Tải bản đầy đủ (.doc) (114 trang)

ĐỀ tài NGHIÊN cứu KHOA học THỰC THI CHÍNH SÁCH PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (712.38 KB, 114 trang )

1

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
KHOA CHÍNH TRỊ HỌC

ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC SINH VIÊN
NĂM HỌC 2015
Đề tài:
THỰC THI CHÍNH SÁCH PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG
TRONG LĨNH VỰC GIÁO DỤC ĐÀO TẠO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Giảng viên hướng dẫn: TS. Lưu Thúy Hồng
Sinh viên thực hiện:

Hứa Huy Hoàng (Chủ nhiệm)
Phùng Thu Hương
Cù Thị Vân
Phan Thị Nga
Nguyễn Thị Hoa

Lớp: Chính sách công K32
`

HÀ NỘI, 10 – 2015


2

MỤC LỤC
THỰC THI CHÍNH SÁCH PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG TRONG
LĨNH VỰC GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO Ở VIỆT NAM............................................45




3

DANH MỤC BẢNG, BIỂU
Bảng 1.1: Chỉ số tham nhũng của Việt Nam từ năm 2001 đến 2005 - Theo
Tổ chức Minh bạch Quốc tế. ....................Error: Reference source not found
Bảng 1.2: Tỷ lệ chi cho giáo dục ở Việt Nam 2000-2005.....Error: Reference
source not found
Bảng 2.1: Bảng khảo sát mức độ truyền tải thông tin phòng, chống tham
nhũng trong các trường đại học, học viện, cao đẳng.. Error: Reference source
not found
Biểu đồ 2.1: Biểu đồ mức độ cảm nhận hiệu quả công tác phòng, chống
tham nhũng hiện nay...............................Error: Reference source not found


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm vừa qua, cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội, tham
nhũng đã xuất hiện và trở thành vấn nạn của các quốc gia. Tham nhũng đang
dần ảnh hưởng tiêu cực tới nền dân chủ và các quy định pháp luật, làm đảo
lộn các giá trị trong đời sống chính trị - xã hội, làm giảm lòng tin của nhân
dân vào nhà nước, là nhân tố chủ yếu cản trở sự phát triển quốc gia. Tính chất
phức tạp và hậu quả tiêu cực của tham nhũng trên thực tế đã được Cựu Tổng
Thư ký Liên hợp quốc - Kofi Annan nhận định: “Tham nhũng là một bệnh
dịch âm ỉ gặm nhấm xã hội trên phạm vi rộng lớn.” (Phát biểu trong phiên
họp toàn thể của Đại Hội đồng Liên hợp quốc thông qua Công ước về chống
tham nhũng ngày 21/10/2003 tại New York.)

Là một quốc gia trong cộng đồng quốc tế lại đang trong quá trình
chuyển đổi kinh tế, Việt Nam đang phải đấu tranh quyết liệt với tình trạng
ngày càng khó kiểm soát của tham nhũng. Tình hình tham nhũng ở Việt Nam
hiện nay là nghiêm trọng, với những biểu hiện vừa tinh vi lại phức tạp. Hàng
loạt vụ án về tham nhũng được phát hiện, điều tra và xử lý như: Vụ án tham
nhũng tại Đơn vị quản lý dự án về Giao thông vận tải (PMU 18) đầu năm
2006, vụ hối lộ quan chức Việt Nam của Công ty Tư vấn Quốc tế Thái Bình
Dương - Nhật Bản năm 2008, Vụ liên quan đến Tổng công ty Công nghiệp
Tàu thủy (Vinashin) gần cuối năm 2010, Vụ liên quan đến Tổng Công ty
Hàng hải Việt Nam (Vinalines) năm 2012 ...
Nếu như trước đây, tham nhũng chủ yếu xảy ra trong các lĩnh vực kinh
tế, thì ngày nay vấn nạn này đã lan sang các lĩnh vực vốn được coi trọng về
đạo lý như lĩnh vực y tế, thực hiện chính sách an sinh xã hội và đặc biệt là
giáo dục. Sự tồn tại của tham nhũng trong ngành giáo dục và đào tạo - vốn là
một lĩnh vực quốc sách của Việt Nam đã và đang trở thành mối quan ngại rất


2

đáng chú ý. Theo một khảo sát tiến hành năm 2012 cho thấy, người dân Việt
Nam nhận thức trong 13 ngành và tổ chức được đưa ra để khảo sát mức độ
tham nhũng thì ngành giáo dục xếp vị trí thứ 6. Hành vi tham nhũng tồn tại ở
tất cả các cấp bậc trong hệ thống giáo dục. Tham nhũng từ các chi phí không
chính thức; từ “các khoản hoa hồng” được trích từ những hợp đồng xuất bản
sách giáo khoa, xây dựng trường, lớp hay việc cung cấp trang thiết bị giảng
dạy; hiện tượng dạy thêm, học thêm tràn lan cũng như việc phụ huynh và học
sinh hối lộ để nhận được điểm tốt, được tuyển sinh vào các trường, lớp theo
nguyện vọng; mua bán bằng cấp, chứng chỉ giả trên thị trường … đã được ghi
nhận trong nhiều nghiên cứu quốc gia và quốc tế.
Nhận thức được tính chất nguy hiểm của tham nhũng trong xã hội nói

chung và trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo nói riêng, Đảng và Nhà nước Việt
Nam luôn coi phòng, chống tham nhũng là trách nhiệm của cả hệ thống chính
trị, là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách, lâu dài xuyên suốt quá trình phát triển
kinh tế - xã hội và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong thời
kỳ đổi mới. Chính vì vậy, Việt Nam không chỉ tham gia Công ước của Liên
Hợp Quốc về phòng chống tham nhũng năm 2003 (có hiệu lực ở Việt Nam từ
ngày 18/9/2009) mà còn luôn tích cực xây dựng, sửa đổi, bổ sung hoàn thiện
thể chế, chính sách phòng, chống tham nhũng.
Đến nay Việt Nam sở hữu một hệ thống quy phạm pháp luật liên quan
đến phòng, chống tham nhũng (nói chung và lĩnh vực giáo dục - đào tạo nói
riêng) được đánh giá là đầy đủ và khá hoàn thiện. Tuy nhiên, vẫn còn các
trường hợp tham nhũng nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng xảy ra trong
giáo dục - đào tạo qua nhiều năm điển hình như: Vụ án tham nhũng tại Sở
Giáo dục và đào tạo An Giang đề nghị khởi tố vụ tham nhũng trên 700 triệu
đồng tại trường Trung học phổ thông Xuân Tô; Vụ Hiệu trưởng trường
Trường Tiểu học Tén Tằn, huyện Mường Lát - Thanh Hoá năm 2008 về lập


3

khống chứng từ để thu tiền bất hợp pháp bỏ túi; Vụ thanh tra, điều tra vào
năm 2014 vừa qua về sai phạm của Ban giám hiệu Trường Trung học cơ sở
Lam Sơn, quận 6, TP. Hồ Chí Minh với tổng số tiền là 1.368 tỷ đồng... gây
thiệt hại, thất thoát hàng nghìn tỷ đồng ngân sách Nhà nước chi tập trung cho
phát triển giáo dục, đào tạo. Hiện tượng này là mẫu thuẫn tồn tại mà các
chuyên gia, nhà nghiên cứu tích cực tìm nguyên nhân nhằm đề xuất giải pháp
để giải quyết.
Nhiều chuyên gia chính sách công đánh giá rằng: có lẽ quá trình triển
khai thực hiện chính sách phòng, chống tham nhũng trong lĩnh vực giáo - đào
tạo của Việt Nam đang có vấn đề vì một chính sách công có hiệu quả, hiệu

lực không chỉ được hoạch định chuẩn xác, đúng đắn mà việc thực thi chính
sách và đánh giá chính sách công đó phải được thực hiện đầy đủ và có trách
nhiệm. Vậy quá trình thực thi chính sách phòng, chống tham nhũng trong lĩnh
vực giáo dục, đào tạo (một chính sách công quan trọng và nhạy cảm) ở Việt
Nam đã thực sự thành công hay còn nhiều hạn chế, liệu những hạn chế đó có
phải là nguyên nhân của tình trạng phát triển chưa có điểm dừng của tham
nhũng ở Việt Nam trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo ngay cả khi đã có chính
sách hợp lý. Nghiên cứu, phân tích và đánh giá thực trạng việc thực thi chính
sách phòng chống tham nhũng của Việt Nam trong lĩnh vực giáo dục và đào
tạo vì thế trở thành một đề tài cần có sự quan tâm sâu sắc của các nhà nghiên
cứu chính sách công; quản lý giáo dục và luật học.
Ngoài ra việc nghiên cứu quá trình thực thi chính sách chính sách
phòng, chống tham nhũng trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo ở Việt Nam cũng
là yêu cầu cần thiết liên quan đến chuyên ngành học Chính sách công. Đây là
công trình phân tích chính sách công thực tiễn đầu tiên của sinh viên chuyên
ngành chính sách công tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền. Thông qua quá
trình phân tích việc thực thi chính sách phòng, chống tham nhũng trong lĩnh


4

vực giáo dục và đào tạo của Việt Nam, nhóm tác giả với tư cách là sinh viên
khóa thứ 2 chuyên ngành Chính sách công trực thuộc Khoa Chính trị học có
cơ hội đươc phân tích tổng hợp các kiến thức thực tiễn, thực hành các kiến
thức lý luận từ các môn học chuyên ngành Chính sách công như Phân tích
chính sách công, Thực thi chính sách công, Tham nhũng chính sách... Đồng
thời, nghiên cứu đề tài này sẽ góp phần phục vụ tích cực cho việc học tập và
hệ thống lại một cách khoa học các kiến thức liên quan đến quá trình đánh giá
giai đoạn thực thi trong chu trình chính sách công.
Xuất phát từ yêu cầu thiết thực đó, nhóm tác giả đã lựa chọn đề tài:

“Thực thi chính sách phòng, chống tham nhũng trong lĩnh vực giáo dục,
đào tạo ở Việt Nam hiện nay” với mong muốn góp phần luận giải nguyên
nhân dẫn đến những hạn chế trong việc thực thi chính sách phòng, chống
tham nhũng trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo đồng thời đề xuất phương
hướng và giải pháp tăng cường hiệu quả thực thi chính sách phòng, chống
tham nhũng trong lĩnh vực cụ thể là giáo dục, đào tạo ở Việt Nam trong thời
gian tới.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Nghiên cứu về tham nhũng hay biện pháp, cách thức phòng, chống
tham nhũng nói chung và của ngành giáo dục, đào tạo nói riêng cũng là một
đề tài được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm, triển khai nghiên cứu cả trong và
ngoài nước quan tâm ở nhiều khía cạch khác nhau, có thể kể đến các công
trình nghiên cứu đã được công bố như:
Tham luận của Bộ Giáo dục và Đào tạo tại đối thoại về phòng, chống
tham nhũng lần thứ 7 với chủ đề “Phòng, chống tham nhũng trong lĩnh vực
giáo dục” diễn ra tại Hà Nội ngày 28/5/2010. Nội dung chính mà tham luận đề
cập đến là thực trạng và giải pháp về công tác Phòng, chống tham nhũng trong
lĩnh vực giáo dục đang được quan tâm, yêu cầu được giải quyết.


5

Đề tài khoa học cấp bộ về Vai trò của xã hội trong phòng, chống tham
nhũng do TS. Nguyễn Quốc Hiệp thực hiện đã đề cập đến một số vấn đề
chung về vai trò của xã hội trong phòng, chống tham nhũng, thực trạng công
tác phòng, chống tham nhũng của các đối tượng liên quan đồng thời tác giả
đưa ra định hướng, giải pháp phát huy vai trò của xã hội trong phòng, chống
tham nhũng.
TS. Nguyễn Quốc Hiệp đồng chủ biên TS. Nguyễn Tuấn Khanh, Tài
liệu bồi dưỡng về phòng, chống tham nhũng: Dành cho giáo viên, giảng viên

các trường Đại học, cao đẳng, trung cấp (Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Sự thật) xuất bản năm 2011 nhằm cung cấp, nâng cao nhận thức, trách nhiệm
và xây dựng thái độ ý thức tự giác cho cán bộ, công chức, học sinh, sinh viên
- lực lượng tự giác, tích cực nhất trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng từ
những kiến thức cơ bản về tham nhũng, quan điểm của Đảng và tư tưởng Hồ
Chí Minh về phòng, chống tham nhũng, các nhóm giải pháp đưa ra thực hiện
ngăn chặn vấn nạn này.
TS. Đinh Văn Minh chủ biên cuốn Tài liệu tham khảo về phòng, chống
tham nhũng, do Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia - Sự thật xuất bản năm 2013
đưa ra những kiến thức, nâng cao hiểu biết và ý thức của toàn xã hội về tác
hại, nguyên nhân của tham nhũng cùng những nỗ lực đối phó với tệ tham
nhũng của Đảng và Nhà nước Việt Nam đồng thời đưa ra kinh nghiệm có
được của một số quốc gia và vùng lãnh thổ về phòng, chống tham nhũng.
Cuốn Sổ tay công tác phòng, chống tham nhũng do Viện Khoa học
Thanh tra thuộc chính phủ biên soạn (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự
thật) năm 2013 cung cấp những kiến thức cơ bản để nhận biết và đấu tranh
với các hành vi tham nhũng; đồng thời, nêu rõ vai trò, tránh nhiệm của các cơ
quan và toàn xã hội cùng giải pháp cho công tác phòng, chống tham nhũng.


6

Ngoài những công trình nghiên cứu trên còn có các công trình nghiên
cứu khác như của Tổ chức Hướng tới Minh bạch đã phối hợp cùng một nhóm
các nhà nghiên cứu độc lập thuộc Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung
ương (CIEM) để nghiên cứu tổng thể về các hình thức, nguyên nhân và tác
động của tham nhũng trong giáo dục trong Báo cáo Tham nhũng toàn cầu
năm 2012: Giáo dục (công bố ngày 1/10/2013). Trong nội dung bản báo cáo
liên quan đến thực trạng tại Việt Nam đã được xây dựng dựa trên những cuộc
phỏng vấn sâu các đối tượng là giáo viên, phụ huynh học sinh và các nhà
quản lý giáo dục tại Hà Nội và các vùng ngoại ô cũng như các kết quả nghiên

cứu, khảo sát khác và thông tin báo chí. Báo cáo dựa trên những nghiên cứu
định tính và định lượng nhằm giúp chúng ta hiểu rõ hơn những động lực của
tham nhũng trong giáo dục và đưa ra những ví dụ về giải pháp thực tiễn.
Hầu hết các công trình đã nghiên cứu một cách chung nhất về tham
nhũng và phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam; thực trạng tham nhũng trong
ngành giáo dục ở nhiều phương diện tiếp cận khác nhau và phụ thuộc vào
mục đích nghiên cứu ban đầu của tác giả. Tuy nhiên, đối với việc nghiên cứu
chính sách phòng, chống tham nhũng của Việt Nam và việc triển khai thực
hiện phù hợp với ngành giáo dục, đào tạo với tư cách là một chính sách công
thì chưa được đề tài nào đề cập đến một cách rõ ràng. Đồng thời, chưa có một
công trình nào nghiên cứu chuyên sâu và phân tích cụ thể thực trạng giai đoạn
thực thi chính sách phòng, chống tham nhũng của ngành giáo dục, đào tạo ở
Việt Nam hiện nay (một giai đoạn quan trọng trong chu trình chính sách
công).
Do vậy, trên cơ sở kế thừa một số tài liệu, công trình nghiên cứu, nhóm
tác giả quyết định nghiên cứu thực trạng việc thực thi chính sách phòng,
chống tham nhũng cụ thể trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo dưới góc độ
chuyên ngành chính sách công ngành chính trị học.


7

3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
3.1. Mục đích
Trên cơ sở phân tích thực trạng thực thi chính sách phòng, chống tham
nhũng trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo ở Việt Nam nhóm tác giả bước đầu có
những kiến nghị về các giải pháp chủ yếu nhằm góp phần thực thi chính sách
phòng, chống tham nhũng của Đảng và Nhà nước trong lĩnh vực giáo dục, đào
tạo một cách hiệu quả.
3.2.


Nhiệm vụ

- Trình bày cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc thực thi chính sách phòng,
chống tham nhũng trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo ở Việt Nam.
- Phân tích thực trạng (thành tựu và hạn chế) quá trình thực thi chính sách
phòng, chống tham nhũng trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo trong thời gian qua.
- Đề xuất những giải pháp nâng cao hơn nữa hiệu quả thực hiện chính sách
phòng, chống tham nhũng trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo của Việt Nam
trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Hoạt động thi hành chính sách công về phòng, chống tham nhũng trong
lĩnh vực giáo dục, đào tạo ở Việt Nam hiện nay.
4.2.

Phạm vi nghiên cứu

- Nội dung nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu chủ yếu xung quanh trong
phạm vi theo căn cứ quy định việc thực thi chính sách phòng, chống tham
nhũng ở Việt Nam và thực hiện cụ thể trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo. Tập
trung trọng tâm ở một số nội dung cơ bản và quan trọng trong thực thi chính
sách phòng, chống tham nhũng trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo hiện nay.
- Thời gian nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu bắt đầu khi Luật phòng,
chống tham nhũng được sửa đổi, bổ sung và chính thức được Quốc hội thông


8

qua, triển khai thực hiện (tại Đại hội khóa XI, kỳ họp thứ 8 ngày 29 tháng 11

năm 2005) cho đến hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
5.1. Cơ sở lý luận
Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
đường lối, chủ trương của Đảng, hệ thống Hiến pháp, pháp luật nhà nước
trong vấn đề phòng, chống tham nhũng ở giai đoạn hiện nay.
5.2.

Phương pháp nghiên cứu

- Phương pháp luận: Chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật
lịch sử.
- Phương pháp nghiên cứu: phương pháp hệ thống, phương pháp thống
kê, phương pháp phân tích logic, phương pháp mô hình hóa, phương pháp
điều tra …
6. Kết cấu của nội dung nghiên cứu
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
đề tài nghiên cứu bao gồm 3 chương và 7 tiết.


9

CHƯƠNG 1
THỰC THI CHÍNH SÁCH PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG
TRONG LĨNH VỰC GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO Ở VIỆT NAM HIỆN
NAY - CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Một số vấn đề lý luận về thực thi chính sách phòng, chống tham
nhũng
1.1.1. Các khái niệm liên quan
1.1.1.1. Khái niệm về chính sách công

Chính sách công là một khái niệm quan trọng gắn với hoạt động chính
trị của nhà nước, được sử dụng cực kỳ rộng rãi trong cuộc sống chính trị xã
hội hiện đại. Theo tiến trình lịch sử những quan điểm về chính sách công
được các nhà khoa học, các chuyên gia đưa ra trên những cách tiếp cận hay
luận giải khác nhau về nó.
Thuật ngữ “chính sách” có bắt nguồn trong tiếng Hy Lạp cổ là Politeria
với nghĩa là “cơ quan nhà nước”, sau đó du nhập vào tiếng Pháp cổ với nghĩa
là quản lý hành chính quốc gia, đến thế kỷ XIV mới xuất hiện trong tiếng
Anh. Thuật ngữ “chính sách” dần được để chỉ phương thức hành động của
một chủ thể hay tổ chức nhất định khẳng định và tổ chức thực hiện nhằm giải
quyết những vấn đề chính sách nảy sinh thuộc phạm vi, thẩm quyền điều hành
của mình. Còn đề cập đến trong tiếng Việt, “chính sách” là từ Hán Việt, trong
đó “chính” nghĩa là trị vì quốc gia, còn “sách” là phương pháp. Như vậy, khái
niệm “chính sách” bản thân nó khi ra đời đã là phạm trù của nhà nước hay
quốc gia [19].
Theo từ điển tiếng Anh (Oxford English Dictionary) “chính sách” là
“một đường lối hành động được thông qua và theo đuổi bởi chính quyền,
đảng, nhà cai trị, chính khách…”.Cùng vấn đề này, một số học giả phương
Tây đưa ra quan điểm của mình như Harold D. Lasswell và A. Kplan cho
rằng: chính sách là những kế hoạch lớn chưa đựng mục tiêu, giá trị và chiến


10

lược”. Với Thomas R. Dye định nghĩa: “Chính sách công là tất cả những gì
Chính phủ quyết định thực hiện hoặc không thực hiện”. David Easton cho
rằng “chính sách bao gồm một chuỗi các quyết định và các hành động mà
trong đó phân phối thực hiện các giá trị” [19].
Nghiên cứu về vấn đề này các nhà học giả Việt Nam cũng đưa ra các
quan điểm khác nhau xuất phát từ góc độ tiếp cận khác nhau. PGS,TS Nguyễn

Hữu Hải đưa ra khái niệm: “Chính sách công là những hành động ứng xử của
Nhà nước với các vấn đề phát sinh trong đời sống cộng đồng, được thể hiện
bằng nhiều hình thức khác nhau, nhằm thúc đẩy xã hội phát triển” [18]. Học
giả Vũ Anh Tuấn cho rằng: “Chính sách công có thể hiểu đơn giản là định
hướng hành động được Nhà nước lựa chọn, phù hợp với đường lối chính trị
để giải quyết những vấn đề chung của xã hội trong một thời kỳ nhất định”
[19]. Đề cập đến trong Từ điển Bách khoa Việt Nam “Chính sách là những
chuẩn tắc cụ thể để thực hiện đường lối, nhiệm vụ. Chính sách được thực hiện
trong một thời gian nhất định trên những lĩnh vực cụ thể nào đó. Bản chất, nội
dung và phương hướng của chính sách tùy thuộc vào tính chất của đường lối
nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa …” [31]
Từ những cách tiếp cận trên cũng như qua quá trình nghiên cứu thì theo
giáo trình Khoa học Chính sách công của Khoa Chính trị học, Học viện Báo
chí và tuyên truyền định nghĩa về chính sách công như sau: “Chính sách công
là tổng thể các chương trình hành động do nhà nước ban hành nhằm giải
quyết những vấn đề chính trị, kinh tế, xã hội... nảy sinh mang tính cộng đồng
theo mục tiêu chung” [20].
Đây cũng là cách tiếp cận nghiên cứu của đề tài khi bàn tới chính sách
công ở Việt Nam nói chung và Chính sách phòng, chống tham nhũng trong
ngành giáo dục và đào tạo hiện nay.
1.1.1.2. Khái niệm thực thi chính sách công


11

Thực thi chính sách công là một bước quan trọng của quy trình chính
sách. Quy trình chính sách được coi là một lý thuyết dùng trong nghiên cứu
chính sách công dựa trên các giai đoạn, các bước thực hiện cụ thể của chính
sách. Quy trình chính sách công được hiểu là những bước đi cơ bản, tất yếu,
bao quát toàn bộ đời sống của một chính sách, kể từ khi nảy sinh ý tưởng

(vấn đề chính sách) tới việc định hình, hoàn chỉnh, thi hành, kiểm nghiệm,
sửa đổi hoặc huỷ bỏ nó…[20]
Có nhiều cách chia các giai đoạn trong quy trình chính sách công, Harold
Laswell năm 1956 đã đưa ra 7 giai đoạn của quy trình chính sách gồm:
1. Intelligent (Nhận biết, thu thập, xử lý thông tin).
2. Promotion (Vận động ủng hộ cho một phương án).
3. Prescription - course of action (Cụ thể hoá phương án được chọn
thành các quy định hành động).
4. Invocation (Quy định rõ thưởng phạt, chế tài của chính sách).
5. Application (Chính sách được thực thi trong thực tế).
6. Termination (Chính sách hết hiệu lực hoặc bị đình chỉ).
7. Appraisal (Đánh giá hiệu lực, hiệu quả của chính sách).
Bên cạnh đó nhà khoa học Gary Brewer năm 1974 lại đưa ra 6 giai đoạn:
1. Invention/ Initiation (Phát hiện sáng kiến chính sách).
2. Estimation (Dự đoán rủi ro, chi phí, lợi ích của các phương án
giải quyết vấn đề chính sách).
3. Selection (Chọn một trong các phương án, trở thành chính sách
công).
4. Implementation (Thực hiện chính sách).
5. Evaluation (Đánh giá chính sách).
6. Termination plethora (Chính sách hết hiệu lực).
Mặc dù các quan điểm về quy trình chính sách có sự khác nhau về chi
tiết, song trên phương diện tổng thể có thể nhận thấy ba giai đoạn chủ yếu
trong quy trình chính sách là [20]:


12

Thứ nhất, giai đoạn hoạch định chính sách là giai đoạn đầu tiên có vị trí
quyết định đối với toàn bộ quy trình chính sách. Giai đoạn hoạch định chính

sách là hệ thống các hoạt động bao gồm nghiên cứu đề xuất do các nhà hoạch
định, các cơ quan, tổ chức đoàn thể được nhà nước ủy quyền tiến hành xây
dựng sau đó trên cơ sở phân tích các phương án tối ưu cơ quan nhà nước có
thẩm quyền sẽ phê chuẩn và ban hành chính sách trên thực tiễn.
Thứ hai, giai đoạn thực thi chính sách là giai đoạn tiếp nối và chịu sự
quy định của giai đoạn hoạch định chính sách. Thực hiện chính sách bao gồm
chuỗi các hành động và biện pháp cụ thể của các cơ quan có liên quan đến
chính sách trong bộ máy nhà nước tổ chức nhằm giải quyết vấn đề chính sách
đặt ra. Trong quá trình đó yêu cầu cần phải huy động các nguồn nhân lực, vật
lực để hoạt động.
Thứ ba, giai đoạn đánh giá chính sách là giai đoạn xem xét, nhận định
về giá trị các kết quả thu được khi thực hiện chính sách công dựa trên những
phương pháp kỹ thuật, các tiêu chí đã được lượng hóa từ ban đầu. Thông qua
hoạt động đánh giá chính sách giúp chủ thể chính sách công có căn cứ để bổ
sung, hoàn thiện, tiếp tục duy trì hay chấm dứt một chính sách cụ thể; là cơ sở để
kết thúc hoặc điều chỉnh chính sách để chính sách được sát hợp với thực tiễn.
Đối với đề tài nghiên cứu này, tập trung nghiên cứu vào giai đoạn thực
thi chính sách là một khâu hợp thành quy trình chính sách công. Sau hoạt
động hoạch định chính sách phòng chống, tham nhũng hoạt động tiếp nối
giúp hiện thực hóa chính sách trong đời sống xã hội chính là thực thi chính
sách. Nhận thấy, các chính sách thực chất là các sảm phẩm của tư duy con
người (ở đây là chủ thể chính sách) bản thân chúng chỉ phát huy tác dụng
thông qua hoạt động thực tiễn của các chủ thể chính sách với các đối tượng
chính sách. Các chính sách được đưa ra là nhằm giải quyết những vấn đề bức
xúc mà đời sống đặt ra và hoạt động thực hiện các chính sách cũng nhằm mục


13

tiêu tạo ra thay đổi theo những yêu cầu xác định ngay từ khi lựa chọn giải

quyết vấn đề chính sách. Từ chính mục đích của chính sách là tạo ra các thay
đổi trên thực tiễn do đó thực hiện hay thực thi tốt là yêu cầu tất yếu cho thành
công của chính sách.
Theo đó, khái niệm thực thi chính sách công trong đề tài được hiểu là:
giai đoạn bao gồm các hoạt động biến các ý đồ chính sách, quyết định chính
sách được thông qua thành những kết quả thực tế thông qua hành động có tổ
chức của cơ quan nhà nước có trách nhiệm hướng tới các mục tiêu cụ thể đã
đề ra [20]. Nghiên cứu về thực thi chính sách công chính là hoạt động nghiên
cứu về các giai đoạn, các mối quan hệ, sự tác động chi phối cũng như kết quả,
hiệu quả trong tổ chức thực hiện, phối hợp, duy trì, bổ sung, điều chỉnh, cũng
như kiểm tra đánh giá quá trình thực thi chính sách trên thực tiễn. Đây cũng
chính là hoạt động chính mà đề tài nghiên cứu tập trung tiến hành.
1.1.1.3. Quan niệm về tham nhũng
Tham nhũng được hiểu một cách thông thường là những hành vi lợi
dụng những điều kiện có lợi sẵn có mà vụ lợi, trục lợi cho mục đích cá nhân.
Do vậy, ngay từ trong xã hội cộng sản nguyên thủy khi bắt đầu xuất hiện hiện
tượng dư thừa của cải từ sản xuất lao động giản đơn khiến xuất hiện hành vi
tư hữu - chiếm của cải sản xuất chung thành của cải riêng bản thân đã bắt đầu
hình thành lòng tham và hành động tham nhũng, đặc biệt khi xã hội có sự
phân chia giai cấp và tổ chức thành nhà nước. Ngày nay, tham nhũng trở
thành một hiện tượng phổ biến ở hầu hết các quốc gia trên thế giới.
Quan niệm về tham nhũng được đưa ra với nhiều quan điểm khác nhau
trên thế giới tùy thuộc vào góc độ tiếp cận cũng như nghiên cứu. Ở phương
Tây, thuật ngữ tham nhũng bắt nguồn từ tiếng La tinh Rumpese với nghĩa là
bẻ gãy, vi phạm hoặc sai lệch [22]. Trong tiếng Anh, tham nhũng được gọi là
Corruption với nghĩa đồi bại, trụy lạc, thối nát, ăn hối lộ... nhằm chỉ các quan


14


chức nhà nước đã vi phạm luân thường, đạo lý xã hội hoặc các luật lệ để tìm
kiếm nguồn lợi cho bản thân, gia đình, bạn bè, đảng phái hay các nhóm người
có liên quan [30]. Trong Công ước Quốc tế về chống tham nhũng của Liên
Hợp quốc cho rằng: tham nhũng là sự lợi dụng quyền lực của nhà nước để
trục lợi cho mục đích cá nhân.
Ở Việt Nam có những quan niệm về tham nhũng như trong Từ điển
tiếng Việt giải thích nghĩa là “lợi dụng quyền hạn để nhũng nhiễu dân và lấy
của” [40]. Ngoài ra cũng có nhiều công trình nghiên cứu khoa học khá cơ bản
và toàn diện về cả lý luận và thực tiễn về tham nhũng và phòng, chống tham
nhũng, nhưng căn cứ theo nghĩa hẹp và là khái niệm được pháp luật Việt Nam
quy định thì “tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi
dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi” [29].
Người có chức vụ, quyền hạn chỉ giới hạn ở những người làm việc
trong các cơ quan, tổ chức, đơn vị thuộc hệ thống chính trị; nói cách khác là ở
các cơ quan, tổ chức, đơn vị có sử dụng ngân sách, vốn, tài sản của Nhà nước.
Việc giới hạn như vậy nhằm tập trung đấu tranh chống những hành vi tham
nhũng ở khu vực xảy ra phổ biến nhất, chống có trọng tâm, trọng điểm, thích
hợp với việc áp dụng các biện pháp phòng, chống tham nhũng như: kê khai tài
sản, công khai, minh bạch trong hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị, xử lý
trách nhiệm của người đứng đầu được giao trách nhiệm thực hiện quyền lực
nhà nước. Đây cũng là định nghĩa mà nhóm đề tài khoa học làm cơ sở, căn cứ
để xác định phạm vi thực hiện đề tài.
1.1.2. Điều kiện và các nhân tố ảnh hưởng đến thực thi chính sách công
1.1.2.1. Điều kiện ảnh hưởng đến thực thi chính sách công
Điều kiện ảnh hưởng đến thực thi chính sách công chính là các yếu tố
cơ bản quy định sự xuất hiện hay tồn tại của hoạt động thực hiện chính sách.
Trong quá trình thực thi chính sách công chính là hoạt động đưa chính sách


15


vào thực tiễn, mà chính bản thân hoạt động này là hoạt động phức tạp cần
thiết có các điều kiện quy định khả năng thực hiện như sau [20]:
- Thứ nhất, về tính rõ ràng và nhất quán của mục tiêu chính sách :
Bởi thực thi chính sách là giai đoạn tiếp nối và chịu sự quy định của giai
đoạn hoạch định chính sách do đó tính đúng đắn và sự phù hợp với thực tế
khách quan trong quá trình hoạch định là điều kiện giúp cho thực thi
chính sách được tiến hành nhanh chóng và ít có sự điều chỉnh. Chính mục
tiêu chính sách được giai đoạn hoạch định xây dựng là yếu tố để các chủ
thể và đối tượng thực hiện xây dựng kế hoạch, phương hướng hoạt động
cho phù hợp. Mục tiêu chính sách cần đáp ứng yêu cầu về tính rõ ràng, cụ
thể, cần phải đo lường được hoặc có thể lượng hóa trên thực tế đáp ứng
tính khả thi trong thực hiện và đặc biệt không được mâu thuẫn với những
mục tiêu của các chính sách khác.
- Thứ hai, phải có đủ các nguồn lực cần thiết: Đây là những yếu tố
tham gia vào quá trình thực hiện chính sách có vai trò đảm bảo cho việc
tạo nên những biến đổi cần thiết của chính sách. Các nguồn lực rất phong
phú và đa dạng về hình thức biểu hiện, bao gồm những tiền đề vật chất và
tinh thần đảm bảo thực hiện chính sách. Có thể thấy các nguồn lực cơ bản
cần thiết cho thực hiện chính sách là: về tổ chức, về nhân lực, về kinh phí
và về vật lực, thông tin.
Về tổ chức đó là những cơ cấu lập ra nhằm thực hiện một số nhiệm vụ
hay chức vụ được hợp thức hóa. Đó có thể là một cơ quan, một bộ, ban,
ngành hay các doanh nghiệp, công ty... thực hiện từ chính vai trò là công cụ
của quản lý, tổ chức giúp cho chính sách được vận hành và thực hiện trên
thực tế.
Về nhân lực là nhân tố con người bao gồm những cá nhân lãnh đạo,
quản lý và các cá nhân chịu trách nhiệm tham gia vận hành, tổ chức thực



16

hiện chính sách. Nhân tố con người là yếu tố quyết định trong quy trình
chính sách nói chung và trong tổ chức thực thi chính sách nói riêng vừa là
người tạo ra công việc để thực hiện vừa là người tổ chức thực hiện nó. Do
vậy, nhân lực thực hiện chính sách luôn cần phải được giao cho các cá
nhân có đủ năng lực, trình độ chuyên môn và phẩm chất đạo đức, hướng tới
lợi ích chung của cộng đồng.
Về kinh phí, đó là tiền đề vật chất đảm bảo cho chính sách được thực
hiện. Để phát huy hiệu quả việc thực hiện chính sách, các tổ chức cần khai
thác triệt để các nguồn đầu tư, nhất là các nguồn kinh phí ngoài ngân sách nhà
nước. Phải quán triệt việc sử dụng nguồn kinh phí đúng mục đích và có hiệu
quả. Việc thực hiện chính sách với hiệu quả cao nhất nhưng chi phí bỏ ra thấp
nhất được xác định là tiêu chí hàng đầu trong các quyết định chính sách.
Về vật lực, thông tin - đây chính là những trang thiết bị vật tư, phương
tiện vất chất kỹ thuật phục vụ cho quá trình tổ chức thực hiện chính sách. Vật
lực, thông tin là phương tiện hỗ trợ cho chủ thể tiến hành thực hiện chính sách
trên thực tế. Một mặt vật tư, thông tin giúp hoạt động thực thi chính sách có
thể vận hành và truyền tải hoạt động, dữ liệu đến đối tượng chính sách, nhưng
đồng thời chính từ sự vận hành, truyền tải dữ liệu đó chủ thể chính sách cũng
tiếp nhận lại những phản hồi ngược lại từ đối tượng chính sách của mình.
- Thứ ba, thời gian thực hiện chính sách: Là điều kiện không thể
thiếu để thực hiện các chính sách. Nó quy định hoạt động tổ chức, thi hành,
vận hành chính sách để có thể thực hiện được các mục tiêu đề ra. Thời gian
thực hiện chính sách cần đảm bảo đủ mức cần thiết cho chính sách được thích
ứng với điều kiện thực tế cũng như quá trình tiến hành vận hành cụ thể.
Nhưng đồng thời, thời hạn thực hiện chính sách cũng không được quá dài
khiến vấn đề chính sách cũng bị biến dạng trong sự vận động và biến đổi của
thực tiễn khách quan.



17

1.1.2.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến thực thi chính sách công
Trong quá trình tổ chức thực hiện chính sách trên thực tế luôn chịu tác
động và ảnh hưởng của các nhân tố có liên quan. Các nhân tố này có thể tạo
ra những biến đổi thúc đẩy hoặc cản trở kết quả thực hiện chính sách. Do đó
để tạo điều kiện cho việc nghiên cứu, phát hiện các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt
động tổ chức thực thi chính sách một cách thuận lợi, cần thiết phải phân loại
các yếu tố tác động một cách thích hợp. Tùy theo mục đích, yêu cầu của
người tổ chức thực thi chính sách mà tiến hành phân loại các yếu tố ảnh
hưởng theo những cách khác nhau.
Nhìn chung, hiện nay các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả thực thi
chính sách công cơ bản có thể được phân chia theo nguyên nhân tác động
thành các nhóm sau đây [21]:
a. Nhân tố khách quan: Là những nhân tố xuất hiện và tác động đến
tổ chức thực thi chính sách từ bên ngoài, độc lập với ý muốn của chủ thể quản
lý. Những nhân tố khách quan chủ yếu bao gồm:
- Tính chất của vấn đề chính sách công: Là yếu tố gắn liền với mỗi
vấn để chính sách, nó tác động trực tiếp đến cách giải quyết vấn đề bằng
chính sách và tổ chức thực thi chính sách. Tính chất của vấn đề chính sách là
sự quy định về đặc tính, đặc điểm riêng của vấn đề chính sách hay chính là sự
quy định về yêu cầu giải quyết vấn đề chính sách. Đây là yếu tố khách quan
có ảnh hưởng trực tiếp đến việc hoạch định chính sách cũng như tổ chức thực
thi chính sách trên thực tế nhằm đáp ứng tính chất quy định của vấn đề chính
sách cần giải quyết.
- Môi trường thực thi chính sách công: Là không gian chứa đựng toàn
bộ các thành phần vật chất và phi vật chất tham gia thực hiện chính sách như
các nhóm lợi ích có được từ chính sách trong xã hội; các điều kiện vật chất kỹ
thuật trong nền kinh tế; bầu không khí chính trị; xã hội trật tự; quan hệ quốc



18

tế rộng mở. Trong điều kiện thực tế nếu các bộ phận cấu thành môi trường
vận động phù hợp với trình độ tổ chức điều hành của các cơ quan nhà nước,
với cơ chế chính sách đang tồn tại sẽ có tác dụng thúc đẩy các hoạt động tổ
chức thực thi chính sách. Ngược lại, nó sẽ kìm hãm, cản trở các hoạt động
này, dẫn đến thực thi chính sách kém hiệu quả. Do vậy khi tổ chức thực hiện
chính sách chủ thể chính sách cần phải có sự chủ động trong xác định môi
trường mà chính sách sẽ tồn tại trong thực tế để có sự điều chỉnh cho phù hợp.
- Mối quan hệ giữa các đối tượng thực thi chính sách công: Chính
sách công khi thực thi tác động đến rất nhiều đối tượng của xã hội. Có những
nhóm xã hội được hưỏng lợi nhiều, ít, có nhóm đối tượng bị tác động tiêu
cực… Chính điều này đã tác động làm cho việc thực thi chính sách công bị ảnh
hưởng. Trong xã hội càng có sự đa dạng và phức tạp về các giai tầng thì càng
làm cho việc thực thi chính sách khó khăn hơn. Mối quan hệ giữa các đối tượng
thực thi chính sách thể hiện sự thống nhất hay không về lợi ích của các đối tượng
trong quá trình thực hiện mục tiêu chính sách. Do vậy, khi hoạch định chính sách
cầu phải tính đến những đối tượng bị chính sách tác động, các đối tượng liên
quan và trong quá trình thực thi chính sách có thể có những nhóm đối tượng mới
này sinh như là hệ quả của chính sách đó. Nhóm đối tượng mới này tác động rất
lớn đến việc thức hiện mục tiêu của chính sách.
- Tiềm lực của các nhóm đối tượng chính sách công: Được hiểu là thực
lực và tiềm năng mà mỗi nhóm có được trong mối quan hệ so sánh với các
nhóm đối tượng khác. Tiềm lực của nhóm lợi ích được thể hiện trên các
phương diện chính trị, kinh tế, xã hội… về cả quy mô và trình độ. Tiềm lực
của nhóm đối tượng do địa vị kinh tế, chính trị, xã hội… quyết định. Chính
địa vị làm đã mang lại những tiềm lực cho họ trong việc tiếp cận, hưởng lợi từ
các chính sách công. Những tiềm lực này có thể tác động gây biến dạng chính



19

sách theo hướng có lợi hoặc bất lợi, theo chiều tích cực hoặc tiêu cực đến hoạt
động thực hiện chính sách.
- Đặc tính của đối tượng chính sách: Là những tính chất đặc trưng mà
các đối tượng có được từ bản tính cố hữu hoặc do môi trường sống tạo nên
qua quá trình vận động mang tính lịch sử. Những đặc tính này thường có liên
quan đến tính tự giác, tính kỷ luật, tính sáng tạo, lòng quyết tâm, tính truyền
thống… Đặc tính gắn liền với mỗi đối tượng thực thi chính sách, nên các chủ
thể tổ chức điều hành cần biết cách khơi gợi hay kiềm chế nó để có được kết
quả tốt nhất cho quá trình tổ chức thực thi chính sách.
b. Nhân tố chủ quan: Là những nhân tố xuất hiện và tác động đến tổ
chức thực thi chính sách từ bản thân bên trong, tuân theo ý muốn của chủ thể.
Trong tổ chức thực thi chính sách thì những nhân tố chủ quan chủ yếu bao gồm:
- Thực hiện đúng, đầy đủ các bước trong quy trình tổ chức thực thi
chính sách công: Quy trình thực thi chính sách được coi là những nguyên lý
khoa học được đúc kết từ thực tiễn cuộc sống. Việc tuân thủ quy trình cũng là
một nguyên tắc hành động của các nhà quản lý. Mỗi bước trong quy trình đều
có ví trí, ý nghĩa to lớn đối với các quy trình thực thi chính sách. Việc tuân thủ
đúng, đầy đủ các bước trong quy trình tổ chức thực thi giúp cho sự vận hành
chính sách trên thực tế sẽ nhanh chóng và dễ dàng cũng như đảm bảo tính
khoa học của hoạt động chính sách.
- Năng lực thực thi chính sách của cán bộ - công chức trong bộ máy
quản lý nhà nước: Là yếu tố chủ quan có vai trò quyết định đến kết quả tổ
chức thực thi chính sách công. Năng lực thực thi của cán bộ - công chức là
thước đo bao gồm nhiều tiêu chí phản ánh về đạo đức công vụ, về năng lực
thiết kế tổ chức, năng lực thực tế, năng lực phân tích, dự báo để có thể chủ
động ứng phó được với những tình huống phát sinh trong tương lai. Các cán

bộ - công chức trong cơ quan công quyền khi được giao nhiệm vụ tổ chức


20

thực thi chính sách, cần nêu cao tinh thần trách nhiệm và chấp hành tốt kỷ
luật công vụ trong lĩnh vực này mới đạt hiệu quả thực thi. Trau dồi năng lực
thực tế để thực hiện tốt hoạt động chính sách, năng lực thực tế quy định việc
đề ra những kế hoạch dự kiên thực hiện, tổ chức hiệu quả nguồn lực huy
động, làm tăng hiệu lực, hiệu quả của chính sách. Năng lực thực tế và đạo đức
công vụ của cán bộ, công chức còn thể hiện ở thủ tục giải quyết những vấn đề
trong quan hệ giữa các cơ quan nhà nước với cá nhân và tổ chức trong xã hội.
Nhìn chung cán bộ, công chức có năng lực thực thi chính sách tốt, không
những chủ động điều phối được các yếu tố chủ quan tác động theo định
hướng, mà còn khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực của các yếu tố khách
quan để công tác tổ chức thực thi chính sách mang lại kết quả thực sự.
- Sự tham gia với vai trò chủ thể của nhân dân: Mục tiêu chính sách
của các quốc gia là làm thay đổi trạng thái kinh tế, xã hội hiện tại theo nhu
cầu của đời sống xã hội. Do đó trong quá trình thực hiện chính sách nhằm đạt
các mục tiêu đã đề ra không thể chỉ do các cơ quan quản lý nhà nước, mà phải
có sự tham gia của mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội. Trên thực tế, các cơ
quan nhà nước chịu trách nhiệm chỉ đạo, điều hành công tác tổ chức thực thi
chính sách, còn các tầng lớp nhân dân là những đối tượng thực hiện chính
sách. Như vậy, nhân dân vừa là người trực tiếp tham gia hiện thực hóa mục
tiêu chính sách, vừa trực tiếp hưởng thụ những lợi ích mang lại từ chính sách.
Để một chính sách đáp ứng được nhu cầu thực tế của xã hội về mục tiêu và
biện pháp thừa hành thì nó sẽ nhanh chóng đi vào thực tế rất cần có sự tham
gia đóng góp, xây dựng của nhân dân.
1.1.3. Công tác tổ chức thực hiện chính sách công
Công tác tổ chức thực thi chính sách là trung tâm kết nối các giai đoạn

chính sách trong quy trình chính sách thành một hệ thống. Trong quá trình
chính sách như đã đề cập ở trên thì giai đoạn thực thi chính sách có vị trí đặc


21

biệt quan trọng đồng thời là giai đoạn hiện thực hóa chính sách vào đời sống.
Do đó thực thi chính sách có ý nghĩa quyết định đối với sự thành công hay
thất bại của một chính sách. Vậy nên khi tiến hành tổ chức thực hiện chính
sách các chủ thể thực thi cũng cần nắm vững và tuân thủ theo quy trình vận
hành riêng của nó để đảm bảo tính khoa học, thích ứng điều kiện thực tiễn.
Đối với chính sách phòng, chống tham nhũng là một loại chính sách cụ
thể của chính sách công ngoài việc chịu tác động của các điều kiện và nhân tố
ảnh hưởng thì nó cũng cần đảm bảo thực hiện công tác tổ chức thực thi chính
sách công chung. Theo đó quy trình trong tổ chức thực hiện chính sách bao
gồm các bước như sau:
1.1.3.1. Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách công
Tổ chức thực thi chính sách công là quá trình phức tạp, diễn ra trong
một thời gian dài, vì thế chúng cần được lập kế hoạch, lên chương trình để
các cơ quan nhà nước khi tham gia thực hiện có thể triển khai thực hiện một
cách chủ động [21]. Chính vì vậy trước khi thực hiện thông qua bộ máy tổ
chức, nhân sự, chính sách trên văn bản sẽ được chủ thể tổ chức thực hiện xây
dựng một cơ cấu định trước về vai trò, sự phối hợp giữa các bộ phận đảm
nhiệm những chức trách nhất định nhằm thực hiện mục tiêu chung. Việc xác
định, xây dựng kế hoạch này đảm bảo cho mục tiêu chính sách sẽ được thực
hiện hóa thông qua những cơ chế, biện pháp đã được lên kế hoạch trước. Đảm
bảo tính thực tế của bộ máy tổ chức cũng như môi trường mà chính sách tồn
tại khi thi hành.
Kế hoạch triển khai thực thi chính sách công bao gồm kế hoạch về tổ
chức, điều hành, phân công phối hợp giữa các bộ phận thực hiện; kế hoạch dự

kiến các nguồn lực; kế hoạch thời gian triển khai thực hiện; kế hoạch kiểm tra
đôn đốc thực thi chính sách công.
1.1.3.2. Phổ biến, tuyên truyền chính sách công


22

Muốn các đối tượng chính sách hay chính bản thân chủ thể thực hiện
chấp hành và điều hành chính sách hiệu quả trước hết họ phải hiểu, phải nhận
thức đúng đắn về chính sách. Do đó việc trước tiên cần làm trong quá trình
này là truyên truyền vận động các đối tượng tham gia thực hiện chính sách.
Đây là một hoạt động quan trọng, có ý nghĩa lớn với cơ quan nhà nước và các
đối tượng thực thi chính sách. Phổ biến, tuyên truyền chính sách tốt giúp cho
các đối tượng chính sách và mọi người dân tham gia thực thi hiểu rõ về mục
đích, yêu cầu của chính sách; về tính đúng đắn của chính sách trong điều kiện
hoàn cảnh nhất định và về tính khả thi của chính sách. Qua đó để họ tự giác
thực hiện theo yêu cầu quản lý của nhà nước. Đồng thời còn giúp cho mỗi cán
bộ, công chức có trách nhiệm tổ chức thực thi nhận thức được đầy đủ tính
chất, trình độ, quy mô của chính sách với đời sống xã hội để chủ động tích
cực tìm kiếm các giải pháp thích hợp cho việc thực hiện mục tiêu chính sách
và triển khai thực thi có hiệu quả kế hoạch tổ chức thực hiện chính sách được
giao [21].
1.1.3.3. Duy trì và điều chỉnh chính sách công
Duy trì chính sách công là làm cho chính sách tồn tại và phát huy hết
tác dụng trong môi trường thực tế. Muốn cho chính sách được duy trì, đòi hỏi
phải có sự nhất trí và quyết tâm cao của các người tổ chức, người thực thi và
môi trường tồn tại.
Đối với các cơ quan nhà nước - người chủ động tổ chức thực thi chính
sách công phải thường xuyên quan tâm tuyên truyền, vận động các đối tượng
chính sách và toàn xã hội tích cực tham gia thực thi chính sách. Nếu việc thực

thi chính sách gặp phải những khó khăn do môi trường thực tế biến động, thì
các cơ quan nhà nước sử dụng hệ thống công cụ quản lý tác động nhằm tạo
lập môi trường thuận lợi cho việc thực thi chính sách. Đồng thời chủ động
điều chỉnh chính sách cho phù hợp với hoàn cảnh mới. Trong một chừng mực


×