Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Ngữ nghĩa – ngữ dụng của vị từ ngôn hành tiếng việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (361.12 KB, 20 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HCM

LỮ THỊ TRÀ GIANG

NGỮ NGHĨA – NGỮ DỤNG
CỦA VỊ TỪ NGÔN HÀNH
TIẾNG VIỆT

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh – 2008


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HCM

LỮ THỊ TRÀ GIANG

NGỮ NGHĨA – NGỮ DỤNG
CỦA VỊ TỪ NGÔN HÀNH
TIẾNG VIỆT
Chuyên ngành

: Ngôn ngữ học

Mã số

: 60 22 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC



Người hướng dẫn khoa học
PGS. TS. HOÀNG DŨNG

Thành phố Hồ Chí Minh – 2008


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong ngữ pháp tiếng Việt, từ trước đến nay, vấn đề phân biệt các kiểu
câu vẫn đang là vấn đề chưa được thống nhất giữa các nhà Việt ngữ học. Việc
phân loại các kiểu câu chủ yếu theo hai cách. Cách thứ nhất là phân loại câu
theo cấu trúc cú pháp. Theo cách phân loại này, người ta chia câu tiếng
Việt ra câu đơn, câu ghép, câu bình thường và câu đặc biệt. Cách thứ hai
là phân loại câu theo mục đích giao tiếp. Theo cách này, người ta chia ra
các kiểu câu như: câu tường thuật, câu nghi vấn, câu cầu khiến và câu cảm
thán.
Ở cách phân loại thứ hai, thực ra ranh giới xác đònh giữa các kiểu câu
suy cho cùng cũng là dựa vào hình thức bên ngoài. Hơn nữa, thật ra xét về
nghóa biểu hiện hay hành động ngôn trung của câu (phát ngôn) thì rất khó
để tách bạch các kiểu câu này một cách rạch ròi nếu chỉ dựa vào hình thức
ngữ pháp bên ngoài của chúng. Chẳng hạn hai câu sau đều là câu nghi vấn
và có hình thức ngữ pháp rất giống nhau nhưng lại mang ý nghóa nội dung
rất khác nhau như:
– Có muốn ăn bánh khơng?
– Có muốn ăn roi khơng?
Một câu như Ối giời ơi sao mà đẹp thế! hồn tồn có thể là một câu cảm
thán nhưng cũng có thể là một câu mỉa mai. Câu Muốn chết hả? là câu để
qt mắng còn câu Sao còn đứng đực ra đấy? là câu mệnh lệnh nhưng ta thấy
cả hai câu vừa nêu đều có hình thức của câu nghi vấn.

Mục đích nói năng của phát ngơn chỉ được khám phá một cách có hệ
thống kể từ khi nhà triết học người Anh J. L. Austin (1911-1960) viết cuốn


How to do things with words? đặt ra vấn đề câu ngơn hành, xem xét câu nói
như là hành dộng. J. L. Austin gọi ý định của người nói được thực hiện bằng
lời là hành động ngơn trung. Đó là các hành động như: ra lệnh, u cầu, xin
lỗi, cảm ơn… Như vậy, gắn liền với vấn đề câu ngơn hành là vị từ ngơn hành.
Năm 1987, Anna Wierzbicka cho xuất bản quyển English Speech Act
Verbs. Trong công trình này, bà đã dùng ngôn ngữ ngữ nghóa (một thứ siêu
ngôn ngữ mà chính bà xây dựng nên) để giải nghóa 270 vò từ ngôn hành
trong tiếng Anh, quy thành 37 nhóm. Cho đến nay, một công trình tương tự
đối với vò từ ngôn hành tiếng Việt vẫn chưa có ai làm.
Trong giới hạn nghiên cứu vò từ tiếng Việt, kế thừa có chọn lọc ý tưởng
của J. L. Austin và theo những đề xuất có tính chất tiên phong của Cao
Xuân Hạo, người viết cho rằng có thể xác lập được hệ thống vò từ ngôn
hành tiếng Việt. Luận văn này hy vọng thực hiện được một danh sách vò từ
ngôn hành tiếng Việt (không dám nói là hoàn chỉnh). Tuy nhiên việc quy
các vò từ ngôn hành tiếng Việt về thành từng nhóm như Wierzbicka đã làm
thì bản thân người viết nhận thấy rất khó khăn. Trên cơ sở tham khảo kỹ
lưỡng các công trình nghiên cứu của J. L. Austin, Anna Wierzbicka, J.
Lyons, Cao Xuân Hạo, Đỗ Hữu Châu, Nguyễn Văn Hiệp, Diệp Quang
Ban,… và các tác giả khác về vấn đề câu ngôn hành và vò từ ngôn hành
(theo cách gọi của Cao Xuân Hạo) người viết mong muốn luận văn này là
một tài liệu có ích cho các bạn sinh viên nghiên cứu về câu ngôn hành và
vò từ ngôn hành.


2. Điểm qua các công trình liên quan đến đề tài
2.1. Các nhà nghiên cứu nước ngoài

2.1.1. J. L. Austin
Có thể nói rằng nhà triết học người Anh J. L. Austin được xem là người
đặt nền móng cho việc phát hiện nghĩa tương tác xã hội, hay nghĩa liên nhân
của câu nói, vào năm 1955. Ông trình bày 12 chuyên đề ở trường Đại học
Tổng hợp Harvard (Mỹ). Những chuyên đề này được tập hợp lại xuất bản
thành sách với nhan đề How to do things with words (hành động như thế nào
bằng lời nói), xuất bản năm 1962, hai năm sau ngày tác giả qua đời. Cuốn
sách này năm 1970 được dịch sang tiếng Pháp với nhan đề Quand dire, c’est
faire (Khi nói tức là làm).
J. L. Austin nhận thấy rằng, cho đến thời gian đó, các nhà logic và các nhà
ngôn ngữ chỉ quan tâm đến những câu khảo nghiệm (còn gọi là khẳng định,
trần thuyết, xác tín, miêu tả), xem chúng là đối tượng nghiên cứu cơ bản. Đây
là những câu về mặt ngữ nghĩa đều có thể được đánh giá theo tiêu chuẩn chân
ngụy còn những phát ngôn khác, mặc dù rất giống với những phát ngôn khảo
nghiệm về hình thức nhưng không thể đánh giá nội dung theo tiêu chuẩn chân
ngụy. Chẳng hạn những câu như:
Cannibalism is wrong. (Tục ăn thịt người là sai.)
Hoặc:
Monet is a better painter than Manet. (Họa sĩ Monet giỏi hơn họa sĩ
Manet).
tùy theo phong tục và thẩm mỹ riêng của từng người mà được coi là đúng hay
sai, và nói chung, là không thể xác định được là đúng hay sai.
J. L. Austin phê phán cái gọi là Ngụy thuyết miêu tả, tức khuynh hướng
nghiên cứu chỉ chú trọng đến nghĩa miêu tả của câu, là loại nghĩa có thể kiểm
nghiệm theo chân ngụy khi đối chiếu với thực tế. Nhấn mạnh đến chiều kích


liên nhân, hay chiều kích tương tác mang bản chất xã hội trong ý nghĩa của
câu nói, J.L. Austin đề nghị chia câu nói thành hai loại: câu tường thuật
(constative) và câu ngôn hành. Câu tường thuật là câu nêu nhận định (có thể

đánh giá theo tiêu chuẩn chân ngụy), còn câu ngôn hành là phát ngôn mà khi
nói ra chúng, người nói đã đồng thời làm một điều gì đó hơn là nêu một nhận
định về một điều gì đó. Thử xem hai câu: Tao hứa từ nay sẽ không hút thuốc
lá nữa và Mời cụ lớn xơi nước ạ, chúng ta thấy người nói chẳng hề nêu ra một
nhận định nào hết mà chỉ đơn giản là thực hiện các hành động “hứa” và
“mời”. J. L. Austin cho rằng những câu này không phải là những câu giảkhẳng định, cũng không phải là những câu vô nghĩa. Chúng được phát ngôn
ra không nhằm trình bày một kết quả khảo nghiệm, một sự miêu tả về các sự
vật, sự kiện, chúng không phải là những báo cáo về hiện thực mà nhằm làm
một việc gì đó, chẳng hạn việc hỏi, việc mời, việc đánh cuộc…
Như vậy ta thấy rằng nhờ phân biệt được phát ngôn tường thuật miêu tả và
phát ngôn ngôn hành, J. L. Austin đã phát hiện ra bản chất hành động của
ngôn ngữ.
Tuy nhiên vốn không phải là một nhà ngôn ngữ học cho nên sau đó J. L.
Austin đi đến từ bỏ sự phân biệt về hai loại câu này (câu tường thuật miêu tả
đối lập với câu ngôn hành) để khẳng định rằng, tất cả các câu đều là ngôn
hành sau khi phân biệt các biểu thức ngôn hành tường minh và các biểu thức
ngôn hành hàm ẩn. Ông cho rằng một câu ngôn hành không nhất thiết phải sử
dụng một vị từ ngôn hành. Ông viết: “Tuyệt nhiên không nhất thiết một câu
ngôn hành phải được thực hiện trong một hình thái được coi là bình thường
như vậy… nói “ Đóng cửa lại đi!” rõ ràng là cũng có tính ngôn hành, cũng là
thực hiện một hành động đúng như khi ta nói “Tôi ra lệnh cho anh đóng của
lại”.
J. L. Austin phân loại ra năm phạm trù hành động ngôn từ:


1. Phán xử (Verditives, verditifs) Đây là những hành động đưa ra lời phán
xét (verdicts) về một sự kiện hoặc một giá trị dựa trên những chứng cớ hiển
nhiên hoặc dựa vào lý lẽ vững chắc như: xử trắng án, xem là, tính toán miêu
tả, phân tích, đánh giá, phân loại, cho là, nêu đặc điểm…
2. Hành xử (Exercitives, exercitifs). Đây là những hành động đưa ra

những quyết định thuận lợi hay chống lại một chuỗi hành động nào đó: ra
lệnh, chỉ huy, biện hộ cho, khẩn cầu, đặt hàng, giới thiệu, van xin, khuyến cáo
và các hành vi ngôn ngữ như: bổ nhiệm, đặt tên, tuyên bố khai mạc, bế mạc,
cảnh cáo, tuyên ngôn.
3. Cam kết (Commissives, commissifs). Những hành động này ràng buộc
người nói vào một chuỗi những hành động nhất định: hứa hẹn, bày tỏ lòng
mong muốn, giao ước bảo đảm, thề nguyền, thông qua các quy ước, tham gia
một phe nhóm.
4. Trình bày (Expositives, expositifs). Những hành động này được dùng
để trình bày các quan niệm, dẫn dắt lập luận, giải thích cách dùng các từ như
khẳng định, phủ định, chối, trả lời, phản bác, nhượng bộ, dẫn ví dụ, chuyển
dạng lời, báo cáo các ý kiến...
5. Ứng xử (Behabitives, comportementaux). Đây là những hành vi phản
ứng với cách xử sự của người khác, đối với các sự kiện có liên quan, chúng
cũng là cách biểu hiện thái độ đối với hành động hay số phận của người khác:
xin lỗi, cảm ơn, khen ngợi, chào mừng, phê phán, chia buồn, ban phước,
nguyền rủa, nâng cốc, chống lại, thách thức, nghi ngờ…
Bảng phân loại của J. L. Austin được xem về cơ bản là phân loại từ vựng
các động từ ngôn hành tiếng Anh.
2.1.2. J. R. Searle
Cũng như J. L. Austin và các tác giả khác, J. R. Searle tiến hành phân loại
các động từ ngôn hành. Ông còn chỉ ra những hạn chế trong bảng phân loại


của J. L. Austin vì ông cho rằng J. L. Austin không định ra các tiêu chí phân
loại, do đó kết quả phân loại có khi giẫm đạp lên nhau. J. R. Searle cho rằng
trước hết là phải phân loại các hành động ngôn từ chứ không phải phân loại
các động từ gọi tên chúng và nếu xác lập được một hệ tiêu chí thích hợp với
các hành động ngôn từ thì có thể giải tỏa được tình trạng giẫm đạp lên nhau
của các phạm trù. (Xem Đỗ Hữu Châu 2005)

J. L. Searle phân lập được năm loại hành động ngôn từ. Đó là các hành
động:
1. Tái hiện (Representatives). Yếu điểm ngôn trung (illocutionary point) là
miêu tả lại một sự tình đang được nói đến. Hướng khớp ghép là lời-hiện thực,
trạng thái tâm lý là niềm tin vào điều mình xác tín, nội dung mệnh đề là một
mệnh đề. Các mệnh đề này có thể đánh giá theo tiêu chuẩn chân ngụy. Cần
chú ý có một số động từ có khả năng biểu thị hành động ngôn từ mà nội dung
mệnh đề có thể đánh giá theo tiêu chuẩn chân ngụy nhưng không quy về các
xác tín bình thường. Ví dụ than thở, khoe cũng nói lên các nội dung mệnh đề
nhưng lực ngôn trung của chúng khác với lực của phát ngôn miêu tả, khẳng
định, tường thuật thông thường ở chỗ người phát ngôn thực hiện chúng là vì
lợi ích của mình. Kết luận, suy diễn cũng là xác tín nhưng ngoài yếu điểm
ngôn trung chung với tái hiện chúng còn có thêm các chỉ dẫn về mối quan hệ
giữa nội dung tái hiện đó với phần còn lại của diễn ngôn hay của ngữ huống.
2. Cầu khiến (Directive): (ra lệnh, yêu cầu, hỏi, cho phép). Yếu điểm ngôn
trung của loại này là ở chỗ người nói dùng ngôn từ để khiến người nghe làm
một việc gì. Nội dung mệnh đề chính là cái hành động đó. Hỏi cũng là một
hành động cầu khiến.
3. Hứa hẹn (Commissives) (hứa hẹn, tặng, biếu). J. R. Searle chấp nhận
cách định nghĩa của J. L. Austin: “người nói cam kết sẽ thực hiện một hành
động nào đó”. Đó là nội dung mệnh đề phát ngôn. Hứa hẹn và cầu khiến đều


có một hướng chung là thích nghi hiện thực với lời lẽ, nhưng ở cầu khiến thì
do người nghe làm, còn ở hứa hẹn là do người nói làm.
4. Bày tỏ (Expressives): Yếu điểm ngôn trung là bày tỏ một trạng thái tâm
lý đối với một sự tình được chỉ rõ trong nội dung mệnh đề, như “cảm ơn”,
“xin lỗi”, “lấy làm tiếc”. Nội dung mệnh đề là một hành động hay một tính
chất nào đó của người nói hay người nghe. Ở đây không có sự thích nghi giữa
lời nói và hiện thực. Chẳng qua sự tình được giả định là thực hữu.

5. Tuyên bố (Declarations) (tuyên bố, buộc tội). Yếu điểm ngôn trung của
loại này là hành động ngôn từ, nếu được thực hiện đúng quy cách và nếu
người nói có đủ tư cách đưa đến sự tương ứng giữa nội dung mệnh đề và hiện
thực. Nội dung mệnh đề là một mệnh đề. Đây là những lời ngôn hành.
2.1.3. Anna Wierbicka
Anna Wierbicka trong tác phẩm English Speech Act Verbs (1987) dùng
ngôn ngữ ngữ nghĩa để giải nghĩa 270 động từ ngôn hành trong tiếng Anh,
270 động từ này được quy về 37 nhóm sau đây:
1.

Nhóm ra lệnh (Order)

2.

Nhóm cầu xin (Ask 1)

3.

Nhóm hỏi (Ask 2)

4.

Nhóm mời gọi (Call)

5.

Nhóm cấm (Forbid)

6.


Nhóm cho phép (Permit)

7.

Nhóm biện luận (Argue)

8.

Nhóm trách mắng (Reprimand)

9.

Nhóm giễu (Mock)

10.

Nhóm phê phán (Blame)

11.

Nhóm buộc tội (Accuse)

12.

Nhóm công kích (Attack)


13.

Nhóm cảnh báo (Warn)


14.

Nhóm khuyến cáo (Advise)

15.

Nhóm cho tặng (Offer)

16.

Nhóm khen ngợi (Praise)

17.

Nhóm hứa hẹn (Promise)

18.

Nhóm cám ơn (Thank)

19.

Nhóm tha thứ (Forgive)

20.

Nhóm than phiền (Complain)

21.


Nhóm cảm thán (Exclaim)

22.

Nhóm đoán định (Guess)

23.

Nhóm gợi ý (Hint)

24.

Nhóm kết luận (Conclude)

25.

Nhóm kể (Tell)

26.

Nhóm thông tin (Inform)

27.

Nhóm tóm tắt (Sum up)

28.

Nhóm chấp nhận (Admit)


29.

Nhóm xác tín (Assert)

30.

Nhóm củng cố (Confirm)

31.

Nhóm nhấn mạnh (Stress)

32.

Nhóm tuyên bố (Declare)

33.

Nhóm rửa tội (Baptize)

34.

Nhóm ghi chú (Remark)

35.

Nhóm trả lời (Answer)

36.


Nhóm thảo luận (Discuss)

37.

Nhóm trò chuyện (Talk)


2.2. Các nhà nghiên cứu trong nước
Đến nay đã có nhiều nhà Việt ngữ học có những công trình nghiên cứu
công phu về câu ngôn hành như Cao Xuân Hạo, Đỗ Hữu Châu, Nguyễn Thiện
Giáp, Nguyễn Đức Dân, Diệp Quang Ban, Nguyễn Văn Hiệp,... Ngoài ra còn
có các luận văn, luận án của các sinh viên, nghiên cứu sinh cũng tập trung
nghiên cứu về câu ngôn hành như Nguyễn Văn Lập, Cao Thị Quỳnh Loan,
Võ Thị Ngọc Duyên…
Đỗ Hữu Châu nghiên cứu rất kĩ lưỡng về phát ngôn ngôn hành. Ông công
nhận sự tồn tại của hai loại câu ngôn hành là câu ngôn hành tường minh và
câu ngôn hành hàm ẩn theo tư tưởng sau này của J. L. Austin. Đỗ Hữu Châu
cho rằng câu ngôn hành tường minh là câu có chứa biểu thức ngữ vi 1 , trong
đó có lõi là động từ 2 ngữ vi. Theo ông động từ ngữ vi là những động từ có thể
thực hiện chức năng ngữ vi trong phát ngôn. Xét theo khả năng có thể hay
không có thể được dùng với chức năng ngữ vi trong các biểu thức ngữ vi, ông
chia các động từ nói năng tiếng Việt ra làm ba loại:
Thứ nhất là động từ miêu tả hành vi ở lời 3 . Ví dụ: khoe, chế giễu…
Thứ hai là động từ ngữ vi chỉ dùng trong chức năng ngữ vi. Ví dụ: phỉ
thui, đa tạ…
Thứ ba là động từ vừa dùng trong chức năng ngữ vi vừa dùng trong chức
năng miêu tả. Ví dụ: hứa, hỏi…
Cũng dựa trên cơ sở nghiên cứu lí thuyết hành động ngôn từ của J. L.
Austin, Diệp Quang Ban chia vấn đề câu ngôn hành tiếng Việt ra làm hai loại.

Đó là câu sử dụng hành động nói trực tiếp và câu sử dụng hành động nói gián
tiếp. Câu sử dụng hành động nói trực tiếp lại bao gồm hai kiểu câu là câu

1

Tức performative. Cao Xuân Hạo dịch là ngôn hành.
Cao Xuân Hạo gọi là vị từ.
3
Tức illocution. Cao Xuân Hạo dịch là hành động ngôn trung.
2


ngôn hành tường minh và câu ngôn hành hàm ẩn. Còn câu sử dụng hành động
nói gián tiếp là trường hợp câu có đặc điểm cấu tạo về thức có thể được sử
dụng không đúng với chức năng (mục đích nói) vốn có của nó, như dùng câu
nghi vấn để nhận định một sự việc nào đó, dùng câu trình bày để hỏi…, chẳng
hạn như Thứ ấy kiếm ở đâu cho ra được, Sao mà ồn thế…
Cao Xuân Hạo cho rằng: “Câu ngôn hành là một loại câu trần thuật tự biểu
thị”, nó biểu thị chính cái hành động mà động từ làm hạt nhân của câu đó gọi
tên, “được thực hiện trong khi nói nó ra và chính bằng cách nói nó ra”. Kiểu
câu này sử dụng một loại động từ chỉ hành động mà J. L. Austin gọi là vị từ
ngôn hành. Cao Xuân Hạo không thừa nhận dạng phát ngôn ngôn hành hàm
ẩn. Ông phân tích rất kĩ: “Nếu ta thừa nhận sự tồn tại của phát ngôn ngôn
hành hàm ẩn thì tất cả các phát ngôn đều có tính ngôn hành”. Vì phát ngôn
nào cũng có thể hiểu là được mở đầu bằng Tôi xin nói rằng và do đó “việc
phân biệt ra loại câu ngôn hành trở thành hoàn toàn vô nghĩa lí”. Ông cũng
đưa ra các “điều kiện nhất định khá ngặt nghèo” để một vị từ gọi là vị từ ngôn
hành có được tính ngôn hành của nó: 1. chủ ngữ là ngôi thứ nhất (chủ ngữ có
thể ẩn), 2. vị từ có thể dùng ở thì hiện tại, 3. bổ ngữ tiếp nhận hành động phải
là ngôi thứ hai.

Các nhà ngôn ngữ học Việt Nam không thực hiện việc phân loại các loại
hành động ngôn hành. Hoặc có chăng chỉ là phân biệt vị từ ngôn hành có
biểu thức ngôn hành (khuyên, cam đoan,…) và vị từ ngôn hành không cần có
biểu thức ngôn hành (cảm ơn, chào, xin lỗi) mà thôi. Mặc dù về cơ bản các
nhà Việt ngữ học có cùng quan điểm khi công nhận dạng thức đặc biệt của vị
từ ngôn hành và giá trị ngôn trung của nó nhưng vấn đề nhận dạng vị từ ngôn
hành và vấn đề ngữ nghĩa, ngữ dụng của nó thì có những quan điểm khác
nhau.
Ở đây, luận văn theo quan điểm của Cao Xuân Hạo.


3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn này sẽ khảo sát và đưa ra những tiêu chí về một vò từ ngôn
hành, khảo sát giá trò ngữ nghóa và ngữ dụng của vò từ ngôn hành và xây
dựng một danh sách những vò từ ngôn hành trong tiếng Việt. Vì những lí do
thực tiễn, “vị từ” ở đây thực ra bao gồm vị từ và trong một số trường hợp, cả
ngữ vị từ nữa.
Chẳng hạn, trong các ví dụ sau đây:
– Cơ Út về q, mình gởi lời hỏi thăm hai bác ở q nhé!
– Tao ra điều kiện cho mày là mày sẽ cưới vợ, nếu khơng tao sẽ từ
mày, còn gia tài tao thề là sẽ bán và tiêu xài hết, tao sẽ khơng để lại cho mày
một xu nhỏ! (Trích Cơ tiểu thư nơng dân – A. Puskin – Nguyễn Duy Bình
dịch) thì gởi lời hỏi thăm, ra điều kiện rõ ràng là biểu thức ngơn hành. Nếu
viện cớ đây là ngữ vị từ, chứ khơng phải là vị từ, để gạt ra khỏi đối tượng
nghiên cứu, thì sự “chặt chẽ” này chỉ làm nghèo đi kết quả nghiên cứu mà
thơi.
Luận văn sẽ thống kê các vò từ ngôn hành từ việc tra cứu từ điển tiếng
Việt và đưa ra một danh sách các vò từ ngôn hành. Ở đây luận văn sử dụng
ba quyển từ điển chính là Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê chủ biên, Từ
điển tiếng Việt của Nguyễn Kim Thản chủ biên và Đại từ điển tiếng Việt

của Nguyễn Như Ý chủ biên.
Luận văn có đưa ra một số nghóa từ vựng của một vài vò từ ngôn hành
không thấy ghi nhận trong từ điển tiếng Việt (cả ba quyển từ điển đã dẫn).


4. Phương pháp nghiên cứu và nguồn ngữ liệu
4.1. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp thống kê ngôn ngữ
Luận văn thống kê các vị từ ngôn hành trong tiếng Việt, kể cả một số ít vị
từ ngày nay không còn thấy xuất hiện trong giao tiếp hằng ngày nữa như: bái
biệt, bá cáo…
Phương pháp miêu tả
Luận văn tập trung phân tích ngữ liệu để rút ra những nhận xét, kết luận
đến các vấn đề có liên quan đến câu ngôn hành và vị từ ngôn hành.
Phương pháp phân tích
Dựa trên nguồn ngữ liệu thu thập được và khảo sát từ thực tế luận văn
phân tích các đặc điểm ngữ nghĩa và ngữ dụng của từng vị từ ngôn hành một
để làm rõ được tính chất ngôn hành của nó.
4.2. Nguồn ngữ liệu
Về nguồn ngữ liệu, luận văn chủ yếu dựa vào ba cuốn từ điển, đó là Từ
điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên, Từ điển tiếng Việt do Nguyễn Kim
Thản chủ biên, và Đại từ điển tiếng Việt do Nguyễn Như Ý chủ biên.
Các phát ngôn trong giao tiếp hằng ngày cũng như trong các tác phẩm văn
học, tục ngữ, ca dao…được sử dụng làm dẫn chứng để làm sáng tỏ vấn đề
được khảo sát.
5. Bố cục của luận văn
Trên cơ sở xác định mục đích và nhiệm vụ của đề tài nghiên cứu, ngoài
phần mở đầu và kết luận, luận văn được chia làm hai chương.
Chương 1 dành để trình bày về lý thuyết hành động ngôn từ và khái niệm
câu ngôn hành. Từ đó, luận văn đặt vấn đề nhận diện vị từ ngôn hành, những

điều kiện để một phát ngôn trở thành phát ngôn ngôn hành và những vị từ


trong phát ngôn đó trở thành vị từ ngôn hành và một số vấn đề chung về ngữ
nghĩa và ngữ dụng của vị từ ngôn hành.
Chương 2 là từ điển vị từ ngôn hành tiếng Việt, gồm 189 mục từ. Đây là
phần trọng tâm của luận văn cho nên nó cũng chiếm dung lượng lớn nhất. Ở
chương này, luận văn tiến hành khảo sát từng vị từ ngôn hành một để tìm hiểu
giá trị ngữ nghĩa của chúng thông qua những ví dụ cụ thể.
Phần Kết luận tổng kết nội dung của luận văn, nêu những hạn chế, khó
khăn mà luận văn chưa đạt được. Cuối cùng là danh mục 40 tài liệu tham
khảo.


Chương 1: VỊ TỪ NGƠN HÀNH TIẾNG VIỆT – ĐẶC ĐIỂM
NGỮ NGHĨA VÀ NGỮ DỤNG
1.1. Hành động ngơn từ và câu ngơn hành
1.1.1. Hành động ngơn từ
Như ở phần đầu đã trình bày, J. L. Austin là người đã phát hiện ra vấn
đề câu ngôn hành nhờ vào việc phân biệt các hành động ngôn ngữ. Ông
cho rằng khi chúng ta nói năng là chúng ta thực hiện một hành động đặc
biệt mà phương tiện là ngôn ngữ. Hơn thế nữa ông còn cho rằng khi nói ra
một câu, ta không chỉ thể hiện một hành động mà là ba hành động được
thể hiện đồng thời: đó là hành động tạo ngôn, hành động ngôn trung và
hành động xuyên ngôn.
Hành động tạo ngôn là hành động sử dụng các yếu tố của ngôn ngữ như
âm, từ, các kiểu kết hợp từ thành câu để tạo ra một phát ngôn. Hành động
ngôn trung là những hành động mà người nói thực hiện bằng lời nói. Đó là
các hành động như ra lệnh, yêu cầu, xin lỗi, cảm ơn, bác bỏ, hứa hẹn, thông
báo… Còn hành động xuyên ngôn là tác động tâm lý mà câu nói mang lại

đối với người nghe. Chẳng hạn một lời cảm ơn có thể làm người nghe mát
lòng, một lời xin lỗi có thể làm người nghe không còn cảm thấy tức giận,
một lời hứa hẹn có thể làm người nghe cảm thấy phấn chấn tinh thần, v.v.
Ở luận văn này, với mục đích nghiên cứu và xây dựng một hệ thống vò từ
ngôn hành tiếng Việt, chúng tôi chỉ chú ý đến hành động ngôn trung của
phát ngôn mà thôi.


Xét theo hành động ngôn trung, sự khác nhau của các kiểu câu chỉ phụ
thuộc vào một số tiểu từ tình thái. Trong khi đó câu ngôn hành lại là một
dạng câu mà về nội dung và hình thức có tính chất nhất quán hơn, bởi khi
phát ngôn ra một câu ngôn hành thì người nói đồng thời thực hiện luôn cái
hành động được nêu ra bằng chính cái vò từ của phát ngôn ấy. Mặc cho
thái độ, trạng thái tâm lí của chủ thể phát ngôn có chân thành hay giả dối,
thì cái hành động kia cũng đã thực hiện xong. Chẳng hạn các phát ngôn
sau sẽ được gọi là phát ngôn ngôn hành.
– Tớ thách cậu giải được bài toán này đấy!
– Tôi cảm ơn anh !
– Tôi quyết đònh hoãn lại ngày lên đường.
– Tôi đề nghò mọi người giữ trật tự.
– Tôi đảm bảo đây là hàng thật.
Bởi vì các phát ngôn này có chứa các vị từ chỉ rõ loại hành động phát
ngôn được thực hiện: thách, cảm ơn, quyết đònh, đề nghò, đảm bảo. Các
động từ như vậy được gọi là vị từ ngôn hành.
J. L. Austin cho rằng thực ra các phát ngôn tường thuật (nêu ra một
nhận đònh nào đó có giá trò chân ngụy) cũng chỉ là một loại phát ngôn
ngôn hành mà thôi. Từ đó, ông phân biệt thành hai loại, đó là phát ngôn
ngôn hành tường minh và phát ngôn ngôn hành nguyên cấp hay hàm ẩn.
Và theo ông, phát ngôn ngôn hành tường minh là những phát ngôn có chứa
từ ngữ dùng để biểu thò hành động được thực hiện ngay khi nói của người

nói và ở thì hiện tại. Đây là chủ trương bò E. Benveniste phê phán trên
quan điểm của ngôn ngữ học (dẫn theo Cao Xuân Hạo 2004: 125). Nhà


ngôn ngữ học Cao Xuân Hạo cho rằng J. L. Austin có sự lẫn lộn giữa hành
động ngôn từ và câu ngôn hành. Bởi khi quan niệm tất cả các loại câu khi
được phát ngôn đều là câu ngôn hành, thì tất cả các phát ngôn có thể tưởng
tượng được đều có tính ngôn hành, không trừ một phát ngôn nào, vì bất kỳ
một phát ngôn nào cũng đều có một phần mở đầu ngôn hành hàm ẩn: Tôi
(xin) nói rằng…, và do đó, việc phân biệt ra loại câu ngôn hành với loại
câu không ngôn hành trở thành hoàn toàn vô nghóa lý.
Đứng ở góc độ lực ngôn trung, cần phải phân biệt câu ngôn hành với
câu khảo nghiệm. Đỗ Hữu Châu (2005) chỉ rõ lực ngôn trung của các phát
ngôn khảo nghiệm không hoàn toàn đồng nhất với lực ngôn trung của phát
ngôn ngôn hành. Ta xem ví dụ:
– Con phải xin lỗi bạn!
Có thể khảo nghiệm hoá thành:
– Bố ra lệnh cho con phải xin lỗi bạn!
Hoặc phát ngôn cảm thán:
– Giời ôi là giời! Khổ thân tôi chưa!
Có thể khảo nghiệm hoá thành:
Tôi cảm thấy tôi đang phải chòu đựng một nỗi đau khổ rất lớn mà tôi
không chòu nổi khiến tôi phải kêu lên.
Trong trường hợp câu ngôn hành đe dọa thể diện của người nghe, thì
dạng phát ngôn ngôn hành tường minh sẽ căng thẳng, nhấn mạnh, đe doạ
thể diện của người nghe mạnh hơn. Bởi vì tính chủ quan của người nói thể
hiện rõ ràng hơn do hành động ngôn từ được biểu thò trong câu ngôn hành
là một hành động trước hết nói về mình, tức về bản thân người nói, yếu tố



chủ quan lộ ra một cách hiển ngôn. Ta so sánh hai phát ngôn hỏi của ông
bố đối với cậu con trai vừa bò hành xóm mách về tội đánh nhau sau đây:
Bố 1: – Ai bảo mày đánh nhau?
Con: (im lặng, không trả lời)
Bố 2: – Nam, tao hỏi ai bảo mày đánh nhau?
Chúng ta thấy rằng cách phát ngôn có vò từ ngôn hành (Bố 2) đã thể
hiện sự thay đổi thái độ như thế nào của ông bố so với phát ngôn không có
động từ ngôn hành (Bố 1).
Ngay cả Austin cũng đã thừa nhận sự thất bại của sự phân biệt ngôn
hành hàm ẩn / tường minh. Ông nhận thấy rằng, thứ nhất, có rất nhiều phát
ngôn ngôn hành hàm ẩn không thể tường minh hoá bằng phát ngôn ngôn
hành tường minh; có nghóa là cái hành động ngôn từ tạo ra biểu thức
nguyên cấp đó không có vò từ ngôn hành biểu thò thì hành động ngôn từ đó
không thể dùng trong chức năng ngôn hành. Thứ hai, như trên đã trình bày,
việc tường minh hoá một biểu thức ngôn hành hàm ẩn bằng một vò từ ngôn
hành có nhiều khả năng làm thay đổi ngữ nghóa của phát ngôn.
1.1.2. Câu ngơn hành
So sánh hai câu:
a. Tôi xin lỗi anh.
b. Tao đánh mày.
Khi phát âm câu b. Tao đánh mày thì chúng ta chưa thực hiện hành
động đánh. Đối tượng “mày” sẽ không bao giờ cảm nhận được là “bò
đánh” nếu chúng ta chỉ nói bằng miệng, dẫu điệu bộ có hùng hổ đến đâu
đi chăng nữa. Trái lại, khi ta nói Tôi xin lỗi anh (câu a) là ta đã làm tròn


cái việc được gọi là “xin lỗi anh”. Câu được phát ngôn đồng thời là tín hiệu
và là hành động được báo hiệu, nghóa là phát ngôn với hành động là một
[6].
Câu ngôn hành là câu có chức năng thực hiện hành động mà vò từ ngôn

hành của nó gọi tên. Nó có một thuộc tính rất đặc biệt: đó là nó là loại câu
trần thuật tự biểu thò. Nó biểu thò chính cái hành động được thực hiện trong
khi nói nó ra và chính bằng cách nói nó ra.
Nội dung của câu ngôn hành không có giá trò chân lý, nghóa là người ta
không thể nói rằng nó đúng sự thật hay sai sự thật, như khi nói về một câu
trần thuật bình thường mà chỉ có thể là ổn hay không ổn. Ta xem các
trường hợp:
– Nó hứa nó đến mà nó có đến đâu!
Ở đây, việc “nó hứa” và việc “nó đến” là hai việc hoàn toàn khác
nhau, cho nên câu trên là câu chấp nhận được. Nhưng người ta không thể
nói:
– Nó hứa với tôi là nó đến mà nó đâu có hứa! (?)
Tương tự như vậy, người ta có thể nói:
– Cô nói rằng cô yêu tôi nhưng thực ra cô không hề yêu tôi.
Hay:
– Anh ta nói rằng anh ta rất hiểu tôi nhưng thật ra anh ta chẳng hiểu tôi
một chút nào!
Nhưng không thể nói:
– Lúc gặp tôi nó nói chào tôi nhưng thực ra nó không hề chào tôi. (?)
– Nó nói với tôi “cháu cảm ơn ông” nhưng thật ra nó chưa cảm ơn. (?)



×