Tải bản đầy đủ (.docx) (126 trang)

Luận văn đề tài tổ chức kiểm toán nội bộ trong doanh nghiệp nhà nước về xây dựng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (810.65 KB, 126 trang )

LUẬN VĂN:

Tổ chức kiểm toán nội bộ trong
doanh nghiệp nhà nước về xây dựng


Mở đầu
1. Sự cần thiết nghiên cứu đề tài
Theo thời gian, cùng với sự tiến bộ và phát triển của xã hội đã đưa nền kinh tế toàn cầu
sang một hình thái mới. Cơ chế thị trường ra đời làm cho các hoạt động tài chính và sở hữu
ngày càng đa dạng và phức tạp, chức năng kiểm tra kế toán không đáp ứng được nhu cầu của
người sử dụng thông tin. Chính vì thế, kiểm toán ra đời như một đòi hỏi khách quan để đáp
ứng nhu cầu đó. Càng ngày, kiểm toán càng trở nên có vai trò quan trọng và càng phát triển,
khẳng định là một môn khoa học, một lĩnh vực nghiên cứu riêng.
Cùng với sự phát triển chung của thế giới, từ Đại hội Đảng lần thứ VI, Việt Nam đã có
những bước chuyển đổi to lớn trong cải cách nền kinh tế từ kế hoạch hóa tập trung sang nền
kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. Quá trình đổi mới đã đưa Việt Nam từng bước
vươn lên và đạt được nhiều thắng lợi trong kinh tế và phát triển xã hội. Cùng với quá trình đổi
mới cơ chế quản lý kinh tế, các doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là các doanh nghiệp Nhà
nước đã và đang đổi mới mạnh mẽ và toàn diện, từng bước vươn lên khẳng định vai trò chủ
đạo của mình trong nền kinh tế. Thành tựu của 10 năm đổi mới gần đây của nước ta là đạt
được sự tăng trưởng kinh tế ổn định và mạnh mẽ.
Theo sự đổi mới đó, ở tầm vĩ mô, Nhà nước đã và đang cố gắng tạo dựng một môi trường
pháp lý, một hành lang pháp luật kinh tế rõ ràng và bình đẳng cho mọi thành phần kinh tế. Tuy
nhiên, một vấn đề đặt ra là cơ chế thị trường cạnh tranh gay gắt đòi hỏi các doanh nghiệp phải nỗ
lực vươn lên từ chính bản thân mình, các nhà quản trị phải có những quyết định và phương pháp
quản lý đúng đắn để đảm bảo cho việc kinh doanh có hiệu quả. Một trong những công cụ để giúp
cho các nhà quản trị có được các thông tin chính xác và kịp thời để ra các quyết định đúng đắn
của mình là hệ thống kiểm soát nội bộ. Cũng chính từ đó, kiểm toán nội bộ ra đời như một tất yếu
khách quan và cần thiết để giúp cho các nhà quản trị có đầy đủ thông tin chính xác về tình hình
hoạt động của doanh nghiệp mình, về các báo cáo tài chính được lập để làm cơ sở cho việc quản


trị doanh nghiệp. ở Việt Nam hiện nay, kiểm toán nội bộ vẫn còn là một lĩnh vực mới mẻ nhưng
nó đã khẳng định được vị thế của mình trong thời gian qua và đang là một nhu


cầu cấp thiết đối với các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp xây dựng nói
riêng trong giai đoạn mới.
Qua quá trình nghiên cứu tại các tổng công ty xây dựng có quy mô lớn, phạm vi rộng, có sự
phân cấp trong hệ thống quản lý, tuy nhiên, trong những năm gần đây, hoạt động kinh doanh của
các tổng công ty xây dựng đó chưa thực sự đạt được hiệu quả cao nhất. Điều này được lý giải là
do thiếu một hệ thống thông tin phục vụ quản lý, do việc kiểm toán nội bộ chưa được chú trọng
làm cho việc quản lý và điều hành hoạt động sản xuất - kinh doanh của công ty chưa thực sự phát
huy đúng như tiềm năng. Từ thực tế công việc kiểm toán nội bộ hiện nay ở các doanh nghiệp xây
dựng cho thấy việc nghiên cứu để xây dựng hệ thống kiểm toán nội bộ tại các doanh nghiệp xây
dựng là rất cần thiết nhằm hoàn thiện hệ thống quản lý, nâng cao hoạt động sản xuất kinh doanh
tại các doanh nghiệp cũng như phục vụ cho các mục tiêu khác của đơn vị.

2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là hệ thống hoá các vấn đề lý luận cơ bản về kiểm toán và
kiểm toán nội bộ trong các doanh nghiệp, đánh giá thực trạng về mô hình tổ chức, quản lý và
quy trình kiểm toán nội bộ tại các doanh nghiệp xây dựng đồng thời đề xuất giải pháp tổ chức
kiểm toán nội bộ tại các doanh nghiệp nhà nước về xây dựng
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
-

Đối tượng nghiên cứu: vấn đề tổ chức và hoạt động của hệ thống kiểm toán nội
bộ trong doanh nghiệp nhà nước nói chung

-

Phạm vi nghiên cứu: tổ chức kiểm toán nội bộ trong các doanh nghiệp xây dựng

Nhà nước

4. Phương

pháp

nghiên

cứu: Cơ sở lý thuyết:
-

Lý thuyết kinh tế chính trị Mác Lênin

-

Đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế xã hội

-

Các văn bản pháp quy liên quan đến kế toán và kiểm toán

Phương pháp nghiên cứu:


Phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp định tính kết hợp với nghiên cứu định
lượng, phương pháp xây dựng mô hình và phân tích hệ thống kết hợp với phương pháp đối
chiếu, phương pháp phân tích tổng hợp vấn đề.
5. Kết cấu luận văn
Tên luận văn: “Tổ chức kiểm toán nội bộ trong doanh nghiệp nhà nước về xây dựng”.
Ngoài mở đầu, kết luận kiến nghị và tài liệu tham khảo luận văn gồm 3 chương:


Chương I: Một số vấn đề lý luận cơ bản về kiểm toán và kiểm toán nội bộ
Chương II: Thực trạng kiểm toán nội bộ tại các doanh nghiệp nhà nước về xây dựng
Chương III: Tổ chức kiểm toán nội bộ tại doanh nghiệp xây dựng tại Việt Nam

CHƯƠNG I
một số vấn đề lý luận cơ bản về kiểm toán
và kiểm toán nội bộ
1.1

Một số vấn đề chung về kiểm toán

1.1.1

Khái niệm kiểm toán
Nhiều nhà nghiên cứu lịch sử cho rằng kiểm toán ra đời từ thời La Mã cổ đại vào thế kỷ

thứ III trước Công nguyên. Chính vì vậy, kiểm toán có gốc từ La tinh “Audit” nguyên bản là
“Audire”, gắn liền với nền văn minh của Ai Cập và La Mã cổ đại. Tuy kiểm toán ra đời đã
hơn 2000 năm qua, nhưng nó cũng chỉ phát triển mạnh mẽ từ giữa thế kỷ XIX. Từ “Audire”
có nghĩa là “nghe”. Hình ảnh kiểm toán cổ điển thường được tiến hành bằng cách người ghi
chép về tài sản đọc to lên cho một bên độc lập “nghe” rồi sau đó chấp nhận thông qua việc
chứng thực. ở Việt Nam, thuật ngữ “Kiểm toán” xuất hiện trở lại, và được sử dụng nhiều từ
những năm đầu của thập kỷ 90. Trước năm 1975, ở miền Nam Việt Nam đã có những hoạt
động của công ty kiểm toán nước ngoài. Cho đến nay ở Việt Nam cũng như trên thế giới còn
tồn tại nhiều cách hiểu khác nhau về kiểm toán. Tuy nhiên khái niệm kiểm toán được chấp
nhận phổ biến hiện nay là:
“Kiểm toán là quá trình các kiểm toán viên độc lập và có năng lực tiến hành thu thập
và đánh giá các bằng chứng về các thông tin được kiểm toán nhằm xác nhận và báo cáo về
mức độ phù hợp giữa các thông tin này với các chuẩn mực đã được thiết lập”

Các thuật ngữ trong định nghĩa này được hiểu như sau:


Các kiểm toán viên độc lập và có năng lực: Tính độc lập giúp cho kiểm toán viên trong
quá trình tư duy, lập kế hoạch và thực hiện kiểm toán không bị ảnh hưởng và chi phối bởi bất
kỳ yếu tố nào có thể dẫn đến làm lệch lạc kết quả kiểm toán. Biểu hiện của sự độc lập cụ thể
là độc lập về chuyên môn, độc lập về kinh tế và độc lập trong các mối quan hệ gia đình. Độc
lập về mặt chuyện môn được thể hiện: trong hoạt động kiểm toán, kiểm toán viên chỉ tuân
theo chuẩn mực chuyện môn và luật pháp không chỉ bị chi phối bởi những tác động khác. Tuỳ
theo nội dung và tính chất của mỗi loại kiểm toán cụ thể khác nhau và mức độ độc lập có thể
đòi hỏi khác nhau, tuy nhiên yêu cầu về độc lập là đòi hỏi thiết yếu đối với mọi loại kiểm toán
viên và tổ chức kiểm toán. Nếu độc lập là điều kiện cần thì năng lực của kiểm toán viên là
điều kiện đủ để đảm bảo cho cuộc kiểm toán được thực hiện thành công. Năng lực kiểm toán
gồm những yếu tố, kỹ năng, phẩm chất về chuyên môn nghiệp vụ mà kiểm toán viên cần phải
có để tổ chức và thực hiện được cuộc kiểm toán có hiệu quả.
Thu nhập và đánh giá các bằng chứng: Bằng chứng kiểm toán là các loại tài liệu,
thông tin mà các kiểm toán viên sử dụng để phân tích, xem xét và đưa ra kết luận trên đó. Quá
trình kiểm toán thực chất là quá trình các kiểm toán viên áp dụng các phương pháp kỹ thuật
kiểmt toán để thu thập và đánh giá các bằng chứng kiểm toán làm cơ sở cho các ý kiến nhận
xét của họ.
Các thông tin được kiểm toán: Đó là những thông tin đã có sẵn nguồn bằng chứng cho
kiểm toán và có căn cứ làm cơ sở cho việc đánh giá thông tin. Thông tin được kiểm toán có
thể là những thông tin được lượng hoá hoặc những thông tin có thể so sánh, đối chiếu hay
kiểm tra lại được, có thể là những thông tin tài chính hoặc những thông tin phi tài chính.
Các chuẩn mực đã được xây dựng và thiết lập: Các chuẩn mực là cơ sở, là thước đó để
đánh giá các thông tin trong quá trình kiểm toán. Các chuẩn mực này rất phong phú và đa
dạng tuỳ thuộc vào từng loại kiểm toán, như quy định trong các văn bản pháp quy, các tiêu
chuẩn định mức cho các lĩnh vực khác nhau, các chuẩn mực kế toán cho mỗi quốc gia... tuỳ
từng loại kiểm toán mà sử dụng các chuẩn mực này luôn luôn phải là các chuẩn mực có hiệu
lực cho cuộc kiểm toán đó.



Đơn vị được kiểm toán: Đây có thể là một tổ chức pháp nhân (một doanh nghiệp nhà
nước, công ty cổ phần, một doanh nghiệp tư nhân), hoặc không có tư cách pháp nhân (một
phân xưởng, tổ đội hoặc một cá nhân).
Báo cáo kết quả: Đây là công việc cuối cùng của một cuộc kiểm toán, thể hiện ý kiến
nhận xét, kết luận của kiểm toán viên và cung cấp thông tin cho người đọc, người sử dụng về
mức độ tương quan và phù hợp giữa các thông tin của một đơn vị với các chuẩn mực đã được
xây dựng. Về hình thức, báo cáo kiểm toán có thể khác nhau và có thể thay đồi từ loại báo cáo
phức tạp bằng văn bản đến báo cáo bằng miệng khi kiểm toán phục vụ cho một người nào đó.
Như vậy, thực chất của kiểm toán nói chung là việc kiểm tra và cho ý kiến nhận xét về
mức độ phù hợp của thông tin được kiểm toán so với các tiêu chuẩn, chuẩn mực của thông tin
đã được thiết lập; việc kiểm tra này được thực hiện bởi người độc lập và có năng lực. Nói
cách khác hoạt động kiểm toán là hoạt động thẩm định thông tin của kiểm toán viên.
1.1.2

Chức năng của kiểm toán
Thông qua định nghĩa nói chung về kiểm toán, ta có thể rút ra hai chức năng cơ bản của

kiểm toán như sau:
Thứ nhất: Chức năng cơ bản đầu tiên của kiểm toán đó là kiểm tra và xác nhận hay còn
gọi là chức năng xác minh.
Đây là chức năng được hình thành đầu tiên gắn liền với sự ra đời, hình thành và phát
triển của kiểm toán. Bản thân chức năng này không ngừng phát triển mạnh mẽ cùng với sự
phát triển của xã hội loài người nói chung và kiểm toán nói riêng, đồng thời chức năng này
luôn thể hiện ở các mức độ khác nhau trong từng giai đoạn lịch sử nhất định. Ngay từ thời kỳ
đầu, khi kiểm toán ra đời chức năng kiểm tra và xác nhận được thể hiện dưới dạng chứng thực
báo cáo tài chính (kiểm toán cổ điển), về sau chức năng này phát triển mạnh mẽ và được thể
hiện cao hơn dưới dạng báo cáo kiểm toán.
Thứ hai: Chức năng trình bày ý kiến (hay chức năng tư vấn). Đây là chức năng phát sinh

và hình thành sau chức năng xác minh. Chức năng trình bày ý kiến cũng có quá trình phát triển
riêng của nó. Cùng với quá trình phát triển của kiểm toán, chỉ một chức năng xác minh, kiểm toán
không thể đáp ứng được yêu cầu của nhà quản lý nên chính từ yêu cầu thực tiễn quản lý đặt ra, đã
xuất hiện chức năng tư vấn. ở thời kỳ ban đầu khi mới hình thành, chức năng này biểu


hiện dưới dạng thư quản lý. Trong quá trình phát triển, sự biểu hiện của tư vấn cũng rất khác
nhau theo từng giai đoạn lịch sử nhất định. Thực tế, chức năng này chỉ phát triển mạnh mẽ
vào giữa thế kỷ XX, nhưng lại giữ một vị trí đặc biệt quan trọng trong một nền kinh tế thị
trường phát triển cao như hiện nay.
Qua hai chức năng của kiểm toán ta thấy kiểm toán nhìn nhận đánh giá một cách toàn diện
cả về quá khứ và tương lai. Về quá khứ, đối với các sự kiện đã nảy sinh, kiểm toán với tư cách là
người kiểm toán xác minh sự việc đã hoàn thành nhằm đáp ứng yêu cầu của người sử dụng thông
tin. Như vậy, chức năng kiểm toán xác nhận hay xác minh là chức năng hướng về quá khứ. Mặt
khác, để đáp ứng yêu cầu của người sử dụng thông tin trong tương lai, kiểm toán lại có thêm chức
năng thứ hai đó là chức năng tư vấn hay chức năng trình bày ý kiến, chức năng này hướng về
tương lai. Hai chức năng của kiểm toán hình thành và phát triển hoàn toàn khác nhau tuỳ theo
từng giai đoạn lịch sử nhất định. ở thời kỳ đầu, người ta thường chỉ tập trung quan tâm đến chức
năng kiểm tra xác nhận. Nhưng khi xã hội càng phát triển, người ta càng quan tâm nhiều hơn đến
chức năng tư vấn của kiểm toán, đó là việc nhìn nhận, định hướng cho một tương lai đúng đắn để
có những quyết định tối ưu và giành được thắng lợi trong cạnh tranh. Chính vì vậy, ở giai đoạn
hiện nay, nhằm đáp ứng yêu cầu cung cấp thông tin trong tương lai không chỉ riêng có chức năng
của kiểm toán, mà còn có hàng loạt các tổ chức khác nhau cùng thực hiện chức năng này như: các
tổ chức tư vấn về thuế, tư vấn về pháp luật kinh doanh...
1.1.3

Đối tượng của kiểm toán
Xã hội ngày càng phát triển, kiểm toán càng khẳng định được vị trí, vai trò của mình

trong quản lý. Kiểm toán là một môn khoa học nên có đối tượng và phương pháp nghiên cứu

riêng.
Xuất phát từ lịch sử ra đời, hình thành và phát triển của kiểm toán, ban đầu kiểm toán chỉ
bó hẹp và giới hạn về đối tượng trong việc kiểm tra, đánh giá về tính trung thực hợp lý của báo
cáo tài chính. Cùng với sự phát triển của xã hội và yêu cầu của quản lý thực hiện, con người
không chỉ quan tâm đến báo cáo tài chính của đơn vị mà ngày càng quan tâm nhiều hơn sang các
lĩnh vực phi tài chính, lĩnh vực hiệu quả, hiệu lực và hiệu năng của hoạt động. Hay nói cách khác
kiểm toán đã quan tâm một cách đầy đủ toàn diện mọi khía cạnh hoạt động của con người,


chính điều đó đã làm đối tượng của kiểm toán ngày càng phong phú, đa dạng và toàn diện trên
các mặt cụ thể như sau:
Báo cáo tài chính và thực trạng về tài sản, nghiệp vụ kinh tế phát sinh: Ngay từ khi
mới hình thành, kiểm toán chỉ tiến hành thực hiện kiểm toán báo cáo tài chính. Khi đó, đối
tượng trực tiếp của kiểm toán là các báo cáo tài chính. Để có cơ sở đưa ra kết luận về báo cáo
tài chính (như: bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả kinh doanh, báo cáo lưu chuyển tiền tệ,
thuyết minh báo cáo tài chính...). Khi đánh giá về các tài liệu kế toán, Kiểm toán viên cần phải
đánh giá trên các mặt:
-

Tính hiện thực của các thông tin kế toán. Nói cách khác đây chính là tính có thật của tài

sản và tính có thật của nghiệp vụ kinh tế phát sinh (tài sản thực tế tồn tại, thuộc quyền sở hữu
của đơn vị và nghiệp vụ kinh tế thực tế phát sinh).
-

Tính hợp pháp hơp lý của tài liệu kế toán này

-

Sự phù hợp giữa tài liệu kế toán với thực trạng hoạt động của doanh nghiệp


-

Độ tin cậy của tài liệu kế toán.
Kiểm toán cổ điển thường chỉ quan tâm đến các tài liệu kế toán về tính hợp pháp, hợp

lý. Còn độ tin cậy của tài liệu kiểm toán trong giai đoạn đầu chưa được đề cập đầy đủ nhưng
càng về sau này, độ tin cậy lại càng được kiểm toán quan tâm nhiều hơn trong quá trình xem
xét, đánh giá các tài liệu kế toán.
Cùng với sự phát triển của xã hội, trong kiểm toán báo cáo tài chính người ta đã biết
quan tâm nhiều hơn đến thực trạng hoạt động kinh tế tài chính của đơn vị nhằm đánh giá một
cách đúng đắn hơn về báo cáo tài chính.
Hoạt động kinh tế tài chính là hoạt động dùng tiền làm thước đo để đo lường, đánh giá.
Trong kiểm toán báo cáo tài chính, hoạt động kinh tế tài chính của đơn vị cũng dần dần được
quan tâm nhiều hơn cùng với sự phát triển của xã hội nói chung và kiểm toán nói riêng. Sự
quan tâm này nhằm xây dựng một cơ sở để đánh giá một cách đúng đắn độ tin cậy và sự phù
hợp giữa báo cáo tài chính, tài liệu kế toán với thực trạng hoạt động kinh tế của đơn vị.
Khi đánh giá hoạt động này, người ta thường quan tâm đến khía cạnh:
- Sự hợp pháp, hợp lý của hoạt động tức là hoạt động phải tuân thủ pháp luật, chính sách chế
độ và phù hợp với phạm vi hoạt động của đơn vị.


- Hoạt động kinh tế, tài chính phải tuân thủ theo những quy luật chung. Không thể có một
hoạt động kinh tế đi ngược, trái với quy luật, không thể có một đơn vị hoạt động kinh doanh
với mục đích là lỗ...
Hoạt động kinh tế có sự phù hợp với quy luật cũng là nền tảng đánh giá kiểm toán viên
về tính hợp pháp, hợp lý và độ tin cậy của báo cáo tài chính: hoạt động kinh tế tài chính phải
tiết kiệm, hoạt động kinh tế tài chính phải có kế hoạch
Trong kiểm toán hiện đại ngày nay, khi kiểm toán báo cáo tài chính người ta đã biết
quan tâm nhiều hơn đến thực trạng hoạt động kinh tế tài chính của đơn vị. Việc kiểm tra, đánh

giá thực trạng này được tiến hành bởi một loạt những phương pháp kỹ thuật nghiệp vụ kiểm
toán như: phỏng vấn, quan sát, kiểm kê, xác nhận...
Thực trạng về tài sản và nghiệp vụ kinh tế phát sinh trong mỗi doanh nghiệp, đơn vị
cũng có sự khác nhau. Trong quá trình kiểm toán, chuyên gia kiểm toán bắt buộc phải có sự
hiểu biết về thực trạng tài sản và nghiệp vụ kinh tế phát sinh cũng như quá trình kiểm soát về
từng loại tài sản và từng loại nghiệp vụ kinh tế phát sinh ở mỗi đơn vị để có thể đưa ra ý kiến
nhận xét phù hợp. Nhiều trường hợp nếu chuyên gia kiểm toán thiếu sự hiểu biết về một loại
tài sản hoặc một loại nghiệp vụ nào đó thì phải nhờ đến sự xác nhận của chuyên gia khác.
Thực trạng việc chấp hành luật pháp, chính sách, chế độ và những quy định:
Cùng với sự phát triển của kiểm toán báo cáo tài chính, đối tượng kiểm toán ngày càng
được mở rộng và thâm nhập vào nhiều lĩnh vực. Kiểm toán không chỉ dừng lại ở kiểm toán
báo cáo tài chính mà còn tiến hành kiểm toán tình hình chấp hành và thực hiện các chính sách,
chế độ và các quy định có tính nguyên tắc. Chính từ thực trạng chấp hành và thực hiện luật
pháp chính sách, chế độ và những quy định là đối tượng của kiểm toán. Một loại kiểm toán
mới được hình thành từ đó, đó là kiểm toán tuân thủ, loại kiểm toán này dần dần được tiến
hành đan xen trong kiểm toán báo cáo tài chính. Cho đến ngày nay kiểm toán tuân thủ luôn
được tiến hành song song trong kiểm toán báo cáo tài chính.
Tính hiệu lực, hiệu quả và tính kinh tế của hoạt động:
Ngày nay kiểm toán đã phát triển mạnh mẽ trong nhiều lĩnh vực tài chính, lĩnh vực thực
hiện và chấp hành luật pháp, chính sách chế độ. Không những thế, kiểm toán còn phát triển mạnh
mẽ trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh, nhất là kiểm toán tính hiệu lực, hiệu quả và tính


kinh tế của hoạt động nhằm đem lại hiệu quả cao trong quản lý, chiến thắng trong cạnh tranh
và tối đa hoá lợi nhuận. Sự quan tâm của xã hội nói chung và kiểm toán nói riêng đã dần dần
xoay chuyển từ việc nhìn nhận đánh giá về quá khứ sang đánh giá và hướng về tương lai
nhiều hơn. Trên thế giới hiện nay, đặc biệt đối với kiểm toán nội bộ và kiểm toán nhà nước đã
tập trung và đi sâu hơn vào tính hiệu lực, hiệu quả và tính kinh tế của hoạt động. Chính vì vậy,
tính hiệu lực, hiệu quả và tính kinh tế của hoạt động là đối tượng kiểm toán chủ yếu trong
kiểm toán hiện đại ngày nay, nhất là trong các lĩnh vực phi sản xuất kinh doanh.

1.1.4 Phân loại kiểm toán:
1.1.4.1 Phân loại kiểm toán theo mục đích của kiểm toán (hay theo đối tượng trực tiếp của

kiểm toán):
Căn cứ vào mục đích cụ thể (hay đối tượng trực tiếp) của kiểm toán, người ta thường
chia kiểm toán thành ba loại là: kiểm toán hoạt động (Performance Audit), kiểm toán tuân thủ
(Compliance Audit) và kiểm toán báo cáo tài chính (Audit of Financial Statements).
Kiểm toán hoạt động:
Kiểm toán hoạt động là loại kiểm toán nhằm để xét và đánh giá về tính kinh tế, tính
hiệu lực và hiệu quả của các hoạt động được kiểm toán.
Tính kinh tế là sự tiết kiệm các nguồn lực. hay đây còn gọi là nguyên tắc tối thiểu,
nghĩa là để đạt được mục tiêu nhất định cần dùng một lượng nguồn lực ít nhất (kể cả trong
mua sắm và sử dụng).
Tính hiệu lực là khả năng về mức độ hoàn thành các nhiệm vụ và mục tiêu đã xác định
của đơn vị.
Tính hiệu quả là việc đạt được kết quả cao nhất với một lượng nguồn lực nhất định,
hay đay còn gọi là nguyên tắc tối đa.
Có rất nhiều lĩnh vực khác nhau cần phải kiểm tra và theo dõi về tính kinh tế, tính hiệu lực
và hiệu quả nên đối tượng của kiểm toán hoạt động cũng rất phong phú và đa dạng. Chúng không
chỉ giới hạn trong lĩnh vực tài chính mà còn có thể bao gồm nhiều lĩnh vực và hoạt động khác
nhau như việc đánh giá cơ cấu tổ chức, một phương án kinh doanh, một quy trình công nghệ, một
hệ thống máy tính, hay một loại tài sản, thiết bị mới đưa vào hoạt động...Việc xác


định các tiêu chuẩn, chuẩn mực để đánh giá về tính kinh tế, tính hiệu quả và hiệu quả của các
hoạt động là việc làm rất khó khăn, việc lượng hoá các mặt trên thành các tiêu chuẩn để đánh
giá là việc làm mang nặng tính chủ quan. Do vậy việc đánh giá kết quả trong kiểm toán hoạt
động cũng hết sức chủ quan. Để thực hiện cuộc kiểm toán hoạt động đòi hỏi người kiểm toán
viên phải am hiểu nhiều lĩnh vực khác nhau như kế toán, tài chính, kinh tế, khoa học kỹ
thuật...”Sản phẩm” của kiểm toán hoạt động là một bản báo cáo cho người quản lý về kết quả

kiểm toán và những ý kiến đề xuất cải tiến hoạt động.
Kiểm toán tuân thủ:
Kiểm toán tuân thủ là loại kiểm toán nhằm để xem xét đơn vị được kiểm toán có tuân
thủ các quy định mà các cơ quan có thẩm quyền cấp trên hoặc cơ quan chức năng của nhà
nước hoặc cơ quan chuyên môn đề ra hay không.
Đối tượng của kiểm toán tuân thủ cũng khá linh hoạt. Nó có thể là việc tuân thủ các quy
tắc do các cơ quan Nhà nước cấp trên đề ra, như kiểm tra đánh giá về việc tuân thủ các quy định
về thuế giá trị gia tăng, các quy định về bảo vệ môi trường bảo vệ người lao động... hoặc việc tuân
thủ những quy định do người quản lý cấp trên trong đơn vị đề ra, hoặc nó còn là việc tuân thủ
những quy định do người quản lý cấp trên trong đơn vị đề ra, hoặc nó còn là việc tuân thủ những
quy định của cơ quan chuyên môn đề ra như việc tuân thủ các quy trình và thủ tục giải ngân của
kho bạc nhà nước, việc tuân thủ các điều kiện và thủ tục vay vốn của ngân hàng... Các tiêu chuẩn,
chuẩn mực để đánh giá thông tin ở loại kiểm toán này không phức tạp như kiểm toán hoạt động,
chúng thường được xác định một cách dễ dàng gắn liền với các thủ tục, quy tắc được kiểm toán.
Thông thường loại kiểm toán được thực hiện để phục vụ cho nhu cầu của bản thân các đơn vị,
hoặc nhu cầu của cơ quan quản lý cấp trên nên kết quả của kiểm toán tuân thủ nói chung được báo
cáo cho người có trách nhiệm trong đơn vị được kiểm toán hoặc cơ quan quản lý cấp trên hơn là
cho một phạm vi rộng người sử dụng. Trường hợp việc kiểm toán do một khách hàng, không phải
đơn vị được kiểm toán có nhu cầu, như việc kiểm tra tính tuân thủ các quy định về thuế thu nhập
doanh nghiệp ở một đơn vị do cơ quan thuế thuê mướn, thì kết quả kiểm toán sẽ được báo cáo cho
cơ quan có nhu cầu thuê mướn kiểm toán.

Kiểm toán báo cáo tài chính:


Kiểm toán báo cáo tài chính là loại kiểm toán nhằm kiểm tra và xác nhận về tính trung
thực, hợp lý của các báo cáo tài chính được kiểm toán.
Báo cáo tài chính được kiểm toán, thường là bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả kinh
doanh, báo cáo lưu chuyển tiền tệ và bản thuyết minh báo cáo tài chính của các đơn vị tổ chức
kinh doanh. Ngoài ra, các báo cáo tài chính của các đơn vị khác như bảng cân đối kế toán, báo cáo

quyết toán vốn, ngân sách của các đơn vị hành chính, sự nghiệp, của các dự án đầu tư...

cũng là những đối tượng thông tin của kiểm toán báo cáo tài chính. Tiêu chuẩn, chuẩn mực
cho việc đánh giá thông tin của loại kiểm toán này thường là các chuẩn mực kế toán, các quy
định pháp lý về kế toán và các quy định khác có liên quan.
ở các nước có nền kinh tế thị trường, báo cáo tài chính của các doanh nghiệp được
nhiều người quan tâm và nó cũng có thể được kiểm toán bởi nhiều tổ chức kiểm toán khác
nhau, đặc biệt là các tổ chức kiểm toán chuyên nghiệp.
1.1.4.2 Một số cách phân loại khác:
Phân loại kiểm toán theo loại hình tổ chức kiểm toán:
Theo loại hình tổ chức kiểm toán, kiểm toán được chia làm ba loại là kiểm toán nội bộ,
kiểm toán Nhà nước và kiểm toán độc lập. Kiểm toán nội bộ được tổ chức bên trong mỗi đơn
vị thực hiện kiểm tra và cho ý kiến về các đối tượng được kiểm toán nhằm giúp đơn vị thực
hiện tốt cách chức năng và nhiệm vụ của mình. Kiểm toán nhà nước là cơ quan kiểm tra tài
chính tối cao của quốc gia, thực hiện việc kiểm tra và báo cáo về việc quản lý và sử dụng các
nguồn lực của nhà nước ở các đơn vị. Kiểm toán độc lập được tổ chức dưới dạng doanh
nghiệp kiểm toán (công ty hay hãng kiểm toán) nhằm cung cấp dịch vụ kiểm toán và các dịch
vụ khác có tính chuyên môn xã hội.
Phân loại kiểm toán theo mối quan hệ giữa chủ thể và khách thể kiểm toán:
Theo tiêu thức này, kiểm toán được chia thành kiểm toán bên trong (nội kiểm) và kiểm
toán bên ngoài (ngoại kiểm). Kiểm toán bên trong là những hoạt động kiểm toán được thực
hiện bởi chính những người trong đơn vị (kiểm toán nội bộ). Còn kiểm toán bên ngoài là
những hoạt động kiểm toán được thực hiện bởi những người bên ngoài đơn vị (kiểm toán độc
lập hoặc có thể là kiểm toán Nhà nước).
Phân loại kiểm toán theo quan hệ pháp lý đối với khách thể kiểm toán:


Theo mối quan hệ này, kiểm toán được chia thành kiểm toán bắt buộc và kiểm toán tự
nguyện. Kiểm toán toán bắt buộc là các đơn vị được kiểm toán (khách thể kiểm toán) phải chịu sự
kiểm toán bắt buộc theo luật định. Kiểm toán tự nguyện là loại kiểm toán không bắt buộc đối với

đơn vị được kiểm toán nhưng đơn vị này có nhu cầu và tự nguyện thực hiện việc kiểm toán.

Phân loại kiểm toán theo tính chu kỳ của kiểm toán:
Theo cách phân loại này, kiểm toán được chia thành kiểm toán thường kỳ, kiểm toán
định kỳ và kiểm toán bất thường.
Ngoài ra, còn có nhiều các khác để phân loại kiểm toán như: theo thời điểm kiểm toán
với thời điểm phát sinh của các nghiệp vụ, sự kiện có kiểm toán trước (tiền kiểm), kiểm toán
trong (kiểm toán hiện hành) và kiểm toán sau (hậu kiểm); theo tính chất và phạm vi tiến hành
kiểm toán có kiểm toán toàn diện và kiểm toán chuyên đề v.v..
1.1.5 Khái quát chuẩn mực quốc tế về dịch vụ kiểm toán và chứng thực
1.1.5.1

Hiệp hội kế toán quốc tế (IFAC)
Thông thường mỗi quốc gia có hội kế toán kiểm toán hành nghề. ở các nước phương

Tây, những hội nghề nghiệp này là các tổ chức độc lập, chịu trách nhiệm soạn thảo và ban
hành các chuẩn mực kiểm toán còn ở các nước đang phát triển các tổ chức này, mặc dù là tổ
chức phi Chính phủ, nhưng chịu sự chi phối của Bộ Tài chính. Ví dụ như ở Mỹ, ban soạn thảo
Chuẩn mực Kiểm toán “ASB’ là uỷ ban chuyên môn cao cấp của Hiệp hội Kế toán Hoa Kỳ
(AICPA) chịu trách nhiệm ban hành các chuẩn mực và hướng dẫn thực hiện các dịch vụ kiểm
toán, chứng nhận và kiểm soát chất lượng. Hiệp hội IFAC ‘Hiệp hội kế toán quốc tế’ là một tổ
chức kế toán quốc tế được biết đến với tư cách là một tổ chức uy tín về soạn thảo và ban hành
các chuẩn mực quốc tế và các nguyên tắc và thông lệ kiểm toán. IFAC được thành lập vào
năm 1977. Liên đoàn có nhiệm vụ thúc đẩy và phát triển ngành thông qua ban hành các chuẩn
mực được chấp nhận chung nhằm hỗ trợ công tác kiểm toán đạt chất lượng dịch vụ cao hơn
phục vụ lợi ích công cộng. IFAC hiện có hơn 150 thành viên từ kháp mọi nơi trên thế giới, đại
diện cho hơn 2.4 triệu kế toán làm việc trong các lĩnh vực giáo dục, tư nhân, nhà nước, các
ngành thương mại và công nghiệp.
Cơ cấu và hoạt động của IFAC gồm:
-


ủy ban Tuân thủ


-

ủy ban Giáo dục

-

ủy ban Đạo đức nghề nghiệp

-

Ban chuẩn mực chứng thực và kiểm toán quốc tế (IAASB)

-

Ban kế toán công lập quốc tế

-

Kế toán hành nghề kinh doanh

-

ủy ban Kiểm toán chuyển đổi
IAASB hoạt động với tư cách là cơ quan soạn thảo và ban hành các chuẩn mực độc lập

dưới sự bảo trợ của IFAC. Các chuẩn mực IAASB là nguyên tắc cơ bản và thông lệ về kiểm

toán và các dịch vụ liên quan. IAASB cũng ban hành các Chuẩn mực thực hành nhằm “hướng
dẫn thực hiện” và “hỗ trợ thực tiễn” khi áp dụng các chuẩn mực và lựa chọn thông lệ kiểm
toán phù hợp nhất.
Uỷ ban Chuẩn mực kế toán nhà nước quốc tế (IPSASB) chịu trách nhiệm soạn thảo và
ban hành các nguyên tắc kế toán, kiểm toán và các yêu cầu về báo cáo tài chính của chính
phủ, quốc gia, trung ương và địa phương, các cơ quan trực thuộc chính phủ và các tổ chức
tương đương. IPSASB ban hành các Chuẩn mực Kế toán nhà nước quốc tế.
Uỷ ban Đạo đức nghề nghiệp chịu trách nhiệm xây dựng khung quy định về đạo đức nghề
nghiệp và nâng cao khả năng nhận thức và sự chấp hành của nước thành viên. Uỷ ban đạo đức
nghề nghiệp ban hành Chuẩn mực Đạo đức nghề nghiệp IFAC cho các kế toán hành nghề.

Uỷ ban Giáo dục hướng dẫn, nghiên cứu và giúp đỡ các kế toán chuyên nghiệp trao đổi
thông tin, đảm bảo các nhân viên kế toán được đào tạo đầy đủ kiến thức có khả năng chịu
trách nhiệm trước cổ đông và người tuyển dụng, đồng thời góp phần hoà hợp môi trường kế
toán chuyên nghiệp trên thế giới. Uỷ ban Giáo dục ban hành các Chuẩn mực Giáo dục quốc
tế. Ba uỷ ban còn lại gồm Uỷ ban Tuân thủ, Uỷ ban Kiểm toán chuyển đổi và kế toán hành
nghề kinh doanh chịu trách nhiệm thực thi chuẩn mực (Uỷ ban tuân thủ), trợ giúp các công ty
kiểm toán trong quá trình chuyển đổi (Uỷ ban Kiểm toán chuyển đổi) và hỗ trợ các kế toán
chuyên nghiệp liên kết và trao đổi thông tin (Kế toán hành nghề kinh doanh);
1.1.5.2

tế.

Cơ cấu hệ thống chuẩn mực của Ban Chuẩn mực chứng thực và kiểm toán quốc


Cơ cấu hệ thông chuẩn mực của IAASB bao gồm các chuẩn mực về kiểm toán, chứng
thực và các dịch vụ liên quan thực hiện phù hợp với các chuẩn mực quốc tế. IAASB quyết
tâm với mục tiêu xây dựng một bộ các chuẩn mực quốc tế . IAASB quyết tâm với mục tiêu
xây dựng một bộ các chuẩn mực quốc tế được chấp nhận chung, vì vậy IAASB đã hợp tác với

các cơ quan soạn thảo và ban hành chuẩn mực quốc gia và quốc tế và biến hệ thống các chuẩn
mực quốc gia va quốc tế và biến hệ thống các chuẩn mực của IAASB được chấp nhận toàn
cầu. Cơ cấu hệ thống các chuẩn mực của IAASB gồm những vấn đề sau:
-

Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp IFAC cho các kế toán hành nghề là nền tảng cho tất cả

các chuẩn mực về đạo đức đã được thống nhất với các chuẩn mực đạo đức của các nước thành
viên.
-

Các chuẩn mực quốc tế về kiểm soát chất lượng (ISQC) áp dụng cho tất cả các dịch vụ

được đề cập trong Chuẩn mực Hợp đồng của IAASB. Cho đến nay, chưa có chuẩn mực nào
được ban hành.
-

Hai chuẩn mực quốc tế về các dịch vụ liên quan (ISRS) áp dụng cho dịch vụ cho dịch vụ

tổng hợp thông tin tài chính và dịch vụ kiểm tra thông tin tài chính trên cơ sở các thủ tục thoả
thuận trước và các hợp đồng dịch vụ liên quan khác đã được IAASB quy định.
-

Ba mươi sáu chuẩn mực Kiểm toán quốc tế áp dụng cho hợp đồng kiểm toán thông tin

tài chính.
-

Mười bốn Chuẩn mực quốc tế cho dịch vụ soát xets (ISRE) áp dụng cho hợp đồng soát


xét các thông tin tài chính.
-

Ba Chuẩn mực quốc tế cho dịch vụ chứng thực (ISAE) áp dụng đối với dịch vụ chứng

thực cho vụ việc, không phải vụ việc liên quan thông tin tài chính.
ISA, ISAE và ISRS thuộc vào các chuẩn mực cung cấp dịch vụ của IAASB
1.2

Một số khái niệm về kiểm toán nội bộ

1.2.1

Sự hình thành và phát triển của kiểm toán nội bộ.
Hoạt động của kiểm toán nói chung đã xuất hiện từ lâu trên thế giới. Sự phát triển về kinh

tế và xã hội của mỗi quốc gia qua thời gian đã làm cho hoạt động kiểm toán ngày càng phát
triển và trở thành nhu cầu không thể thiếu được của các quốc gia.


So với kiểm toán độc lập và kiểm toán nhà nước thì loại hình kiểm toán nội bộ ra đời muộn
hơn, bắt đầu từ năm 1940 mới xuất hiện khái niệm kiểm toán nội bộ. Nhưng nó có sự phát
triển rất mạnh mẽ đặc biệt trong công việc quản trị doanh nghiệp. Các đơn vị kinh tế cơ sở
phát hiện ra rằng hệ thống kiểm toán nội bộ là phương tiện quản lý có hiệu quả và là công cụ
đắc lực giúp cho các nhà quản lý giám sát được toàn bộ các hoạt động của đơn vị mình.
Không những thế, trong các cơ quan nhà nước việc hình thành các bộ phận kiểm toán nội bộ
để kiểm tra thường xuyên các hoạt động trong cơ quan đang tỏ ra có nhiều tác dụng thiết thực.
Với sự lớn mạnh và gia tăng quy mô các doanh nghiệp vài thập niên gần đây, tầm quan
trọng kiểm toán nội bộ cũng lớn mạnh một cách tương ứng, làm cho nó trở thành yếu tố chính
trong việc thiết lập hệ thống kiểm soát và kiểm tra nội bộ. ở một số nước, cơ quan lập pháp đã

đưa ra những văn bản pháp luật nhằm tạo ra hành lang pháp lý để tạo điều kiện cho kiểm toán
nội bộ hoạt động và phát triển. Bộ phận kiểm toán nội bộ đã phát triển cực nhanh ở Mỹ cũng
như ở châu Âu từ những năm 60. Sự phát triển này đã được khuyến khích bởi sự thành lập của
tổ chức Kiểm toán nội bộ (IIA) năm 1941 tại NewYork, tổ chức này đã xác định bản chất,
mục tiêu và phạm vi hoạt động của bộ phận kiểm toán nội bộ. Tổ chức kiểm toán nội bộ là
thành viên của Liên đoàn kế toán quốc tế (IFAC) và INTOSAI, đồng thời nó chuyên sâu
nghiên cứu, đào tạo, bồi dưỡng cấp chứng chỉ cho các kiểm toán viên nội bộ (CIA).
1.2.2 Khái niệm kiểm toán nội bộ
Kiểm toán nội bộ là một chức năng thẩm định độc lập được thiết lập bên trong một tổ
chức để xem xét và đánh giá các hoạt động của tổ chức đó, với tư cách là một sự trợ giúp đối
với tổ chức đó.
Các thuật ngữ sử dụng trong định nghĩa trên:
Kiểm toán nội bộ là công việc kiểm toán do tổ chức và nhân viên của tổ chức tiến
hành. Như vậy là, công việc kiểm toán ở đây khác với công việc do kiểm toán công chứng
bên ngoài thực hiện.
Thuật ngữ độc lập nói lên rằng công việc kiểm toán không bị những rành buộc có thể
hạn chế đáng kể phạm vi và hiệu quả của việc thẩm tra, hoặc làm chậm trễ việc báo cáo những
phát hiện và kết luận.


Thuật ngữ thẩm định khẳng định chủ đề đánh giá của kiểm toán viên nội bộ khi triển
khai những kết luận
Thuật ngữ được thiết lập xác nhận là tổ chức đã định rõ vai trò của kiểm toán nội bộ.
Các thuật ngữ xem xét và đánh giá nói rõ vai trò hành động của kiểm toán viên nội bộ,
một là điều tra phát hiện sự việc, hai là nhận định đánh giá.
Cụm từ hoạt động của tổ chức khẳng định phạm vi và quyền hạn rộng của công việc
kiểm toán nội bộ khi tác động đến tất cả các hoạt động của tổ chức.
Thuật ngữ trợ giúp khẳng định sự giúp đỡ và hỗ trợ là kết quả cuối cùng của kiểm toán
nội bộ.
Cụm từ đối với tổ chức đó khẳng định toàn bộ phạm vi giúp đỡ cho cả tổ chức, bao

gồm toàn thể nhân viên, Hội đồng giám đốc và các cổ đông của công ty.
1.2.3

Mục đích, yêu cầu của kiểm toán nội bộ
Mục đích của kiểm toán nội bộ là thực hiện việc kiểm tra, kiểm soát chất lượng hoạt

động và chất lượng thông tin kinh tế, tài chính của doanh nghiệp, giúp cho công tác điều hành
của chủ sở hữu, nhà quản lý doanh nghiệp trong việc giúp phát hiện và khắc phục khâu yếu,
ngăn ngừa sai sót, gian lận trong hoạt động kinh tế, tài chính của doanh nghiệp. Đồng thời kết
quả kiểm toán nội bộ sẽ góp phần đắc lực và hiệu quả vào việc đảm bảo thông tin kinh tế, tài
chính cung cấp cho các đối tượng bên ngoài doanh nghiệp.
1.2.4

Chức năng của kiểm toán nội bộ
Kiểm toán nội bộ hình thành do nhu cầu quản lý nên chức năng của nó cũng trải qua quá

trình phát triển từ thấp tới cao cùng với khoa học quản lý kinh tế, trình độ và kinh nghiệm
quản lý của các nhà lãnh đạo doanh nghiệp. Mặc dù theo kinh nghiệm của các nước có nền
kinh tế thị trường phát triển, chức năng của kiểm toán nội bộ hiện đại là đánh giá độc lập hệ
thống kiểm soát nội bộ, nhưng chức năng truyền thống của kiểm toán nội bộ là xem xét, đánh
giá độ tin cậy, thống nhất của các thông tin tài chính, đánh giá việc sử dụng tiết kiệm, hữu
hiệu vốn và tài sản của doanh nghiệp. Chính vì thế, việc quy định chức năng, nhiệm vụ cho
kiểm toán nội bộ cần phải xem xét phù hợp với điều kiện cụ thể của từng quốc gia, từng khu
vực kinh tế, từng ngành và từng đơn vị cụ thể.
1.2.5 Nhiệm vụ của kiểm toán nội bộ


Về cơ bản nhiệm vụ của kiểm toán nội bộ bao gồm các nhiệm vụ sau:
Thứ nhất: Kiểm tra tính hợp pháp, hợp lệ của các chứng từ, tài liệu, số liệu kế toán,
việc chấp hành chế độ, thể lệ kế toán tài chính của nhà nước, kiểm tra việc tuân thủ các chính

sách, các quy định, các kế hoạch và các thủ tục hiện hành.
Các kiểm toán viên nội bộ phải kiểm tra các hệ thống thiết lập xem có sự bảo đảm sự
tuân thủ với các chính sách, thủ tục, biện pháp và các quy định mà có thể tác động quan trọng
đến mọi hoạt động của tổ chức. Tiếp nối với chức năng này, trong một số trường hợp và nếu
được phép của Uỷ ban quản trị tối cao, các kiểm toán viên nội bộ đánh giá tính hợp lý và sự
ưu việt của các chính sách, quy định, kế hoạch trước khi đi đến việc xác định mức độ tuân thủ.
Họ sẽ chỉ ra khoản lợi nhuận (hay tiết kiệm được) từ các hoạt động bởi việc tuân thủ thích
đáng các chính sách, các kế hoạch và thủ tục được lập ra và các mất mát nếu không có sự tuân
thủ đó. Bên cạnh đó, các kiểm toán viên nội bộ phải kiểm tra tính pháp lý của các thông tin kế
toán với chuẩn mực là các quy định pháp chế của Nhà nước.
Thứ hai: Kiểm tra tính trung thực và độ tin cậy của thông tin trong đó chủ yếu là kiểm
tra và xác định mức độ trung thực, hợp lý của các báo cáo quyết toán do kế toán và các bộ
phận khác trong doanh nghiệp lập ra.
Kiểm toán viên nội bộ phải kiểm tra tính trung thực và độ tin cậy của thông tin không
chỉ của bản thân các thông tin tài chính mà cả các hoạt động và phương tiện được sử dụng để
xác minh, đo đạc, phân loại và báo cáo các thông tin đó. Việc kiểm tra hệ thống thông tin này
là cơ sở để khẳng định các sổ sách và báo cáo tài chính chứa đựng các thông tin chính xác, kịp
thời và hữu ích. Các kiểm toán viên nội bộ thực hiện kiểm tra các báo cáo tài chính của doanh
nghiệp trong hai trường hợp:
- Trường hợp thứ nhất với mục đích giúp chủ Doanh nghiệp hay nhà quản lý của doanh
nghiệp kiểm tra lại các thông tin tài chính, kiểm toán viên nội bộ tiến hành kiểm tra, soát xét
việc tính toán, phân loại báo cáo, thẩm định cụ thể các khoản mục cá biệt (kiểm tra chi tiết các
nghiệp vụ, các số dư tài khoản). Điều này cũng có tác dụng giảm phí kiểm toán của các kiểm
toán viên độc lập khi công việc của kiểm toán viên nội bộ đạt hiệu quả tốt.


- Trường hợp thứ hai công việc kiểm tra được thực hiện nhằm hoàn thiện việc thẩm tra các
lĩnh vực khác để có thể đưa ra kết luận. Việc kiểm tra các báo cáo tài chính trở thành hoạt
động bổ trợ đối với nhiệm vụ kiểm toán chính.
Thứ ba: Kiểm tra việc tuân thủ các mục tiêu đề ra đối với các chương trình hay các

hoạt động nghiệp vụ. Kiểm tra xác nhận giá trị vốn góp của doanh nghiệp và các đối tác tham
gia liên doanh với doanh nghiệp. Kiểm tra xác nhận tính trung thực, hợp lý, đầy đủ của số liệu
kế toán và báo cáo quyết toán của đơn vị liên doanh.
Kiểm toán viên nội bộ phải kiểm tra các hoạt động hay chương trình để xem xét kết
quả thu được có phù hợp với mục tiêu đề ra hay không và các hoạt động, chương trình đó có
được thực hiện theo kế hoạch đã định hay không. Bên cạnh đó, kiểm toán viên nội bộ cần trợ
giúp cho những người lãnh đạo khi xây dựng các mục tiêu cho các chương trình bằng việc xác
định xem những giả thiết, dữ liệu quan trọng có hợp lý không, những thông tin hiện thời có
chính xác và có được sử dụng không và hệ thống kiểm tra kiểm soát có được thiết lập trong
các hoạt động hay chương trình không. Đánh giá các vấn đề liên quan đến liên doanh liên kết
trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp cũng là những mục tiêu quan trọng mà các
kiểm toán viên nội bộ phải thực hiện, bao gồm: đánh giá các báo cáo kế toán liên doanh liên
kết, xác định giá trị liên doanh của doanh nghiệp và việc bảo toàn vốn liên doanh, liên kết...
Thứ tư: Kiểm tra các phương tiện bảo đảm an toàn cho tài sản. Kiểm tra tính hiệu quả
và pháp lý của hệ thống kiểm soát nội bộ trong đó có hệ thống kế toán. Giám sát sự hoạt động
và tham gia hoàn thiện chúng.
Các kiểm toán viên nội bộ phải kiểm tra các phương tiện được sử dụng để đảm bảo an
toàn cho các tài sản để tránh các mất mát khác nhau như ăn trộm hoặc hỏa hoạn....
Mặt khác, kiểm toán viên nội bộ cần có những kiến nghị cho nhà quản lý để phòng
ngừa các hành vi bất hợp pháp xâm phạm tài sản của đơn vị, tổ chức.
Đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ là một trong những nhiệm vụ của kiểm toán nội
bộ, xem xét hệ thống kế toán hoạt động có hiệu quả và bảo đảm độ tin cậy hay không, đồng
thời qua đó đưa ra các kiến nghị cũng như các giải pháp để hoàn thiện hệ thống đó.
Thứ năm: Đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ và hiệu quả hoạt động của các nguồn lực.


Kiểm toán viên nội bộ phải đánh giá chất lượng thực hiện các nhiệm vụ được giao. Việc
thực hiện này liên quan đến các nhóm hay các nhân viên của đơn vị. ở đây kiểm toán nội bộ
không chỉ quan tâm tới việc các nhóm hay các nhân viên thực hiện công việc của họ có mang lại
nhiều lợi nhuận hơn cho doanh nghiệp hay không? Do các công việc (đặc biệt là trong lĩnh vực kỹ

thuật) rất đa dạng trong một tổ chức kinh tế nên để hoàn thành được nhiệm vụ trên, bộ phận kiểm
toán phải tuyển chọn được những người có trình độ nghiệp vụ tương xứng.

Thứ sáu: Thẩm tra các thủ tục kiểm soát để xác định tính thích hợp và ưu việt của nó.
Kiểm tra tính hiệu quả và tính pháp lý của quy chế kiểm soát nội bộ, đồng thời có kiến nghị
hoàn thiện các quy chế này.
Thiết lập hệ thống kiểm soát nội bộ đồng thời kiểm toán nội bộ phải thực hiện việc
giám sát thực hiện các quy chế kiểm soát nội bộ đã đề ra, qua đó phát hiện những điểm chưa
hợp lý để tham gia hoàn thiện chúng.
Mục đích của việc thẩm tra tính thích hợp của kiểm toán nội bộ để khẳng định rằng hệ
thống kiểm toán nội bộ vận hành đều đặn và có hiệu quả, đáp ứng mọi mục tiêu đã định trước.
Việc thẩm tra sẽ phơi bày mọi hành vi gian lận, không bình thường và gây lãng phí với bản
chất lặp đi lặp lại nhằm ngăn chặn và giảm thiểu chúng.
Thứ bảy: Các nhiệm vụ đặc biệt khác.
Ngoài các nhiệm vụ chính trên, kiểm toán nội bộ có thể được giao bất cứ nhiệm vụ gì
mà có ích cho Ban Giám đốc chẳng hạn như: điều tra về cá nhân, đại diện cho Ban giám đốc
hoặc giám sát trong các thoả thuận, tham gia vào các chương trình đào tạo đơn vị.
Thông qua việc thực hiện các nhiệm vụ trên, kiểm toán nội bộ có trách nhiệm hướng
dẫn nghiệp vụ cho cán bộ kế toánvà các cán bộ nghiệp vụ khác có liên quan, đề xuất các quyết
định quản lý, xử lý về tài chính kế toán và các nội dung xử lý khác.
1.2.6 Quyền hạn của kiểm toán nội bộ
-

Được quyền yêu cầu cung cấp tài liệu và thông tin về tình hình hoạt động kinh doanh của

doanh nghiệp.
-

Độc lập về chuyên môn, nghiệp vụ. Trường hợp cần thiết có quyền yêu cầu sự hỗ trợ về


chuyên môn và nhân sự của các bộ phận chức năng.


-

Kiến nghị mang tính chất xây dựng đối với các cấp lãnh đạo, các bộ phận trong doanh

nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả các mặt hoạt động sản xuất, kinh doanh và công tác quản lý,
điều hành doanh nghiệp.
1.2.7

Có quyền bảo lưu ý kiến có liên quan đến kết quả kiểm toán.
Vị trí, ý nghĩa và tác dụng của kiểm toán nội bộ.
Xét về vị trí của kiểm toán nội bộ trong cơ cấu tổ chức: Trong sơ đồ quản lý doanh

nghiệp, trách nhiệm và nhiệm vụ càng lớn thì vị trí càng cao. Do tính chất đặc thù của hoạt
động kiểm toán, đảm bảo tính khách quan trong công việc, bộ phận kiểm toán nội bộ cần được
tổ chức độc lập với các bộ phận quản lý và điều hành kinh doanh trong doanh nghiệp và chịu
sự chỉ đạo trực tiếp của (Tổng) Giám đốc hoặc HĐQT của doanh nghiệp.
ý nghĩa và tác dụng của kiểm toán nội bộ:
Kiểm toán nội bộ là một hoạt động nội kiểm sinh ra từ nhu cầu quản lý, nên trước hết
hoạt động này có ý nghĩa và tác dụng to lớn đối với các nhà quản lý. Thực vậy, kể từ khi
chính thức ra đời đến nay có sự lớn mạnh nhanh chóng trong việc áp dụng kiểm toán nội bộ
vào công việc quản trị Doanh nghiệp. Các đơn vị kinh tế cơ sở phát hiện ra rằng hệ thống
kiểm toán nội bộ là phương tiện quản lý hiệu quả và ngày nay nó đã tìm được chỗ đứng vững
chắc trong các cơ quan Chính phủ, các đơn vị sản xuất kinh doanh lớn nhỏ trên toàn cầu.
Đối với các kiểm toán viên độc lập: Họ thừa nhận kiểm toán nội bộ là công cụ quản lý
hiệu quả và là sự bổ sung cần thiết cho công việc ngoại kiểm nên luôn khuyến khích khách
hàng của mình thiết lập hệ thống kiểm toán nội bộ.
Trong hệ thống kiểm tra tài chính Nhà nước, hệ thống kiểm toán nội bộ trong các cơ

quan hành chính sự nghiệp và các tổ chức kinh tế Nhà nước giữ vai trò hết sức quan trọng. Do
kiểm toán nội bộ được đặt tại các đơn vị cơ sở nên giúp sớm phát hiện, ngăn ngừa và xử lý
các hành vi tiêu cực, gian lận trong quản lý và điều hành các hoạt động kinh tế, tài chính, góp
phần nâng cao hiệu quả hoạt động và hiệu năng quản lý; hoàn thiện và đổi mới phong cách
làm việc tại các cơ quan, đơn vị.
Về mặt lý thuyết, kiểm toán nội bộ là lực lượng độc lập trong đơn vị được lập ra để kiểm
tra và đánh giá những hoạt động của đơn vị và các thành viên khác trong đơn vị đó. Trong những
đơn vị nhỏ, chức năng kiểm toán nội bộ thuộc về một phần của vai trò quản lý và được


người chủ sở hữu hoặc người quản lý trực tiếp thực hiện. Tuy nhiên, các hoạt động cụ thể tại các
đơn vị rất đa dạng và phức tạp, hệ thống kiểm tra đã thiết lập từ trước khó đem lại cho ông chủ và
các nhà quản lý cấp cao cái nhìn quán xuyến đối với hoạt động đã và đang diễn ra. Những quy tắc
định ra có được tuân thủ hay không? Tài sản có được bảo vệ nguyên vẹn hay không? Công nhân
viên làm việc có hiệu năng không? Những câu trả lời này phải giao cho một người hoặc một số
người chịu trách nhiệm kiểm tra và đánh giá các hoạt động, sau đó báo cáo lại cho chủ sở hữu
hoặc người quản lý. Kiểm toán viên nội bộ là người đảm nhận công việc này.

Tóm lại kiểm toán nội bộ hoạt động đúng với chức năng của mình sẽ có ý nghĩa và tác
dụng to lớn đối với Doanh nghiệp mà trước hết là cho những nhà quản lý.
1.2.8 Các chuẩn mực nghề nghiệp đối với kiểm toán nội bộ.
1.2.8.1

Tuân thủ các chuẩn mực đạo đức
Kiểm toán viên nội bộ phải tuân thủ các chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp.
Kiểm toán viên phải là người trung thực và có lương tâm nghề nghiệp, trong sáng,

công minh và không được phép để cho những định kiến thiên lệch lấn át tính khách quan
trong quá trình kiểm toán.
Kiểm toán viên phải có thái độ vô tư, không bị những lợi ích vật chất chi phối.

Kiểm toán viên phải tự điều chỉnh cho phù hợp với uy tín của ngành nghề, uy tính bản
thân của công ty, phải kiềm chế những cá tính có thể làm hại cho uy tín nghề nghiệp.
Kiểm toán viên phải có đức tính thận trọng, chu đáo trong tiến hành kiểm toán và lập
báo cáo kiểm toán. Kiểm toán viên không được đưa ra kết luận hoặc quyết định thiếu căn cứ
hoặc bằng chứng không rõ ràng. Luôn luôn phải đánh giá các bằng chứng thu thập một cách
cẩn thận, chu đáo, kỹ lưỡng.

1.2.8.2

Kiến thức, kỹ năng và kỷ luật
Kiểm toán viên nội bộ phải có kiến thức, kỹ năng và kỷ luật cần thiết để thực hiện công

việc kiểm toán.
Mỗi một kiểm toán viên nội bộ phải có kiến thức kỹ năng sau đây:


-

Sự tinh thông nghiệp vụ trong việc áp dụng các chuẩn mực, thủ tục và kỹ thuật kiểm

toán nội bộ là điều cần có để thực hiện các cuộc kiểm toán.
-

Tinh thông nguyên tắc và nghiệp vụ kế toán là yêu cầu phải có đối với kiểm toán viên

nội bộ làm việc có tính bao quát với sổ sách và báo cáo tài chính.
-

Yêu cầu có hiểu biết nguyên tắc quản lý để nhận thức và đánh giá thực chất và tầm quan


trọng của những sai lệch trong thực tế kinh doanh. Hiểu biết và tầm quan trọng của những sai
lệch trong thực tế kinh doanh. Hiểu biết tức là có khả năng áp dụng kiến thức rộng vào những
tình huống có thể gặp, nhận thức những chỗ sai lệch quan trọng và có thể tiến hành nghiên
cứu cần thiết để có được những giải pháp hợp lý.
-

Yêu cầu nhận thức rõ những nguyên tắc cơ bản của các vấn đề kế toán, kinh tế luật thương

mại, hệ thống thuế, tài chính, các phương pháp định lượng và hệ thống thông tin được chương
trình hoá. Sự nhận thức rõ nghĩa là có khả năng nhận thức các vấn đề hiện tại hoặc những vấn đề
tiềm ẩn để quyết định sự nghiên cứu tiếp theo để thực hiện hoặc sự hỗ trợ nhận được.
1.2.8.3

Quan hệ cá nhân và trao đổi ý kiến
Kiểm toán viên nội bộ phải khéo ứng xử khi tiếp xúc với các cá nhân khác và khi trao

đổi ý kiến có hiệu quả.
Kiểm toán viên nội bộ phải nắm vững quan hệ cá nhân và duy trì mối quan hệ thoả
đáng với những bộ phận được kiểm toán.
Kiểm toán nội bộ phải khéo ứng xử trao đổi ý kiến trực tiếp hoặc bằng văn bản để có
thể truyền đạt rõ ràng và có hiệu quả những vấn đề như: mục tiêu kiểm toán, đánh giá, kết
luận và kiến nghị.
1.2.8.4

Học tập không ngừng
Kiểm toán viên nội bộ phải duy trì trình độ thông thạo của mình thông qua việc không

ngừng học tập.
Kiểm toán viên nội bộ phải có trách nhiệm học tập không ngừng học tập để duy trì trình độ
thành thạo của mình. Họ phải hiểu biết được những cải tiến, những phát triển mới trong chuẩn

mực, thủ tục và kỹ thuật kiểm toán nội bộ. Học tập không ngừng nhờ vào tư cách hội viên


tham gia các hội nghề nghiệp, tham gia các buổi diễn thuyết, hội thảo, các lớp học nghiệp vụ,
các chương trình tự huấn luyện và tham gia các công trình nghiên cứu khoa học.
Thận trọng nghề nghiệp

1.2.8.5

Kiểm toán viên nội bộ phải rèn luyện tính thận trọng nghề nghiệp đúng mực trong khi
thực hiện kiểm toán nội bộ.
Tính thận trọng nghề nghiệp đúng mực đòi hỏi vận dụng tính cẩn trọng và kỹ năng cần
có của một kiểm toán viên độc lập có trình độ và thận trọng hợp lý trong những tình huống
như nhau hoặc tương tự. Do đó tính thận trọng nghề nghiệp phải thích ứng với sự phức tạp
của nhiệm vụ kiểm toán cần thực hiện. Trong việc rèn luyện tính thận trọng nghề nghiệp đúng
mực, kiểm toán viên nội bộ phải đề phòng khả năng xảy ra những hành động sai trái nhầm lẫn
và bỏ sót, kém hiệu suất lãng phí, và những mâu thuẫn quyền lợi. Họ cũng phải đề phòng
những điều kiện và những hoạt động mà sự bất hợp lệ có thể xảy ra. Họ còn phải xác định các
trường hợp kiểm tra không đầy đủ và kiến nghị những tiền đề thúc đẩy việc tuân theo các thủ
tục và những cách làm tốt đã được chấp nhận.
Tính thận trọng hàm ý cả tính thận trọng hợp lý và tài năng, không phải là cái gì tuyệt
đối hay là thành tích phi thường. Tính thận trọng đúng mực đòi hỏi kiểm toán viên tiến hành
xem xét đối chiếu trong phạm vi hợp lý mà không đòi hỏi kiểm toán tỉ mỉ tất cả các nghiệp vụ.
Vì vậy, kiểm toán viên nội bộ không thể đảm bảo tuyệt đối là không có sự bất tuân thủ và bất
hợp lệ. Tuy nhiên khả năng có sự bất tuân thủ hay bất hợp lệ cụ thể phải được lưu ý khi kiểm
toán viên nội bộ nhận nhiệm vụ kiểm toán nội bộ.
Khi kiểm toán viên nội bộ nghi ngờ có hành động sai trái phải báo cho cấp lãnh đạo
hữu quan trọng tổ chức biết. Khi đó, kiểm toán viên nội bộ có thể khuyến khích những điều
tra nào là cần thiết trong hoàn cảnh này. Sau đó, kiểm toán viên phải theo dõi thực hiện để
thấy rằng bộ phận kiểm toán nội bộ đã hoàn thành trách nhiệm.

Rèn luyện tính thận trọng nghề nghiệp có nghĩa là sử dụng sự khéo ứng xử và nhận
định kiểm toán hợp lý khi thực hiện kiểm toán. Để đạt được như vậy, kiểm toán viên nội bộ
cần lưu ý:
-

Mở rộng công việc kiểm toán cần thiết nhằm vào các mục tiêu kiểm toán.


-

Tầm quan trọng liên quan hoặc ý nghĩa của các vấn đề mà các thủ tục kiểm toán được áp

dụng.
-

Tính đầy đủ và hiệu quả của kiểm soát nội bộ.

-

Chi phí kiểm toán so với lợi ích có thể mang lại.
Thận trọng nghề nghiệp đúng mực gồm việc tiến hành đánh giá các chuẩn mực tác nghiệp

đã thiết lập và tiến hành xác định xem các chuẩn mực đó có được chấp nhận và đáp ứng không.
Nếu những chuẩn mực đó còn mơ hồ, phải đưa ra sự giải thích đáng tin cậy. Nếu kiểm toán nội bộ
phải giải thích hay lựa chọn các chuẩn mực tác nghiệp thì phải thảo luận với các bộ phận được
kiểm toán về những chuẩn mực cần thiết cho việc đánh giá các thành tích nghiệp vụ.

1.2.9 Tổ chức hệ thống kiểm toán nội bộ
1.2.9.1 Nguyên tắc, nhiệm vụ của tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ.


Bộ máy kiểm toán bao gồm con người và các phương tiện chứa đựng các yếu tố cấu
thành của kiểm toán để thực hiện chức năng của kiểm toán.
Tổ chức bộ máy kiểm toán chính là việc tạo ra các mối liên hệ giữa các yếu tố cấu thành kiểm
toán, giữa các phân hệ trong hệ thống kiểm toán và chính giữa bản thân của hệ thống kiểm
toán với các yếu tố khác trong môi trường hoạt động của kiểm toán. Chính từ việc tổ chức bộ
máy kiểm toán mà các mối liên hệ được duy trì đảm bảo cho hệ thống thực hiện tốt chức năng
xác minh và bày tỏ ý kiến.
Tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ phải đảm bảo:
-

Tính khoa học: Tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ phải phù hợp với nguyên lý chung của

lý thuyết kiểm toán. Tùy theo đặc điểm tổ chức của doanh nghiệp là tổ chức theo phương
pháp chức năng hay trực tuyến tham mưu mà đưa ra mô hình tổ chức bộ máy kiểm toán nội
bộ cho phù hợp.
-

Tính nghệ thuật: Tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ phải chú ý tới nhân tố con người.

-

Trong sơ đồ tổ chức bộ máy kiểm toán cần phải phân công rõ ràng chức năng và nhiệm

vụ của mỗi kiểm toán viên nhằm đạt hiệu quả và hiệu suất cao.
-

Phải bảo đảm đủ về số lượng nhân viên trong bộ phận kiểm toán cũng là một vấn đề

quan trọng.
Số lượng nhân viên kiểm toán có thể được xác định qua công thức sau:



×