Tải bản đầy đủ (.pdf) (75 trang)

Biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 5 6 tuổi thông qua thơ trần đăng khoa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.3 MB, 75 trang )

LỜI CẢM ƠN
Bằng tấm lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc, em xin chân thành cảm ơn Th.s
Khổng Cát Sơn - người đã tận tình hướng dẫn em hoàn thành khóa luận này.
Xin cũng xin gửi lời cảm ơn tới các thầy, cô giáo trong Ban giám hiệu,
phòng Đào tạo, Thư viện, ban chủ nhiệm khoa Tiểu học - Mầm non Trường Đại
học Tây Bắc và các bạn sinh viên K53 ĐHGD Mầm non B đã tạo điều kiện cho
em học tập và nghiên cứu để hoàn thành khóa luận này.
Xin cảm ơn Ban giám hiệu cùng tất cả các cô giáo và các cháu Mẫu giáo (4
- 5 tuổi) thuộc ba trường Mầm non (Trường Mầm non Quyết Thắng - thành phố
Sơn La - Sơn La, Trường Mầm non Hoa Phượng - thành phố Sơn La - Sơn La,
Trường Mầm non Gia Hanh - Can Lộc - Hà Tĩnh) mà em đã tiến hành thực
nghiệm, đã tạo điều kiện giúp đỡ em trong suốt quá trình nghiên cứu đề tài.
Khóa luận chắc chắn còn rất nhiều thiếu sót, hạn chế, em kính mong nhận
được sự quan tâm, góp ý của quý thầy, cô và các bạn để khóa luận của em hoàn
thiện hơn.

Sơn La, tháng 05 năm 2016
Người thực hiện

Nguyễn Thị Thu



MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .................................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ................................................................................ 3
3. Mục đích nghiên cứu ......................................................................................... 6
4. Đối tượng và khách thể nghiên cứu .................................................................. 6
5. Nhiệm vụ nghiên cứu ........................................................................................ 6
6. Phạm vi nghiên cứu ........................................................................................... 7


7. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................... 7
8. Giả thuyết khoa học........................................................................................... 7
9. Cấu trúc của đề tài ............................................................................................. 8
NỘI DUNG ........................................................................................................... 9
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN
CỨU ...................................................................................................................... 9
1.1. Cơ sở lý luận .................................................................................................. 9
1.1.1. Cơ sở tâm lí học .......................................................................................... 9
1.1.2. Cơ sở ngôn ngữ học .................................................................................. 13
1.1.3. Trò chơi dân gian với sự phát triển ngôn ngữ của trẻ ............................... 19
1.2. Cơ sở thực tiễn ............................................................................................. 25
1.2.1. Một số trò chơi dân gian thường được sử dụng cho trẻ mẫu giáo nhỡ (4 - 5
tuổi)...................................................................................................................... 25
1.2.2. Khảo sát thực trạng tổ chức các trò chơi dân gian ở trường Mầm non .... 25
Tiểu kết chương 1 ................................................................................................ 31
CHƯƠNG 2: BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ CHO TRẺ 4 - 5
TUỔI THÔNG QUA MỘT SỐ TRÒ CHƠI DÂN GIAN ............................. 32
2.1. Các biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ .................................................. 32
2.1.1. Biện pháp cho trẻ chơi trò chơi dân gian .................................................. 32
2.2. Vận dụng phương pháp giáo dục mầm non mới để tổ chức các trò chơi dân
gian cho trẻ 4 - 5 tuổi ở trường Mầm non. .......................................................... 50


2.2.1. Vận dụng quan điểm phát huy tính tích cực để tổ chức các trò chơi dân
gian ...................................................................................................................... 50
2.2.2. Vận dụng quan điểm tích hợp ................................................................... 51
2.2.3. Vận dụng các phương pháp tổ chức hoạt động ......................................... 52
Tiểu kết chương 2 ................................................................................................ 55
CHƯƠNG 3: THIẾT KẾ THỂ NGHIỆM MỘT SỐ TRÒ CHƠI DÂN
GIAN CHO TRẺ 4 - 5 TUỔI ........................................................................... 56

3.1. Những vấn đề chung .................................................................................... 56
3.1.1. Nghiên cứu một số trò chơi dân gian ........................................................ 56
3.1.2. Thiết kế trò chơi ........................................................................................ 56
3.2. Thiết kế một số trò chơi dân gian ................................................................. 56
3.2.1. Mục đích thiết kế ....................................................................................... 56
3.2.2. Nhiệm vụ thiết kế ...................................................................................... 56
3.2.3. Nội dung của thiết kế ................................................................................ 56
3.2.4. Phương pháp thiết kế ................................................................................. 56
3.2.5. Cấu trúc thiết kế ........................................................................................ 57
3.2.6. Thiết kế thể nghiệm ................................................................................... 57
Tiểu kết chương 3 ................................................................................................ 62
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ .......................................................................... 63
1. KẾT LUẬN ..................................................................................................... 63
2. KIẾN NGHỊ SƯ PHẠM ................................................................................. 63
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................ 65
PHỤ LỤC


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đất nước Việt Nam ta đẹp vô cùng. Dân tộc ta từ ngàn năm xưa đã xây dựng
cho mình một nền văn hóa riêng đậm đà bản sắc dân tộc, trong đó ngôn ngữ
đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống của con người trong sự hình thành và
phát triển của loài người.
Thật vậy, một nhà văn người Pháp có nói rằng: “Ngôn ngữ là chiếc gương để
ta soi mình vào đó”. Ngôn ngữ chính là phương tiện để tư duy, là cơ sở của mọi
sự suy nghĩ. Nó đóng vai trò rất lớn trong việc phát triển trí tuệ và các quá trình
tâm lý khác, chính vì vậy mà trong công tác chăm sóc và giáo dục trẻ mầm non
cần hình thành và phát triển ngôn ngữ.
Đời sống con người ngày càng phong phú và phát triển hơn đó là nhờ có

ngôn ngữ. Con người có thể thông báo, trao đổi, truyền đạt, thông cảm, diễn tả,
trình bày tất cả những thông tin cần thiết cho nhau thông qua ngôn ngữ. Nhờ
ngôn ngữ mà người ta xích lại gần nhau hơn, tâm sự với nhau những nổi niềm
thầm kín,…
Ngôn ngữ tồn tại và phát triển cùng với sự phát triển của xã hội loài người.
Nhờ ngôn ngữ mà con người khác xa so với động vật. Nó có vai trò quan trọng
đối với con người, đối với những kho tàng văn hóa, những tri thức, những kinh
nghiệm lịch sử đều được chứa đựng trong ngôn ngữ. Đặc biệt, đối với trẻ sự
phát triển ngôn ngữ trong những năm tháng đầu đời có vai trò rất quan trọng với
khả năng tư duy, nhận thức và giao tiếp cũng như toàn bộ quá trình phát triển về
sau của trẻ. Không chỉ vậy mà đối với trẻ, ngôn ngữ còn là phương tiện để điều
khiển, điều chỉnh hành vi giúp trẻ lĩnh hội các giá trị đạo đức mang tính chuẩn
mực. Vì vậy, việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ mầm non là rất quan trọng, đặc
biệt ở độ tuổi 4 - 5 tuổi trẻ đang cần được học ngôn ngữ một cách chính xác.
Đây là giai đoạn trẻ rất thích học nói vì luôn mong muốn mình được hòa nhập
vào xã hội của người lớn. Với tần số nói ngày một tăng đáng kể, trẻ sử dụng chủ
yếu là ngôn ngữ nói để làm phương tiện giao tiếp cho mình. Đôi khi cũng chính
vì điều đó mà trẻ dễ mắc phải một số lỗi sai về ngôn ngữ. Đây là thời điểm tốt
1


để rèn luyện phát âm chuẩn và phát triển ngôn ngữ cho trẻ nhằm hoàn thiện hơn
cho trẻ.
Trẻ em với hai từ ngắn ngủi nhưng dường như đã nói lên hết đặc điểm của cả
lứa tuổi này. Đây là giai đoạn mà với chúng chơi là cuộc sống. Chơi là hoạt
động rất tự nhiên trong cuộc sống của con người. Nó đặc biệt quan trọng đối với
sự phát triển của trẻ em. Không chơi, trẻ không phát triển được. Không chơi đứa
trẻ chỉ tồn tại chứ không phải là đang sống. Đó là một thực tế mang tính quy
luật. Trẻ chơi với niềm đam mê, hứng thú của mình, chơi một cách vô tư không
đắn đo, toan tính,… bởi “trẻ em như búp trên cành”.

Ngay từ khi mới chào đời tiếng ru ầu ơ của bà, của mẹ đã dần khắc vào tâm
hồn trẻ, nó thấm dần vào máu thịt nuôi dưỡng những tâm hồn còn non dại ấy.
Có lẽ chính vì điều đó mà trẻ dần nhận thức mối quan hệ được bắt đầu bằng
phương tiện giao tiếp chủ yếu là ngôn ngữ.
Có thể nói rằng những hiểu biết về đặc điểm phát triển ngôn ngữ của trẻ nói
trên là cơ sở lý luận để người viết nghiên cứu những phương pháp, biện pháp
phát triển ngôn ngữ ở trẻ qua hoạt động vui chơi, cụ thể ở đây là những trò chơi
dân gian.
Mặt khác, trẻ em không chỉ cần được chăm sóc sức khỏe, được học tập, mà
quan trọng nhất trẻ cần phải được thỏa mãn nhu cầu vui chơi. Trò chơi và tuổi
thơ là hai người bạn thân thiết, không thể tách ra được. Chính trò chơi đã giúp
cho sự phát triển của trẻ được toàn diện, cân bằng và nhịp nhàng, đó là phương
tiện hiệu quả nhất giúp trẻ phát triển. Xuất phát từ vai trò quan trọng của hoạt
động vui chơi đối với trẻ em và nhu cầu hưởng thụ hoạt động này, chúng tôi
thấy việc tổ chức cho trẻ chơi các trò chơi dân gian là một việc làm cần thiết và
rất có ý nghĩa.
Di sản văn hóa truyền thống Việt Nam có nhiều loại hình khác nhau, trong
đó có thể nói, trò chơi dân gian cũng là một di sản văn hoa quý báu của dân tộc.
Trò chơi dân gian là những trò chơi được sáng tạo, lưu truyền tự nhiên, rộng rãi
từ thế hệ này sang thế hệ khác, mang đậm bản sắc văn hóa dân gian. Nó được
kết thành từ quá trình lao động và sinh hoạt, trong đó nó tích tụ cả trí tuệ và
2


niềm vui sống của bao thế hệ người Việt xưa. Đặc biệt đối với trẻ em, trò chơi
dân gian với những chức năng đặc biệt của nó đã mang lại cho thế giới trẻ thơ
nhiều điều thú vị và bổ ích, đồng thời thể hiện nhu cầu giải trí, vui chơi, quyền
được chia sẻ niềm vui của các em với bạn bè, cộng đồng. Nó làm cho thế giới
xung quanh các em đẹp hơn và rộng mở, tuổi thơ của các em sẽ trở thành những
kỉ niệm quý báu theo suốt cuộc đời; làm giàu nguồn tình cảm và trí tuệ cho các

em. Chính vì vậy, trò chơi dân gian rất cần thiết được lựa chọn, giới thiệu trong
nhà trường tùy theo lứa tuổi của trẻ. Đúng như PGS. TS Nguyễn Văn Huy, giám
đốc Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam cũng đã nói về trò chơi dân gian với trẻ em:
“Trò chơi dân gian nó chứa đựng cả nền văn hóa dân tộc Việt Nam độc đáo và
giàu bản sắc. Những tâm hồn được chắp thêm đôi cánh, giúp trẻ phát triển tư
duy và sáng tạo những cái mới và cho trẻ sự khéo léo. Không chỉ có vậy mà trẻ
còn hiểu thêm về tình bạn, tình yêu gia đình, quê hương đất nước”.
Có thể nói rằng lục tìm trong những kí ức về tuổi thơ của người lớn đầy ăm
ắp những trò chơi trốn tìm, bắn bi, rồng rắn lên mây, nu na nu nống, ô ăn
quan,… nhưng đất nước đang trên đà hội nhập cùng với sự phát triển của công
nghiệp hóa hiện đại hóa, những trò chơi dân gian dần bị mai một và lãng quên,
dần thay thế bởi những trò chơi điện tử, những khoảng đất giờ cũng được thay
vào đó là những nhà máy, những công trình lớn. Đó là sự thiệt thòi lớn với trẻ
khi không được làm quen và chơi với những trò chơi dân gian của thiếu nhi
ngày trước.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Cùng với sự phát triển của nền công nghiệp hiện đại thì có biết bao trò chơi
của trẻ dần được thay thế bằng những cỗ máy hiện đại, công phu, với đầy các
chức năng, màu sắc sặc sỡ,…Chính vì lẽ đó mà trò chơi dân gian ngày dần bị
mai một theo sự phát triển của nền công nghiệp hiện đại, tiên tiến. Việc phát
triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua trò chơi dân gian là một vấn đề hết sức thiết
thực giúp trẻ tăng vốn từ ngữ lên rất nhanh chóng.
Ngôn ngữ có vai trò quan trọng trong cuộc sống của con người. Cho nên
ngôn ngữ là tài sản quý báu của nhân loại. Nó là cả kho tàng trí tuệ của con
3


người. Nó tồn tại phát triển cùng với sự thay đổi và phát triển của con người.
Cũng chính vì lẽ đó mà có biết bao công trình nghiên cứu được tỏa sáng nhờ có
ngôn ngữ. Và ngôn ngữ cũng chính là vấn đề mà có rất nhiều các nhà khoa học

từ các lĩnh vực khác nhau như: Tâm lí học, triết học, xã hội học, ngôn ngữ học,
giáo dục học,…đi sâu, tìm tòi, nghiên cứu và đã đạt được nhiều thành tựu to lớn
đáng kể
Đã có nhiều công trình nghiên cứu về sự phát triển của trẻ, tiêu biểu là công
trình nghiên cứu của: L.X.Vu gôtxky, V.X. Mukhina, F.D. Usinxky, R.O.Shor,
A.Z. Ruxkai,…
Ví dụ:
V.X. Mukhina với Tâm lí học mẫu giáo: Mukhina đã nghiên cứu về tâm lí
của em trong độ tuổi Mẫu giáo, để thấy được sự phát triển tâm lý của trẻ qua các
giai đoạn trong độ tuổi Mẫu giáo nhằm giúp các nhà nghiên cứu đưa ra các biện
pháp nhằm phát triển toàn diện cho trẻ dựa trên cơ sở tâm lý của trẻ.
Winhem Preyer với Trí óc của trẻ em: Một tác phẩm miêu tả chi tiết về sự
phát triển của trẻ em, phát triển về vận động, hình thành ngôn ngữ và trí nhớ cụ
thể qua cậu bé Alex. Tác giả đã giúp chúng ta thấy rõ được quá trình phát triển
của bé Alex để từ đó đưa ra các cách thức nhằm phát triển toàn diện cho trẻ phù
hợp với độ tuổi.
Jonh. B. Wáton với Chăm sóc về tâm lí cho trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ: Nghiên
cứu về tâm lí của trẻ ngay từ khi mới sinh và cách chăm sóc chúng. Dựa vào đó,
những nhà nghiên cứu về trẻ em có thể đưa ra các phương pháp chăm sóc trẻ
nhỏ ở các giai đoạn phát triển của trẻ.
A. B. Zaporojets với Cơ sở tâm lí học của giáo dục mẫu giáo: Những
nghiên cứu chuyên biệt về trẻ nhỏ từ lúc mới sinh đến 6 tuổi.
M.M.Konxova với Dạy nói cho trẻ trước tuổi đi học: Các hình thức, biện
pháp để nhằm dạy nói cho trẻ trước khi vào tuổi đi học. Tác phẩm đã giúp
những nhà nghiên cứu, các bậc phụ huynh có những định hướng và chọn lựa cho
mình biện pháp dạy nói phù hợp với từng trẻ.

4



A.N.Xookolop với Lời nói bên trong và tư duy: Tác giả nghiên cứu những vấn
đề lí luận về ngôn ngữ và tư duy của trẻ em.
Ở Việt Nam, vấn đề phát triển ngôn ngữ cho trẻ cũng được đông đảo các
nhà giáo dục quan tâm và đi vào nghiên cứu như:
Các tác giả Nguyễn Quang Ninh, Bùi Kim Tuyến, Lưu Thị Lan, Nguyễn
Thanh Hồng với: Tiếng việt và phương pháp phát triển lời nói cho trẻ, đề cập tới
tiếng việt. Dựa vào đó tác giả xây dựng các phương pháp nhằm phát triển và
hoàn thiện lời nói cho trẻ.
Tác giả Nguyễn Xuân Khoa với: Phương pháp phát triển ngôn ngữ cho
trẻ mẫu giáo dưới 6 tuổi, đã đưa ra các phương pháp cụ thể giúp trẻ phát triển
ngôn ngữ, vốn từ của mình. Qua đó, giúp chúng ta có thể áp dụng một số biện
pháp phù hợp vào đề tài nghiên cứu nhằm đưa ra các biện pháp hợp lý đối với sự
phát triển tâm, sinh lý của trẻ hơn nữa còn thích hợp với sự phát triển ngôn ngữ
của trẻ.
Tác giả Hoàng Kim Oanh, Phạm Thị Việt, Nguyễn Kim Đức với: Phương
pháp phát triển ngôn ngữ. Tác giả đã đưa ra các phương pháp để giúp trẻ tăng
vốn từ nhằm định hướng chúng ta đưa ra các biện pháp để giúp trẻ phát triển và
hoàn thiện ngôn ngữ của trẻ.
Tác giả Nguyễn Ánh Tuyết, Phạm Hoàng Gia, Đoàn Thị Tâm với: Tâm lí
trẻ em lứa tuổi mầm non, đã tiến hành nghiên cứu sự phát triển tâm lí của trẻ
mầm non qua các giai đoạn lứa tuổi để từ cơ sở này, chúng ta có thể đưa ra các
biện pháp nhằm phát triển ngôn ngữ của trẻ phù hợp với sự phát triển tâm lí của
trẻ ở các giai đoạn tuổi khác nhau.
Luận án tiến sĩ của Lưu Thị Lan: Những bước phát triển ngôn ngữ của trẻ
từ 1- 6 tuổi, nội dung luận án nói về các bước, giai đoạn hình thành phát triển
ngôn ngữ cho trẻ qua độ tuổi từ 1đến 6 tuổi. Qua đây, ta có thể chọn lọc được
các phương pháp, biện pháp cụ thể, phù hợp với giai đoạn hình thành phát triển
ngôn ngữ của trẻ.
Nghiên cứu của Nguyễn Xuân Khoa về: Phương pháp phát triển ngôn
ngữ cho trẻ mẫu giáo từ 0 - 6 tuổi, đã nghiên cứu về sự phát triển vốn từ ngữ

5


của trẻ ở các độ tuổi và đưa ra các phương pháp nhằm phát triển ngôn ngữ cho
trẻ em ở độ tuổi mầm non.
Luận án tiến sĩ Nguyễn Thị Oanh: Cơ sở của việc tác động sư phạm đến
sự phát triển ngôn ngữ tuổi mầm non. Dựa trên cơ sở của nghành sư phạm tác
giả đã nghiên cứu tới sự phát triển ngôn ngữ của trẻ em mầm non.
Qua các công trình nghiên cứu trên là những định hướng và là cơ sở quý
báu để tôi thực hiện đề tài này.
3. Mục đích nghiên cứu
Qua những hiểu biết về đặc điểm của trò chơi dân gian với sự phát triển ở
trẻ 4 - 5 tuổi, về đặc điểm tâm lí của trẻ Mầm non tác giả đã mạnh dạn đưa ra
một số biện pháp, quy trình tổ chức các trò chơi dân gian nhằm nâng cao hiệu
quả việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo 4 - 5 tuổi.
4. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Phương pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 4 - 5 tuổi thông qua một số trò
chơi dân gian.
4.2. Khách thể nghiên cứu
- Trẻ 4 - 5 tuổi (60 trẻ), giáo viên (20 giáo viên) ở ba trường Mầm non.
Trường Mầm non Quyết Thắng - thành phố Sơn La - Sơn La
Trường Mầm non Hoa Phượng - thành phố Sơn La - Sơn La
Trường Mầm non Gia Hanh - Can Lộc - Hà Tĩnh
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu một số cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn có liên quan đến vấn đề nghiên
cứu và khảo sát thực trạng trẻ 4 - 5 tuổi ở trường Mầm non.

- Xây dựng một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ mầm non trong độ tuổi
từ 4 - 5 tuổi thông qua trò chơi dân gian.

- Tổ chức thể nghiệm để ứng dụng đề xuất tính khả thi của các biện pháp phát
triển ngôn ngữ cho trẻ mầm non (4 - 5 tuổi) thông qua trò chơi dân gian mà đề
tài nghiên cứu.
- Xử lí kết quả nghiên cứu.
6


6. Phạm vi nghiên cứu
Tôi đã tiến hành điều tra ở 3 trường mầm non như sau:
Trường Mầm non Quyết Thắng - Thành phố Sơn La - Sơn La
Trường Mầm non Hoa Phượng - Thành phố Sơn La - Sơn La
Trường Mầm non Gia Hanh - Can Lộc - Hà Tĩnh
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp nghiên cứu lí luận
Đọc sách, báo và các tài liệu có liên quan tới vấn đề đang nghiên cứu. Từ
đó chọn lọc để xây dựng nên cơ sở lí luận cho đề tài.
7.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Dùng phiếu Anket điều tra kết hợp với việc trao đổi nhưng thông tin có
liên quan về vấn đề nghiên cứu với các giáo viên ở trường mầm non, nhằm phát
triển ngôn ngữ cho trẻ mầm non từ 4 - 5 tuổi thông qua trò chơi dân gian.
- Sử dụng phương pháp quan sát: Quan sát những hoạt động của trẻ để đưa
ra các phương pháp hợp lí với tâm sinh lí của trẻ 4 - 5 tuổi.
- Ngoài ra, dùng phương pháp nghiên cứu sản phẩm để xác định mục đích
phát triển ngôn ngữ cho trẻ 4 - 5 tuổi qua trò chơi dân gian.
7.3. Phương pháp thể nghiệm sư phạm
- Sử dụng các phương pháp tác động đến một nhóm trẻ được chọn để thực
nghiệm.
- Xử lí kết quả nghiên cứu bằng phương pháp thống kê toán học.
8. Giả thuyết khoa học
Qua việc khảo sát sơ bộ trên thực tế kết hợp với việc nghiên cứu lí luận, tôi

thấy mức độ phát triển ngôn ngữ thông qua các trò chơi dân gian cho trẻ mầm
non từ 4 - 5 tuổi ở các trường mầm non hiện nay ngày càng bị hạn chế đi rất
nhiều. Hoặc nếu có thì chưa gây được hứng thú thực sự đối với trẻ, eo hẹp về
cách bố trí thời gian tổ chức trò chơi nên chưa đạt được hiệu quả cao. Do vậy,
nếu các biện pháp trong đề tài mang tính khả thi thì sẽ góp phần nâng cao hiệu
quả phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua trò chơi dân gian, góp phần vào
phong trào đổi mới giáo dục.
7


9. Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, phụ lục, tài liệu tham khảo, nội dung
đề tài gồm 3 chương.
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn về vấn đề nghiên cứu
Trong chương này tôi đề cập tới những cơ sở lí luận về ngôn ngữ của trẻ
Mẫu giáo, cụ thể là trẻ 4 - 5 tuổi, đặc biệt là trò chơi dân gian.
Chương 2: Một số biện pháp nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo
từ 4 - 5 tuổi thông qua trò chơi dân gian.
Ở chương này tôi đã xây dựng một số biện pháp, quy trình vận dụng
phương pháp giáo dục Mầm non mới để tổ chức các trò chơi dân gian và thiết kế
một số mẫu giáo án theo phương pháp mới về trò chơi dân gian.
Chương 3: Thiết kế thể nghiệm một số trò chơi dân gian cho trẻ 4 - 5 tuổi
Tác giả thiết kế một số biện pháp để ứng dụng nhằm phát triển ngôn ngữ
cho trẻ thông qua một số trò chơi dân gian nhằm để chứng minh tính khả thi của
biện pháp.

8


NỘI DUNG

CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Cơ sở tâm lí học
Đối với trẻ lứa tuổi ấu nhi họat động với đồ vật vốn là hoạt động chủ đạo.
Nhưng bước sang lứa tuổi mẫu giáo, nó đã có sự biến đổi lớn, mặc dù hoạt động
với đồ vật vẫn phát triển nhưng giờ không còn chiếm vị trí chủ đạo nữa. Trẻ ở
lứa tuổi mẫu giáo đã có hoạt động mới, đó là hoạt động vui chơi đặc biệt là trò
chơi đóng vai theo chủ đề. Đây là trò chơi trung tâm tạo nên mọi sự chuyển biến
cơ bản trong hoạt động tâm lí của trẻ. Từ đó, trẻ bắt đầu hình thành nhân cách
con người. Hoạt động vui chơi trở thành hoạt động chủ đạo của trẻ mẫu giáo.
Do đó, đặc điểm tâm lí của trẻ mẫu giáo theo đó mà biến đổi một cách rõ rệt.
Trong suốt thời kì mẫu giáo, ở trẻ diễn ra những biến đổi cơ bản về hành vi:
chuyển từ hành vi bộc phát sang hành vi có động cơ - hành vi mang tính nhân
cách, hình thành động cơ hành vi. Tuy nhiên, ở đầu tuổi mẫu giáo bước chuyển
biến này cũng chỉ mới dạng khởi đầu, còn đơn sơ đơn sơ và chưa rõ rệt, thường
thì động cơ này bị thúc đẩy bởi nguyện vọng muốn làm người lớn vui lòng.
Trong hoạt động vui chơi, trẻ mẫu giáo thể hiện tính tự lực, tự do và chủ động
(trong việc lựa chọn chủ đề và nội dung chơi, lựa chọn bạn cùng chơi, tự do
tham gia các trò chơi nào mà mình thích và tự do rút ra khỏi trò chơi mà mình
chán). Trẻ ở lứa tuổi mẫu giáo đã biết thiết lập những mối quan hệ rộng rãi và
phong phú với các bạn cùng chơi, hình thành nên một “xã hội trẻ em” sống động
với nhiều khía cạnh phong phú. Đời sống tình cảm của trẻ cũng được phát triển
mạnh mẽ. Ở cuối tuổi mẫu giáo, trẻ cơ bản đã hoàn thiện cấu trúc đặc điểm tâm
lí con người vì ở giai đoạn này, trẻ đã sử dụng thành thạo ngôn ngữ, tiếng nói
trong giao tiếp sinh hoạt hàng ngày. Trẻ nắm vững được ngữ âm và ngữ điệu khi
sử dụng ngôn ngữ nói, phát triển vốn từ và cấu trúc ngữ pháp, câu, từ mạch lạc.

9



Như vậy, quá trình phát triển tâm lí của trẻ ở giai đoạn mẫu giáo diễn ra theo
nhiều giai đoạn từ đơn giản đến phức tạp với nhiều cung bậc khác nhau dần hình
thành nhân cách con người trong trẻ.
1.1.1.1. Đặc điểm tư duy của trẻ mẫu giáo
* Đặc điểm tư duy của trẻ mẫu giáo bé
Ở lứa tuổi mẫu giáo bé, tư duy của trẻ có một bước ngoặt rất cơ bản. Đó là sự
chuyển tư duy từ bình diện bên ngoài vào bình diện bên trong mà thực chất đó là
việc chuyển những định hướng bên trong theo cơ chế nhập tâm. Quá trình tư
duy của trẻ đã bắt đầu dựa vào những hình ảnh của sự vật và hiện tượng đã có
trong đầu, cũng có nghĩa là chuyển từ tư duy trực quan - hành động sang kiểu tư
duy trực quan - hình tượng.
Việc chuyển từ kiểu tư duy trực quan - hành động sang kiểu tư duy trực quan
- hình tượng là nhờ vào trẻ tích cực hoạt động với đồ vật, hoạt động đó được lặp
đi lặp lại nhiều lần và được nhập tâm thành hình ảnh, biểu tượng trong óc. Trẻ
chỉ suy nghĩ về những điều mà chúng thích và dòng suy nghĩ thường bị cuốn hút
vào ý thích riêng của mình, bất chấp cả tác động khách quan.
Trẻ ở lứa tuổi mẫu giáo bé, do chưa biết phân tích tổng hợp, chưa biết một
sự vật bao gồm nhiều bộ phận kết hợp lại thành một tổng thể, chưa xác định
được vị trí, quan hệ giữa bộ phận này và bộ phận kia trong một sự vật.
* Đặc điểm tư duy của trẻ mẫu giáo nhỡ
Nếu ở tuổi mẫu giáo bé, trẻ thường hành động định hướng bên ngoài - tức là
bằng tư duy trực quan hành động thì sang độ tuổi mẫu giáo nhỡ, trẻ đã có hành
động dựa vào các biểu tượng - tức là kiểu tư duy trực quan, hình tượng đã bắt
đầu chiếm ưu thế.
Khi hành động với các biểu tượng trong óc, đứa trẻ hình dung được các hành
động thực tiễn với các đối tượng và kết quả của những hành động ấy. Bằng con
đường đó trẻ có thể giải được nhiều bài toán thực tiễn đặt ra cho mình.Tư duy
trực quan - hình tượng phát triển mạnh cho phép trẻ ở độ tuổi mẫu giáo nhỡ giải
được nhiều bài toán thực tiễn mà trẻ thường gặp trong cuộc sống. Tuy vậy, vì

chưa có khả năng tư duy - trừu tượng nên trẻ chỉ mới dựa vào những biểu tượng
10


đã có, những kinh nghiệm đã trải qua để suy luận ra những vấn đề mới. Vì vậy,
nhiều trường hợp chúng chỉ dừng lại ở các hiện tượng bên ngoài mà chưa đi vào
bản chất bên trong.
* Đặc điểm tư duy của trẻ mẫu giáo lớn
Ở giai đoạn lứa tuổi mẫu giáo nhỡ tư duy trực quan - hình tượng phát triển
mạnh mẽ. Song, bước sang độ tuổi mẫu giáo lớn kiểu tư duy trực quan - sơ đồ
lại chiếm ưu thế. Kiểu tư duy này tạo ra cho trẻ một khả năng phản ánh những
mối liên hệ tồn tại khách quan, không bị phụ thuộc vào hành động hay ý muốn
chủ quan của bản thân đứa trẻ.
Tư duy trực quan - sơ đồ vẫn giữ tính chất hình tượng song bản thân hình
tượng cũng trở nên khác trước, hình tượng đã bị mất đi những chi tiết rườm rà mà
chỉ còn giữ lại những yếu tố chủ yếu giúp trẻ phản ánh một cách khái quát sự vật
chứ không phải là từng sự vật riêng lẻ. Nó cho phép trẻ đi sâu vào những mối liên
hệ phức tạp của sự vật và mở ra khả năng nhìn thấy mặt bản chất của sự vật và hiện
tượng mà tư duy trực quan - hình tượng không cho phép nhìn thấy được.
1.1.1.2. Đặc điểm khả năng chú ý của trẻ mẫu giáo
Chú ý là sự tập trung của ý thức vào một hay một nhóm sự vật, hiện tượng
để định hướng hoạt động, đảm bảo điều kiện thần kinh - tâm lí cần thiết cho hoạt
động tiến hành có hiệu quả.
Trẻ mẫu giáo tiếp nhận lời nói được dễ dàng và thường xuyên hơn so với
giai đoạn trước. Trẻ ngày càng hướng vào lời nói để gọi tên sự vật, để đánh giá
hành vi của bạn bè và của người thân. Đối với trẻ, lời nói còn là mệnh lệnh, là
động cơ thúc đẩy hành động. Trong hoạt động, trẻ mẫu giáo luôn cần sự giúp đỡ
của người lớn như: chỉ dẫn, giảng giải, khen ngợi,…làm cho ngôn ngữ của họ
trở thành đối tượng chú ý của trẻ. Đó là nguyên nhân chủ yếu làm thay đổi cơ
bản sự phát triển khả năng chú ý của trẻ và được biểu hiện rõ nét ở trẻ mẫu giáo

với những khía cạnh: khối lượng chú ý của trẻ tăng lên, tính bền vững của chú ý
phát triển và hình thành chú ý có chủ định.
Sự tăng về khối lượng chú ý biểu hiện ở chỗ trẻ mẫu giáo trong một lúc có
thể quan sát, tri giác rõ ràng không chỉ một mà có thể là vài đối tượng khác
11


nhau. Kết quả quan sát có thể tăng lên nếu người lớn dạy cho trẻ biết so sánh sự
giống nhau và khác nhau giữa các đối tượng.
Hoạt động của trẻ lứa tuổi mẫu giáo ngày càng phức tạp, do đó trí tuệ của trẻ
cũng ngày một phát triển hơn, khả năng chú ý được tập trung và bền vững hơn.
Nếu đầu tuổi mẫu giáo, trẻ có thể tập trung vào một trò chơi khoảng 30 phút thì
vào cuối tuổi mẫu giáo, trò chơi có thể kéo dài khoảng 90 phút.
Trò chơi của trẻ càng phản ánh nhiều hành động và nhiều mối quan hệ phức
tạp của con người trong xã hội, càng nảy sinh nhiều tình huống mới bao nhiêu
thì sự chú ý của trẻ vào trò chơi càng tập trung và bền vững bấy nhiêu. Điều đó
phản ánh sự chú ý của trẻ mẫu giáo phụ thuộc vào hứng thú của chúng đối với
các đối tượng xung quanh.
1.1.1.3.Đặc điểm trí nhớ của trẻ mẫu giáo
Có thể nhận xét rằng trí nhớ của trẻ mẫu giáo mang tính trực quan hình
tượng, tính không chủ định nhờ tác động một cách tự nhiên của những ấn tượng
hấp dẫn bên ngoài.Trí nhớ không chủ định đang chiếm ưu thế ở tuổi mẫu giáo
mà biểu hiện rõ nhất là ở trẻ mẫu giáo bé và đi liền với nó là trí nhớ máy móc.
Trí nhớ không chủ định có ý nghĩa đặc biệt đối với sự phát triển của trẻ vì nhờ
đó mà trẻ có thể ghi nhớ nhẹ nhàng nhiều ấn tượng đẹp đẽ cũng như những tài
liệu cần thiết cho trẻ sau này.
Vào cuối tuổi mẫu giáo, trí nhớ của trẻ có bước biến đổi về chất: trí nhớ có
chủ định xuất hiện và phát triển mạnh. Đó là loại trí nhớ có mục đích và phải nhờ
đến công cụ tâm lí như ngôn ngữ, sơ đồ, biểu đồ, chữ viết và mọi quy ước. Nhờ
tính mục đích của hành động mà vai trò của trí nhớ được thay đổi trong đời sống

tâm lí của trẻ mẫu giáo và trở thành chức năng chủ yếu với những thao tác bên
trong cấu trúc khiến cho hoạt động nhận thức của trẻ tốt hơn. Trong đó, ngôn ngữ
đóng vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển trí nhớ có chủ định của trẻ,
giúp trẻ nắm được tên và tìm các phương tiện để hỗ trợ ghi nhớ. Trí nhớ có chủ
định là loại trí nhớ rất cần cho việc học tập ở trường phổ thông sau này.

12


1.1.2. Cơ sở ngôn ngữ học
1.1.2.1. Khái niệm về ngôn ngữ
V.Lênin đã khẳng định rằng: “Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan
trọng nhất của con người”. Ngôn ngữ là hệ thống các ký hiệu có cấu trúc quy
tắc và ý nghĩa. Đồng thời, ngôn ngữ cũng là phương tiện để phát triển tư duy,
truyền đạt và tiếp nhận những nét đẹp của truyền thống văn hóa - lịch sử từ thế
hệ này sang thế hệ khác.
Cũng có khái niệm về ngôn ngữ theo E. L. Ti khêeva - những nhà giáo dục
học Liên xô cũ đã khẳng định rằng: “Ngôn ngữ là công cụ để tư duy, là chìa
khóa để nhận thức, là vũ khí để chiếm lĩnh kho tàng kiến thức của dân tộc, của
nhân loại. Do ngôn ngữ giữ vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống con
người …”[5, trang 10].
Không chỉ có vậy, ngôn ngữ tạo nên những con người có linh hồn. Ngôn ngữ
đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc hình thành nên tư duy, nhân cách của
con người, thúc đẩy quá trình tự điều chỉnh hành động chính bản thân mình.
Ngôn ngữ có vai trò rất lớn trong cuộc sống của con người. Nhờ có ngôn ngữ
mà con người có thể trao đổi với nhau những hiểu biết, truyền cho nhau những
kinh nghiệm, tâm sự với nhau những nổi niềm thầm kín,…
Đối với trẻ em, ngôn ngữ là cầu nối để đến với thế giới của nhân loại. Ngôn
ngữ trở thành công cụ để trẻ bày tỏ suy nghĩ, những tâm sự, tình cảm, những
mong muốn của cá nhân mình. Bởi lẽ, trẻ có nhu cầu rất lớn trong việc nhận

thức thế giới xung quanh, mong muốn hòa nhập với xã hội của loài người.
1.1.2.2. Vai trò của ngôn ngữ đối với sự phát triển của trẻ
* Ngôn ngữ là phương tiện hình thành và phát triển nhận thức của trẻ về thế giới
xung quanh.
Ngôn ngữ chính là cơ sở của mọi sự suy nghĩ và là công cụ của tư duy.Trẻ
em có nhu cầu rất lớn trong việc nhận thức thế giới xung quanh. Trong quá trình
nhận thức những sự vật và hiện tượng, các em phải sử dụng từ ngữ để phân biệt
được vật này với vật khác, biết được tên gọi, màu sắc, hình dáng, công dụng và

13


những thuộc tính cơ bản của vật,…(ví dụ: Trẻ làm quen với xe đạp, trẻ biết được
đặc điểm, cấu tạo, công dụng…của xe đạp và nói được từ “xe đạp”).
Trẻ tiếp thu kiến thức từ môi trường xung quanh thông qua khả năng phân
tích, so sánh, tổng hợp, trên cơ sở đó trẻ khái quát về vật. Ví dụ, khi trẻ nhận xét
về xe đạp:
Trẻ nhìn thì biết được màu đỏ (xanh).
Trẻ quay bàn đạp thì bánh xe quay.
Trẻ sờ vào sườn xe thì biết nó láng, bóng.
Từ ngữ giúp cho việc củng cố những biểu tượng đã hình thành ở trẻ.
Trẻ không chỉ nhận biết các sự vật hiện tượng xung quanh gần gũi, mà còn
tìm hiểu những sự vật hiện tượng không xuất hiện trực tiếp trước mắt trẻ, những
sự vật xảy ra trong quá khứ, tương lai. Như vậy, ngôn ngữ không chỉ giúp cho
trẻ củng cố kiến thức mà còn mở rộng hiểu biết về thế giới xung quanh.
Ngôn ngữ giúp trẻ tìm hiểu về chính mình, về con người và khám phá các sự
vật xung quanh cũng như những biến cố đang xảy ra trong đời sống, hay các
hiện tượng xung quanh như: nắng, mưa, nóng, lạnh,…qua đó trẻ có thể nhận
thức về môi trường xung quanh.
Thật vậy, hầu hết trẻ thơ đều có một tâm hồn nhạy cảm. Đối với các em, thế

giới xung quanh chứa đựng biết bao nhiêu điều mới lạ, hấp dẫn. Ngay trong
những cái tưởng chừng như bình thường và giản dị thì các em cũng phát hiện ra
những điều lí thú. Chẳng vậy mà Pauxtopxky có nhận xét rằng: “Thời thơ ấu
không còn mãi,… Trong thời thơ ấu tất cả đều khác. Trẻ em đã nhìn thế giới
bằng một đôi mắt trong sáng và đối với tất cả với chúng đều rực rỡ hơn nhiều.
Mặt trời chói lọi hơn, đồng ruộng được cày sâu hơn, tiếng sấm vang rền hơn,
mưa to hơn, cỏ mọc cao hơn và cả lòng người cũng mở rộng hơn. Nỗi đau
thương cũng sâu sắc hơn và mảnh đất quê hương cũng chứa đầy bí ẩn, nhiều
gấp hàng nghìn lần”.
Chẳng thế mà khi người lớn đưa ra các câu hỏi, câu trả lời hay khi đàm thoại
trực tiếp với trẻ thì cũng đồng thời ngay lúc đó trẻ làm quen được với các sự vật,
hiện tượng có ở môi trường xung quanh, và trẻ hiểu được những đặc điểm, tính
14


chất, công dụng của các sự vật cùng với các từ tương ứng với nó thông qua các
từ ngữ đó. Trẻ thường nhìn sự vật trong tính toàn vẹn của nó mà chưa hề bị chia
cắt ra từng mảng, từng bộ phận rạch ròi khô cứng. Những thuộc tính cụ thể cảm tính sinh động như màu sắc, âm thanh,…có tác động mạnh mẽ lên giác
quan và ghi dấu ấn sâu đậm trong tâm trí của trẻ. Từ ngữ và hình ảnh trực quan
của các sự vật cũng đi vào nhận thức của trẻ. Nhờ có ngôn ngữ, trẻ nhận biết
được ngày càng nhiều các sự vật, hiện tượng từ đơn giản dẫn tới phức tạp mà trẻ
được tiếp xúc trong cuộc sống hằng ngày, giúp trẻ hình thành, phát triển phong
phú các biểu tượng về thế giới xung quanh.
Ngôn ngữ và tư duy có mối quan hệ mật thiết với nhau. Ngôn ngữ là sự hiện
hữu của tư duy, cả hai cùng song song tồn tại và phát triển. Những ý tưởng của
trẻ được bộc lộ bằng ngôn ngữ. Ngôn ngữ là phương tiện giúp trẻ hình thành và
phát triển tư duy. Ngôn ngữ của trẻ được phát triển dần theo lứa tuổi, điều đó sẽ
giúp trẻ không chỉ tìm hiểu những hiện tượng, sự vật gần gũi xung quanh, mà
còn có thể tìm hiểu cả những sự vật không xuất hiện trước mắt trẻ, những sự
việc xảy ra trong quá khứ và tương lai. Trẻ hiểu được những lời giải thích, sự

gợi ý của người lớn, biết so sánh khái quát và dần dần hiểu được bản chất của sự
vật, hiên tượng, hình thành những khái niệm sơ đẳng. Sự hiểu biết của trẻ về thế
giới xung quanh ngày càng rộng lớn hơn.
Những câu hỏi, câu trả lời hay những câu nói của trẻ ngày càng được hoàn
thiện hơn. Số lượng các câu nói đúng ngữ pháp cũng được tăng lên một cách rõ
rệt, các thành phần trong câu nói được phát triển. Bởi lẽ trẻ biết lắng nghe các
câu trả lời, câu nói của người khác.
Đặc biệt, ở lứa tuổi này trẻ thích tham gia, hòa nhập với tập thể. Trẻ hứng thú
đặc biệt với việc rèn luyện những kĩ năng vận động mới học được và sử dụng
những kĩ năng đó để hoạt động, di chuyển. Trẻ biết sử dụng vốn ngôn ngữ của
mình để tham gia vào các trò chơi cùng bạn bè, cô giáo một cách say sưa, nhiệt
tình và giao tiếp khéo léo hơn.Trẻ có thể diễn tả những hành động phức tạp và
hăng hái kể về những điều xảy ra với nó.

15


Khả năng tiếp thu và sử dụng tiếng mẹ đẻ trong giao tiếp hằng ngày của trẻ
ngày càng tốt hơn. Trẻ rất thích tưởng tượng, chúng đã biết yêu cái thiện, ghét
cái ác. Chính vì vậy, trẻ rất thích nghe những câu chuyện về động vật dễ thương,
thiện ác phân minh, kết thúc có hậu. Trẻ không những tự mình xây dựng cốt
truyện mà còn có thể thuật lại những câu chuyện nó đã nghe người khác kể.
* Ngôn ngữ là phương tiện để phát triển tình cảm, đạo đức, thẩm mĩ
Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất. Không ai có thể phủ nhận
ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp của con người. Ngay cả những bộ lạc lạc hậu
nhất mà người ta mới phát hiện ra, họ cũng dùng ngôn ngữ để nói chuyện với
nhau. Đặc biệt đối với trẻ nhỏ, đó là phương tiện giúp trẻ giao lưu cảm xúc với
những người xung quanh, hình thành những cảm xúc tích cực. Ngôn ngữ dùng
để diễn đạt, phát biểu để trình bày ý tưởng nguyện vọng của mình cho người
khác biết.

Đặc biệt, ngôn ngữ đóng vai trò rất lớn trong việc điều chỉnh những hành vi
và việc làm của trẻ. Trong giao tiếp hàng ngày, thông qua truyện kể, ca dao,
đồng dao. Nhất là trong các trò chơi dân gian,…trẻ cảm nhận được cái hay cái
đẹp trong hành vi, trong cuộc sống.
Những câu hát ru ngọt ngào, những cử chỉ âu yếm kèm theo tình cảm yêu
mến thông qua ngôn ngữ sẽ đem đến cho trẻ những cảm giác bình yên, sự vui
mừng hớn hở. Đặc biệt là qua lời ru, mẹ đã dạy cho con nghệ thuật âm nhạc, thơ
ca dân tộc để con biết yêu vẻ đẹp của thiên nhiên, yêu quê hương đất nước, yêu
bà con làng xóm, truyền cho con những ý niệm cơ bản về thiện ác để hun đúc ở
đứa con lòng nhân ái.
Ngôn ngữ có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển trí tưởng tượng của trẻ.
Nó tác động có mục đích, có hệ thống nhằm phát triển ở trẻ năng lực cảm thụ cái
đẹp và hiểu đúng đắn cái đẹp trong tự nhiên, đời sống xã hội, trong nghệ thuật.
Các sự vật, hiện tượng mà trẻ quan sát được trong môi trường sống được in hằn
trong trí não của trẻ. Nhưng để trẻ biết cái lá có màu xanh, bông hoa có màu đỏ,
con cá vàng bơi trong nước, con chim bay trên bầu trời,…nó trở nên đẹp như thế
nào thì thông qua ngôn ngữ trẻ sẽ nhận thức được cái hay, cái đẹp đó trong cuộc
16


sống xung quanh mình. Từ đó hình thành ở trẻ thái độ tôn trọng cái đẹp và đồng
thời kích thích sự sáng tạo ra cái đẹp ở trẻ.
Khi trẻ được tiếp xúc thường xuyên với ngôn ngữ văn học như thơ, truyện, ca
dao, đồng dao,…trẻ sẽ được chìm vào thế giới đa dạng màu sắc. Bao nhiêu loại
người khác nhau, loại người tốt sao gần gũi, mến thương; loại người xấu sao lại
vừa ghét lại vừa sợ… Những phong cảnh xa lạ từ những khu rừng rậm rạp bí
hiểm, đến biển cả mênh mông, những lâu đài tráng lệ, những con thú chưa hề
thấy,… tất cả đã được nhập vào tâm hồn của các em bé với những màu sắc lung
linh kì ảo. Tâm hồn các em được rộng mở, trí tưởng tượng được kích thích mạnh
mẽ, thôi thúc các em muốn khám phá những điều kì lạ và lí thú trong các câu

chuyện hết sức hấp dẫn. Những câu thơ giàu hình ảnh, nhạc điệu, những bài
đồng dao ngộ nghĩnh có đoạn điệp khúc nhắc đi nhắc lại dễ nhớ…khiến trẻ
muốn đọc theo và sẽ nhớ rất lâu. Đây chính là thời cơ thuận lợi để trẻ tiếp xúc
với ngôn ngữ văn học, đặc biệt là văn học dân gian. Điều đó giúp trẻ phát triển
trí tưởng tượng, nó giúp trẻ sáng tạo ra những cái mới, hình thành những ước
mơ táo bạo, những hoài bão về cuộc sống tương lai.
* Ngôn ngữ là công cụ giúp trẻ hòa nhập với cộng đồng và trở thành thành viên
của cộng đồng.
Mặt khác, để bày tỏ những nhu cầu mong muốn của mình với những thành
viên trong cộng đồng, trẻ sử dụng ngôn ngữ để thỏa mãn nhu cầu của cá nhân
mình. Điều đó giúp trẻ hòa nhập hơn với mọi người xung quanh.
* Vai trò của ngôn ngữ đối với việc giáo dục thể lực cho trẻ
Giáo dục thể lực đối với trẻ em là quá trình tác động chủ yếu vào cơ thể của
trẻ, việc vận động, rèn luyện cơ thể, giữ gìn vệ sinh và có chế độ sinh hoạt hợp lí
nhằm bảo vệ và làm cho cơ thể trẻ phát triển hài hòa, cân đối, sức khỏe tăng
cường đạt đến trạng thái hoàn thiện về mặt thể chất.
Trong chế độ sinh hoạt hàng ngày, cô giáo và người lớn đã dùng chính ngôn
ngữ của mình để nhằm hướng dẫn, chỉ bảo trẻ thực hiện tốt các yêu cầu do mình
đề ra góp phần làm cho cơ thể trẻ phát triển. Đặc biệt, trong giờ thể dục giáo

17


viên đã tạo điều kiện giúp trẻ thực hiện chính xác các động tác làm cho cơ thể
được phát triển cân đối bằng chính lời nói của mình.
Ngoài chế độ sinh hoạt hàng ngày, trẻ cần phải được ăn ngon, ăn đủ chất thì cơ
thể mới phát triển hoàn thiện được. Để động viên, khích lệ trẻ ăn được thì người
lớn đóng một vai trò rất quan trọng.
1.1.2.3. Đặc điểm phát triển ngôn ngữ của trẻ mẫu giáo nhỡ (4 - 5 tuổi)
Sự phát triển ngôn ngữ gắn liền với sự mở rộng giao lưu của trẻ đối với thế

giới xung quanh, với con người, với đồ vật và thiên nhiên. Việc mở rộng phạm
vi tiếp xúc và các mối quan hệ xã hội, giúp cho khả năng tri giác của trẻ nhanh
nhẹn hơn. Khả năng nhận thức và ngôn ngữ của trẻ ở giai đoạn 4 - 5 tuổi này có
những bước tiến mới đáng kể. Ở thời kì này, trẻ hoàn thiện dần về mặt ngữ âm,
các phụ âm đầu, âm cuối, âm đệm, thanh điệu dần được định vị. Trẻ phát âm tốt
hơn, ít ê, a ậm ừ hơn so với thời kì trước. Đặc biệt, đã xuất hiện ở lời nói của trẻ
những khái quát, kết luận đơn giản một cách mạch lạc. Song một số trẻ vẫn phát
âm sai thanh ngã, âm đệm và âm cuối.
Trẻ từ 4 - 5 tuổi khả năng nhận thức vốn từ tăng lên một cách đáng kể. Theo
nghiên cứu của yy.Y pratuxevich: 4 tuổi trẻ có 1900 từ và 5 tuổi là 2.500 từ. Với
sự nghiên cứu của Nguyễn Xuân Khoa về ngôn ngữ của trẻ nội thành thì vốn từ
của trẻ là: 4 tuổi từ 1900 từ đến 2000 từ và 5 tuổi trẻ có từ 2.500 từ đến 2.600
từ. Trẻ học từ mới nhanh hơn, phát âm các từ tốt hơn so với các giai đoạn lứa
tuổi trước. Chính vì lẽ đó mà vốn từ của trẻ ở giai đoạn này phong phú, bao gồm
nhiều từ loại. Số lượng các từ loại danh từ, tính từ, đại từ, trạng từ được tăng lên
một cách đáng kể, trẻ hiểu được ý nghĩa của nhiều từ loại khác nhau và biết sử
dụng chúng để thể hiện mối liên hệ mối liên hệ đa dạng giữa các sự vật và hiện
tượng về thời gian, định hướng không gian, số lượng, nguyên nhân và kết quả.
Trẻ có khả năng tri giác âm thanh nhanh nhạy và khả năng phát âm mềm dẻo tự
nhiên. Trẻ ham học hỏi, thích tìm hiểu về xã hội và tự nhiên. Trẻ chủ động giao
tiếp ngôn ngữ với những người xung quanh và hay đặt các câu hỏi như: “Như
thế nào?”; “Làm gì?”; “Bao giờ?”; “Tại sao?”… Những câu hỏi, câu trả lời hay
những câu nói của trẻ ngày càng được hoàn thiện hơn. Số lượng các câu đúng
18


ngữ pháp cũng được tăng lên một cách rõ rệt, các thành phần trong câu nói được
phát triển. Bởi trẻ biết lắng nghe các câu trả lời, câu nói của người khác.
Đặc biệt, ở lứa tuổi này trẻ thích tham gia, hòa nhập với tập thể. Trẻ hứng
thú đặc biệt với việc rèn luyện những kỹ năng vận động mới học được và sử

dụng những kỹ năng đó để hoạt động, di chuyển. Trẻ biết sử dụng vốn ngữ của
mình để tham gia vào các trò chơi cùng bạn bè, cô giáo một cách say sưa, nhiệt
tình và giao tiếp khéo léo hơn. Trẻ có thể diễn tả những hành động phức tạp và
hăng hái kể về những điều xảy ra với nó. Khả năng tiếp thu và sử dụng tiếng mẹ
đẻ trong giao tiếp hằng ngày của trẻ ngày càng tốt hơn. Trẻ rất thích tưởng
tượng, biết yêu cái thiện, ghét cái ác. Chính vì vậy, trẻ rất thích nghe những câu
chuyện về động vật dễ thương, thiện ác phân minh, kết thúc có hậu. Trẻ không
những tự mình xây dựng cốt truyện mà còn có thể thuật lại những câu chuyện nó
đã nghe người khác kể.
1.1.3. Trò chơi dân gian với sự phát triển ngôn ngữ của trẻ
1.1.3.1. Khái niệm trò chơi dân gian
Trò chơi dân gian là một loại hoạt động văn hóa dân gian dành cho trẻ em,
được lưu truyền từ vùng này sang vùng khác, từ đời này sang đời khác nhằm
thỏa mãn nhu cầu vui chơi giải trí và giáo dục trẻ em một cách tinh tế nhẹ
nhàng. Những trò chơi này được tổ chức nhằm tạo cho trẻ những cảm giác hứng
thú, thoải mái, phát triển vận động kết hợp với lời nói.
1.1.3.2. Đặc điểm của trò chơi dân gian trẻ em
Trò chơi dân gian là một loại hoạt động văn hóa dân gian đặc sắc của mỗi
dân tộc. Không có dân tộc nào lại không có những trò chơi riêng cho trẻ em. Bởi
trò chơi dân gian thường đơn giản, dễ chơi, dễ hòa nhập. Ở bất cứ đâu, trong gia
đình, trong lớp học hay ở thôn xóm, trong các bản làng đều có thể tổ chức được
trò chơi dân gian phù hợp: ở sân nhỏ thì có thể chơi “ô ăn quan”, “đá
cầu”,…rộng hơn thì chơi “bịt mắt bắt dê”, “rồng rắn lên mây”, “trốn tìm”, “mèo
đuổi chuột”,…
Vật liệu để chơi trò chơi dân gian cũng thật đơn giản, không cầu kỳ, tốn kém,
dễ kiếm, dễ tìm, có thể sử dụng ngay những vật liệu có sẵn trong thiên nhiên
19


như: nắm sỏi, cọng cỏ, lá hay những mẫu gỗ,…chúng có thể nhặt trong vườn,

dưới ruộng.
Song, hầu hết các trò chơi dân gian của trẻ em đều gắn liền với những bài
đồng dao với đặc điểm ngôn ngữ của đồng dao mang tính giản dị, mộc mạc, vô
tư, hồn nhiên, vui tươi và ngộ nghĩnh. Có thể đó là những câu vè ngắn gọn, có
nhịp điệu, âm thanh dễ thuộc, dễ nhớ thường được sử dụng trong khi chơi các
trò chơi như là: “Dung dăng dung dẻ”, “Thả đĩa ba ba”, “Chi chi chành chành”,
hay “Rồng rắn lên mây” là trò chơi gắn với bài đồng dao nhằm rèn luyện sự
nhanh nhẹn, khéo léo, phát huy tinh thần đoàn kết, tôn trọng kỷ luật và khả năng
đối đáp:
“Rồng rắn lên mây
Có cây lúc lắc
Có nhà khiển binh
Hỏi thăm thầy thuốc
Có nhà hay không?...”
Logic của đồng dao chính là logic của trò chơi, nhưng cũng không thể bắt nó
phải theo cái logic của hiện thực mà mang tính nhảy cóc. Ta có thể hểu rằng
không ai có thể giải thích được:
“Chi chi chành chành
Cái đanh thổi lửa”
Là cái gì? Tại sao lại:
“Cái bống nằm trong
Con ong nằm ngoài
Củ khoai chấm mật
Phật ngồi phật khóc
Con cóc nhảy ra....”
Cũng bởi cái lối nhảy cóc đó lại là yếu tố gắn bó với trò chơi để đưa các em
vào với thế giới của trò chơi, khác với thế giới ở bên ngoài lại tạo nên tính hấp
dẫn cho đứa trẻ. Ta có thể nhận thấy một biện pháp tu từ học rất tiêu biểu cho

20



đồng dao là biện pháp nói ngược, trái hẳn với cái logic thực tế, logic của cuộc
đời, chính vì nó đảo như vậy mới tạo sự hấp dẫn. Chẳng hạn như:
“Trời làm một cơn mưa rào
Một đàn cào cào đuổi bắt cá rô
Thóc giống đuổi chuột trong bồ
Đong đong cân cấn đuổi có ngoài ao”.
Hay là:
“Bao giờ cho đến tháng ba
Ếch cắn cổ rắn tha ra ngoài đồng
Hùm nằm cho lợn liếm lông
Một chục quả hồng nuốt lão tám mươi
Nắm xôi nuốt trẻ lên mười
Chân giò, chai rượu nuốt người lao đao
Lúa mạ nhảy lên ăn bò
Cỏ năn, cỏ lác rình mò bắt trâu
Gà con đuổi bắt diều hâu
Chim rì đánh đuổi vỡ đầu bồ nông”.
Hoặc:
“Bao giờ cho chuối có cành
Cho sung có nụ, cho hành có hoa
Bao giờ cho khỉ đeo hoa
Cho voi đánh sập, cho gà nhuộm răng”.
Biện pháp ngộ nghĩnh này rất phù hợp với không khí của trò chơi, vì nó làm
cho trẻ vui thích, kích thích tính tò mò, ham hiểu biết của chúng. Mặt khác, nội
dung của những bài đồng dao chứa đựng nội dung giáo dục cho trẻ nhiều mặt.
Bởi lẽ đồng dao có chứa đựng những lời mộc mạc, hồn nhiên, có vần, có điệu.
Đồng dao là của trẻ em nên đồng dao có tính chất vui chơi phù hợp với tâm sinh
lí của trẻ. Đồng dao gợi lên tình yêu hồn nhiên của trẻ đối với con ong, con cò,

con vạc, con trâu, con nghé,... Khi trực tiếp tham gia vào trò chơi, trẻ hát đồng

21


×