Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Quản lý phương tiện dạy học tại một số trường trung học chuyên nghiệp trên địa bàn thành phố hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (230.36 KB, 20 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN ĐÌNH MINH

QUẢN LÝ PHƯƠNG TIỆN DẠY HỌC TẠI MỘT
SỐ TRƯỜNG TRUNG HỌC CHUYÊN NGHIỆP
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Chuyên ngành : Quản lý giáo dục
Mã số : 60 14 05

LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS.TS. ĐOÀN VĂN ĐIỀU

Thành phố Hồ Chí Minh - 2008


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Phương tiện dạy học là thiết bò không thể thiếu trong hoạt động đào tạo nghề tại các trường
trung học chuyên nghiệp. Hiện nay đứng trước thử thách đào tạo đội ngũ công nhân có trình độ tay
nghề đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, nên việc trang bò các phương tiện
dạy học hiện là mối quan tâm hàng đầu của các trường dạy nghề trong cả nước.
Thành phố Hồ Chí Minh với hệ thống trên 300 trường đào tạo nghề, hằng năm đào tạo khoảng
hơn 30.000 công nhân kỹ thuật góp phần tăng cường cho nguồn lao động có tay nghề của thành
phố và các tỉnh lân cận. Hàng năm tuy việc đầu tư cho các trường nghề đóng trên đòa bàn thành
phố là rất lớn nhưng vẫn chưa theo kòp trình độ phát triển của xã hội cũng như nhu cầu của các
doanh nghiệp.


Ngoài việc chậm đầu tư, nâng cấp, đổi mới và cải tạo nhiều mặt để nâng cao chất lượng đào
tạo chung cho các trường nghề, thì việc thiếu trang thiết bò, phương tiện dạy học cũng góp phần
làm ảnh hưởng chung đến chất lượng và hiệu quả đào tạo. Song song với việc thiếu phương tiện
dạy học thì việc quản lý, sử dụng, bảo trì, sửa chữa phương tiện dạy học cũng đang là vấn đề bức
xúc đối với nhà quản lý ở các trường trung học chuyên nghiệp.
Cho dù có phương tiện dạy học, nhưng sử dụng kém hiệu quả hoặc gần như không sử dụng đã
làm lãng phí đến nguồn tài lực của nhà trường nói riêng và của xã hội nói chung, bên cạnh đó việc
mua sắm phương tiện dạy học cũng như việc bảo trì, bảo dưỡng phương tiện dạy học không tốt,
không theo một qui trình thống nhất gây thất thoát, hư hỏng tài sản dẫn đến tình trạng thiếu trầm
trọng hơn phương tiện dạy học, ảnh hưởng trực tiếp đến việc dạy và học của thầy và trò.
Từ một số lý do nêu trên, đề tài “ Quản lý phương tiện dạy học tại một số trường trung học
chuyên nghiệp trên đòa bàn Thành phố Hồ Chí Minh“ được thực hiện.
2. Mục đích nghiên cứu.
Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng công tác quản lý phương tiện dạy học tại một số trường trung
cấp chuyên nghiệp trên đòa bàn Thành Phố Hồ Chí Minh, đề xuất các giải pháp tăng cường tính
hiệu quả trong việc quản lý sử dụng phương tiện dạy học trong nhà trường, nhằm nâng cao chất
lượng đào tạo của ngành giáo dục chuyên nghiệp thành phố.
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu.
3.1. Đối tượng nghiên cứu :


Thực trạng quản lý phương tiện dạy học tại một số trường trung học chuyên nghiệp trên đòa
bàn Thành Phố Hồ Chí Minh.
3.2. Khách thể nghiên cứu :
Công tác quản lý phương tiện dạy học hiện nay tại các trường trung học chuyên nghiệp trên
đòa bàn Thành Phố Hồ Chí Minh.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu.
Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn vấn đề quản lý phương tiện dạy học tại các trường trung
học chuyên nghiệp.
Khảo sát thực trạng quản lý phương tiện dạy học tại các trường trung học chuyên nghiệp.

Đề xuất các giải pháp và kiến nghò để quản lý hiệu quả hơn phương tiện dạy học trong các
trường trung học chuyên nghiệp.

5. Phạm vi nghiên cứu.
Đề tài chỉ nghiên cứu thực trạng quản lý phương tiện dạy học tại một số trường trung học
chuyên nghiệp công lập trên đòa bàn Thành phố Hồ Chí Minh, bao gồm 4 trường :
o Trường Trung Học Kỹ Thuật Và Nghiệp Vụ Nam Sài Gòn.
o Trường Trung Học Kỹ Thuật Và Nghiệp Vụ Phú Lâm.
o Trường Trung Học Kỹ Thuật Và Nghiệp Vụ Nguyễn Hữu Cảnh.
o Trường Trung Học Kỹ Thuật Và Nghiệp Vụ Thủ Đức.
6. Giả thiết khoa học.
Phương tiện dạy học đóng vai trò quan trọng trong việc dạy và học tại các trường trung học
chuyên nghiệp, hiệu quả đào tạo tại các trường này sẽ được cải thiện khi đảm bảo có phương tiện
dạy học và được sử dụng hiệu quả. Bên cạnh đó việc tăng cường đầu tư cho phương tiện dạy học
dẫn đến việc tăng số lượng học sinh theo học thể hiện tại bảng sau:
Năm học

2001

Số lượng học sinh

Kinh phí đầu tư

theo học từng năm

hàng năm

4.432

21 tỉ đồng



2002

5.061

24 tỉ đồng

2003

7.789

30 tỉ đồng

2004

12.430

35 tỉ đồng

2005

16.994

35 tỉ đồng

( Nguồn : Sở giáo dục và đào tạo Thành phố Hồ Chí Minh )

7. Phương pháp nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu lý luận : nghiên cứu, tổng hợp những tài liệu lý luận, các công trình

nghiên cứu những nội dung liên quan đến đề tài.
Phương pháp nghiên cứu thực tiễn : Nghiên cứu bằng phương pháp phiếu điều tra được xây
dựng trên cơ sở lý luận, mục đích nhiệm vụ nghiên cứu.
Phương pháp chuyên gia : Tham khảo ý kiến của các chuyên gia, các nhà giáo, cán bộ quản lý
giáo dục lâu năm nhiều kinh nghiệm.
Phương pháp toán thống kê : Xử lý kết quả điều tra khảo sát nhằm đánh giá thực trạng và đònh
hướng việc quản lý phương tiện dạy học tại các trường trung học chuyên nghiệp trên đòa bàn
Thành phố Hồ Chí Minh.


NỘI DUNG
Chương 1 : CƠ SỞ LÝ LUẬN & THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Lòch sử nghiên cứu vấn đề.
Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Ngọc Quang viết trong cuốn sách lý luận dạy học đại cương
tập 1 được xuất bản năm 1986 trong đó nghiên cứu về các vấn đề tác động của phương tiện dạy
học đến quá trình dạy học. Tác giả cho rằng phương tiện dạy học là " bao gồm mọi thiết bò kỹ
thuật từ đơn giản đến phức tạp được dùng trong quá trình dạy học để làm dễ dàng cho sự truyền
đạt và tiếp thu kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo"[19].
Phương tiện dạy học đóng vai trò quan trọng trong họat động đào tạo của nhà trường, theo tác
giả Tô Xuân Giáp viết trong cuốn sách Phương tiện dạy học được xuất bản năm 1998 thì phương
tiện dạy học giúp cho người học hiểu nhanh, nhớ lâu các nội dung học tập, đồng thời giảm nhẹ sức
lao động của người thầy giáo. Ông cho rằng “ Cần nhận thức đúng vai trò của phương tiện dạy học
trong quá trình dạy học, từ đó phát huy tác dụng của các loại phương tiện dạy học trong quá trình
truyền thông. Nhận biết tất cả các yếu tố ảnh hưởng đến việc lựa chọn phương tiện dạy học để có
thể xây dựng một bản danh mục hợp lí các phương tiện dạy học cho một vấn đề, một bài giảng hay
một giáo trình dạy học. Nhận biết tác dụng của từng loại phương tiện dạy học và các yêu cầu
chung cũng như riêng của từng loại làm căn cứ thiết kế, chế tạo các loại phương tiện dạy học có
hiệu quả cao. Biết cách sử dụng đúng lúc, đúng chỗ, đủ cường độ từng loại phương tiện dạy học
đảm bảo việc dạy học đạt kết quả cao. Tạo nên một nhận thức năng động về phát triển phương
tiện dạy học nhằm luôn luôn cải tiến, sáng chế các loại phương tiện dạy học mới đáp ứng đòi hỏi

ngày càng cao cả về kiến thức, kỹ năng lẫn tốc độ truyền thụ của quá trình dạy học.“ [12].
Theo tác giả Trần Khánh Đức trong cuốn sư phạm kỹ thuật xuất bản năm 2002 thì tác giả cho
rằng “ trong bất cứ một loại hình lao động nào trong đời sống xã hội, lao động sư phạm của người
giáo viên cần có những dụng cụ, trang thiết bò dạy học phù hợp với tính chất và nội dung, môi
trường lao động ở từng cấp học, loại hình trường và nghành nghề đào tạo. Phương tiện dạy học
không chỉ là công cụ hổ trợ hoạt động lao động sư phạm của người giáo viên mà còn có vai trò
thay thế cho các sự vật, hiện tượng và các quá trình xảy ra trong đồi sống và lao động nghề nghiệp
mà phương tiện dạy học tạo điều kiện để phát huy hết các chức năng tư duy của bộ não con người
”[6].


Tháng 11/2003 tại Hội thảo “ phương pháp và phương tiện phục vụ đổi mới dạy và học kỹ
thuật” do trường Đại Học Sư Phạm Kỹ Thuật thành phố Hồ Chí Minh tổ chức có hơn 20 bài báo
cáo khoa học về các vấn đề liên qua đến đổi mới phương pháp dạy học, các phương tiện hổ trợ
trong hoạt động giảng dạy, các phương pháp cũng như các khó khăn thuận lợi khi đưa công nghệ
dạy học ứng dụng trong nhà trường.
Ngày 8/12/2003. Gần 100 đại biểu là đại diện của Vụ Đại học, Vụ Giáo dục chuyên nghiệp,
Viện Chiến lược và Phát triển Giáo dục, Viện Nghiên cứu Phát triển Giáo dục… đã hội tụ về
TP.HCM để tham dự Hội thảo – Triển lãm: “Phương pháp và phương tiện phục vụ đổi mới dạy và
học kỹ thuật ” Tham gia chương trình Hội thảo – Triển lãm năm nay còn có đại diện Sở Giáo dục,
Sở Lao động – Thương binh và Xã hội, nhiều trường đại học, cao đẳng sư phạm, sư phạm kỹ thuật,
nông lâm, nông nghiệp, bách khoa, công nghiệp, các trường trung học, trường dạy nghề, trường
công nhân kỹ thuật của hầu hết các tỉnh thành trên toàn quốc.
Nội dung của chương trình bao gồm hai phần chính:
 Triển lãm các thiết bò phục vụ cho công tác dạy học, đặc biệt là công tác đào tạo nghề.
Trưng bày tại Triển lãm là những thiết bò độc đáo, có brochure và bài giảng đi kèm, có
thể chuyển giao ngay. Đặc biệt hơn là khả năng phát triển, mở rộng của các thiết bò theo
yêu cầu thực tế của giáo viên.
 Hội thảo khoa học xoay quanh 7 chủ đề về: Ứng dụng công nghệ thông tin, nâng cao
hiệu quả trong việc dạy và học kỹ thuật; Cơ sở lý luận và các chuẩn mực thiết kế, đánh

giá sản phẩm multimedia trong việc dạy và học kỹ thuật; Giáo trình điện tử: những vấn
đề và phương tiện; thiết kế, phát triển, tổ chức dạy học với phương tiện, thiết bò để nâng
cao chất lượng đào tạo; Internet và khả năng ứng dụng trong dạy học trên lớp; Các giải
pháp về phương tiện và phương pháp nhằm tăng cường sự tương tác giữa giáo viên và
học sinh; Đề xuất chương trình bồi dưỡng kỹ thuật và công nghệ dạy học cho giáo viên
dạy kỹ thuật.
Thiết bò chậm, chất lượng không đồng đều, theo Bộ GD-ĐT, chủ yếu là do nhiều doanh
nghiệp sản xuất và cung ứng thiết bò không chuyên nghiệp, chỉ có giấy đăng ký kinh doanh có ghi
ngành nghề kinh doanh sản xuất thiết bò thò trường học. Thông tin được đưa ra tại hội nghị triển
khai công tác thiết bò giáo dục 2005-2006 do Bộ GD-ĐT tổ chức ngày 22/6/2005.


Ngày 9-1-2006, Hội thảo: Sử dụng trang thiết bò dạy học đã diễn ra tại Phòng Chuyên đề 3,
Trường Đại học An Giang do GS.TS Dennis Berg, Trưởng Bộ môn Xã hội học trường Đại học
California, Fullerton, Hoa Kì trình bày.
Cuộc điều tra do Công đoàn Giáo dục Việt Nam thực hiện cho kết quả “cùng hướng” với
nhiều tham luận trình bày ngày 28/3/2006, tại hội thảo quản lý và sử dụng nhằm tăng cường hiệu
quả thiết bò dạy học. Cuộc điều tra do Công đoàn Giáo dục Việt Nam thực hiện cho kết quả “cùng
hướng” với nhiều tham luận trình bày ngày 28/3/2006, tại hội thảo quản lý và sử dụng nhằm tăng
cường hiệu quả thiết bò dạy học.
Ngày 6/6/2006 , tại Hà Nội, Trung ương Đoàn phối hợp với Paccom tổ chức Hội thảo “Dạy
nghề và việc làm cho thanh niên : triển vọng hợp tác với các tổ chức phi chính phủ quốc tế”. Cụ
thể, chương trình đào tạo và giáo trình giảng dạy nhiều năm nay đã quá lỗi thời. Đặc biệt là
phương pháp giảng dạy quá truyền thống "thầy đọc trò chép", thiếu thực hành. Cơ sở vật chất quá
nghèo nàn lạc hậu. Mặc dù nhà trường đã có nhiều đổi mới nhưng không thể theo kòp với trình độ
phát triển của khoa học công nghệ, của doanh nghiệp... Hay nói đúng hơn là đổi mới của trường
toàn đi sau thời đại. Cho nên các đơn vò sử dụng nguồn nhân lực họ chê là đúng!? Nếu đầu tư hệ
thống tự động phải mấy chục tỷ đồng thì trường làm sao có tiền; hoặc máy tiện mới cũng phải 3 tỷ
đồng trong khi chương trình mục tiêu chỉ 300 triệu đồng thì trường không thể mua được. Vì không
có thiết bò thực hành nên đã chứng kiến lớp học nghề như... nhà trẻ. Một trong nhiều nguyên nhân

khiến đào tạo nghề kém hấp dẫn người học là thiếu tuyên truyền, không giống như Bộ GD-ĐT đã
tổ chức nhiều "sân chơi" rất bổ ích. Nên trong chiến lược phát triển dạy nghề đến năm 2020 cần có
phân tích tính hấp dẫn để thu hút người học.
Hầu hết các nghiên cứu, các cuộc hội thảo đều xoay quanh các vấn đề ứng dụng và sử dụng
phương tiện dạy học cũng như nêu lên những bức xức khi thiếu phương tiện dạy học tại các trường
phổ thông, vẫn chưa có nghiên cứu cụ thể nào cho việc quản lý phương tiện dạy học tại các trường
trung học chuyên nghiệp mà chủ yếu là các buổi hội thảo, hội nghò về sử dụng phương tiện dạy
học trong việc đổi mới phương pháp giảng dạy.
1.2. Tổng quan về trường trung học chuyên nghiệp tại Thành phố Hồ Chí Minh.
1.2.1. Giới thiệu đôi nét về giáo dục trung học chuyên nghiệp.
Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa
đất nước trong những năm đầu thế kỷ XXI là một yêu cầu bức thiết. Nhân lực là yếu tố quyết


đònh quá trình thực hiện công nghiệp hóa hiện đại hóa mà nghò quyết Đại hội Đảng lần thứ VII
đã khẳng đònh: “ con người là nhân tố quyết đònh, con người vừa là mục tiêu vừa là động lực
phát triển xã hội”. Để có nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ cho phát triển đất nước thì giáo
dục và đào tạo đóng vai trò vô cùng quan trọng mà nghò quyết trung ương Đảng lần thứ 4 khóa
VII đã khẳng đònh : “ Giáo dục đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân
tài, đào tạo những con người có kiến thức, văn hóa, khoa học, có kỹ năng nghề nghiệp, lao động
tự chủ, sáng tạo, có kỷ luật, giàu lòng nhân ái, yêu nước, yêu XHCN, sống lành mạnh, đáp ứng
nhu cầu phát triển đất nước những năm 90 và chuẩn bò cho tương lai”[8].
Thực hiện chủ trương và các đònh hướng phát triển của Thành phố, đồng thời đẩy mạnh xã
hội hóa công tác đào tạo trung học chuyên nghiệp nhằm đào tạo ra nguồn nhân lực đáp ứng yêu
cầu của thò trường lao động thành phố, hiện nay mạng lưới các trường trung học chuyên nghiệp
ngày càng được phát triển và hoàn thiện. Tính đến năm học 2005-2006 Thành phố có tổng cộng
30 trường trong đó có 16 trường trung học chuyên nghiệp công lập, 10 trường trung học chuyên
nghiệp ngoài công lập, ngoài ra còn có 4 trường cao đẳng và đại học tham gia đào tạo hệ trung
học chuyên nghiệp.
Bảng 1.1 Tình hình đào tạo nghề trên đòa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

Đơn vò tính : học sinh
Năm học

Hệ chính quy
Tổng số

THCN

Tại chức

Đào tạo

Tổng

THCN

ngắn hạn

cộng

CNKT

2000-2001

11.118

7.494

3.624


2.391

10.560

24.969

2001-2002

12.144

8.755

3.389

2.153

10.983

25.280

2002-2003

14.780

11.164

3.616

2.429


10.506

27.715

2003-2004

17.505

14.508

2.997

3.272

9.887

30.664

2004-2005

26.375

23.529

2.846

1.990

14.316


42.681

( Nguồn : Sở giáo dục và đào tạo Thành Phố Hồ Chí Minh )
Chỉ tiêu tuyển sinh trung học chuyên nghiệp hệ chính quy hàng năm phát triển theo chiều
hướng ổn đònh, mỗi năm tăng từ 27-20%. Số lượng học sinh dự tuyển vào hệ đào tạo này cũng
ngày càng tăng, cho chúng ta thấy không chỉ có sự phát triển mạnh mẽ và đa dạng của các cơ sở
đào tạo hệ trung học chuyên nghiệp mà còn khẳng đònh nhu cầu rất lớn của thanh niên, học sinh
thành phố trong việc học tập nghề nghiệp. Trong 5 năm qua, tình hình tuyển sinh vào trung học
chuyên nghiệp như sau :
Bảng 1.2 Chỉ tiêu tuyển sinh THCN theo từng năm
Đơn vò tính : học sinh


Năm học

Chỉ tiêu

Đăng


Dự thi

Trúng

Tỉ lệ % trúng tuyển/

tuyển

chỉ tiêu tuyển sinh


2000-2001

4.650

16.892

12.010

4.432

95.3

2001-2002

5.200

21.833

12.186

5.061

96.5

2002-2003

7.945

27.773


17.423

7.789

98.0

2003-2004

12.780

38.835

21.499

12.430

97.3

2004-2005

18.560

40.777

22.441

16.994

91.6


( Nguồn : Sở giáo dục và đào tạo Thành Phố Hồ Chí Minh )
Qua số liệu từ bảng trên ta nhận thấy quy mô đào tạo nguồn nhân lực ngày càng phát triển
do đó việc đầu tư cở sở vật chất, trang thiết bò, phương tiện dạy học của các trường trung cấp
chuyên nghiệp trên đòa bàn thành phố cũng tăng theo từng năm mới đáp ứng được nhu cầu đào
tạo nguồn nhân lực. Bên cạnh đó hầu hết các trường trung học chuyên nghiệp công lập trên đòa
bàn Thành phố Hồ Chí Minh còn tham gia đào tạo hệ trung cấp nghề theo chương trình của Bộ
Lao Động Thương Binh và Xã Hội do đó áp lực gia tăng về qui mô đào tạo cũng như về cơ sở
vật chất cũng là mối quan tâm hàng đầu của các cấp lãnh đạo nhà trường.
Tuy nhiên hiện nay do tồn tại song song hai lọai hình đào tạo công lập và tư thục nên việc
đầu tư cở sở vật chất đối với hai lọai hình này cũng có những thuận lợi và khó khăn nhất đònh.
 Thuận lợi :
 Đối với các trường công lập : do được nhà nước đầu tư nên cơ sở vật chất, trang thiết
bò dạy học tại các trường công lập tương đối khang trang, đội ngũ giáo viên tương đối
ổn đònh, đồng bộ về số lượng cũng như về chất lượng.
 Đối với các trường tư thục : Do thực hiện cơ chế tự chủ tài chính nên việc chủ động
đầu tư cơ sở vật chất, hạ tầng , phương tiện dạy học được thực hiện rất nhanh chóng
và khá hiện đại mang tính đồng bộ và có chiến lược phát triển dài hạn.
 Khó khăn :
 Đối với các trường công lập : Các thủ tục đầu tư mua sắm trang thiết bò thực hiện theo
qui đònh của nhà nước , nên thường chậm tiến độ, ảnh hưởng đến chất lượng và kế
hoạch đào tạo của nhà trường.
 Đối với các trường tư thục : Do là trường tư thục, nên việc đầu tư chủ yếu tập trung
vào các ngành nghề ít đòi hỏi phương tiện và đồ dùng dạy học, ngòai ra các trường tư


thục ít có khả năng đầu tư vào các lónh vực chuyên môn sâu, các trang thiết bò chuyên
dùng, do thiếu tài chính và đội ngũ giáo viên lành nghề.
Tóm lại : Giáo dục nghề nghiệp nói chung và trung học chuyên nghiệp nói riêng phát triển
sẽ là một động lực mạnh mẽ để nhanh chóng khắc phục sự mất cân đối về cơ cấu trình độ đào
tạo và đạt được tỷ lệ đội ngũ lao động qua đào tạo như nghò quyết của Đảng bộ thành phố khóa

VIII đã đề ra góp phần thực hiện thành công quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa Thành phố
Hồ Chí Minh.
1.2.2. Tình hình chung về phương tiện dạy học tại các trường trung học chuyên nghiệp.
Mặc dù kinh phí còn hạn chế nhưng hàng năm ngân sách của nhà nước đầu tư cho các
trường trung học chuyên nghiệp hiện nay đều tăng mức tăng bình quân khoảng 15% năm. Bên
cạnh đó các trường hầu hết đều tập trung vào mua sắm trang thiết bò, phương tiện dạy học
nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng trong lónh vực giáo dục nghề nghiệp theo từng năm.
Bảng 1.3 Ngân sách cho giáo dục chuyên nghiệp.
Đơn vò tính : tỉ đồng
Năm

Nguồn ngân sách chi cho các trường THCN

2003

30

2004

35

2005

35

2006

37

2007


50

( Nguồn : Website bộ giáo dục và đào tạo )
Việc đầu tư của nhà nước hàng năm có tăng nhưng vẫn chưa đáp ứng được các yêu cầu,
mục tiêu nhiệm vụ đề ra cho ngành giáo dục chuyên nghiệp thành phố. Hiện nay việc đầu tư
cho các trường thiếu đồng bộ, từ cơ sở vật chất, máy móc thiết bò cho đến đònh mức kinh phí
thường xuyên cho việc đào tạo. Cơ chế đầu tư, cấp phát kinh phí hoạt động chưa thể hiện đúng
vò trí và tầm quan trọng trong các trường, cơ sở dạy nghề. Bên cạnh đó, việc bất cập về chất
lượng và hiệu quả đào tạo chưa huy động được các doanh nghiệp tham gia đào tạo. Gắn kết
giữa nhà trường và doanh nghiệp. Đây là xu thế không chỉ ở nước ta mà cả ở các nước công
nghiệp phát triển. Gắn kết giữa nhà trường và doanh nghiệp có nhiều ưu điểm là: người học


nghề được học những nghề phù hợp với nhu cầu thực tế của doanh nghiệp. Các kiến thức và
kỹ năng nghề mà người học tiếp thu được đáp ứng được lợi ích của cả người học và người sử
dụng lao động. Người học nghề ngoài việc học lý thuyết nghề, được thực tập ngay trên các
máy móc, thiết bò đang sử dụng tại doanh nghiệp. Việc liên kết đào tạo này đã làm tăng mối
quan hệ hiểu biết giữa nhà trường và doanh nghiệp. Cơ sở đào tạo không phải tăng đầu tư cho
việc mua sắm trang thiết bò dạy thực hành và người học có thể tiếp thu bài học nhanh hơn. Về
phía doanh nghiệp có thể sử dụng được những học sinh học nghề để tạo ra những sản phẩm
mới học có thể lựa chọn được những người lao động có kỹ thuật tương lai cho mình.
1.2.3. Chức năng, nhiệm vụ trường trung học chuyên nghiệp.
1.2.3.1. Chức năng.
Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chuyên môn - kỹ thuật, nghiệp vụ bậc THCN và dưới bậc
THCN phục vụ nhu cầu nhân lực cho phát triển kinh tế - xã hội, an ninh và quốc phòng.
Nghiên cứu và thực nghiệm khoa học - công nghệ, kỹ thuật phục vụ công tác đào tạo và sản
xuất, kinh doanh, dòch vụ theo ngành nghề đào tạo.
1.2.3.2. Nhiệm vụ.
Liên kết với các tổ chức kinh tế, văn hoá, xã hội, các cơ sở đào tạo nhằm phát triển và

nâng cao chất lượng đào tạo, gắn đào tạo với việc làm , phục vụ phát triển kinh tế-xã hội, phát
huy vai trò, trung tâm văn hóa, khoa học–công nghệ và kỹ thuật.
1.2.4. Một số đặc điểm trường trung học chuyên nghiệp trên đòa bàn Thành phố Hồ Chí
Minh.
1.2.4.1. Đặc điểm chung.
Bên cạnh hệ thống các trường trung học chuyên nghiệp công lập còn có hệ thống các
trường trung học chuyên nghiệp dân lập và tư thục. Mỗi trường THCN là một đơn vò cơ sở, ở đó
diễn ra nhiều hoạt động với các tính chất khác nhau, trong đó hoạt động cơ bản là hoạt động đào
tạo. Hoạt động đào tạo ở trường THCN hiện nay có những đặc điểm cơ bản sau:
 Hầu hết các trường THCN đều đào tạo nhiều cấp học. Trong đó nhà trường vừa đào tạo
cán bộ THCN, vừa đào tạo công nhân kỹ thuật lành nghề. Một số trường hiện nay còn
đào tạo cả nghề ngắn hạn, phục vụ nhu cầu tuyển dụng lao động trong đòa bàn trường
đóng và các vùng phụ cận.


 Các loại hình đào tạo như vậy có thể tồn tại song song hoặc nối tiếp nhau, nghóa là sau
khi học xong giai đoạn đầu (đào tạo nghề, công nhân kỹ thuật) có thể tham gia lao động
hoặc được tiếp tục đào tạo để trở thành cán bộ THCN.
 Trong trường THCN, nội dung đào tạo phải toàn diện, phải coi trọng đầy đủ cả bốn mặt:
chính trò và đạo đức, văn hóa và kỹ thuật, lý thuết và tay nghề, bồi dưỡng sức khỏe. Yêu
cầu này đặt ra cho trường THCN phải tổ chức một cách khoa học quá trình giảng dạy–
giáo dục. Trong đó việc trang bò kiến thức lý thuyết chuyên môn và rèn luyện tay nghề là
yêu cầu chính.
 Hoạt động đào tạo trong trường THCN phải quán triệt nguyên lý “học đi đôi với hành,
giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nhà trường gắn liền với xã hội“. Nhà trường phải
được trang bò đầy đủ cơ sở vật chất để thực hành, tổ chức thực tập sản xuất cả trong lẫn
ngoài trường để từng bước hình thành kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp. Thường xuyên cập
nhật những tiến bộ khoa học kỹ thuật công nghệ vào trong nội dung đào tạo, hoạt động
sản xuất kinh doanh, góp phần phát triển kinh tế xã hội, phát triển sự nghiệp giáo dục và
đào tạo.


1.2.4.2. Đặc điểm riêng.
Các trường trung học chuyên nghiệp công lập trên đòa bàn Thành Phố Hồ Chí Minh hầu
hết hoạt động từ nguồn ngân sách nhà nước cấp. Do đó các điều kiện, trình tự, thủ tục mua
sắm trang thiết bò dạy học đều thực hiện theo đúng qui đònh của nhà nước.
1.2.5. Phương tiện dạy học tại các trường trung học chuyên nghiệp.
1.2.5.1. Đònh nghóa phương tiện dạy học.
Phương tiện dạy học, theo Nguyễn Ngọc Quang, " Bao gồm mọi thiết bò kỹ thuật từ đơn
giản đến phức tạp được dùng trong quá trình dạy học để làm dễ dàng cho sự truyền đạt và tiếp
thu kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo"[20].
1.2.5.2. Vai trò của phương tiện dạy học.


Khi nghiên cứu về giáo dục học chúng ta đã biết một kết luận quan trọng, đó là: "Tính trực
quan là tính chất có tính qui luật của quá trình nhận thức khoa học". Do đó, khi dạy các môn học,
đặc biệt là các môn khoa học tự nhiên, cần chú ý đến hai vấn đề chủ yếu sau:
 Học sinh tri giác trực tiếp các đối tượng. Con đường nhận thức này được thể hiện dưới
dạng học sinh quan sát các đối tượng nghiên cứu ở trong các giờ học hay khi đi tham
quan.
 Dưới sự hướng dẫn của giáo viên, học sinh tri giác không phải bản thân đối tượng nghiên
cứu mà tri giác những hình ảnh, biểu tượng, sơ đồ phản ảnh một bộ phận nào đó của đối
tượng.
 Trong khi tri giác những biểu tượng có sơ đồ hóa hoặc hình ảnh của đối tượng và hiện
tượng, quá trình cần nghiên cứu, học sinh có thể tìm hiểu được bản chất của các quá trình
và hiện tượng đã thực sự xáy ra. Những tính chất và hiểu biết về đối tượng được học sinh
tri giác không chỉ bằng thò giác mà còn có thề bằng xúc giác, thính giác và trong một số
trường hợp ngay cả khứu giác cũng được sử dụng.
 Trên cơ sở phân tích trên ta thấy rằng phương tiện dạy học có ý nghóa to lớn đối với quá
trình dạy học:
 Giúp học sinh dễ hiểu bài, hiểu bài sâu sắc hơn và nhớ bài lâu hơn.

 Phương tiện dạy học giúp làm sinh động nội dung học tập, nâng cao hứng thú học tập
bộ môn, nâng cao lòng tin của học sinh vào khoa học.
 Phương tiện dạy học còn giúp cho học sinh phát triển năng lực nhận thức, đặc biệt là
khả năng quan sát, tư duy (phân tích, tổng hợp các hiện tượng, rút ra những kết luận có
độ tin cậy...).
 Giúp giáo viên tiết kiệm được thời gian trên lớp trong mỗi tiết học. Giúp giáo viên
điều khiển được hoạt động nhận thức của học sinh, kiểm tra và đánh giá kết quả học
tập của các em được thuận lợi và có hiệu suất cao.
Tóm lại, phương tiện dạy học góp phần nâng cao hiệu suất lao động của thầy và trò.
1.2.5.3. Phân loại phương tiện dạy học.


Có thể phân loại các phương tiện dạy học theo một vài cách khác nhau tùy theo quan điểm
sử dụng.
 Dựa vào cấu tạo, nguyên lý hoạt động và chức năng của phương tiện. Phương tiện dạy
học có thể được phân làm hai phần: phần cứng và phần mềm.
 Dựa vào mục đích sử dụng có thể phân loại các phương tiện dạy học thành hai loại:
phương tiện dùng trực tiếp để dạy học và phương tiện dùng để hỗ trợ, điều khiển quá
trình dạy học.
 Dựa vào cấu tạo của phương tiện có thể phân các loại phương tiện dạy học thành hai loại:
các phương tiện dạy học truyền thống và các phương tiện nghe nhìn hiện đại.
1.2.6. Những yêu cầu đối với các loại phương tiện dạy học.
1.2.6.1. Các yêu cầu chung đối với các phương tiện dạy học.
Trong công việc giảng dạy giáo viên không những chỉ lắp ráp, sử dụng các phương tiện
dạy học có sẵn mà đôi khi cũng cần phải tự làm lấy các phương tiện phục vụ cho nhu cầu
giảng dạy của mình. Do đó, người giáo viên cần phải nắm được các yêu cầu chung và riêng
của từng loại phương tiện dạy học. Để đánh giá chất lượng của các loại phương tiện dạy học ta
thường dựa vào các chỉ tiêu chính: tính khoa học sư phạm, tính nhân trắc học, tính thẩm mỹ,
tính khoa học kỹ thuật và tính kinh tế.
 Tính khoa học sư phạm : là một chỉ tiêu chính về chất lương phương tiện dạy học. Chỉ tiêu

này đặc trưng cho sự liên hệ giữa mục tiêu đào tạo và giáo dục, nội dung phương pháp dạy
học với cấu tạo và nội dung của phương tiện. Tính khoa học sư phạm thể hiện ở chỗ:
 Phương tiện dạy học phải bảo đảm cho học sinh tiếp thu được kiến thức, kỹ năng kỹ
xảo nghề nghiệp tương ứng với yêu cầu của chương trình học, giúp cho giáo viên
truyền đạt một cách thuận lợi các kiến thức phức tạp, kỹ xảo tay nghề... làm cho họ
phát triển khả năng nhận thức và tư duy logic.
 Nội dung cà cấu tạo của phương tiện dạy học phải bảo đảm các đặc trưng của việc
dạy lý thuyết và thực hành cũng như các nguyên lý sư phạm cơ bản.
 Phương tiện dạy học phải phù hợp với nhiệm vụ sư phạm và phương pháp giảng dạy,
thúc đẩy khả năng tiếp thu năng động của học sinh.


 Các phương tiện dạy học hợp thành một bộ phải có mối liên hệ chặt chẽ về nội dung,
bố cục và hình thức trong đó mỗi cái phải có vai trò và chỗ đứng riêng.
 Tính nhân trắc học: thể hiện ở sự phù hợp của các phương tiện dạy học với tiêu chuẩn tâm
sinh lý của giáo viên và học sinh, gây được sự hứng thú cho học sinh và thích ứng với công
việc sư phạm của thầy và trò. Cụ thể là:
 Phương tiện dạy học dùng để biểu diễn trước học sinh phải được nhìn rõ ở khoảng
cách 8m. Các phương tiện dạy học dùng cho cá nhân học sinh không được chiếm
nhiều chỗ trên bàn học.
 Phương tiện dạy học phải phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của học sinh.
 Màu sắc phải sáng sủa, hài hòa và giống với màu sắc của vật thật (nếu là mô hình,
tranh vẽ)
 Bảo đảm các yêu cầu về độ an toàn và không gây độc hại cho thầy và trò.
 Tính thẩm mỹ: các phương tiện dạy học phải phù hợp với các tiêu chuẩn về tổ chức môi
trường sư phạm.
 Phương tiện dạy học phải bảo đảm tỉ lệ cân xứng, hài hòa về đường nét và hình khối
giống như các công trình nghệ thuật.
 Phương tiện dạy học phải làm cho thầy trò thích thú khi sử dụng, kích thích tình yêu
nghề, làm cho học sinh nâng cao cảm thụ chân, thiện, mỹ.

 Tính khoa học kỹ thuật: các phương tiện dạy học phải có cấu tạo đơn giản, dễ điều
khiển, chắc chắn, có khối lượng và kích thước phù hợp, công nghệ chế tạo hợp lý và phải
áp dụng những thành tựu của khoa học kỹ thuật mới.
 Phương tiện dạy học phải được bảo đảm về tuổi thọ và độ vững chắc.
 Phương tiện dạy học phải được áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật mới nhất
nếu có thể.
 Phương tiện dạy học phải có kết cấu thuận lợi cho việc chuyên chở và bảo quản.
 Tính kinh tế : là một chỉ tiêu quan trong khi lập luận chứng chế tạo mới hay đưa vào sử
dụng các thiết bò dạy học mẫu.


 Nội dung và đặc tính kết cấu của phương tiện dạy học phải được tính toán để với một
số lượng ít, chi phí nhỏ vẫn bảo đảm hiệu quả cao nhất.
 Phương tiện dạy học phải có tuổi thọ cao và chi phí bảo quản thấp.
1.2.6.2. Các yêu cầu đặc biệt đối với từng loại phương tiện dạy học.
 Hình vẽ trên bảng
 Phải vẽ theo tỷ lệ đồ thò.
 Phải được thực hiện trong thời gian ngắn nhất.
 Phải có nội dung bảo đảm truyền đạt kiến thức cho học sinh.
 Sử dụng diện tích bảng hợp lý để có thể ghi thêm lời giải thích hoặc các ký hiệu,
công thức... cần thiết mà không làm rối mắt học sinh.
 Tranh, ảnh dạy học.
 Tranh ảnh dạy học phải có nội dung về tư liệu học tập để học sinh có thể sử dụng
trong một thời gian dài hay thực hiện các bài tập lớn. Nếu nội dung tin quá lớn có thể
chia thành nhiều tranh.
 Tranh, sơ đồ phải tạo khả năng phân tích thành phần, mở ra cấu trúc về mối liên kết
cơ bản của các đối tượng và hiện tượng cần mô tả.
 Việc chọn màu sắc để trình bày tư liệu cũng như việc vẽ và in phải có tác dụng giáo
dục và làm cho học sinh tăng thêm lòng yêu khoa học, thiên nhiên.
 Khi dẫn giải các tư liệu bằng chữ thì phải tránh dùng những câu dài.

 Vật thật
 Vật thật chỉ được sử dụng khi không thể sử dụng các phương tiện khác để thay thế.
Trong quá trình làm việc ở phòng thí nghiệm hay phòng thực hành có thể dùng vật
thật đêr nghiên cứu theo một chương trình đã đònh trước.
 Các vật thật phải được chọn từ các sản phẩm tiên tiến nhất, các mặt hàng mới nhất từ
các cơ sở sản xuất.
 Các vật thật dùng để dạy học phải được nhìn rõ ở khoảng cách 8m.


 Khi trưng bày các vật thật có kích thước lớn cần phải xếp đặt theo đặc thù các bộ
phận riêng biệt, màu sơn của các chi tiết phải rõ ràng, dễ phân biệt được các chi tiết
quan trọng của thiết bò.
 Các vật thật phải có cấu tạo thuận tiện cho việc thao tác khi chuẩn bò thử nghiệm, bảo
đảm tốn ít thời gian, làm việc ổn đònh, độ bền dự phòng quá tải lớn, có độ bền cao.
 Bộ sưu tập các vật thật phải được gắn vào giá và có nắp đậy bằng kính hay nhựa
trong, bên cạnh có thể có những vật mẫu cho học sinh có thể cầm tay để xem. Dưới
mỗi sản phẩm cần có chú thích đầy đủ.
 Mô hình, maket, vật đúc.
 Việc chế tạo mô hình, makét, vật đúc khuôn chỉ được thực hiện trong quá trình dạy
học nếu không thể sử dụng được vật thật hoặc vật thật khó tìm và đắt.
 Nếu cần thiết phải chứng minh các yếu tố có hoạt động tương hỗ thì mô hình cần phải
chuyển động được. Đối với loại mô hình này kết cấu phải đơn giản, vững chắc.
 Các loại phương tiện này nên dùng vật liệu hiện đại, chủ yếu là chất dẻo để dễ gia
công và sử dụng thuận lợi, bền, không bò phân hủy và không có hại cho sức khỏe của
thầy và trò.
 Máy luyện tập.
 Máy luyện tập phải có khả năng mẫu hóa các hoạt động lao động thực tế, các động
tác điều khiển thực tế và mô phỏng đúng hình dáng bên ngoài của bộ phận điều
khiển.
 Máy luyện tập phải bảo đảm giúp học sinh tự hình thành các kỹ năng kỹ xảo nghề

nghiệp cần thiết trong điều kiện sản xuất thực tế và rút ngắn quá trình học tập.


Bất kỳ máy luyện tập nào cũng phải loại trừ ngay được các thao tác không đúng của
học sinh, có khả năng báo lỗi và thống kê lỗi.

 Máy luyện tập chỉ được dùng một cách hợp lý trong các trường hợp có thể thuật toán
hóa các thao tác ít gặp, nguy hiểm đến tính mạng và tiêu hao quá nhiều vật chất.
 Máy luyện tập chỉ có hiệu quả cao khi mỗi học sinh đều có máy luyện tập với các
thiết bò báo lỗi, thống kê lỗi.
1.2.7. Điều kiện bảo đảm sử dụng hiệu quả các phương tiện dạy học.


1.2.7.1. Môi trường sư phạm của nhà trường.
Môi trường sư phạm của nhà trường bao gồm cả môi trường vật chất và tinh thần (nề nếp
học tập, tinh thần làm việc, quan hệ thầy trò...). ở đây chúng ta chỉ đề cập đến môi trường vật
chất, nói khác hơn, đó là cơ sở vật chất của nhà trường bao gồm: không gian, ánh sáng, âm
thanh, nhiệt độ, độ ẩm, sự lưu thông của không khí, hình thức và nội dung bố trí các đồ vật, nơi
làm việc của học sinh và giáo việc (lớp học, phòng thực hành, xưởng...).
1.2.7.2 Bảo đảm các nguyên tắc sử dụng phương tiện dạy học.
* Nguyên tắc sử dụng phương tiện dạy học đúng lúc.
Hiệu quả của phương tiện dạy học được nâng cao rất nhiều nếu nó xuất hiện đúng vào lúc
mà nội dung, phương pháp của bài giảng cần đến nó. Cần đưa phương tiện vào theo trình tự bài
giảng, tránh việc trưng ra hàng loạt phương tiện trên giá, tủ trong một tiết học hoặc biến phòng
học thành phòng trưng bày, triển lãm. Phương tiện dạy học phải được đưa ra sử dụng và cất giữ
đúng lúc.
Cần cân đối và bố trí lòch sử dụng phương tiện dạy học hợp lý, thuận lợi trong một ngày,
một tuần nhằm nâng cao hiệu quả của từng loại phương tiện. Ví dụ nên bố trí chiếu phim vào
cuối buổi học trong ngày. Không chiếu phim liên tiếp một lúc nhiều nội dung.
* Nguyên tắc sử dụng phương tiện dạy học đúng chỗ.

Sử dụng phương tiện dạy học đúng chỗ tức là phải tìm vò trí để giới thiệu, trình bày phương
tiện trên lớp hợp lý nhất, giúp học sinh có thể đồng thời sử dụng nhiều giác quan để thiếp thu
bài giảng một cách đồng đều ở mọi vò trí trên lớp.
Các phương tiện phải được giới thiệu ở những vò trí tuyệt đối an toàn cho giáo viên và học
sinh trong và ngoài giờ giảng, đồng thời phải bố trí sao cho không ảnh hưởng đến quá trình làm
việc, học tập của các lớp khác.
Đối với các phương tiện được cất tại các nơi bảo quản, phải sắp xếp sao cho khi cần đưa
đến lớp giáo viên ít gặp khó khăn và mất thời gian.
* Nguyên tắc sử dụng phương tiện dạy học đúng cường độ.
Nguyên tắc này chủ yếu đề cập nội dung và phương pháp giảng dạy sao cho thích hợp, vừa
với trình độ và lứa tuổi của học sinh.


Mỗi loại phương tiện dạy học có mức độ sử dụng tại lớp khác nhau. Nếu kéo dài việc trình
diễn phương tiện dạy học hoặc dùng lặp đi lặp lại một loại phương tiện quá nhiều lần trong một
buổi giảng, hiệu quả của nó sẽ giảm sút. Theo nghiên cứu của những nhà sinh lý học, nếu như
một dạng hoạt động được kéo dài quá 15 phút thì khả năng làm việc sẽ bò giảm sút rất nhanh.
Việc áp dụng thường xuyên các phương tiện nghe nhìn ở trên lớp sẽ dẫn đến sự quá tải về
thông tin do học sinh không kòp tiêu thụ hết khối lượng kiến thức được cung cấp. Sự quá tải lớn
về thò giác sẽ ảnh hưởng đến chức năng của mắt, giảm thò lực và ảnh hưởng xấu đến việc dạy
và học.
Những vấn đề xét ở trên chỉ mới vạch ra con đường giải quyết và những khó khăn gặp phải
khi sử dụng phương tiện. Việc áp dụng có hiệu quả phương tiện dạy học còn tùy thuộc vào khả
năng sáng tạo, kinh nghiệm nghề nghiệp của giáo viên.
1.2.7.3 Những sai sót điển hình trong việc sử dụng các phương tiện dạy học.
Phương tiện dạy học là công cụ hỗ trợ giáo viên và học sinh trong quá trình đào tạo để thực
hiện các mục tiêu và nội dung dạy học. Việc lựa chọn các phương tiện dạy học phải bảo đảm
sự phù hợp với đối tượng người học, khả năng của giáo viên và các thành tố khác trong quá
trình dạy học như mục tiêu, nội dung, phương pháp dạy học, hình thức tổ chức, cách thức đánh
giá… Để sử dụng có hiệu quả các phương tiện dạy học cần lưu ý các yêu cầu sau:

 Các phương tiện dạy học cần được chuẩn bò kỹ trước khi lên lớp kể cả về hình thức và chất
lượng, tính năng sử dung. Tránh xảy ra sự cố hoặc nhầm lẫn khi sử dụng trong quá trình
dạy học.
 Lựa chọn các loại phương tiện phù hợp, có tác dụng và hiệu quả. Tránh tình trạng lạm
dụng phương tiện dạy học, sử dụng nhiều loại phương tiện có cùng tác dụng giống nhau
trong cùng một nội dung dạy học như dùng các biểu đồ, sơ đồ được vẽ trên giấy khổ lớn
cùng với sơ đồ cùng loại được chiếu lên giấy trong bằng máy chiếu.
 Bảo đảm tính đồng bộ của các phương tiện dạy học, ví dụ sử dụng máy tính (computer) để
minh họa các sơ đồ, quy trình…, cần có các phương tiện đa năng và màn hình khổ lớn để
người học quan sát được rõ ràng.


 Khi sử dụng nhiều loại phương tiện khác nhau cần bố trí, sắp đặt ở các vò trí thích hợp trong
lớp học lý thuyết hoặc xưởng thực hành, phòng thí nghiệm…, thuận lợi cho sử dụng và tránh
gây ảnh hưởng lẫn nhau.
 Bảo đảm vai trò chủ đạo của người giáo viên trong quá trình dạy học. Tránh tình trạng lệ
thuộc quá nhiều vào trang thiết bò, phương tiện dạy học.
 Cần phát huy hết tính năng, tác dụng, ưu thế của các loại phương tiện dạy học, từ thô sơ,
thủ công đến phương tiện hiện đại. Sử dụng phối hợp các loại phương tiện một cách hợp lý,
hỗ trợ lẫn nhau một cách có hiệu quả như phối hợp giữa kênh hình và kênh tiếng, các hình
ảnh tónh và hình ảnh động, giữa mô hình với vật thật… Bảo đảm yêu cầu đúng lúc, đúng
chỗ, đủ cường độ.
Một trong những sai sót chủ yếu là đánh giá chưa đúng (quá thấp hoặc quá cao) vai trò của
phương tiện dạy học. Do đánh giá thấp các phương tiện dạy học mà một số giáo viên coi thường
các phương tiện dạy học và cho rằng không cần phải có phương tiện dạy học thì họ vẫn có thể
dạy tốt và học sinh vẫn tiếp thu tốt (!).
Việc đánh giá quá cao vai trò của phương tiện dạy học dẫn đến tình trạng giáo viên luôn
luôn bò động, không phát huy được tính năng động sáng tạo của mình và của học sinh. Điều đó
dẫn đến sự quá tải, làm cho học sinh không thể thấu hiểu vấn đề. Trong trường hợp này giáo
viên chỉ đóng vai trò người giới thiệu các phương tiện dạy học.

Sai sót tiếp theo của giáo viên là không bảo đảm được tính đúng lúc, đúng chỗ của việc sử
dụng phương tiện dạy học. Giáo viên thường treo hàng loạt tranh ảnh quá lâu trong lớp học.
Điều đó làm cho học sinh mất đi cảm giác mới mẻ hàng ngày khi vào lớp. Khi giáo viên giảng
bài trên các tranh ảnh khác, học sinh sẽ bò phân tán tư tưởng. Giáo viên phạm phải sai sót này
là do họ không tính đến khía cạnh cảm xúc của phương tiện dạy học, không dựa vào khả năng
đặc thù của chúng và hoàn cảnh cụ thể.
Đối với phương tiện nghe nhìn thì sai sót điển hình là việc sử dụng quá hạn chế. Giáo viên
chỉ chú trọng đến khả năng minh họa mà quên rằng chúng có thể là nguồn tin cơ bản trên lớp.
Ngoài ra nhờ phương tiện nghe nhìn giáo viên có thể tổ chức các bài tập về nhận thức và xây
dựng các tình huống nêu vấn đề.



×