Tải bản đầy đủ (.pdf) (56 trang)

Nghiên cứu làm giàu U(VI) bằng hydrotalcite trong nước biển cho phân tích tỷ lệ 234u 238u bằng phổ kế alpha

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.24 MB, 56 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP TRƯỜNG

NGHIÊN CỨU LÀM GIÀU U(VI)
BẰNG HYDROTALCITETRONG NƯỚC BIỂN
CHO PHÂN TÍCH TỶ LỆ 234U VÀ 238U
BẰNG PHỔ KẾ ALPHA
S

K

C

0

0

3

9

5

9

MÃ SỐ: T-2014-46TD

S KC 0 0 4 8 0 2



Tp. Hồ Chí Minh, 2014


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM KỸ THUẬT
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BÁO CÁO TỔNG KẾT

ĐỀ TÀI KH&CN CẤP TRƢỜNG TRỌNG ĐIỂM

NGHIÊN CỨU LÀM GIÀU U(VI) BẰNG
HYDROTALCITE TRONG NƢỚC BIỂN CHO PHÂN
TÍCH TỶ LỆ 234U VÀ 238U
BẰNG PHỔ KẾ ALPHA

Mã số: T-2014-46TD

Chủ nhiệm đề tài: PGS.TS. Nguyễn Văn Sức

TP. HCM, 11/2014


Bảng những chữ viết tắt và ký hiệu
Chữ viết tắt và ký hiệu
HT
HT500
EPA
SEM

XRD
FT-IR
BET
qe (mg/g)
Qmax (mg/g)
Co (mg/g)
Ct (mg/g)
KL
k’1
k’2
kid
Kf
n
A (mg/g)

Nội dung
Hydrotalcite
Hydrotalcite được nung ở 5000C
Cơ quan bảo vệ môi trường của Mỹ
Quét hiển vi điện tử
Nhiểu xạ tia X
Biến đổi frontier hồng ngoại
Phương pháp đo diện tích bề mặt
Dung lượng hấp phụ
Dung lượng hấp phụ cực đại
Nồng độ ion ban đầu
Nồng độ ion tại thời gian t
Hằng số Langmuir
Hằng số động học giả hấp phụ bậc 1
Hằng số động học giả hấp phụ bậc hai

Hằng số khuếch tán nội hạt
Hằng số Freundlich
Hằng số freundlich
Dung lượng hấp phụ

i


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

ĐƠN VỊ KHOA CNHH & TP
Tp. HCM, Ngày

tháng

năm

THÔNG TIN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
1. Thông tin chung:
- Tên đề tài: T2014-46TĐ, “Nghiên cứu làm giàu U (VI) bằng hydrotalcite
trong nước biển cho phân tích tỷ lệ 234U/238U bằng phổ kế alpha”
- Mã số: T2014-46TĐ
- Chủ nhiệm: Nguyễn Văn Sức
- Cơ quan chủ trì: Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Tp.HCM
- Thời gian thực hiện: 03/ 2014 – 12/2014
2. Mục tiêu:

- Điều chế hydrotalcite ở quy mô phòng thí nghiệm.
- Nghiên cứu một số tính chất của hydrotalcite dựa trên phổ nhiễu xạ tia X (XRD),
biến đổi Fourie quang phổ hồng ngoại (FT-IR), xác định diện tích bề mặt bằng
phương pháp BET và hình thái bề mặt bằng quét hiển vi điện tử (SEM).
- Xác định các tham số hấp phụ của hydrotalcite đối với ion uranyl.
1. Tính mới và sáng tạo:
-

Thay đổi cấu trúc của hydrotalcite bằng nhiệt độ để nâng cao khả năng hấp phụ
ion uranyl.

-

Chứng minh được những yếu tố có thể ảnh hưởng đến khả năng hấp phụ ion
uranyl.

-

Dựa vào phản ứng trao đổi ion CO32- để sử dụng tác nhân thích hợp tái tạo lại
hydrotalcite đã bão hòa ion uranyl.

2. Kết quả nghiên cứu:
-

Xác định được các tham số ảnh hưởng đến quá trình hấp phụ ion uranil

-

Xác định được cơ chế hấp phụ của hydrotalcite đối với ion uranyl


ii


-

Xác định được các tham số trong hai mô hình hấp phụ đẳng nhiệt Langmuir và
Freundlich

-

Xác định được các tham số nhiệt động học của quá trình hấp phụ

3. Sản phẩm:
- Sản phẩm hydrotalcite
- Các số liệu động học, cân bằng hấp phụ của hydrotalctie đối với ion uranyl
- Hướng dẫn 1 học viên cao học có liên quan đến hydrotalcite
- 1 bài báo khoa học có chỉ số ISI
6. Hiệu quả, phƣơng thức chuyển giao kết quả nghiên cứu và khả năng áp
dụng:
-. Đã điều chế chất hấp phụ vô cơ có cấu tạo lớp như một số loại khoáng sét tự
nhiên và có khả năng hấp phụ rất cao đối với các anion phức, các hợp chất hữu cơ
độc hại. Đây là loại vật liệu có tiềm năng để xử lý, làm sạch chất ô nhiễm trong
nước thải cũng như các nguồn nước bị ô nhiễm.
- Do là chất hấp phụ vô cơ nên bền vững với bức xạ, nên hydrotacite được xem là
vật liệu không thể thiếu trong hấp phụ các đồng vị phóng xạ có hoạt độ cao, làm
sạch vết chất phóng xạ trong môi trường.
- Sản xuất ra những bộ lọc nước có khả năng lọc ion NO3-, PO43-, As(V) As(III),
Cr(VI), Cr(III) các hợp chất hữu cơ, các nguyên tố phóng xạ…

Trƣởng Đơn vị


Chủ nhiệm đề tài

PGS.TS. Nguyễn Văn Sức

Nguyễn Văn Sức

iii


INFORMATION ON RESEARCH RESULTS
1. General information:
Project title: “Studying of

234

U/238U concentration in seawater by

hydrotalcite using alpha spectrometry”
Code number: T2014-46TĐ
Coordinator: Nguyen Van Suc
Implementing institution: University of Technical Education HCM City
Duration: from 03/2012

to /12/2012

2. Objective(s):
- Development of procedure for preparation of hydrotalcite in lab scale
- The study of the properties of hydrotalcite based on X-ray diffraction spectrum
(XRD), Fourier transformation infrared spectroscopy (FT-IR), determination of

the surface areas of hydrotalcite by the BET method and surface morphology by
scanning electron microscopy (SEM).
- Determination of

the parameters that effect on the U(VI) adsorption by

hydrotalcite
3. Creativeness and innovativeness:
- Transforming the structure of hydrotalcite with temperature to enhance the
adsorption of uranyl ions.

- Based on the ion-exchange reaction CO32- of hydrotalcite, it reveals that this
reagent could be used to regenerate the exhausted hydrotalcite with uranyl ions.

iv


4. Research results:
-

The parameters including pH, contact time and adsorbent dose affecting to the
adsorption process of uranyl ions were obtained.

-

Experimental data shown the adsorption of U(VI) on hydrotalcite followed the
Langmuir and Freundlich models.

-


The adsorption capacity of hydrotalcite increases with increasing the
cancinated temperature.

-

The resulting hydrotalcite can be generated in U(VI) adsorption using Na2CO3.

5. Products:
- Hydrotalcite product
- Data of the adsorption kinetics, adsorption isotherm of hydrotalctie for the
uranyl ion
- 1 graduate student related to hydrotalcite
- 1 article with ISI index
6. Effects, transfer alternatives of research results and applicability:
- The inorganic adsorbent (Hydrotalcite -HT) with the layer structure that as some
kind of natural clay minerals has been prepared in the lab conditions. HT has very
high adsorption capacity for anionic complexes, toxic organic compounds and it is
the potential adsorbent to use for removal of contaminants in wastewater and
contaminated water sources.
- Due to stable with radiation, hydrotalcite should be considered as an
indispensable material in the adsorption of radioactive isotopes with high activity,
in removal of traces of radioactive substances in the environment.
- This product can be used in preparation of the water filter to remove ions such as
NO3-, PO43-, As (V) to As (III), Cr (VI), Cr (III), organic compounds and
radioactive elements.
- Hydrotalcite can be used to pre-concentration
uranium in the ground water, sea
v
water to analyze uranium nuclides for geochemistry investigation of ground water



system and marine environment.

vi


MỞ ĐẦU
Phân tích các nhân phóng xạ trong các đối tượng môi trường đang trở nên hết sức cấp
thiết đối với các nhà quan trắc và nghiên cứu môi trường. Nhân phóng xạ tự nhiên đặc
biệt là của urani và các nguyên tố trong chuỗi phân hạch của urani có một ý nghĩa hết
sức quan trọng trong quá trình đánh giá sự biến đổi địa hóa của trái đất, Các đồng vị
của urani là những chất chỉ thị tin cậy cho sự biến đổi môi trường. Ngày nay, với sự
thay đổi khí hậu trái đất và tính axit tăng lên trong nước biển đã làm thay đổi một cách
cơ bản về sự cân bằng của các thành phần nguyên tố trong nước biển, trong các dải san
hô và trầm tích trong đại dương.
Để có được những kết quả phân tích chính xác hoạt độ phóng xạ của các đồng vị
U và 238U, phương pháp phân tích hiện nay chủ yếu được sử dụng là đo hoạt độ của
các đồng vị này bằng phổ kế alpha. Vấn đề khó khăn thường gặp phải trong phân tích
bằng phổ kế alpha là sự chuẩn bị mẫu. Giai đoạn chuẩn bị mẫu đóng vai trò quyết
định cho cả quá trình phân tích vì hiệu suất tách, hiệu suất đo chiếm tỷ trọng rất lớn
trong giai đoạn này.
234

Một quy trình khá phổ biến hiện nay cho việc tách 238U và 234U trong tất cả các đối
tượng môi trường là mạ điện urani trên đĩa thép không rỉ. Để xác định hiệu suất thu hồi
đồng vị 232U được sử dụng. Đây là một quy trình rất phức tạp, tiêu tốn nhiều thời gian
và bắt buộc phải luôn luôn sử dụng vết (tracer) là 232U, cho nên giá thành phân tích cho
một mẫu rất đắt và độc hại tới môi trường.
Việc nghiên cứu một quy trình mới để giảm giá thành và không sử dụng vết 232U để
phân tích 234U và 238U cho các phòng phân tích phóng xạ bằng phương pháp phổ kế

alpha đặc biệt đối với môi trường biển là hết sức cần thiết. Được sự giúp đỡ của Trung
tâm Hạt nhân Tp. HCM. Chúng tôi đã nghiên cứu tách urani từ nước biển bằng khoáng
sét tổng hợp hydrotalcite, khử U(VI) thành U(IV) bằng Zn kim loại và đồng kết tủa
U(IV) với LaF3.
Kết quả nghiên cứu đã cho một quy trình tách 234U và 238U hết sức đơn giản nhưng
đạt độ chính xác cao. Mặt khác quy trình này không sử dụng TiCl4 để khử U(VI) và
vết đồng vị phóng xạ 232U là tracer là những chất độc hại cho con người và môi
trường.

1


I. TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRONG VÀ NGOÀI
NƯỚC
I.1.Giới thiệu chung về các đồng vị của urani và ý nghĩa của chúng trong môi

trường biển.
Trong số những nguyên tố kim loại chúng ta đã biết trong bảng tuần hoàn hóa học,
urani và các đồng vị của nó có một vai trò quan trọng trong nghiên cứu địa hóa và môi
trường. Urani có mặt trong các khoáng vật, trong đất trồng, sông hồ và đại dương.Mặc
dù tồn tại ở mức hàm lượng rất nhỏ nhưng urani luôn được chú ý tới và là yếu tố
không thể thiếu được trong đánh giá tuổi địa chất, nguồn gốc của khoáng vật và sự
biến đổi của lớp vỏ trái đất trong hàng triệu triệu năm [1].
Nguyên tố urani có số nguyên tử 92 và trọng lượng phân từ là 238,0289 g/mol. Tỷ
trọng của urani kim loại bằng 19 g/cm3, nhẹ hơn vonfram (W) nhưng lớn hơn chì (Pb).
Urani tự nhiên chứa ba đồng vị phóng xạ 234U, 235U và 238U. Phần trăm của mỗi đồng
vị phóng xạ theo khối lượng khoảng 0,054% 234U, 0,72% 235U và 99,27% 238U.
Khoảng 48,9% hoạt độ phóng xạ là của 234U, 2,2% 235U và 48,9% 238U. Thời gian bán
rã của các đồng vị urani rất dài, 24400 năm đối với 234U, 710 triệu năm đối với 235U và
4500 triệu năm đối với 238U. Phân rã của urani thành nhiều đồng vị phóng xạ được gọi

là con cháu của urani, ở cuối chuỗi phân rã là đồng vị bền (không có tính phóng xạ)
đó là nguyên tố chì (Pb). Do thời gian bán rã lớn so với tuổi của hệ mặt trời, urani
được xem như là nguyên tố phóng xạ nguyên thủy tìm thấy trong tự nhiên. Các tính
chất hạt nhân của các đồng vị urani đưa ra trong bảng 1 [2,3].
Tất cả đồng vị của urani chịu cùng các phản ứng hóa học trong tự nhiên và có những
đặc tính hóa học đồng nhất, như điểm nóng chảy, điểm sôi và độ bay hơi. Tuy nhiên,
tính chất phóng xạ (thời gian bán rã, hoạt độ riêng, kiểu phân rã…) của tất cả đồng vị
của urani là khác nhau [4].
Địa hóa biển của urani đã được nghiên cứu trong vài thập kỷ gần đây với việc đo các
thành phần của urani và sự phân bố của chúng trong đại dương,nghiên cứu các đồng
vị con cháu của nó có mặt trong các quá trình tiến hóa của đại dương. Các phép đo xác

2


định urani bằng phổ kế alpha đã cho những thông tin về hành vi của urani trong môi
trường biển.
Xác định tuổi do mất cân bằng của dãy urani liên quan đến tính toán tuổi của chuỗi
phân rã của 238U. 238U phân rã alpha thành 234U sau đó phân rã tiếp tục thành 230Th
(thời gian bán rã là 75.690 năm). Có một số đồng vị con cháu trong dây truyền phân rã
như 234Th và 234Pa, tuy nhiên thời gian sống của các đồng vị này không đáng kể so với
các đồng vị mẹ. nếu tính cho thời gian bán rã của 238U, dãy phân rã này sẽ là cân bằng
thế kỷ, hay nói một cách khác, hoạt độ của các đồng vị mẹ và đồng vị con cháu sẽ
đồng nhất (và do đó tỷ số của chúng sẽ bằng 1). Do 234U chiếm trong các vị trí mạng
lưới tinh thể dễ bị phá hủy bời quá trình phân rã alpha, đồng vị 234U dễ dàng thoát ra từ
đá trong quá trình phong hóa tạo thành “lượng dư” của 234U trong nước bề mặt và di
chuyển vào đại dương. Do vậy, tỷ lệ hoạt độ phóng xạ của 234U/238U lớn hơn 1 trong
nước biển và và tỷ lệ này cũng được duy trì trong san hô.
Sự gia tăng nhiệt độ của trái đất do hiện tượng nhà kính làm cho nhiệt độ và tính
axit của nước biển tăng lên có thể làm mất cân bằng của các chu trình tự nhiên mà nó

đã được xác lập hàng triệu năm. Để đánh giá những thay đổi này cần phải có những
chỉ thị đặc biệt có khả năng cung cấp những thông tin chính xác về sự thay đổi nhiệt
độ trong nước biển.Không ai hết, đó là các đồng vị phóng xạ tự nhiên trong chuỗi phân
hạch của urani và tỷ số của chúng.Tuy nhiên, vì chúng tồn tại trong nước biển một
lượng rất nhỏ (cỡ ppb) nên cần phải có những công cụ và phương pháp phân tích rất
nhạy và chính xác để xác định chúng.
Bảng 1: Đặc tính hạt nhân của các đồng vị urani
Hạt nhân

Thời gian bán


Độ giàu

Kiểu phân rã

Sự tạo thành

(%)

(năm)
232

U

68,9

Vết




232

233

U

1,59.105

Vết



Phân rã  - của
233
Pa

234

U

2,46.105

0,0059-0,050



Tự nhiên

235


U

7,4.108

0,7202-0,7198



Tự nhiên

236

U

2,34.107

Vết



235

U(n,)

238

U(n,3n)

Th(,4n)


Phân rã  của
3


240
238

U

4,47.109

99,2752–
9,2739



Pu

Tự nhiên

I.2.Những nghiên cứu làm giàu urani từ nước biển

Để xác định thành phần đồng vị của urani trong môi trường biển đòi hỏi phải thông
qua nhiều giai đoạn . Trước hết là giai đoạn làm giàu. Đây là giai đoạn có tính quyết
định của quá trình vì độ giàu của urani trong nước biển rất thấp và nồng độ muối cao
nên giai đoạn làm giàu phải được sử dụng. Giai đoạn thứ hai, urani phải được tách ra
từ các hợp chất hoặc là các nguyên tố sẽ ngăn cản trong phân tích urani. Giai đoạn
cuối cùng là tạo ra mẫu đo dưới dạng nguồn có độ mỏng thích hợp để đo. Quy trình
phân tích urani theo các giai đoạn trên đã được đưa ra trong các công trình của Amoli

và Barker[5]. Jia và cộng sự[6], Jia và cộng sự [7], Huy và cộng sự [8] và Zarki và
cộng sự [9].Để xác định hiệu suất làm giàu, hầu hết tất cả các quy trình làm giàu được
tiến hành hiện nay đều sử dụng vết đồng vị phóng xạ 232U. Đồng vị phóng xạ 232U
phát bức xạ alpha không có trong tự nhiên được thêm vào mẫu tại thời gian thu mẫu
hoặc khi mẫu đưa về phòng thí nghiệm. Các quy trình tách urani tại hiện trường
thường không được định lượng trừ phi đồng vị phóng xạ 232U thêm vào cân bằng với
các đồng vị phóng xạ của urani trong mẫu. Nếu mẫu phân tích không được xử lý tại
hiện trường, mẫu phải được axit hóa bằng axit HCl hoặc HNO3 để ngăn cản sự kết tủa
của Fe dưới dạng Fe(OH)3 trong bình chứa mẫu. Lượng axit thêm vào để mẫu đủ độ
axit với pH xấp xỷ bằng 1,0. Trong trường hợp mẫu nước chứa chất rắn lơ lửng, cần
phải loại bỏ bằng phương pháp lọc với giấy lọc Millipore (0,45 µm). Lọc để loại bỏ
kết tủa thường được sử dụng cho mẫu nước bề mặt.
Dojozan và cộng sự [10] đã nghiên cứu làm giàu urani từ nước biển bằng phương
pháp chiết pha rắn, sau đó urani trong mẫu làm giàu được phân tích bằng phương pháp
cực phổ xung vi phân. Quá trình chiết được tiến hành sau khi U(VI) oxinate được tạo
thành bởi phản ứng của U(VI) với 8-hydroxylquinoline và hấp phụ trên octylsilanre
(C-8) SPE catridge. U(VI) được rửa khỏi pha rắn bằng dung dịch chloroform. Phương
pháp làm giàu U(VI) bằng chiết trên pha rắn đạt đến hơn 100 lần và hiệu suất thu hồi
urani là 99,8%. Một số nguyên tố ảnh hưởng trong quá trình làm giàu và phân tích
như Ca(II), Mg(II) và Fe(III) được che bằng EDTA.
Các tác giả Das và cộng sự [11] đã sử dụng màng sợi poly(propylene) được chức hóa
phosphate để làm giàu urani. Màng có lỗ lớn poly(ethylene glycol methacrylate
phosphate) được điều chế bằng cách ghép ethylene glycol methacrylate phosphate lên
tấm sợi poly(propylene) sử dụng bức xạ UV và dòng electron. Sản phẩm ghép có
4


dung lượng hấp phụ cao đối với urani trong nước biển. Urani có thể giải hấp ra khỏi
vật liệu hấp phụ bằng cách rửa với dung dịch Na2CO3 0,5M.
Làm giàu urani từ nước biển bằng phương pháp hấp phụ trên hydrogels khâu mạch

chứa poly(ethylene glycol methacrylate phosphate (EGMP), poly(2-acrylamido2methyl-1-propane sulfonate) (AMPS), poly(acrylamidoxim)(AO) và AO cùng với các
axit khác nhau (acrylic axit (AA), methacrylic axit (MAA), AMPS và EGMP) và các
đồng monomer baz (3-(acrylamide propyl) trimethylammonium chloride (APTAC)
được điều chế bằng cách sử dụng bức xạ UV như là một tác nhân khơi mào cho quá
trình polymer hóa [12]. Các tác giả đã phát hiện các hydrogel hấp phụ định lượng
urani ( 9%) từ nước biển. Động học hấp phụ urani trong EGMP và AO + MAA
(60:40) nhanh hơn các hydrogel khác trong điều kiện nước biển. Sự có mặt của các
đồng monomer axit mạnh (-SO3H) với AO làm chập động học của quá trình liên quan
đến hấp phụ U(VI) từ nước biển. Các tác giả cũng đã quan sát thấy rằng động học hấp
phụ U(VI) phụ thuộc mạnh vào thành phần của axit và các nhóm AO trong hydrogel;
sự hấp phụ U(VI) trừ dung dịch axit trong hydrogel AO + MAAA phụ thuộc vào độ
axit và dung dịc hấp phụ; không có sự hấp phụ U(VI) từ dung dịch chứa 1 mol HNO3.
Ngược lại, hydrogel EGMP có thể hấp phụ U(VI) từ dung dịch chứa nồng độ cao
HNO3. Điều này cho thấy rằng hydrogel EGMP có thể sử dụng để làm giàu U(VI) từ
nước thải hạt nhân. Phức của U(VI) trong hydrogel EGMP và AO + MAA có thể bị
giải hấp bằng dung dịch 0,5 M Na2CO3 và 1M HCl/HNO3.
Khayatian và cộng sự [13] đã phát triển phương pháp làm giàu lượng vết urani bằng
cách chiết pha rắn dựa trên các hạt nano sắt oxit từ (MIONPs) được biến tính với natri
dodecyl sulfat (SDS). Trong trường hợp này Oxine (8-quinolinol) được sử dụng như là
tác nhân chelat và các yếu tố ảnh hưởng đến sự tạo phức và chiết U(VI) đã được tối
ưu. Để giải hấp U(VI) từ pha rắn, ethanol chứa 1% (V/V) NH3 đã được sử dụng.
Hiện nay một số vật liệu sinh học tự nhiên đã được nghiên cứu để hấp phụ urani.Đặc
biệt là chitosan.Các tác giả Oshita và cộng sự [14] báo cáo rằng chitosan khâu mạch
trong quá trình xử lý một nửa serine (kiểu nhựa chitosan) có thể sử dụng để thu lượng
vết urani và tách urani ra khỏi nền nước biển trước khi phân tích ICP-MS. Một nửa
serine có nhóm carboxyl và nhóm amino ở vị trí carbonβ của ethanol. Hành vi hấp
phụ vết các nguyên tố và urani trên kiểu nhựa chitosan gắn với nhóm hydroxyl và
nhóm amino của serine. Các tác giả đã sử dụng cột nhồi serine để hấp phụ urani trong
vùng pH rất rộng (2-9). Kết quả cho thấy rằng U(VI) hấp phụ chọn lọc do tạo thành
phức chelat bền với các nhóm amino và nhóm carboxyl.

Để xác định urani trong nước biển bằng phương pháp kích hoạt nơtron và phổ kế
alpha, Hongshan và cộng sự [15] và Vasile [16] đã đề nghị quy trình tách và đo urani
theo sơ đồ (hình 1a và 1b) sau đây:

5


Thu mẫu nước biển

Lọc qua phin lọc 0,45 µm

Axit hóa với HNO3 0,1M

Bảo quản ở 20C

Điều chỉnh pH tới 5,5

Chiết

Chiết ngược
với HNO3 0,1M
6


1+2

3+4

HNO3 3M


Lọc gạn

Bay hơi cho đến
khô

1 Cho mẫu lên cột
2 Rửa với 10 ml HNO3 3M
3 Rửa với 5 ml HCl 9M
4 Rửa với 20 ml HCl 5 M + oxalic 0,05 M
5 Rửa với 10 ml HCl 1M 5
Rửa các đồng vị của urani

+ 0,1 ml Ce3+
+ 1 ml TiCl3
+ 1ml HF

Hòa tan trong HCl
+ H2O2, pH = 1,
axit acorbic

Kết tủa CeF3

Lắng đọng các nhân
phóng xạ 208Po,
209
Po và 210Po

Lọc 238U, 235U và
234
U


Đo hoạt độ alpha

Đo hoạt độ alpha

Hình 1. Sơ đồ tách và làm giàu urani do phân tích (a) NAA và (b) phổ kế alpha
Làm giàu urani từ nước biển bằng phương pháp hấp phụ trên các loại khoáng sét nhân
tạo và có nguồn gốc tự nhiên cho mục đích phân tích hàm lượng urani rất ít được
nghiên cứu. Lý do là các vật liệu hấp phụ phải là vật liệu siêu sạch, không chứa lượng
7


vết urani. Tuy nhiên, các loại khoáng sét được sử dụng để hấp phụ urani cho mục đích
loại bỏ urani từ các nguồn nước bị ô nhiễm urani hoặc xử lý nước thải hạt nhân. Ví dụ,
Khalili và cộng sự [17] đã hấp phụ U(VI) bằng bentonite sau khi tinh chế để loại bỏ
quartz. Bachmaf và cộng sự [18] báo cáo khả năng hấp phụ U(VI) bằng các khoáng
sét kaolinite, montmorillonite và bentonite tự nhiên. Sự hấp phụ U(VI) của các
khoáng sét này phụ thuộc vào pH và dung dịch điện ly NaCl.
Các loại hợp chất tương tự khoáng sét được tổng hợp trong phòng thí nghiệm có
nhiều ưu điểm hơn so với khoáng sét trong tự nhiên về độ sạch và dung lượng hấp
phụ. Hydrotalcite là một ví dụ, Lần đầu tiên Peterson [19] đã sử dụng kỹ thuật nhiễu
xạ tia X để đưa ra bằng chứng về khả năng trao đổi các ion kim loại chuyển tiếp trong
khoáng sét anion hydrotalcite. Hydrotalcite cũng được tổng hợp trong phòng thí
nghiệm và thành phần của hydrotalcite thu được tương tự như thành phần của
hydrotalcite trong tự nhiên (hình 2 và hình 3). Thí nghiệm về sự trao đổi các cation của
kim loại chuyển tiếp với hydrotalcite tổng hợp đã được tiến hành trong điều kiện cân
bằng ở nhiệt độ phòng và sử dụng các dung dịch riêng biệt của muối CuCl2, ZnCl2
[20,21]và nhiệt hóa hydrotalcite ở các khoảng nhiệt độ khác nhau để đạt được khả
năng hấp phụ cation kim loại cũng đã được nghiên cứu. Ở nhiệt độ 500 0C,
hydrotalcite có khả năng trao đổi rất mạnh với các caiton kim loại hóa trị 2. Khi tăng

cao nhiệt độ đến 800 0C, dung tích trao đổi với các cation kim loại vẫn không thay đổi
và ngược lại hydrotalcite có thể trao đổi với một số ion kim loại đa hóa trị [22]. Do
khả năng bền vững về sự trao đổi ở nhiệt độ cao với các kim loại hóa trị cao,
hydrotalcite đang được nghiên cứu và ứng dụng để làm vật liệu hấp phụ tạp chất trong
nước làm nguội các nhà máy điện hạt nhân, làm sạch kim loại nặng trong nước khoáng
tinh khiết.
Đặc tính hấp thụ cation kim loại, anion, polymer anion và các hợp chất hữu cơ của
hydrotalcite và khả năng tái tạo cho thấy rằng vật liệu này có một tiềm năng rất lớn
trong xử lý môi trường đặc biệt là xử lý các nguồn nước bị ô nhiễm. Hấp phụ ion
U(VI) bằng hydrotalcite đã được trình bày bởi Maki [23]. Tác giả đã tìm ra khả năng
hấp phụ của kết tủa khi cho dung dịch NaOH vào hỗn hợp MgSO4 và Al2(SO4)3 với tỷ
lệ molar từ 2-4 hoặc vào hỗn hợp dung dịch ZnSO4 và Al2(SO4)3 với tỷ lệ molar của
Zn/Al bằng 2, có thể hấp phụ U(VI) dưới dạng ion phức [UO2(CO3)4- trong môi trường
dung dịch carbonate. Tác giả cũng tìm được cấu trúc lý tưởng để hấp phụ ion urani khi
tỷ lệ Zn/Al bằng 2 và hỗn hợp Zn-Al bằng 2, hydrotalcite tổng hợp được có công thức
[Mg4Al8(OH)12]2+[SO4.3H2O]2-. Kết quả nghiên cứu cho thấy, hydrotalcite tổng hợp
qua con đường kết tủa có dung lượng hấp phụ đối với urani, 10 ppm U(VI)/ 1g
hydrotalcite sau hai giờ tiếp xúc.
Timoshenko và cộng sự [24]đã nghiên cứu cấu trúc của hydrotalcite sau khi điều chế
bằng phương pháp kết tủa và phân hủy nhiệt. Kết quả nghiên cứu thu được cho thấy
sản phẩm có tính hấp phụ chọn lọc đối với ion U(VI) và tất cả các phối tử đặc trưng
8


cho các nguồn nước tự nhiên thực tế là không ảnh hưởng đến sự hấp phụ urani.
Pshinko và cộng sự [25] đã tổng hợp hydrotalcite có công thức
{[Zn4Al2(OH)12]CO3.nH2O} và dạng (Zn4Al2O7 xử lý nhiệt. EDTA được cố định bên
trong tinh thể của HT đã làm tăng đáng kể dung lượng hấp phụ đối với ion urani. Ảnh
hưởng của EDTA đến khả năng hấp phụ urani của hydrotalcite cũng đã được các tác
giả trong công trình [25] nghiên cứu. chứng minh rằng sự có mặt của EDTA trong các

lớp cấu trúc của EDTA làm tăng đáng kể khả năng hấp phụ U(VI) của vật liệu và
không bị ảnh hưởng bởi hydrocarbonate ở pH 8. Các tác giả cho rằng hydrotalcite
,[Zn4Al2(OH)]EDTA.nH2O là vật liệu rẻ tiền nhưng có hiệu quả để loại bỏ urani ra
khỏi nguồn nước bị ô nhiễm.

Hình 2: Hydrotalcite

Hình 3:Cấu trúc của hydrotalcite có nguồn gốc tự nhiên
9


Li và cộng sự [26] đã điều chế Ca-Al hydrotacite (Ca-AlLDHs) với sự trợ giúp của
sóng siêu âm nhằm cải thiện sự đồng đều của tinh thể hydrotacite. Các tác giả đã
nghiên cứu khả năng hấp phụ của vật liệu điều chế được đối với ion urani (U(VI)) có
dung tích hấp phụ là 54,79 mg/g và không bị ảnh hưởng bởi các anion chloride và
nitrate.
I.3.Kết tủa và đồng kết tủa

Hai phương pháp cổ điển nhất để tách và làm sạch các ion trong hóa học phân tích hóa
phóng xạ là kết tủa và đồng kết tủa. Kết tủa được sử dụng để tách hoặc thu nhân phóng
xạ từ hỗn hợp các ion khác bằng cách tạo thành hợp chất không tan [27].
Các nhân phóng xạ hoặc là tự kết tủa từ dung dịch của nó hoặc các ion lạ được kết
tủa và tách khỏi các nhân phóng xạ trong dung dịch. Đôi khi các nhân phóng xạ có mặt
trong dung dịch ở nồng độ dưới micro gam tức là nồng độ nhỏ đến mức nhân phóng xạ
không thể tạo thành hợp chất không tan. Trong trường hợp này, nhân phóng xạ có thể
được tách ra bằng cách đồng kết tủa, kết hợp với chất không tan kết tủa từ dung dịch.
Để lựa chọn các điều kiện tốt nhất cho đồng kết tủa chọn lọc ion, Một số quá trình cần
phải được xem xét.Quá trình thứ nhất là sự tự kết tủa và kỹ thuật thích hợp sử dụng để
làm hạn chế sự kết hợp các chất bẩn.Quá trình thứ hai là cơ chế đồng kết tủa và các
yếu tố kiểm soát kết hợp với nhau. Mặt khác, độ tan và tích số tan của kết tủa phải

luôn được xem là yếu tố có tính quyết định cho kết tủa. mặc dù sự phân biệt giữa hai
quá trình là không rõ ràng nhưng có thể cụ thể thành những điểm chính như sau: (1)
xâm nhập, nghĩa là lấy một ion từ dung dịch có cùng kích thước và điện tích vào chất
rắn tạo thành kết tủa để tạo thành một tinh thể hỗn hợp hoặc một dung dịch rắn; (2)
hấp phụ bề mặt và (3) sự hút giữ .
Xâm nhập. Nếu như đồng kết tủa được hoàn thành từ dung dịch đồng thể cho phép tinh
thể tạo thành chậm thì sự xâm nhập đóng góp vào quá trình đồng kết tủa. Ở điều kiện
này luật phân bố logarite được áp dụng, nó biểu diễn phương pháp đồng kết tủa hiệu
quả nhất liên quan đến các tinh thể hỗn hợp:
log(Ii/If) = log(Pi/Pf)

(1)

Trong đó Ii là nồng độ chất bẩn trong dung dịch khi bắt đầu kết tủa và If là nồng độ
tại thời điểm kết thúc. P biểu diễn nồng độ tương ứng của ion ban đầu trong dung dịch.
là hệ số phân bố logarit và là hằng số. Giá trị  lớn phản ánh sự loại bỏ ion lạ bởi sự
xâm nhập trong quá trình đồng kết tủa. Giá trị lambda càng lớn, quá trình đối với ion
riêng biệt càng chọn lọc và hiệu quả. Ngoài ra, lambda tỷ lệ nghịch với tốc độ kết tủa.
Kết tủa chậm được hoàn tất bởi kết tủa đồng thể dẫn đến giá tị lambda lớn hơn và
đồng kết tủa hiêu quả hơn. Ví dụ Actinit (Ac) được tách chọn lọc từ dung dịch chứa
10


sắt (Fe) và nhôm (Al) thông qua kết tủa oxalate chậm được kiểm soát bời sự thủy phân
của dimethyl oxalate.
Nói chung,  giảm khi nhiệt độ tăng; như vậy, đồng kết tủa bởi xâm nhập là thích
hợp ở nhiệt độ thấp.
Ninh kết tủa ở nhiệt độ cao trong một thời gian kéo dài là một quá trình thúc đẩy sự
tái tạo tinh thể và tinh thể tinh khiết hơn và nó sẽ gây ra các tinh thể trộn lẫn bằng cơ
chế thay thế (phân bố đồng thể) . Định luật phân bố cân bằng được biểu diễn như sau:

(I/P)ppt = D(I/P)soln

(2)

D là hệ số phân bố đồng thể.Giá trị của D lớn hơn 1 phản ánh sự loại bỏ ion lạ bởi xâm
nhập trong thời gian đồng kết tủa.
Sự phân bố đồng thể thu được dễ dàng ở nhiệt độ bình thường bằng cách kết tinh
nhanh từ dung dịch quá bão hàa với điều kiện khuấy mạnh. Ở các điều kiện như vậy,
kết tủa ban đầu được tạo thành là những tinh thể mịn bị phân chia, sự tái tạo lại tinh
thể của các tinh thể nhỏ xảy ra rất nhanh chóng và lặp lại trong thời gian dài giữa dung
dịch và kết tủa cho đến khi cân bằng giữa hai pha đạt được, tại đó sự phát triển của
tinh thể từ dung dịch có thành phần ổn định.
Hấp phụ bề mặt.Trong thời gian hấp phụ bề mặt, các ion bị hấp phụ từ dung dịch lên
bề mặt của các hạt kết tủa.Bề mặt của kết tủa rất hoạt động. Các ion ở bề mặt của tinh
thể (không giống như các ion ở bên trong tinh thể) không kết hợp hoàn toàn, do vậy
chúng tự do hấp dẫn các ion khác có điện tích trái dấu từ dung dịch.
Hấp phụ liên quan đến lớp hấp phụ thứ cấp, lớp này có lực giữ rất mạnh và lớp ion
tương tự có lực giữ lỏng lẻo hơn.Kết tủa của các ion thông thường là những kết tủa
hấp phụ bề mặt rất mạnh để tiếp tục phát triển tinh thể. Ví dụ, trong quá trình kết tủa
BaSO4, ion Ba2+ và ion SO42- là những ion hấp phụ sơ cấp. Nếu như chỉ có một trong
số những ion này giữ lại trong dung dịch thì ion lạ khác có điện tích trái dấu bị hấp
phụ để duy trì sự trung hòa điện tích. Khi BaSO4 được kết tủa từ dung dịch chứa lượng
dư ion Ba2+, ví dụ, ion lạ là Cl-, nếu có mặt bị hấp phụ sau khi ion SO42- thiếu hụt trong
quá trình kết tủa. Các ion lạ có cùng điện tích, như là Na+, bị đầy khỏi bề mặt.Hấp phụ
bề mặt có thể được kiểm soát bằng cách kiểm soát nồng độ của các ion trong thời gian
kết tủa hoặc bằng cách thêm các ion để sửa đổi nồng độ. Ví dụ, kết tủa AgCl trong
lượng dư Ag+ sẽ đẩy ion Pb2+, nhưng trong dung dịch chứa lượng tương đương Cl- và
Ag+, xấp xỉ 2% 212Pb bị hấp phụ. Ngược lại, khoảng 86% 212Pb bị hấp phụ nếu như
dung dịch iodine được thêm vào để kết tủa AgI.
Vì hấp phụ là hiện tượng bề mặt, diện tích bề mặt của kết tủa càng lớn, sự hấp phụ các

tạp chất càng lớn.Vì thế, các tinh thể keo có sự hấp phụ cao trên bề mặt.Khi các hạt
keo đông tụ bởi sự có mặt chất điện lý, chất điện ly có thể bị hấp phụ như là tạp
11


chất.Để hạn chế điều này có thể làm già hóa kết tủa, sự phát triển thành những tinh thể
lớn sẽ làm giảm diện tích bề mặt. Ngoài ra các tạp chất không bay hơi có thể được
thay thế trên bề mặt bằng cách rửa kết tủa keo với axit loãng hoặc bằng dung dịch
muối của amoni.
Khuynh hướng để các ion hấp phụ lên bề mặt phụ thuộc vào nhiều yếu tố như điện
tích và kích thước ion. Các ion có kích thước và điện tích lớn biểu hiện đặc tính hấp
phụ cao; điện tích ion cao làm tăng lực hấp dẫn tĩnh điện với bề mặt và ion với bán
kính lớn ít bị hydrat bởi dung dịch và không bị hấp dẫn tới pha lỏng.
Hấp phụ cũng phụ thuộc vào nồng độ của các ion trong dung dịch. Nồng độ cao của
tạp chất làm tăng sác xuất sự tương tác của chất tan ở bề mặt chất rắn. Nói chung,
phần trăm hấp phụ ở nồng độ thấp phải lớn ở nồng độ thấp so với nồng độ cao. Ở nồng
độ rất cao của tạp chất, hấp phụ đạt được giá trị cực đại, hay nói một cách khác, hấp
phụ đã đạt đến bão hòa.
Hút giữ. Hút giữ tạp chất bên trong kết tủa là nguyên nhân khi các tạp chất bị bẫy một
cách cơ học bởi các lớp liên tiếp của tinh thể. Vì lý do đó, các tạp chất bị hút giữ
không thể loại bỏ một cách vật lý bằng rửa. Sự hút giữ thích hợp cho kết tủa dạng keo
hơn là các tinh thể lớn vì diện tích bề mặt của các hạt keo lớn hơn.Các hydroxit và
sulfit mới được điều chế thường chứa các tạp chất nhưng các tạp chất sẽ được giải
phóng sau khi kết tủa được làm già.
Cơ chế bẫy cơ học xảy ra một cách đặc trưng khi tác nhân kết tủa thêm trực tiếp vào
dung dịch. Vì nồng độ cao của chất kết tủa tại một ví trí nào đó trong dung dịch, tạp
chất bị kết tủa và bị hút giữ bằng sự kết tủa tiếp theo của chất ban đầu. Tốc độ của quá
trình kết tủa cũng ảnh hưởng đến quy mô hút giữ.Sự hút giữ có thể giảm xuống bởi sự
kết tủa đồng thể.Đồng kết tủa Sr bằng BaSO4 là một ví dụ, được thực hiện kết tủa đồng
thể của sulfat bằng cách thủy phân dimethylsulfat (CH3)2SO4.Ninh cũng làm giảm các

phần tử bám hút khi chất rắn tái tạo lại tinh thể.Ngoài ra, làm giảm tốc độ kết tinh
bằng cách kết tủa ở nhiệt độ thấp và giảm số nhân tạo thành kết tủa ban đầu.
Đồng kết tủa là một phương pháp làm giàu các đồng vị phóng xạ của urani trong các
nguồn nước để phân tích được ứng dụng nhiều nhất trong lĩnh vực hóa học hạt nhân [
]. Ngoài ra, đồng kết tủa còn sử dụng để chuyển trạng thái của một đồng vị phóng xạ
nào đó trong pha lỏng thành pha rắn để cho thuận tiện trong quá trình phân tích. Bảng
2 dưới đây đưa ra một số tác nhân kết tủa đã được sử dụng để làm giàu urani.
Bảng 2: Các tác nhân để đồng kết tủa nhân phóng xạ của urani
Nhân phóng xạ

Mức oxy hóa

Đồng kết tủa

Chất mang

U

+4

Cupferron,

U(IV)

12

Ghi chú


pyrophosphste,

iodate, sulfate,
oxalate
Fluoride

La3+, Nd3+

(V)

Phosphate

Zr3+

(VI)

Cupferron

U(VI)

Phisphate

U(VI), Al3+

Peroxide

U(VI)

Th4+, Zr3+ cũng
kết tủa

Hydroxit


Fe3+

Không có
carbonate

Fluoride

Th4+

Dung dịch
trung tính

I.2.Phân tích234U và 238U bằng phổ kế alpha

Phân tích các đồng vị của các nguyên tố phát hạt alpha nói chung và của urani nói
riêng hết sức phức tạp. Công việc phân tích phải qua rất nhiều giai đoạn làm giàu và
tách nguyên tố cần phân tích ở điều kiện tinh khiết hạt nhân. Do quãng chạy của hạt
alpha rất ngắn trong không khí nên phải đo trong điều kiện chân không. Do tính chất
phức tạp như vậy nên giá thành phân tích các đồng vị phóng xạ bằng phổ kế alpha rất
đắt tiền.
Sơ đồ phổ kế alpha (hình 4) là một phương pháp rất nhạy, đặc thù của hạt nhân để xác
định và nhận diện các đồng vị phát alpha ở mức hoạt độ thấp (MDA = 0,5 mBq). Mặc
dù phương pháp alpha là một phương pháp tiêu tốn nhiều thời gian cho các quá trình
làm giàu và phân tách, các nhân phóng xạ có thể đo trực tiếp.

13


Hình 4: Sơ đồ về hệ thống phổ kế alpha

Phổ alpha được đo với detector PIPS (Passivated Planar Silicon ) Diện tích hiệu dụng
của detector điển hình là 300 mm2 và độ phân giải các hạt alpha khoảng bằng 20 keV
(FWHM). Để nhận diện các đồng vị phát hạt alpha người ta thường sử dụng các đồng
vị sau đưa ra trong bảng 3 sau đây để hiệu chỉnh.
Bảng 3: Các nhân phóng xạ sử dụng để chuẩn hệ phổ kế alpha

Hạt nhân

Năng lượng
alpha
[MeV]

Pu-239

5.16

Am-241

5.49

Cm-244

5.81

Nồng độ phóng xạ của chất phân tích và sự không chắc chắn tiêu chuẩn kết hợp được
tính bằng phương trình sau đây [28]:

𝐴𝐶 =

𝐴𝑡 × 𝑅𝑎 × 𝐷𝑡 × 𝐼𝑡


(3)

𝑉𝑎 × 𝑅𝑡 × 𝐷𝑎 × 𝐼𝑎


𝑢𝑐 (𝐴𝐶𝑎 ) = √𝑢2 (𝑅𝑎 ) ×

𝐴2𝑡 × 𝐷𝑡2 × 𝐼𝑡2

2
2 + 𝐴𝐶𝑎 × (

𝑉𝑎2 × 𝑅𝑡2 × 𝐷𝑎2 × 𝐼𝑎

𝑢 2 (𝐴𝑡 )
𝐴2𝑡

+

𝑢 2 (𝑉𝑎 )
𝑉𝑎2

+

𝑢 2 (𝑅𝑡 )
𝑅𝑡2

)


(4)
Trong đó
ACa – Nồng độ hoạt độ của chất phân tích ở thời gian đếm )pCi/l)
At – Hoạt độ của vết thêm vào mẫu ở một thời gian nào đó (pCi)
Ra Tốc độ đếm thực của chất phân tích trong vùng xác định quan tâm (ROI), theo số
đếm /giây
14


Rt – Tốc độ đếm thực của vết trong ROI xác định, theo số đếm/giây
Va – Thể tích của mẫu (l)
Dt – Hệ số hiệu chỉnh đối với phân rã của vết từ ngày và giờ thêm vào tới điểm giữa
thời gian đếm.
Da – Hệ số hiệu chỉnh của chất phân tích từ thời gian thu mẫu cho tới giữa thời gian
đếm
It – Xác xuất phát alpha trong ROI xác định, mỗi phân rã của vết
Ia – Xác xuất phát alpha trong ROI xác định, mỗi phân rã của chất phân tích
uc(ACa) – Sự không chắc chắn tiêu chuẩn kết hợp của nồng độ phóng xạ của chất phân
tích (pCi/l)
u(At) – Sự không chắc chắn tiêu chuẩn của hoạt độ vết thêm vào mẫu (pCi)
u(Va) – Không chắc tiêu chuẩn của thể tích của mẫu (l)
u(Ra) – Không chắc chắn của tốc độ đếm thực của chất phân tích, số đếm/giây
u(Rt) – Không chắc chắn của tốc độ đếm thực của vết, số đếm /giây
Tốc độ đếm thực của chất phân tích và vết (tracer) và sự không chắc chắn chuẩn kết
hợp được tính bằng phương trình sau:
𝑅𝑥 =

𝐶𝑥
𝑡𝑠




𝐶𝑏𝑥

(5)

𝑡𝑏


𝑢(𝑅𝑥 ) = √

𝐶𝑥 +1
𝑡𝑠2

+

𝐶𝑏𝑥 +1

(6)

𝑡𝑏2

Trong đó
u(Rx) – Không chắc chắn chuẩn của tốc độ đếm thực của vết hoặc chất phân tích, số
đếm / giây
Rx – Tốc độ đếm thực của chất phân tích hoặc vết, số đếm/giây
Cx – Số đếm của mẫu trong đỉnh của phân tích hoặc của vết
ts – Thời gian đếm mẫu (s)
15



Cbx – Số đếm của phông trong vùng quan tâm (ROI)
tb – Thời gian đếm của phông (s)
Hiệu suất hóa phóng xạ và sự không chắc chắn chuẩn có thể xác định cho mỗi mẫu,
khi cần thiết bằng các phương trình sau đây:
𝑅Y =

Rt

(7)

0,037 × At × Dt × It × ε2


𝑢(𝑅𝑌) = 𝑅𝑌 × √

𝑢2 (𝑅𝑡 )
𝑅𝑡2

𝑢 2 (𝐴𝑡 )

+

𝐴2𝑡

+

𝑢 2 (𝜀)

(8)


𝜀2

Trong đó
RY – Hiệu suất hóa phóng xạ của vết, được biểu diễn là một phân số
Rt – Tốc độ đếm thực, số đếm/s
At – Hoạt độ của vết thêm vào mẫu (PCi)
Dt – Hệ số hiệu chỉnh cho phân rã
It – Xác suất phát alpha trong ROI xác định /mỗi phân rã của vết
 - Hiệu suất detector
uc(RY) không chắc chắn chuẩn kết hợp của hiệu suất hóa phóng xạ
u(Rt) – Không chắc chắn chuẩn của tốc độ đếm thực của vết (số đếm/giây)
u(At) – Không chắc chắn chuẩn của hoạt độ phóng xạ của vết thêm vào mẫu (pCi)
u() – Không chắc chắn của hiệu suất detector
Nếu nồng độ mức tới hạn (Sc) hoặc nồng độ có thể phát hiện nhỏ nhất (MDC) đòi hỏi
(ở sai số 5%), nó có thể được tính theo phương trình sau đây:

𝑡

𝑆𝑐 =

𝑡

𝑡

𝑡

[0,4 ×(𝑡 𝑠 −1)+0,677 × (1+𝑡 𝑠 )+1,645 ×√(𝑅𝑏𝑎 𝑡𝑏 +0,4)×𝑡 𝑠 ×(1+𝑡 𝑠 )] ×𝐴𝑡 ×𝐷𝑡 ×𝐼𝑡
𝑏


𝑏

𝑏

𝑏

𝑡𝑠 × 𝑉𝑎 × 𝑅𝑡 ×𝐷𝑎 ×𝐼𝑎

(9)
𝑡

𝑀𝐷𝐶 =

𝑡

[2,71×(1+𝑡 𝑠 )+3,29×√𝑅𝑏𝑎 𝑡𝑠 ×(1+𝑡 𝑠 )] ×𝐴𝑡 ×𝐷𝑡 ×𝐼𝑡
𝑏

𝑏

𝑡𝑠 ×𝑉𝑎 ×𝑅𝑡 ×𝐷𝑎 ×𝐼𝑎

16

(10)


Trong đó
Rba – Tốc độ đếm của phông đối với chất phân tích trong ROI xác định, số đếm/giây
I.3.Tính cấp thiết và mục tiêu của đề tài


Việc phân tích urani và các đồng vị phóng xạ của urani trong nước biển là một nhiệm
vụ quan trọng của các nhà phân tích. Những số liệu chính xác về sự phân bố của các
đồng vị của urani sẽ góp phần quan trọng trong việc đánh giá sự biến đổi địa chất, sự
thay đổi của môi trường biển do tác động của khí hậu trái đất. Tuy nhiên, các quy trình
phân tích urani và các nhân phóng xạ của nó hết sức phức tạp và mất nhiều thời gian.
Do vậy cần phải nghiên cứu một quy trình thích hợp cho quá trình phân tích urani
trong nước biển với độ chính xác và giá thành chấp nhận được.
Có nhiều giải pháp để làm giàu ion urani từ trong nước biển đã được đề cập ở phần
trên, trong đó chủ yếu là phương pháp trao đổi ion, đồng kết tủa hoặc chiết lỏng-lỏng,
chiết lỏng-rắn. Vì urani tồn tại trong mối trường nước biển ở dạng các ion phức nên
các hợp chất trao đổi ion phải có tính chọn lọc cao đối với urani. Gần đây quá trình
hấp phụ đang được sử dụng có thể thay thế cho nhựa trao đổi ion đắt tiền. Các chất hấp
phụ cho ion urani được tìm thấy trong một phổ khá rộng, từ các hợp chất vô cơ đến các
hợp chất hữu cơ và từ nguồn sinh khối trong tự nhiên.
Hydrotalcite (HT) là một loại khoáng sét có khả năng hấp phụ các ion kim loại và
các hợp chất hữu cơ nhờ có cấu trúc lớp chứa các anion. Giới hạn giữa các lớp là các
tấm oxit kim loại. Hydrotalcite được xem là chất hấp phụ đầy tiềm năng để xử lý môi
trường, các nguồn nước bị ô nhiễm kim loại nặng. Trong đề tài này, chúng tôi đã sử
hydrotalcite Al-Mg carbonat để làm giàu urani từ nước biển cho phân tích các đồng vị
234
U và 238U.Kết quả nghiên cứu sẽ giải quyết được tính cấp thiết và nhu cầu phân tích
các nhân phóng xạ của urani trong môi trường biển.
I.4.Cách tiếp cận trong nghiên cứu đề tài

 Tổng quan tài liệuở trong nước và nước ngoài về những công trình khoa học có
liên quan đến sử dụng hydrotalcite để hấp phụ và làm giàu ion urani trong môi
trường nước tự nhiên và nước biển đã được công bố. Đánh giá một cách tổng
quát những vấn đề cần nghiên cứu và sẽ được giải quyết được những vấn đề cấp
thiết hiện nay về phân tích các nhân phóng xạ của urani trong môi trường biển.

Xử lý những thông tin có được để so sánh tìm ra những phương pháp thích hợp
cho quá trình nghiên cứu.
 Trao đổi thông tin với những chuyên gia trong lĩnh vực hấp phụ và phân tích
bằng phổ kế alpha.
 Nghiên cứu ảnh hưởng của nồng độ muối NaCl đến quá trình hấp phụ của
hydrotalcite.
17


×