ hẹp của cá nhân để về với nhân dân, nguồn nuôi dưỡng nghệ thuật.
Đối với người con ở đây, nhân dân là những gì thân thương mật thiết, là ngọn nguồn sức sống,
là bầu sinh khí, nguồn sinh lực, luôn luôn cưu mang, chở che, tiếp sức cho thì sĩ và nghệ thuật.
Cho nên về với nhân dân là một lẽ sống lớn, một hạnh phúc lớn của Chế Lan Viên với tư cách là
người công dân và trong chiều sâu của nó là với tư cách của người nghệ sĩ chân chính. Phân tích
được ý nghĩa đó trong các cặp hình ảnh: “Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ; Cỏ đón giêng
hai, chim én gặp mùa; Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa; Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay
đưa”. Cần phải thấy đó cũng chính là mối quan hệ thiêng liêng giữa cá nhân và cộng đồng, giữa
con người và cuộc sống quan trọng hơn là mối quan hệ giữa nghệ thuật thơ ca với nhân dân, đất
nước và cuộc đời.
Nghệ thuật nổi bật là sự tạo ra một chuỗi hình ảnh so sánh, những cặp hình ảnh giàu tính
tượng trưng, mỗi cặp một sắc thái khác nhau.Về với nhân dân là hợp với quy luật tự nhiên và tự
sống. Các vế so sánh đã nhấn mạnh được mối quan hệ gắn bó khăng khít không thể tách rời của
người nghệ sĩ với nhân dân, vế thứ hai là điều kiện… của vế thứ nhất. Như vậy, thi sĩ thơ ca
muốn tồn tại phải trở về cuộc sống, hòa với cuộc sống nhân dân.
Hình ảnh so sánh được lấy từ đời sống tự nhiên và con người. Vì thế, chúng vừa gần gũi
thân quen, vừa bay bổng lãng mạn. Chúng có tác dụng khám phá, mở rộng thêm ý nghĩa của
hành động được trở về với nhân dân.
Chuỗi hình ảnh so sánh hay mang tính chất trùng điệp trên đây thể hiện rõ nét phong
cách thơ Chế Lan Viên, vừa làm cho cảm xúc thêm nồng nàn, sự suy tư thêm sâu sắc.
b. Ba khổ thơ tiếp theo
Tình cảm bao trùm là nỗi nhớ da diết, những kỉ niệm đối với Tây Bắc của một con người
luôn khắc cốt ghi tâm bao ân nghĩa. Nhớ về những việc làm đầy hi sinh, đùm bọc, cưu mang rất
cụ thể của người anh (cho tấm áo trước lúc hi sinh), người em liên lạc (mười năm liền tận tụy
miệt mài), người mẹ (thức suốt một mùa dài để ân cần chăm sóc). Phân tích những hình ảnh cảm
động: “Chiếc áo nâu anh mặc đêm công đồn -Chiếc áo nâu suốt một đời vá rách - Đêm cuối
cùng anh gửi lại cho con”, “Rừng thưa em băng - Con nhớ mế! Lửa hồng soi tóc bạc - Năm con
đau, mế thức một mùa dài…”. Đồng thời, là cách xưng hô theo quan hệ thân tình, má mủ ruột
thịt: “anh con”, “em con”, “mế” tạo nên hình ảnh sắc nét, lời thơ thấm thía cảm xúc da diết…
c. Khổ thơ cuối đoạn trích
Bao trùm lên khổ thơ này là niềm thương yêu đằm thắm, sâu nặng đối với những miền
quê mình đã từng qua và những nhớ thương, lời khẳng định cùng những hình ảnh thân thương:
“Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ - Nơi nao qua lòng lại chẳng yêu thương?” đồng thời
là sự suy tư sâu sắc về những chuyển hóa kì diệu của tâm hồn con người được đúc kết thành triết
lí: “Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở; Khi ta đi, đất đã hóa tâm hồn!”.
8
Tài liệu LTĐH
Đó là sự kì diệu mà tình cảm con người đã làm được để biến kỉ niệm với những miền đất
mình đã đi qua thành tâm hồn của chính mình.
Trong đoạn này, thủ pháp nghệ thuật đối lập và trùng điệp tiếp tục được sử dụng với các
tiểu đối, với các điệp từ, điệp ngữ để nhấn mạnh ý mà ta thường gặp trong thơ Chế Lan Viên:
“Nhớ bản sương giăng >< nhớ đèo mây phủ”, “Khi ta ở >< khi ta đi?”, “đất >< tâm hồn”…
“nhớ…nhớ”, “khi ta… khi ta”. Nhưng quan trọng hơn cả là lối suy tưởng: “Khi ta ở chỉ là nơi
đất ở - Khi ta đi, đất đã hóa tâm hồn”. Tác giả tạo nên sự phi lí bề ngoài (đất hóa tâm hồn) làm
hình thức chứa đựng chân lí bên trong: tình cảm gắn bó giữa con người với những miền đất sẽ
theo thời gian mà âm thầm bồi đắp lên tâm hồn con người. Đây là triết lí sâu sắc, thâu tóm được
một quy luật phố biến trong đời sống nhân sinh. Từ cảm xúc suy tư đúc kết thành những chiết lí
chính là một nét độc đáo của nghệ thuật thơ Chế Lan Viên.
3. Đánh giá khái quát
KB.
Đề 2:
Phân tích bốn câu thơ đề từ trong bài “Tiếng hát con tàu” của Chế Lan Viên:
“Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc
Khi lòng ta đã hóa những con tàu
Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát
Tâm hồn ta là Tây Bắc chứ còn đâu”
Gợi ý:
MB: Giới thiệu khái quát vấn đề
TB:
I. Giới thiệu vài nét về tác giả và bài thơ.
II. Phân tích - bình giảng khổ thơ (Xem phần II.1)
1. Với phong cách trí tuệ độc đáo, ngay câu thơ mở đầu, Chế Lan Viên đã tạo nên một
phong cách thơ đặc sắc: một câu hỏi xoáy vào tâm hồn người đọc: “Tây Bắc ư?” và một câu trả
lời hàm súc, đầy tính khẳng định. Tây Bắc, ngoài nghĩa cụ thể của một vùng đất, còn là biểu
tượng gợi nghĩ đến mọi miền xa xôi của Tố Quốc, nơi có cuộc sống gian lao mà nặng nghĩa tình
của nhân dân, nơi đã ghi dấu không thể nào quên của đời người trải qua cuộc kháng chiến oanh
liệt, nơi đã vẫy gọi đi tới, là lời giục giã, mời gọi ra đi, lên Tây Bắc cũng chính là trở về với
chính
lòng
mình.
2. Khi lòng anh “đã hòa những con tàu” và tiếng hát của con tàu nhập cùng khúc hát xây dựng
rộn ràng bốn bề Tổ quốc thì chính là lúc người nghệ sĩ cũng có thể soi vào lòng mình mà thấy
được cả đất nước, nhân dân: “Tâm hồn ta là Tây Bắc, chứ còn đâu?”.
3. Nhà thơ ý thức rất rõ ràng về vai trò quyết định của hiện thực đời sống nhưng không
coi nhẹ vai trò chủ thể của người nghệ sĩ trong sáng tạo nghệ thuật. Những câu thơ tưởng như có
sự mâu thuẫn: “Lòng ta đã hóa những con tàu” rồi lại “Tâm hồn ta là Tây Bắc, chứ còn đâu?”,
9
Tài liệu LTĐH
nhưng kì thực là hợp lí, thống nhất một cách chặt chẽ trong quy luật tư tưởng và sáng tạo nghệ
thuật. Đúng là chủ thể, khách thể, nội tâm và ngoại cảnh, cái “tôi” và cái “ta”, tất cả đều có thể
tìm thấy sự hòa hợp thống nhất trong hình ảnh thơ giản dị mà rất sâu sắc của Chế Lan Viên.
KB
Về với Tây Bắc là về với tâm hồn, nỗi mong chờ của Tây Bắc cũng chính là nõi mong
nhớ của tâm hồn mình. Hai sự thống nhất nói trên đã trở thành sự thống nhất biện chứng trong
hồn thơ Chế Lan Viên. Vì vậy, bốn câu thơ đề từ trên đã kết tinh, tiêu biểu cho cả bài thơ “Tiếng
hát con tàu”
Đề 3: So sánh khổ thơ trong Tây Tiến của Quang Dũng với khổ thơ trong Tiếng hát con
tàu của Chế Lan Viên
" Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
...
Mường Lát hoa về trong đêm hơi "
"Nhớ bản sương giăng nhớ đèo mây phủ
...
Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn "
Gợi ý:
MB: Giới thiệu khái quát vấn đề (Phải nhắc đến được hai tác phẩm và nội dung chủ đạo
của hai khổ thơ: nỗi nhớ)
TB:
1. Giới thiệu khái quát về hai tác giả, hai tác phẩm
2. Làm sáng tỏ nội dung từng khổ thơ
2.1. Đoạn thơ trong bài thơ "Tây Tiến" của Quang Dũng:
a. Giới thiệu xuất xứ bài thơ, đoạn thơ:
- Bài thơ ra đời năm 1948, in trong “Mây đầu ô” (xuất bản lần đầu 1986).
- Đây là đoạn mở đầu, thể hiện khái quát và tập trung nhất cảm hứng chủ đạo của tác
phẩm: Nỗi nhớ về Tây Bắc gắn liền với núi rừng biên giới mà đoàn quân Tây Tiến đi qua.
b. Nỗi nhớ “chơi vơi”:
- Nhớ thiên nhiên rừng núi với những nét nổi bật, đặc trưng của Tây Bắc: Sông Mã dòng sông mang tên một loài ngựa chiến, những điạ danh gợi về tên đất, tên làng của miền Tây
Bắc với những nét đặc trưng của cảnh vật: "Sài Khao sương lấp”, “Mường Lát hoa về trong đêm
hơi"…
- Nhớ thiên nhiên là nhớ con người - trước hết là "đoàn quân mỏi" hiện lên trong những
nét bay bổng của cảm hứng trữ tình lãng mạn hào hoa rất đặc trưng của Quang Dũng.
10
Tài liệu LTĐH
- Nỗi nhớ được thăng hoa trong cảm xúc, bộc lộ bằng lời gọi tha thiết "Tây Tiến ơi" và
một loạt những vần "ơi" , tạo âm hưởng "chơi vơi" của nỗi nhớ, cho thấy nhớ Tây Tiến là nhớ
về một hiện thực đã xa, nên có gì hẫng hụt, chơi vơi.
- Biện pháp hoán dụ: "Sông Mã" góp phần thể hiện tình cảm thiết tha, gắn bó của nhà
thơ với vùng đất miền Tây Bắc của Tổ quốc.
- Điệp từ “nhớ” kết hợp ngắt nhịp 4/3 càng khắc sâu thêm nỗi lòng của người đã rời xa
Tây Tiến.
c.Kết luận:
- Đây là một trong những đoạn thơ hay nhất của bài Tây Tiến .
- Khẳng định đoạn thơ thể hiện khái quát, tập trung nhất cảm hứng chủ đạo của tác
phẩm, là khúc nhạc dạo đầu mở tiếp ra những xúc cảm dào dạt của toàn bài thơ.
2.2. Đoạn thơ trong bài "Tiếng hát con tàu" của Chế Lan Viên:
a. Giới thiệu xuất xứ bài thơ, đoạn thơ:
- Bài thơ ra đời khoảng năm 1960, in trong "Ánh sáng và phù sa" (xuất bản lần đầu
1960)
- Đây là đoạn thơ thuộc phần giữa của tác phẩm, kết cấu theo mô hình đi từ cụ thể đến
khái quát, từ cảm xúc đến đúc kết chân lí - một nét đặc trưng của thơ Chế Lan Viên.
b. Nỗi nhớ bâng khuâng và suy tư triết lý của nhà thơ:
- Nhớ về thiên nhiên rừng núi với những nét nổi bật: ban sương giăng, đèo mây phủ …
Có thể xem ý thơ này là sự tổng kết hình ảnh thiên nhiên Tây Bắc được thể hiện trong những
đoạn thơ trước.
- Gắn với nỗi nhớ là những hình ảnh rất thực, đầy ấn tượng của miền Tây Bắc.
- Điệp từ "nhớ" trong câu đầu dồn tụ lại, kết thành hai chữ "yêu thương".
- Hình thức câu hỏi tu từ tăng thêm sức khẳng định, có tác dụng đưa tiếng nói của nhà
thơ đến với sự rung động trong lòng người đọc.
- Trên nền vững chắc của dòng cảm xúc về thiên nhiên và con người Tây Bắc giàu tình
nghĩa, tác giả đi đến một triết lí về mối quan hệ sâu sắc giữa con người với vùng đất đã từng gắn
bó với tâm hồn mình, từ đó dẫn đến “phép màu” kì diệu trong tâm hồn con người: “đất lạ hóa
quê hương”.
- Bốn dòng thơ vừa đối lập, vừa đối xứng tạo nên sự nhịp nhàng của nhạc tính, ngân nga
mãi trong lòng người đọc.
c.Kết luận:
- Đây là một trong những khổ thơ để lại nhiều ấn tượng sâu sắc nơi người đọc, thể hiện
rõ phong cách nghệ thuật và hồn thơ Chế Lan Viên.
- Đoạn thơ khái quát được nỗi nhớ sâu sắc về Tây Bắc -mảnh đất mười năm kháng
chiến, đã thắp lên ngọn lửa nghìn năm sau còn đủ sức soi đường.
11
Tài liệu LTĐH
- Khổ thơ có kết cấu đặc sắc đi từ hình ảnh cụ thể đến khái quát, từ cảm xúc đến suy tư.
Nó là một sự phát hiện đặc sắc về quy luật của tình cảm, tâm hồn con người.
3. So sánh hai đoạn thơ nói trên:
Cùng nói về nỗi nhớ Tây Bắc nhưng hai nhà thơ có cách biểu hiện khác nhau:
- Nỗi nhớ của Quang Dũng là nỗi nhớ chơi vơi đặc trưng cho phong cách trữ tình lãng
mạn, tài hoa của nhà thơ trẻ đất Hà thành. Đó là nỗi nhớ thắm thiết với cảnh và người mà nhà
thơ đã từng gắn bó máu thịt; nỗi nhớ một người đã rời xa; được biểu hiện bằng những từ ngữ gợi
hình, gợi cảm, gợi những sắc thái cụ thể của núi rừng Tây Bắc.
- Nỗi nhớ của Chế Lan Viên lại gắn với những suy tư triết lí rất đặc trưng theo kiểu riêng
của Chế Lan Viên. Nỗi nhớ ấy nằm trong mạch cảm xúc về ân tình cách mạng “uống nước nhớ
nguồn”. Chất liệu dệt nên nỗi nhớ, suy tư là những hình ảnh khái quát được thể hiện bằng những
ngôn từ giản dị, cô đúc như những định nghĩa, châm ngôn.
KB: Tổng kết vấn đề
D. Tài liệu tham khảo
PHÂN TÍCH BÀI THƠ “TIẾNG HÁT CON TÀU”
Chế Lan Viên (1920 – 1989) tên thật là Phan Ngọc Hoan, quê ở Cam Lộ, Quảng Trị.
Ông sáng tác rất sớm và nổi tiếng với tập thơ Điêu tàn xuất bản năm 1937 và được đánh giá là
nhà thơ lãng mạn tiêu biểu của phong trào Thơ mới. Trước Cách mạng tháng Tám, Chế Lan
Viên đã từng viết: Với tôi tất cả như vô nghĩa, Tất cả không ngoài nghĩa khổ đau, đã từng cầu
xin: Hãy cho tôi một tinh cầu giá lạnh, Một vì sao trơ trọi cuối trời xa… để ẩn náu, trốn tránh
mọi khổ đau, phiền não của cuộc sống. Sau Cách mạng, trong sự hóa thân kì diệu của đất nước
và dân tộc, nhà thơ cũng đã làm một cuộc hóa thân để hòa nhập với cuộc sống xung quanh và
cũng là tìm về với chính mình.
Hòa bình lập lại, nhân dân miền Bắc phấn khởi bắt tay vào công cuộc xây dựng cuộc
sống hòa bình, xây dựng xã hội chủ nghĩa. Năm 1958, Đảng và Nhà nước ta phát động phong
trào khai hoang, phát triển kinh tế ở vùng cao. Phong trào này đã được nhân dân miền xuôi, nhất
là những địa phương đất chật người đông như Hà Nam, Nam Định, Thái Bình… hưởng ứng rất
nhiệt tình. Thanh niên được coi là lực lượng tiên phong lên Việt Bắc, Tây Bắc vỡ đất khai
hoang, xây dựng nông trường, làm thay đổi bộ mặt của chiến khu xưa.
Trong kháng chiến chín năm chống Pháp, nhà thơ Chế Lan Viên thường xuyên đi công
tác nên được sống trong sự đùm bọc và tình yêu thương của đồng bào Việt Bắc, Tây Bắc. Tình
cảm quý báu đó khơi nguồn thi hứng để tác giả sáng tác bài thơ Tiếng hát con tàu. Bài thơ vừa là
khúc hát say mê, rạo rực của một hồn thơ đã thoát khỏi khung trời chật hẹp của cái tôi nhỏ bé để
ra với chân trời rộng lớn của cái ta là nhân dân, đất nước ; vừa thể hiện lòng biết ơn sâu nặng và
nỗi nhớ da diết của nhà thơ về Tây Bắc – quê hương thứ hai, nơi có những con người đã gắn bó,
chia sẻ gian nan, cùng vào sống ra chết với mình trong thời kì chống Pháp.
12
Tài liệu LTĐH
Bài thơ được bố cục theo trình tự diễn biến tâm trạng. Giọng điệu, âm hưởng cũng biến
đổi theo mạch tâm trạng. Hai khổ đầu là sự trăn trở và lời mời gọi lên đường. Chín khổ thơ giữa
thể hiện khát vọng về với nhân dân, gợi lên những kỉ niệm kháng chiến đầy nghĩa tình với nhấn
dân và đất nước. Bốn khổ cuối là khúc hát lên đường sôi nổi, tin tưởng và say mê.
Bốn câu thơ đề từ chính là tư tưởng chủ đề bài thơ, đã khái quát suy nghĩ và tình cảm
của tác giả:
Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc
Khi lòng ta đã hóa những con tàu
Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát
Tâm hồn ta là Tây Bắc, chứ còn đâu.
Câu hỏi tu từ: Tây Bắc ư? là lời lòng tự hỏi lòng, chứa đựng nỗi băn khoăn, trăn trở rất
thực trong tâm trạng nhà thơ nói riêng và tầng lớp văn nghệ sĩ nói chung ở thời điểm lịch sử đó.
Hai khổ thơ đầu là lời giục giã với những câu hỏi thôi thúc. Nhà thơ chọn hình ảnh con
tàu và địa danh Tây Bắc làm biểu tượng nghệ thuật của bài thơ:
Con tàu này lên Tây Bắc anh đi chăng ?
Bạn bè đi xa anh giữ trời Hà Nội
Anh có nghe gió ngàn đang rú gọi
Ngoài cửa ô ? Tàu đói những vành trăng.
Đất nước mênh mông, đời anh nhỏ hẹp
Tàu gọi anh đi, sao chửa ra đi ?
Chẳng có thơ đâu giữa lòng đóng khép
Tâm hồn anh chờ gặp anh trên kia.
Nhà thơ ví tâm hồn mình như một con tàu đang mở hết tốc lực trong hành trình tiến lên
phía trước mà đích đến là đất nước, là nhân dân vĩ đại và cao cả, là cuộc sống đầy ắp chất liệu
và cảm hứng nuôi dưỡng hồn thơ.
Con tàu ờ đây là biểu tượng cho khát vọng ra đi, đến với những miền xa xôi, đến với
nhân dân, đất nước và cũng còn là đến với những mơ ước, những ngọn nguồn của cảm hứng
nghệ thuật.
Ở thời điểm đó chưa có đường tàu lên Tây Bắc, cho nên hình ảnh con tàu trong bài thơ
này hoàn toàn mang ý nghĩa tượng trưng. Đó là con tàu trong tâm tưởng chỗ đầy khát vọng hòa
hợp với dân tộc, đất nước và niềm tin vào tương lai tươi sáng. Chế Lan Viên đã mượn hình ảnh
thiên nhiên để khơi gợi khát vọng lên đường của mọi người. Khao khát tìm đến những chân trời
rộng mở : Anh có nghe gió ngàn đang rú gọi, Ngoài cửa ô ? Tàu đói những vành trăng. Nhà thơ
nói với người khác mà cũng là tự nhủ với chính lòng mình.
Đánh thắng giặc xong, đất nước xây dựng lại rất cần sự đóng góp của mỗi người. Hãy
thoát ra khỏi cái tôi chật hẹp mà hòa nhập với mọi người. Đi theo con đường ấy có thể tìm kiếm
13
Tài liệu LTĐH
được nghệ thuật chân chính và gặp được tâm hổn của chính mình trong cuộc sống rộng lớn của
nhân dân.
Chẳng có thơ đâu giữa lòng đóng khép
Tâm hồn anh chờ gặp anh trên kia.
Chế Lan Viên đã khẳng định về mối liên quan máu thịt giữa văn chương, nghệ thuật với
hiện thực cuộc sống, bởi cuộc sống phong phú muôn màu muôn vẻ chính là kho chất liệu, là
nguồn cảm hứng vô tận của văn nghệ sĩ. Điều đó cho thấy một nhà thơ Chế Lan Viên hoàn toàn
mới mẻ, khác hẳn với Chế Lan Viên – nhà thơ lãng mạn trước Cách mạng bế tắc và tuyệt vọng
giữa cuộc đời tù túng, phức tạp.
Tây Bắc, ngoài tên gọi cụ thể của một vùng đất, còn là tiêu biểu cho mọi miền xa xôi
của Tổ quốc, nơi có cuộc sống gian lao mà nặng nghĩa nặng tình, nơi đã ghi khắc những kỉ niệm
không thể quên của những người đã trải qua cuộc kháng chiến, nơi đang vẫy gọi mọi người đi
tới chung sức, chung lòng xây dựng lại quê hương.
Đến với Tây Bắc, mảnh đất nặng nghĩa nặng tình là đến với nhân dân đã chở che, đùm
bọc cán bộ, chiến sĩ ta trong suốt cuộc kháng chiến trường kì chống thực dân Pháp xâm lược.
Chính vì lẽ đó, tiếng gọi thôi thúc lên Tây Bắc đồng nghĩa với tiếng gọi về với chính lòng mình,
với tâm hồn mình với những tình cảm thiết tha, trong sáng.
Nếu hai khổ thơ đầu là sự trăn trở và lời giục giã mời gọi lên đường thì chín khổ tiếp
theo lại là niềm hạnh phúc và khát vọng về với nhân dân, gợi lại những kỉ niệm sâu nặng đầy
tình nghĩa trong những năm kháng chiến ; xen với những hình ảnh lung linh của hồi tưởng là
những chiêm nghiệm, đúc kết trong giọng thơ trầm lắng.
Bắt đầu là khung cảnh và con người Tây Bắc nay đã đổi thay:
Trên Tây Bắc ! ôi mười năm Tây Bắc
Xứ thiêng liêng rừng núi đã anh hùng
Nơi máu rỏ tâm hồn ta thấm đất
Nay dạt dào đã chín trái đầu xuân.
Ở khổ thơ này, các hình ảnh cũ và mới đan xen vừa rất sáng tạo, vừa giàu ý nghĩa. Nghĩ
về Tây Bắc, những kỉ niệm vui buồn về cảnh vật và con người cứ lớp lớp hiện lên trong tâm
tưởng nhà thơ. Sau mười năm xa cách, xưa Nơi máu rỏ tâm hồn ta thấm đất, Nay dạt dào đã chín
trái đầu xuân. Tất cả những điều đó tạo nên nền tảng vững chắc cho đời sống tinh thần, đời sống
tình cảm phong phú của con người. Cao hơn thế, nó trở thành ngọn lửa soi đường dẫn tối:
Ơi kháng chiến! Mười năm qua như ngọn lửa
Nghìn năm sau, còn đủ sức soi đường.
Con đã đi nhưng con cần vượt nữa
Cho con về gặp lại Mẹ yêu thương.
Trong suy nghĩ của nhà thơ, đến với Tây Bắc là đến với vùng đất thân thuộc của tâm hồn
mình, là làm cuộc hành trình về với Mẹ nhân dân – Mẹ Tổ quốc yêu thương.
14
Tài liệu LTĐH
Chế Lan Viên khái quát hành trình trở về với nhân dân bằng những hình ảnh so sánh
vừa hiện thực vừa trữ tình, thể hiện độ sâu của cảm xúc và độ cao của sáng tạo nghệ thuật:
Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ
Cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa
Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa
Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cảnh tay đưa.
Để nói lên ý nghĩa sâu xa, niềm hạnh phúc lớn lao của việc trở về với nhân dân, tác giả
đã sử dụng một loạt hình ảnh so sánh để khơi sâu, mở rộng thêm ý nghĩa của sự việc, sự vật.
Nhà thơ nhận thức được rằng văn nghệ sĩ về với nhân dân là điều hết sức tự nhiên, phù hợp với
quy luật như nai về suối cũ là nơi quen thuộc, như cỏ đón giêng hai. Chim én gặp mùa để tiếp
nhận sức sống và phô bày vẻ đẹp. Về với nhân dân là về với ngọn nguồn của sự sống, của hạnh
phúc; là về nơi đã nuôi dưỡng, chở che, cưu mang mình. Đây là hành động cần thiết và kịp thời
đối với tầng lớp văn nghệ sĩ để được tiếp thêm niềm tin và sức mạnh trên con đường sáng tạo
nghệ thuật:
Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa,
Chiếc nôi dừng bỗng gặp cánh tay đưa.
Khát vọng lên Tây Bắc gợi nhớ cả một trời kỉ niệm về những năm tháng kháng chiến
gian nan, nguy hiểm mà ấm áp tình người:
Con nhớ anh con người anh du kích
Chiếc áo nâu anh mặc đêm công đồn
Chiếc áo nâu suốt một đời vá rách
Đêm cuối cùng anh cởi lại cho con.
Con nhớ em con thằng em liên lạc
Rừng thưa em băng, rừng rậm em chờ
Sáng bản Na, chiều em qua bản Bắc
Mười năm tròn ! Chưa mất một phong thư.
Con nhớ mế ! Lửa hồng soi tóc bạc
Năm con đau, mế thức một mùa dài.
Con với mế không phải hòn máu cắt
Nhưng trọn đời con nhớ mãi ơn nuôi.
Khát vọng trở về với nhân dân được nhà thơ thể hiện thông qua những cảm xúc chân
thành, những kỉ niệm sâu sắc gắn liền với từng con người tiêu biểu cho sự hi sinh, đùm bọc của
nhân dân trong kháng chiến. Nhân dân ở đây không còn là một khái niệm chung chung, mà là
những con người cụ thể, gần gũi. Đó là người anh du kích với Chiếc áo nâu suốt một đời vá
rách, Đêm cuối cùng anh cởi lại cho con, là thằng em liên lạc, Rừng thưa em băng, rừng rậm em
chờ ; là bà mế lửa hồng soi tóc bạc, Năm con đau mế thức một mùa dài,… Với những điệp ngữ
và cách xưng hô thân tình : Con nhớ anh con, Con nhớ em con, Con nhớ mế,… nhà thơ đã thể
15
Tài liệu LTĐH
hiện tình cảm đằm thắm với những con người đã từng gắn bó máu thịt với mình, chia sẻ từng vắt
cơm, manh áo trong hoàn cảnh khó khăn của kháng chiến. Đó là những con người hi sinh thầm
lặng cho cách mạng, cho kháng chiến. Những câu thơ nói về nhân dân Tây Bắc biểu lộ lòng biết
ơn, sự gắn bó chân thành và niềm xúc động thấm thía của nhà thơ. Mỗi con đường, mỗi bản
làng, mỗi ngọn núi, dòng sông đều gắn với những kỉ niệm vui buồn không thể nào quên.
Đang từ dòng hồi tưởng về những kỉ niệm khó quên, nhà thơ đã nâng cao và khái quát
cảm xúc lên thành một triết lí nhân sinh sâu sắc. Khổ thơ dưới đây như một phát hiện về quy
luật của tình cảm đời sống tâm hồn con người:
Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ
Nơi nao qua, lòng lại chẳng yêu thương ?
Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi, đất đã hóa tâm hồn!
Tình thương yêu ở đây không chỉ giới hạn trong tình yêu đôi lứa mà còn là những tình
cảm sâu nặng đối với quê hương, đất nước. Nhà thơ đã nói tới phép màu của tình yêu. Chính
tình yêu đã biến những miền đất xa lạ thành thân thiết như chính quê hương của mình, hóa thành
máu thịt tâm hồn mình : Khi ta ở chỉ là nơi đất ở, Khi ta đi, đất đã hỏa tâm hồn / Triết lí được rút
ra từ tình cảm, cảm xúc chân thành, cho nên không khô khan mà vẫn tự nhiên, dung dị.
Ở khổ thơ tiếp theo, mạch thơ đột ngột chuyển sang một rung cảm và suy tưởng khác
về: tình yêu và đất lạ:
Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét
Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng,
Như xuân đến chim rừng lông trở biếc
Tình yêu làm đất lạ hóa quê hương.
Nói đến tình yêu, nỗi nhớ, Chế Lan Viên có cách so sánh thật độc đáo và thú vị. Nỗi
nhớ trong tình yêu, giữa anh với em là tất yếu, giống như quy luật của đất trời: đông về nhớ rét
Còn tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng – một đặc sản của núi rừng Tây Bắc và đẹp như sắc biếc
lông chim lúc xuân sang. Tác giả đã cụ thể hóa khái niệm trừu tượng là tình yêu thành những
hình ảnh gần gũi, quen thuộc với con người, nhất là người miền núi.
Đoạn thơ thứ ba mang âm hưởng của khúc hát lên đường háo hức, dồn dập và lôi cuốn.
Chất trữ tình bay bổng, lãng mạn kết hợp với giọng điệu sôi nổi, thôi thúc. Đây là lời tự cổ vũ,
động viên và khẳng định một lần nữa quyết tâm lên Tây Bắc, mở mang những nông trường,
những vùng kinh tế mới cho đất nước:
Đất nước gọi ta hay lòng ta gọi
Tình em đang mong tình mẹ đang chờ
Tàu hãy vỗ giùm ta đôi cánh vội
Mắt ta thèm mái ngói đỏ trăm ga.
Mắt ta nhớ mặt người, tai ta nhớ tiếng
16
Tài liệu LTĐH
Mùa nhân dân giăng lúa chín rì rào
Rẽ người mà đi vịn tay mà đến
Mặt đất nồng nhựa nóng của cần lao.
Khao khát ấy thôi thúc tâm hồn nhà thơ vì lên Tây Bắc cũng là về với ngọn nguồn của
hồn thơ, của cảm hứng sáng tạo nghệ thuật. Những năm tháng gian khổ những hi sinh lớn lao,
những đau thương của chiến tranh nay đã kết thành : Mùa nhân dân giảng lúa chỉn rì rào, trên
Mặt đất nồng nhựa nóng của cần lao.
Thôi thúc lên Tây Bắc đến đây đã nhập chung làm một với nhu cầu hòa hợp với nhân
dân, đất nước. Nhà thơ đã tìm thấy ở đó sức mạnh vươn lên:
Nhựa nóng mười năm nhân dân máu đổ
Tây Bắc ơi, người là mẹ của hồn thơ,
Mười năm chiến tranh vàng ta đau trong lửa,
Nay trở về, ta lấy lại vàng ta.
Nhà thơ Chế Lan Viên đã mượn hình ảnh tượng trưng thường thấy trong ca dao xưa để
biểu đạt vẻ đẹp cao quý của tâm hồn. Giống như vàng không sợ lửa, nhà thơ được rèn luyện, thử
thách trong hiện thực gian khó, đau thương và oanh liệt của cuộc kháng chiến trường kì để giờ
đây đã thực sự có được chất vàng mười tinh túy của tâm hồn gắn bó máu thịt với nhân dân, đất
nước.
Kết thúc bài thơ là những ẩn dụ nghệ thuật tượng trưng có giá trị tư tưởng và thẩm mĩ
rất cao, hội tụ tinh thần của toàn bài:
Lấy cả những cơn mơ! Ai bảo con tàu không mộng tưởng?
Mỗi đêm khuya không uống một vầng trăng.
Lòng ta cũng như tàu, ta cũng uống
Mặt hồng em trong suối lớn mùa xuân.
Bằng các thủ pháp nghệ thuật tả thực, ẩn dụ, so sánh, tượng trưng phong phú…, trong
bài Tiếng hát con tàu, Chế Lan Viên đã sáng tạo thành công nhiều hình ảnh đặc sắc gợi sự liên
tưởng phong phú cho người đọc.
Cảm hứng bao trùm trong bài thơ là lòng biết ơn và hiềm hạnh phúc trong sự gắn bó với
cuộc sống, với nhân dân và đất nước của một tâm hồn đã từ thung lũng đau thương ra cảnh đồng
vui. Con tàu tâm tưởng chở đầy ước mơ, khát vọng đang băng băng tới những vùng đất xa xôi
của Tổ quốc, đồng thời cũng là mảnh đất mỡ màu nuôi dưỡng hồn thơ, hứa hẹn những mùa vàng
bội thu trong một tương lai không xa.
Người ta nhận xét thơ Chế Lan Viên là thơ trí tuệ. Rất đúng, bởi nhà thơ chịu khó trăn
trở, tìm tòi để sáng tạo ra cái mới lạ, độc đáo mà vẫn nồng nàn chất trữ tình. Có thể coi bài thơ
17
Tài liệu LTĐH
Tiếng hát con tàu tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật Chế Lan Viên – một nhà thơ lãng mạn
cách mạng nổi tiếng của thơ ca Việt Nam hiện đại.
(Bài viết của Nguyễn Thái Bảo – trường THPT Chương Xá – Hà Nội)
18