Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

1 số vấn đề về tổ chức kiểm toán nội bộ trong các doanh nghiệp nhà nước ở VN hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.53 KB, 19 trang )

Lời nói đầu
Cùng với sự phát triển và tiến bộ của xà hội, cơ chế thị trờng ra đời đà làm
cho các hoạt động tài chính và sở hữu ngày càng trở nên đa dạng và phức tạp.
Vì thế chức năng kiểm tra của kế toán dần dần không đáp ứng đợc nhu cầu của
ngời sử dụng thông tin. Chính vì vậy, kiểm toán ra đời nh một đòi hỏi tất yếu
khách quan để đáp ứng nhu cầu đó. Càng ngày, kiểm toán càng trở nên có vai
trò quan trọng và phát triển mạnh mẽ, khẳng định mình là một môn khoa học,
một lĩnh vực nghiên cứu riêng. Cơ chế thị trờng cạnh tranh gay gắt đòi hỏi các
doanh nghiệp (DN) phải nỗ lực vơn lên từ chính bản thân mình. Điều này đòi
hỏi các nhà quản trị phải có những quyết định và phơng pháp quản lý đúng đắn
để bảo đảm cho việc kinh doanh có hiệu quả. Đó cũng là lý do xuất hiện loại
hình kiểm toán nội bé (KTNB). Víi sù hiƯn diƯn cđa m×nh, KTNB gióp cho các
nhà quản trị DN có đầy đủ các thông tin chính xác về tình hình hoạt động của
DN mình, về các báo cáo tài chính đợc lập cũng nh nhiều báo cáo khác để làm
cơ sở cho việc quản trị DN.
ở Việt Nam, đại hội IX của Đảng đà xác định: Kinh tế Nhà nớc cùng với
kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc. Điều đó có nghĩa là
ngay từ ngay từ đầu quá trình xây dựng chủ nghĩa xà hội (CNXH) thì đà phải
quan tâm xây dựng cái nền tảng của nó. Điều hiển nhiên không bàn cÃi là kinh
tế Nhà nớc đóng vai trò quyết định nhất. Trong điều kiện nớc ta quá độ lên
CNXH, các DN, các thành phần kinh tế knác cần phải và chỉ có thể phát triển
trên cái nền tảng lớn mạnh là doanh nghiệp Nhà nớc (DNNN). Vì thế, hơn hết,
các DNNN cần phải nâng cao hiệu quả hoạt động của mình để khẳng định vị trí
chủ đạo. KTNB tuy là một lĩnh vực mới mẻ nhng thíết nghĩ đó là một trong
những công cụ hữu hiệu và có vai trò hết sức to lớn trong việc đánh giá tính
chính xác của các báo cáo tài chính, kiểm toán tính tuân thủ, hoạt động trong
DN, taọ niềm tin cho những ngời sử dụng thông tin và là cơ sở để ra các quyết
định của nhà quản trị.
Với tinh thần đó, Chuyên đề Một số vấn đề về tổ chức kiểm toán nội bộ
trong các doanh nghiệp Nhà nớc ở Việt Nam hiện nay xin đợc đề cập đến
những khía cạnh liên quan đến việc thiết lập và hoàn thiện mô hình KTNB ở


Việt Nam và giảI pháp khắc phục những tồn tại cần tháo gỡ. Ngoài lời nói đầu
và kết luận, chuyên đề đợc chia làm hai phÇn:


Phần I : Những lí luận chung về KTNB
Phần II : Thực trạng KTNB trong các DNNN ở Việt Nam hiện nay và
một số ý kiến đề xuất.

2


chơng I

Lý luận chung về kiểm toán nội bộ
I.
1.

Khái quát chung về kiểm toán nội bộ.
Sự hình thành và phát triển của kiểm toán nội bộ (KTNB):
Hoạt động của kiểm toán nói chung đà xuất hiện từ lâu trên thế giới cùng
với sự phát triển không ngừng về kinh tế và xà hội cũng nh nhiều mặt khác của
mỗi quốc gia . So với kiểm toán độc lập và kiểm toán Nhà nớc thì loại hình
KTNB ra đời muộn hơn, bắt đầu từ năm 1940 mới xuất hiện khái niệm KTNB .
Nhng nó có sự phát triển rất mạnh mẽ đặc biệt trong công việc quản trị doanh
nghiệp. Các đơn vị kiểm toán cơ sở phát hiện ra rằng hệ thống KTNB là phơng
tiện quản lí có hiệu quả và là công cụ đắc lực giúp các nhà quản lí giám sát đợc
toàn bộ hoạt động của đơn vị mình. Không những thế, trong các cơ quan nhà nớc việc hình thành các bộ phận KTNB để kiểm tra thờng xuyên các hoạt động
trong cơ quan đang tỏ ra có nhiều tác dụng thiết thực.
Với sự lớn mạnh và gia tăng quy mô các doanh nghiệp vài thập niên gần
đây, tầm quan trọng KTNB cũng lớn mạnh một cách tơng øng, lµm cho nã trë

thµnh u tè chÝnh trong viƯc thiết lập hệ thông kiểm soát và kiểm tra nội bộ.ở
một số nớc, cơ quan lập pháp đà đa ra những văn bản pháp luật nhằm tạo ra
hành lang pháp lí để tạo điều kiện cho KTNB hoạt động và phát triển. bộ phận
KTNB đà phát triển cực nhanh ở Mĩ cũng nh ở châu Âu từ những năm 60. Sự
phát triển này đă đợc khuyến khích bởi sự thành lập của tổ chức kiểm toán nội
bộ (I IA) năm 1944 tại New York, tổ chức này đà xác định bản chất, mục tiêu
và phạm vi hoạt động của bộ phận KTNB. Tổ chức KTNB là thành viên của
Liên đoàn kế toán quốc tế (IFAC), đồng thời nó nghiên cứu, đào tạo, bồi dỡng
cấp chứng chỉ cho các kiểm toán viên nội bộ.
2.

Kiểm toán nội bộ là gì?

3


Một cách cơ bản có thể hiểu KTNB là một bộ phận đợc lập ra trong một
đơn vị,do các kiểm toán viên nội bộ của đơn vị tiến hành nhằm mục đích rà soát
lại hệ thống kế toán và các qui chế kiểm soát nội bộ có liên quan, kiểm tra lại
các thông tin kinh tế do kế toán cung cấp, kiểm tra tính hiệu lực, tính hiệu quả
của các hoạt động trong đơn vị. Thực hiện chức năng giám sát này giúp cho các
nhà quản lý cấp cao trong đơn vị đó gia tăng đợc quyền lực của mình để quán
xuyến đợc các hoạt động đà và đang diễn ra trong đơn vị, bao gồm: những qui
tắc đặt ra có đợc tuân thủ không? tài sản có đợc s dụng hợp lý không?cán bộ
công nhân viên làm việc có hiệu quả không? các qui định hiện hành có còn phù
hợp khi điều kiện thay đổi ? xác định tính chính xác của các báo cáo tài chính
và các báo cáo khác.
Nh vậy, KTNB hình thành và phát triển xuất phát từ nhu cầu quản lí của bản
thân doanh nghiệp. KTNB là chức năng đánh giá một cách đọc lập và khách
quan cơ cấu kiểm soát nội bộ của DN. Phạm vi của kiểm toán nội bộ bao gồm

tất cả mọi mặt hoạt động của DN ở tất cả các cấp quản lí khác nhau. KTNB xem
xét, đánh giá và báo cáo về thực trạng của hệ thống kiểm soát nội bộ, đa ra
những phân tích, kiến nghị , t vấn mang tính chuyên ngiệp để lÃnh đạo DN có
cơ sở tin cậy trong việc quản lí thành công các hoạt động của DN.
II.

Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và nội dung hoạt động của KTNB:
KTNB là nhu cầu tự thân của các DN nên phạm vi hoạt động của nó rất
biến động và tuỳ thuộc vào qui mô, cơ cấu của DN cũng nh nhu cầu quản lí
đơn vị, do vậy KTNB trong các doanh nghiệp khác nhau là khác nhau và phù
hợp với từng điều kiện, hoàn cảnh của DN.
1.

Chức năng của kiểm toán nội bộ.
KTNB hình thành do nhu cầu quản lí cho nên chức năng của nó cũng trảI
qua qua quá trình phát triển từ thấp đến cao cùng với khoa học quản lí kinh tế,
trình độ và kinh nghiệm quản lí của các nhà lÃnh đạo DN.Mặc dù theo kinh
nghiệm của các nớc có nền kinh tế thị trờng phát triển, chức năng của KTNB
hiện đại là đánh giá độc lập hệ thống kiểm soát nội bộ, nhng chức năng truyền
thống của KTNB là xem xét, đánh giá độ tin cậy, thống nhất của các thông tin
tài chính và hoạt động, đánh giá việc sử dụng tiết kiệm, hữu ích, có hiệu quả
vốn và tài sản DN. Chính vì vậy, việc quy định chức năng, nhiệm vụ cho KTNB
cần phải xem xét phù hợp với ®iỊu kiƯn cơ thĨ cđa tõng qc gia, tõng khu vực
kinh tế, từng ngành và từng đơn vị.

4


2. Nhiệm vụ của kiểm toán nội bộ.
Về cơ bản, nhiƯm vơ cđa KTNB bao gåm c¸c nhiƯm vơ sau:

♦ Kiểm tra tính hợp pháp, hợp lệ của các chứng từ, tài liệu, số liệu kế
toán, việc chấp hành chế độ, thể lệ kế toán tài chính của nhà nớc.
Kiểm tra và xác nhận mức độ trung thực, hợp lí của báo cáo quyết toán
do kế toán và các bé phËn kh¸c trong DN lËp ra.
♦ KiĨm tra x¸c nhận giá trị vốn góp của DN và các đối tác tham gia liên
doanh với DN. Kiểm tra xác nhận tính trung thực, hợp lí, đầy đủ của số
liệu kế toán và báo cáo quyết toán của đơn vị liên doanh.
Kiểm tra tính hiệu quả và tính pháp lí của hệ thống kiểm soát nội bộ
trong đó có hệ thống kế toán. Giám sát sự hoạt động và tham gia hoàn
thiện chúng.
Kiểm tra tính hiệu quả và tính pháp lí của quy chế kiểm soát nội bộ,
đồng thời có kiến nghị hoàn thiện các quy chế này.
Thông qua việc thực hiện các nhiệm vụ trên KTNB có trách nhiệm hớng dẫn
nghiệp vụ cho cán bộ kế toán và các cán bộ nghiệp vụ khác có liên quan, đề
xuất các quyết định quản lí, xử lí về tài chính kế toán và các nội dung xử lí
khác.
3. Quyền hạn của kiểm toán nội bộ.
Do đặc trng của KTNB là kiểm tra, xác minh tính đúng đắn của các báo các tài
chính trong DN, tính tuân thủ và hiệu quả hoạt động của DN nên KTNB có
những quyền hạn riêng để đảm bảo mục đích hoạt động. KTNB có quyền:
Thứ nhất, KTNB độc lập với các bộ phận khác trong DN, độc về
chuyên môn nghiệp vụ trong phạm vi khuôn khổ luật pháp và các
chuẩn mực, phơng pháp nghiệp vụ chuyên môn.
Thứ hai, yêu cầu các bộ phận và các cá nhân có liên quan cung cấp đầy
đủ, kịp thời các tài liệu về kế toán, tài chính và các tài liệu khác có liên
quan tới nội dung kiểm toán .
Thứ ba, có quyền đối chiếu xác minh các thông tin kinh tế có liên quan
tới đối tợng đợc kiểm toán ở trong và ngoài DN.
Thứ t, có quyền kiến nghị với đối tợng đợc kiểm toán có biện pháp sửa
chữa sai phạm và có quyền ghi ý kiến của mình vào báo cáo kiểm

toán .
Thứ năm, có quyền đề xuất với lÃnh đạo DN những kiến nghị và biện
pháp về quản lý.
Đó là những quyền hạn cơ bản của KTNB, bên cạnh đó tuỳ thuéc vµo tõng
5


DN, từng điều kiện cụ thể mà KTNB có thể có thêm các quyền hạn khác.
4.

Nội dung hoạt động của kiểm toán nội bộ.
Rà soát lại hệ thống kế toán và các qui chế kiểm soát nội bộ có liên
quan,giám sát sự hoạt động của các hệ thống cũng nh tham gia hoàn
thiện chúng.
Kiểm tra các thông tin tác nghiệp, thông tin tài chính bao gồm việc rà
soát lại các phơng tiện đà sử dụng để xác định, tính toán, phân loại và
baó cáo những thông tin này, kiểm tra chi tiết các nghiệp vụ, các số d
và các bớc công việc.
Kiểm tra tính hiệu quả , sự tiết kiệm và hiệu suất của các hoạt động kể
cả các qui định không có tính chất tài chính cđa DN.
Nh vËy, lÜnh vùc chđ u cđa KTNB lµ kiểm toán hoạt động của các bộ phận
trong DN. Ngoài ra, KTNB cũng tiến hành các nội dung kiểm toán tuân thủ để
xem xét việc chấp hành các chính sách, qui định của DN.
III. Mô hình tổ chức kiểm toán néi bé trong doanh nghiƯp.
ViƯc tỉ chøc KTNB trong DN là một yêu cầu cần thiết để nâng cao hiệu
quả hoạt động của DN. Tuy nhiên, tuỳ theo qui mô của DN mà tổ chức bộ phận
kiểm toán cho phù hợp.Trên cơ sở nhận thức vai trò của KTNB để xác định tổ
chức KTNB nên nh thế nào. Về vấn đề này, có 3 loại quan điểm:
Quan điểm thứ nhất: Quan điểm này cho rằng bộ phận KTNB nên đặt
trực thuộc phòng kế toán dới sự chỉ đạo của kế toán trởng, bởi vì lâu nay phòng

kế toán DN có chức năng kiểm tra kế toán, kế toán trởng có một chức năng là
kiểm soát viên của nhà nớc. Mô hình nh sau:
Giám đốc

Bộ phận kế toán

Bộ phận kiểm
toán

Các phòng
(Ban) kh¸c

6


Quan điểm thứ hai: Bộ phận KTNB nên đật trực thuộc hội đòng quản trị
mà trực tiếp là chịu sự chỉ đạo của ban kiểm soát. Có nh vậy, bộ phận KTNB
mới phát huy đợc tính độc lập, kết quả KTNB mới có tính khách quan, khăc
phục tình trạng vừa đá bóng vừa thổi còi. Ta có mô hình:
Hội đồng quản trị

Ban Kiểm soát

Bộ phận KTNB

Giám đốc

Bộ phận kế toán

Các phòng ban khác


Quan điểm thứ ba: Bộ phận KTNB nên đặt trực thuộc Gám đốc, Tổng
giám đốc DN. Quan điểm này dựa trên cơ sở KTNB là một bộ phận quan trọng
của DN, đặt tại DN, tiếp cận thờng xuyên, liên tục với mọi hoạt động của DN,
đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ và phát hiện kịp thời nhữn sai sót, sơ hở,
những điểm yếu nhằm báo cáo kịp thời cho lÃnh đạo để khắc phục, hoàn thiện.
Để đạt đợc mục tiêu, vai trò của mình, KTNB cần phải đợc đặt trực thuộc cấp
lÃnh đạo cao nhất điều hành hoạt động của DN
Hội đồng quản trị

Tổng Giám đốc

Bộ phận KTNB

Phòng Kế toán

Các Phòng, ban
khác

Ngày nay, quan điểm thứ nhất không còn phù hợp với điều kiện mới của
nền kinh tế. Loại quan điểm thứ hai tuy đảm bảo ®iỊu kiƯn vỊ tÝnh ®éc lËp cđa
KTNB nhng kh«ng cã tính thực tế vì Hội đồng quản trị và ban kiểm soát không
trực tiếp điều hành và quản lí DN. Hơn nữa, Hội đồng quản trị ở tổng công ty
nhà nớc hiện nay còn nhiều thành viên kiêm chức. Còn cách tổ chức theo quan
điểm thứ ba là phù hợp với thực tiễn của các DNNN trong giai đoạn trớc mắt.
Tuy nhiên ngời đứng đầu bộ phận KTNB phải đợc quyền tự do báo cáo kết quả
7
Các phòng ban khác
Hội đồng quản trị


Bộ phận kế toán


kiểm toán với Ban kiểm soát của Hội đồng quản trị (Đối với DN có hội đồng
quản trị).
Nh vậy qua việc phân tích những chức năng, đặc điểm của KTNB thì việc
hình thành KTNB trong các DN trong điều kiện nền kinh tế thị trờng phát triển
đa chiều, cạnh tranh gay gắt là một điều cần thiết để nâng cao tính hoạt động có
hiệu quả của các DN, chỉ ra các vấn đề, các hớng để hoàn thiện hệ thống chính
sách, hệ thống kế toán trong DN, đồng thời tuỳ theo mỗi nhu cầu tự thân, mỗi
điều kiện hoàn cảnh của các DN mà có cơ cấu KTNB ch phù hợp đảm bảo tính
hiệu quả của bộ phận này trong quá trình kiểm toán và kiến nghị chiến lợc cho
các nhà quản trị trong quá trình lÃnh đạo cả ở tầm vi mô và vĩ mô.

8


chơng II
Thực trạng công tác kiểm toán nội bộ trong các
doanh nghiệp nhà nớc ở Việt Nam và một số ý kiến đề
xuất hoàn thiện.
I.
1.

Thực trạng công tác KTNB ở các DNNN Việt Nam hiện nay:
Sự cần thiết phát triển KTNB trong c¸c DNNN ViƯt Nam hiƯn nay:
KiĨm to¸n néi bộ là hoạt động kiểm toán đợc tiến hành trong phạm vi DN,
do ngời của DN thực hiện để phục vụ cho các yêu cầu quản lí sản xuất kinh
doanh và quản lí tài chính của bản thân DN. Với mục tiêu nh vậy, đặc biệt là
trong cơ chế quản lí tài chính hiện nay-DNNN đợc quyền tự chủ, tự chịu trách

nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, tài chính đến mức cao nhấtthì KTNB càng là một đòi hỏi cấp bách đối với tất cả các DNNN.
Theo Nghị định số 59/NĐ-CP ra ngày 3/10/1996 của Chính phủ từ năm
1997 cơ quan quản lí tài chính các cấp sẽ không tiến hành kiểm tra phê duyệt
quyết toán sản xuất kinh doanh hàng năm của các DNNN. Các DNNN phải
công khai báo cáo tài chính và chịu trách nhiệm về các số liệu, chỉ tiêu đà công
bố. Đây là một quy định nhằm nâng cao tính tự đọng, tự chủ, tự chịu trách
nhiệm cho các DNNN nhng đồng thời cũng gây không ít khó khăn, lúng túng
cho họ. Từ trớc năm 1997, sau khi quyết toán năm đợc duyệt, lÃnh đạo DN hoàn
toàn yên tâm về hoạt động sản xuất kinh doanh của DN, về các mặt hoạt động
và các giải pháp tài chính trong năm vì đà đợc cơ quan có thẩm quyền của Nhà
nớc xác nhận. Mọi sai sót, vi phạm của DN cũng đà đợc giải quyết hoặc xoá bỏ
thông qua việc duyệt quyết toán. Chính vì vậy, trong điều kiện không còn kiểm
tra phê duyệt quyết toán hàng năm, KTNB với chức năng kiểm tra, xác nhận
tính trung thực và hợp lí, hợp pháp của các thông tin trong báo cáo tài chính sẽ
giúp cho lÃnh đạo DN bớt lúng túng, yên tâm hơn khi ký các báo cáo tài chính
và công khai báo cáo tài chính theo cơ chế mới về quản lí tài chính DNNN.
ở Việt Nam hiện nay mô hình Hội đồng quản trị ở các Tổng công ty đợc
thành lập theo nghị định 90/CP và 91/CP có khác so với các nớc. Trong mỗi
Tổng công ty nhà nớc còn có Ban kiểm soát trực thuộc Hội đồng quản trị.
Ngoài các thành viên chuyên trách, Hội đồng quản trị còn có một số thành viên
kiêm nhiệm. Trong Ban kiểm soát, ngoài Trởng ban kiểm soát, phần lớn các uỷ
viên và các thành viên kiêm nghiệm, có thành viên không tuộc tổng công ty.
Với bộ máy nh vậy, ban kiểm soát khó lòng thực hiện các nhiệm vụ và trách
nhiệm theo quy định của nhà nớc mới đợc ban hành theo điều lƯ mÉu cđa Tỉng
9


công ty nhà nớc. Vì vậy ở các DNNN trớc hết là các Tổng công ty cần thiết phải
tổ chức bộ phận KTNB giúp chủ DN điều hành và quản lí mọi mặt hoạt động,
đó là một nhu cầu cần thiết và nên làm vì sự phát triển của DN.

2.

Thực trạng hoạt động KTNB ở nớc ta trong thời gian qua:
Kiểm toán nội bộ có vai trò quan trọng và cần thiết nhng những hiểu biết
của chúng ta về lĩnh vực này còn quá ít so với kiểm toán Nhà nớc và kiểm toán
độc lập. Trên thực tế , hầu nh có rất ít các công trình hay đề tài nghiên cứu khoa
học một cách hệ thống và sâu sắc về KTNB .Trong điều kiện đó, vớng mắc về
nhận thức là lẽ đơng nhiên; việc triênr khai thực hiện hoạt động KTNB ở các
DN lại càng lúng túng.
Trong thời gian vừa qua, ở Việt Nam đà xuất hiện những nhu cầu và điều
kiện cần thiết cho việc thiết lập hệ thống KTNB trong các đơn vị. Tuy nhiên vì
là giai đoạn đầu nên việc hình thành mới đợc rất ít và chậm chạp, chủ yếu tập
trung ở các tổng công ty lớn, các DN có qui mô lớn. Hơn thế nữa, KTNB bớc
đầu còn gặp nhiều khó khăn trong công tác tổ chức và hoạt động, bộ phận
KTNB còn quá mỏng manh so với cả một khối lợng công việc khổng lồ.Xin lấy
mô hình KTNB trong một tổng công ty (TCT) tiêu biểu: tổng công ty xây dựng
Sông Đà.
Tổng công ty xây dựng Sông Đà là một DN có qui mô tầm trung bình
trong số những tổng công ty 90 của Nhà nớc, hình thành và hoạt động hơn 30
năm quavới nhiều công trình xây dựng lớn. Xác định đúng đắn sự cần thiết của
KTNB đối với sự phát triển của tổng công ty, ngày1/1/1998 phòng KTNB tổng
công ty chính thức ra đời. Giai đoạn đầu, phòng KTNB gồm 5 cán bộ có trình
độ chuyên môn sau đại học chuyên nghành tài chính kế toán và trình độ đại
học, có nhiều năm thực tế công tác trong lĩnh vực kiểm tra kiểm soát nội bộ học
trong lĩnh vực tài chính của TCT. Vừa xây dựng vừa hoạt động trong năm1998
KTNB của TCT đà hoàn thành một khối lọng công việc đáng kể. Tại các DN
thành viên của TCT trong giai đoạn này tuy còn đang hoàn thiện về công tác tổ
chức nhng 100% đơn vị đà bổ nhiệm đợc kiểm toán viên hoặc thành lập tổ
KTNB. Song chỉ có một số đơn vị sớm tuyển chọn, bổ nhiệm đợc kiểm toán
viên đủ năng lực và ổn định tổ chức thì phát huy đợc tác dụng bớc đầu, đóng

góp vào công tác chấn chỉnh quản lí tại DN,còn lại phần lớn KTNB tại các DN
thành viên trong hệ thống KTNB của TCT vẫn cha thực sự đi vào hoạt động. Để
phát huy hơn nữa hiệu quả hoạt động của KTNB, trong vài năm vừa qua, TCT
đà ban hành qui chế KTNB nhằm hoàn thiện cho công tác này.

10


Cã thĨ thÊy r»ng hiƯn nay hƯ thèng KTNB ë Việt Nam vẫn cha thực sự phát
triển mà vẫn ở giai đoạn hình thành và hoàn thiện. Lực lợng kiểm toán viên còn
quá ít, hệ thống chính sách, qui chế về KTNB cha đợc xây dựng đồng bộ, cha
đáp ứng đợc nhu cầu kiểm toán của DN, hiệu quả hoạt động cha cao. Mặc dù
vậy, hiện nay Nhà nớc ta đang khuyến khích các DNNN hình thành bộ phận
KTNB trong DN. Theo điều 36, chong 5- nghị định số 59/NĐ-CP ngày
3/10/1996 qui định : DN tự tổ chức KTNB báo caó tài chính của mình hoặc
thuê kiểm toán độc lập nếu thấy cần thiết chính là nhằm tạo cho DNNN cơ hội
lựa chọn việc có nên tổ chức bộ phận KTNB trong DN hay không. Mặt khác
giữa thực trạng ph¸t triĨn KTNB trong c¸c DNNN ë ViƯt Nam hiƯn nay và nhu
cầu đòi hỏi của nhà nớc về khía cạnh pháp lý còn có một số mâu thuẫn. Theo
điểm 3, mục I- thông t 73 TC/TCDN ngày 12/11/1996 của Bộ tài chính: Báo
cáo tài chính đợc lập đợc coi là hợp pháp, hợp lệ khi có đủ chữ kÝ cđa ngêi lËp,
ngêi kiĨm to¸n, kÕ to¸n trëng, gi¸m ®ãc vµ ®ãng dÊu DN”, trong ®iỊu kiƯn hiƯn
nay khi lực lợng cán bộ kiểm toán và hệ thống KTNB cha thực sự hoàn thiện và
phát triển, cha đáp ứng đợc nhu cầu kiểm toán của tất cả các DNNN thì việc qui
định nh vậy là cha thoả đáng.
Nh vậy xét về thực trạng phát triển KTNB trong các DNNN ë ViƯt Nam th×
chóng ta thÊy râ r»ng KTNB vÉn đang ở trong giai đoạn hình thành và phát
triển, việc thí điểm mới chỉ dừng lại ở các TCT, các DN có qui mô lớn .Việc
hình thành mô hình KTNB nói chung còn gặp nhiều khó khăn, lúng túng. Tuy
nhiên, viƯc ph¸t triĨn hƯ thèng KTNB trong c¸c DNNN ë nớc ta trong điều kiện

nền kinh tế thị trờng là một đòi hỏi cần thiết và tất yếu vì sự tồn tại và hng thịnh
của chính các DNNN trong cơ chÕ thÞ trêng canh tranh khèc liƯt.
3.

Mét sè thiÕu sãt thờng gặp trong công tác kiểm toán tại các DNNN:
Hàng năm bộ phận kiểm toán phảI tiến hành kiểm tra báo cáo tài chính tai
các DNNN để xác định đúng đắn kết quả hoạt động kinh doanh, xác định nghiÃ
vụ cuả DN đối với nhà nớc.Qua thực trạng của công tác kiểm toán nói chung,
công tác kiểm toán nội bộ nói riêng tại các DNNN, ta thấy nổi lên một số vấn
đề sau:
Về hạch toán tài sản cố định (TSCĐ):
Khái niệm về nâng cấp TSCĐ và sửa chữa TSCĐ không đợc nắm vững tại một
số DN nên việc hạch toán không chuẩn xác. Chi phí nâng cấp TSCĐ là những
chi phí nhằm kéo dàI thời gian sử dụng, nâng cao năng suất tính năng, tác dụng
của TSCĐ. Theo cơ chế tài chính hiện hành sẽ đợc hạch toán tăng giá trị nguyên

11


giá TSCĐ nhng có DN lại hạch toán vào chi phí sản xuất kinh doanh và ghi theo
bút toán:
Nợ TK 627, 642, 642
Có TK 111, 112
Hạch toán nh vậy làm tăng giá thành giả tạo, làm giảm lợi tức DN.Bút toán
trên phải sửa lại ghi tăng giá trị TSCĐ:
Nợ TK 211
Có TK 111,112
Về hạch toán sửa chữa lớn TSCĐ đối với ngành đặc thù nh nông lâm
nghiệp nếu chi phí phát sinh không đều giữa các kỳ, các năm mà DN muốn biết
trớc chi phí sửa chữa lớn TSCĐ và chi phí sản xuất kinh doanh cần lập kế hoạch

tính trớc để trình cơ quan tài chính xem xét. Nhng có một số DN không tuân
theo qui địnhtrên nên việc quản lí chi phí sản xuất kinh doanh gặp khó khăn.
Hạch toán nguyên vật liêu:
Có những DN hạch toán tăng giá đầu vào khi mua nguyên vật liêu dùng
biên nhận thay cho hoá đơn do Bộ tàI chính phát hành đà làm khó khăn cho
việc kiểm soát chi phí.
Việc hạch toán chi phí nguyên vật vào giá thành sản phẩm không tuân theo định
mức chhi phí thực tế mà vận dụng cách khoán chi phí không đủ căn cứ tin cậy
đà làm giá thành sản phẩm phản ánh không chính xác.
Hạch toán một số chi phí vào giá thành không đúng
Đó là các chi phí nh quà biếu, ủng hộ đoàn thể, các cá nhân. Một số khoản
không đợc hạch toán vào chi phí sản xuất kinh doanh nhng DN v·n thùc hiƯn
nh: DN s¶n xt kinh doanh tha lỗ nhng vẫn trao đủ lơng cấp bậc và các khoản
phụ cấp cho các chức danh giám đốc, phó giám đốc, kế toán trởng đôn vị trái
với qui định hiện hành của Nhà nớc.
Các trờng hợp hạch toán vừa thừa vừa thiếu:
Hạch toán không đầy đủ doanh thu (thiếu) một số trờng hợp tiêu thụ nội
bộ quà biếu bằng sản phẩm hàng hoá DN không đa vào doanh thu nh: ngành
điện sử dụng điện nội bộ, ngành bu điện dùng điện thoại đàm thoại nội bộ.
Hạch toán tăng chi phí không hợp lí: Đó là việc chi phí tiền lơng không
dựa vào đơn giá sản phẩm, nghiệm thu ớc khối lợng đà đa vào hạch toán, lại có
trờng hợp hạch toán những khoản vợt định mức tiêu hao về lao động, vật t để
giảm lÃi.
Chứng từ kế toán cha đảm bảo qui định
Một số DN lập chứng từ khong đảm bảo tính hợp lí, hợp lệ, không đủ
những yếu tố qui định của Bộ tài chính. Nhiều DN còn dùng hoá đơn cũ để mua
12


bán vật t, việc ghi chép trên hoá đơn không đúng qui định phản ánh mỗi bên

hoá đơn một số liệu khác nhau.
Chứng từ kế toán không chuẩn mực dẫn đến những sai sót khác làm mấy đi tính
trung thực của kế toán.
Chấp hành sổ sách kế toán còn những sai phạm
Có những DN dùng nhiều hình thức kế toán tại DN (vừa nhật kí chứng từ,
vừa chứng từ ghi sỉ, võa nhËt kÝ chung). ViƯc chÊp hµnh chÕ độ sổ sách kế toán
nh trên làm cho việc ghi chép trùng lặp, mất nhiều thời gian, khó khăn cho việc
kiểm tra.
Phơng pháp vận dụng hệ thống tài khoản kế toán còn sai sót
Việc tập hợp chi phí nguyên vật liệu vào giá thành không đợc một số DN
ghi vào TK 621 chi phí nguyên vật liệu mà ghi thẳng vào chi phí:
Nợ TK 154
Có TK 152,153
Một số DN đà hạch toán chi phí bán hàng và chi phí quản lí ( TK 641,
642 ) vào giá thành không đúng với qui định hạch toán mới đà ghi:
Nợ TK 154
Có TK 641,642
Theo chế độ kế toán mới chi phí gián tiếp hạch toán vào tài khoản 911 xác
định kết quả phải ghi nh sau:
Nợ TK 911
Có TK 641,642
Về hạch toán công nợ
ĐÃ có DN dùng tài khoản công nợ để hạch toán vào chi phí sản xuất kinh
doanh, tạo nguồn mua sắm TSCĐ và các tảI sản cho DN và đà hạch toán
Nợ TK154
Có TK 332 phải trả ngời bán (thực ra là không có)
Có TK 136 phải trả khác (thực ra không có)
Sau đó DN hạch toán chi phí mua sắm TSCĐ đà ghi:
Nợ TK 211
Có TK111,112

Đối với DN hạch toán ghi có tàI khoản công nợ (nhng không có đối tợng
trả) phải đợc chuyển thành lÃI hoạt động kinh doanh hạch toán vào thu nhập bất
thờng đểtừ đó kết chuyển xác định kết quả kinh doanh
Nợ TK liên quan
Có TK 721
Sau đó
13


Nợ TK 911
Có TK 421
Trên đây là một số sai sót phổ biến do những nguyên nhân khách quan và
chủ quan mang lại. Về nguyên nhân chủ quan dễ thấy là trình độ chuyên môn
nghiệp vụ của một số kế toán trởng không vững nên đà hạch toán sai nộị dung,
phơng pháp mà không biết. Nguyên nhân khách quan đem lại là do kế toán
truởng đợc Nhà nớc bổ nhiêm nhng đặt tại DN, hởng lơng, sinh hoạt và các
quyền lợi khác gắn với DN nên không tránh khỏi tình trạng Ăn cây nào rào
cây nấy có khi phải nghe theo ý kiến chỉ đạo của giám đốc nên mất đi chức
năng kiểm soát viên tài chính tại DN. Đây là một vấn đề cần đợc xem xét
nghiêm túc để có những điều chỉnh hợp lí.
II.

Những khó khăn chính trong việc hình thành kiểm toán nội bộ trong
các doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay.
1. Về mặt pháp lý:
Tại ViƯt Nam, kh¸i niƯm KTNB míi chÝnh thøc xt hiƯn kể từ khi Chính
phủ ban hành nghị định số 59/CP (03/10/1996) về Quy chế quản lí tài chính
và hạch toán kinh doanh đối với các DNNN.Theo đó các báo cáo tài chính
của các DNNN buộc phải đợc kiểm toán bởi kiểm toán viên độc lập hoặc kiểm
toán viên nội bộ. Trên cơ sở nghị định 59/ CP này, Bộ tài chính đà ban hành quy

định số 832 TC/ QĐ/ CĐKT (28/10/1997) và thông t số 52/1998-TT-BTC
(16/4/1998) nhằm đa ra những quy chế về KTNB và tổ chức thực hiện công viƯc
thiÕt lËp bé m¸y KTNB trong c¸c DNNN.Víi c¸c quy định và thông t này việc
tổ chức bộ máy KTNB là một yêu cầu bắt buộc. Xét về khía cạnh pháp lí thì
mọi DNNN phải lập bộ phận KTNB và nó có thể thay thế cho kiểm toán độc
lập, tuy nhiên KTNB phụ thuộc rất lớn vào ngời lÃnh đạo cao nhất trong DN nên
tính độc lập của KTNB cha cao và kém hiệu quả. Mặt khác bộ phận KTNB tuy
độc lập vơí các bộ phận khác trong DN nhng vẫn là một bộ phận trong DN nên
không thể hoàn toàn độc lập với DN. Vì vậy báo cáo KTNB đợc DN rất tin tởng
nhng ít có giá trị pháp lí. Chính điều này đà làm cho các DN không tÝch cùc
trong viƯc bé phËn KTNB trong DN m×nh v× phải bỏ ra chi phí thành lập mà
hiệu quả lại cha cao, cha tạo đợc niềm tin cho những ngời sử dụng thông tin về
bá cáo tài chính do KTNB thực hiện kiểm toán.
Đồng thời trong quá trình thực hiện NĐ 59/CP và QĐ số 832
TC/QĐ/CĐKT (28/10/1997) và thông t số 52/1998/TT-BTC (16/4/1998) đà nảy
sinh vớng mắc rằng có những DN với quy mô hoạt động nhỏ, lĩnh vực hoạt
đông đặc thù và đội ngũ kế toán viên đủ mạnh mà không nhất thiết phải thiết
14


lập bộ máy KTNB. Đối với các DN có qui mô nhỏ, lÃnh đạo DN có thể kiểm tra
chặt chẽ mọi hoạt động thì viêc thành lập một bộ phận KTNB này là quá thừa,
hoàn toàn không cần thiết và hạn chế khi thành lập là không có cán bộ làm
công tác này. Nh đà nói, việc thành lập bộ phận KTNB là nhu cầu tự thân của
DN, nhiều trờng hợp lợi ích từ việc thiết lập bộ máy KTNB nhỏ hơn so với chi
phí bỏ ra nên sự bắt buộc đối với toàn bộ các DNNN phải có bộ phân KTNB là
điều không hợp lí. Chính vì thế, Bộ tài chính tiếp tục ra thông t số 171/1998/TTBTC (22/12/1998) nhằm thay thế thông t số 52/1998/TT-BTC. Theo đó, việc tổ
chức bộ máy KTNB là không bắt buộc đối với các DNNN mà phải tuỳ theo qui
mô sản xuất kinh doanh ,địa bàn hoạt động, trình độ của đội ngũ cán bộ kế toán
...mà tổ chức cho phù hợp hoặc không cần tổ chức bộ máy KTNB. Các DNNN

đà tổ chức bộ máy KTNB theo qui định tại thông t sè 52/1998/ TT-BTC th× t
theo t×nh h×nh cơ thĨ cđa DN có thể tiếpp tục duy trì và hoạt động hoặc tổ chức
lại theo qui định ở thông t này.
Nh vậy một hệ thống chính sách cha hoàn thiện, triệt để lại hay thay đổi
khiến cho các DNNN lúng túng trong việc thành lập bộ phận KTNB, các DN
đang thực hiện theo chính sách này thì lại chuyển đổi theo chính sách khác gây
lÃng phí tiền của, công sức và thời gian. Đồng thời do tính chất cha ổn định của
hệ thống pháp lí làm cho các DNNN chần chừ trong việc thành lập bộ phận
KTNB mà vẫn còn đợi tính hoàn thiện của hệ thống này, thấy rõ hơn tính thiệt
hơn khi thành lập bộ phận KTNB so với việc thuê kiểm toán nhà nớc hay kiểm
toán độc lập. Đây cũng là những lí do làm cho tiến trình thành lập KTNB trong
các DNN ở nớc ta còn chậm và cha hiệu quả.
Mặt khác, tại điều 6, mục2, quyết định 832 TC/QĐ/CĐkế toán đà nêu rõ:
Bộ phận KTNB đợc tổ chức độc lập với các quản lí và điều hành kinh doanh
trong DN (cả phòng kế toán- tài chính), chịu sự chỉ đạo và lÃnh đạo trực tiếp
của (Tổng) giám đốc DN. Đây là một qui định hoàn toàn đúng với nguyên tắc
và thông lệ chung về tổ chức bộ máy KTNB. Tuy vậy đến thông t 171/1998/TTBTC ở ®iĨm 3 l¹i cã sù “níi láng” nh sau: “t thuộc vào qui mô sản xuất kinh
doanh ,địa bàn hoạt động tập trung hay phân tán, điều kiện cụ thể của trình độ
năng lực đội ngũ kế toán, DN có thể chọn lựa hình thức tổ chức bộ máy KTNB
cho phù hợp và có hiệu quả thiết thực. Việc tổ chức bộ máy KTNB không bắt
buộc đối với các DN. Vậy đối với các DN tổ chức bộ mát KTNB thì tổng giám
đốc DN lựa chọn và ra quyết định hình thức tổ chức bộ máy cho phù hợp. Theo
sự nới lỏng này, nhiều đơn vị đà sát nhập trở lại bộ phận KTNB vào bộ máy kế
toán, từ đó làm mất đi nguyên tắc tối quan trọng của tổ chức bộ máy KTNB là
độc lập với các bộ phận còn lại và chỉ phụ thuộc vào ngời lÃnh đạo cao nhÊt
15


của đơn vị. Chính điều này đà làm mất đi tính hiệu quả trong công việc của
KTNB do phụ thuộc vaò bộ phận kế toán, tao ra cáI nhìn thiếu tin tởng vào hiệu

quả hoạt động của KTNB ở các DN cha thành lập bộ phận KTNB, làm cho các
DN này cha thực sự muốn hình thành bộ phận KTNB trong DN mình.
Đó là những nguyên nhân chủ yếu của hệ thống chính sách pháp lí ảnh
hởng đến sự hình thành bộ phận KTNB trong các DNNN ở Việt Nam hiện
nay.
2

Về mặt cán bộ và quy mô của các DNNN ở nớc ta hiện nay:
Trớc hết, xét về mặt tiêu chuẩn kiểm toán viên nội bộ (KTVNB): Do
KTVNB là ngời kiểm toán các hoạt động của DN cả về tài chính và kiểm toán
hoạt động cho nên đòi hỏi về mạt đạo đức, KTVNB phải là ngời thẳng thắn,
trung thực, công minh, nhiệt tình với công việc, có tác phong làm việc thận
trọng, có uy tín trong DN, đợc lÃnh đạo và quần chúng tin tởng. Về trình độ
chuyên môn, KTVNB phải là những chuyên gia có trình độ nghề ngiệp vững
vàng. Trớc hết, đó là những ngời có trình độ kế toán thành thạo, có thể là những
cán bộ đà tốt nghiệp đại học kế toán hoặc đại học ngành kế toán, ngân hàng, tài
chính nhng đà làm nghiệp vụ kế toán ít nhất 5 năm hoăc đà qua chức vụ kế toán
trởng đơn vị. Nói chung về mặt nghiệp vụ, KTVNB ít nhất phải tơng đơng kế
toán trởng một đơn vị. Tuy nhiên trên thực tế , cán bộ về kiểm toán ở nớc ta cha
có nhiều nên nhu cầu về KTV là rất lớn vàvẫn đang khan hiếm. Việc lập bộ
phận KTNB lại phải hội đủ các tiªu chuÈn ë trªn . Do vËy hiªn nay mét số
DNNN có qui mô nhỏ rất khó khăn khi thành lập KTNB vì không có nhân sự
theo tiêu chuẩn, nhất là chọn trởng phòng( trởng ban) KTNB. Điều này dẫn đến
hiện tợng điều động, luân chuyển cán bộ không hợp lý. Rất nhiều kế toán viên
vừa là ngời của bộ phận KTNB, vừa kiêm nhiệm cả công tác kế toán. Đây là vấn
đề trái với nguyên tắc bất kiêm nhiệm trong qui chế KTNB. Hơn thế nữa,
khi thành lập bộ phận KTNB thờng làm phát sinh tăng biên chế, chi phí, ảnh hởng đến hiệu quả hoạt đông sản xuất kinh doanh của DN. Vì thế, việc hình
thành KTNB ở các DN nhỏ là rất khó và không mấy hiệu quả.
Trong điểm 4, thông t 171/1998/TT-BTC lại bổ sung thêm tiêu chuẩn của
kiểm toán viên: trờng hợp KTVNB cha có bằng đại học chuyên ngành kế toán,

tài chính hoặc quản trị kinh doanh thì tối thiểu phải có trình độ từ trung cấp
chuyên ngành kinh tế tài chính hoặc quải trị kinh doanh, đà công tác thực tế
trong lĩnh vực quản lý tài chính kế toán ít nhất 5 năm, đà làm việc tại DN 3 năm
trở lên nhng không thấp hơn trình độ nghiệp vụ chuyên môn của kế toán trởng
DN đó. Trong điều kiện của Việt Nam hiện nay, qui định tiêu chuẩn KTVNB
16


nh vậy là cha thật hợp lý. Bộ máy đào tạo của các DN cha phát triển nên hệ
thống đào tạo ở các trờng đại học phải mang tính chuyên sâu mới có thể đồng
nhất trình độ nghiệp vụ của các cử nhân quản trị kinh doanh với cử nhân kế
toán, kiểm toán. Quy định này đối với KTVNB có phần quá cao, có thể chỉ phù
hợp đối với kiểm toán trởng đơn vị. Hơn nữa, trình độ chuyên môn nghiệp vụ
của kế toán và kiểm toán có phần gần gũi nhng không hoàn toàn đồng chất và
thuộc các chức danh công tác khác nhau nên rất khó so sánh. Bộ máy KTNB do
đơn vị tự quyết định(đợc nêu ở điểm 3 của thông t này) và tiêu chuẩn KTVNB
là đà qua huấn luyện về nghiệp vụ kế toán, kiểm tra nội bộ theo nội dung chơng trình thống nhất của Bộ tài chính và đợc cấp chứng chỉ (điều 12 mục 4
quyết định 832/ TC/ QĐ/ CĐKT) nên qui định này thiếu sự nhất quán và cũng
không hoàn toàn cần thiết.
Nh vậy ngay trong bản thân các chế định pháp lý đà có những điểm
không phù hợp nh vậy nên việc thành lập KTNB gặp rất nhiều khó khăn trong
vấn đề nhân sự.
Một nguyên nhân chính nữa dẫn đến sự khó khăn và chậm chạp trong việc
hình thành KTNB ở các DNNN nớc ta hiện nay là đại đa số các DNNN có qui
mô nhỏ và trung bình. Nh đà nói ở trên, việc thành lập bộ phận KTNB trong các
DN có qui mô nhỏ là hết sức khó khăn, chỉ có các DN qui mô lớn, các TCT mới
có nhiều điều kiện để thành lập bộ phận KTNB mà số này lại rất ít.
Với những khó khăn nh vËy, hiƯn nay bé phËn KTNB trong c¸c DNNN ë
ViƯt Nam còn rất ít, tập trung chủ yếu vào các DN có qui mô lớn, các TCT. Quá
trình hình thành nói chung còn gặp phải rất nhiều trở ngại.

3.

Khó khăn vỊ ph¬ng tiƯn vËt chÊt, kÜ tht:
HiƯn nay do giíi hạn về mặt phơng tiện kĩ thuật ở nớc ta, do cha có điều
kiện cơ sở, vật chất để áp dụng các thành tựu của khoa học kĩ thuật vào công
việc nên với một khối lợng công việc kiểm toán rất lớn nh vậy trong một DN
đòi hỏi phải có KTVNB, tốn nhiều thời gian, công sức, tiền của mà hiệu quả
kiểm toán lại không cao. Hoặc nếu các DNNN nào có đủ các điều kiện để áp
dụng các phơng tiện thiết bị khoa học kĩ thuật vào công việc thì lại bị giới hạn
về trình độ sử dụng, không phát huy đợc tối đa các tính năng của công cụ hiện
đại, gây lÃng phí giá trị sử dụng của máy móc. Đây là hai mặt của một vấn đề
cần phải giải quyết để phát huy tính hiệu quả, hữu ích của KTNB. Song không
phải muốn giải quyết là làm đợc ngay một sớm một chiều mà cần phải có thời
gian, vật chất và một chiến lợc phát triển ở tầm vĩ mô.

17


Trên đây là một số khó khăn và nguyên nhân chính dẫn đến thực
trạngchậm chạp, kém hiệu quả của quá trình hình thành KTNB trong các
DNNN ở Việt Nam hiện nay. Nhận thức đơc khó khăn là để tìm ra giải pháp
khắc phục, đó mới chính là mục tiêu, gốc rễ của mọi vấn đề.
III. Một số giải pháp đề xuất góp phần hoàn thiện công tác tổ chức kiểm
toán nội bộ trong các DNNN ở Việt Nam hiện nay
1.

Hoàn thiện về mặt chính sách:
Hoạt động KTNB trong các đơn vị của nền kinh tế không những tăng cờng
hiệu quả hoạt độngcủa đơn vị đó mà còn tạo ra một sự ổn định và tính hiệu quả
chung cho toàn bộ nền kinh tế. Nhà nớc cần định hớng và tạo ra môI trờng cần

thiết cho loại hình kiểm tra kiểm soát này hoạt động và phát huy hiệu quả trong
nền kinh tế.Tính độc lập và tính khách quan của KTNB chỉ có thể đợc đẩm bảo
bằng một hành lang pháp lí tơng xứng với chức năng và nhiệm vụ của nó. ĐIều
đó còn có ý nghĩa quyết định cả tính hiệu lực và tính hiệu quả của hoạt động
KTNB. Nếu KTNB không đợc quy định chặt chẽ, hợp lí sẽ có tác dụng ngợc lại,
đặc biệt là đối với các DN hạch toán độc lập là thành viên của các tổng công ty.
Từ thực tiễn trên, vấn đề đặt ra ở đây là phải hoàn thiện chính sách về KTNB
nh thế nào ở nớc ta trong thời gian trớc mắt.
1.1.Về chính sách vĩ mô:
Các văn bản Nhà nớc, nghị định, thông t hớng dẫn của các cơ quan
có thẩm quyền, nhất là của bộ Tài chính cần phải rõ ràng về quy chế
KTNB và kiểm toán độc lập, không nên để các DN có thể hiểu KTNB
cũng giống nh kiểm toán độc lập và thực thi nh nhau.
Cần sớm ban hành về các chuẩn mực kế toán và kiểm toán Việt Nam .
Tổ chức các đoàn khảo sát ở nớc ngoài về KTNB để nâng vị trí KTNB
ngang tầm một phân hệ kiểm toán cho các kiểm toán trởng của các
TCT có nhu cầu với nguồn kinh phí của các TCT đóng góp để học tập
kinh nghiệm về KTNB ở các nớc có diều kiện tơng tự.
Kết hợp việc sửa đổi và bổ sung những điểm đà nêu ở trên với việc mở
rộng phạm vi áp dụng để nâng cấp và hoàn thiện các văn bản đà ra
thành Nghị định của Chính phủ và ban hành qui chế mẫu về KTNB
theo nghị định này.
Để cho báo cáo tài chính của DNNN mang tính pháp lý cao, Bộ tài
chính cần có qui định và hớng dẫn việc thực hiện kiểm toán độc lập đối

18


với DNNN. Nh thế báo cáo tài chính của DN chỉ đợc công khai và có
tính pháp lý khi đà có xác nhậncủa kiểm toán độc lập, còn xác nhận

của KTNB chủ yếu có giá trị trong nội bộ DN. Vì vậy,các cấp cũng cần
xem xét thêm về vấn đề này.
1.2. Về quản lí vi mô:
DN phải có kế hoạch xây dựng bộ phận KTNB, nhất là các DN có
nhiều chủ sở hữu nh công ty TNHH, công ty cổ phần. nhằm thực hiện
tôt mục tiêu của hệ thống kiểm soát DN.
Cần thực hiện nghiêm túc qui chế KTNB mà Bộ tài chính đà ban hành.
Có thể DNNN có qui mô nhỏ gặp khó khăn khi bố trí nhân sự cho bộ
phận KTNB, nhất là trởng phòng ( trởng ban) KTNB, nhng nhất thiết
không đợc bố trí nhân viên KTNB kiêm nhiệm công tác kế toán tại DN
nh thùc tÕ ph¸t sinh ë mét sè DN hiƯn nay .
Cần xây dựng qui chế hoạt động tại công ty riêng cho bộ phận KTNB,
để bộ phận này thực hiện thuận lợi nhiệm vụ của KTNB.
2.

Hỗ trợ về mặt đào tạo và các điều kiện khác để nâng cao và phát triển
đội ngũ kiểm toán viên nội bộ.
Vấn đề tổ chức cán bộ là yếu tố quyết địnhhsự thành công trong hoạch
định chính sách. Để có một đội ngũ cán bộ, cần có sự quan tâm đặc biệt đến bồi
dỡng, đào tạo tơng xứng, nhất là với đội ngũ đầu ngành kết hợp sử dụng chuyên
gia nớc ngoài ở một số khâu công việc và một số lĩnh vực cần thiết.
Theo qui định 237 TC/QĐ/CĐKT ngày 19/3/1994 của Bé tµi chÝnh vỊ qui chÕ
thi tun vµ cÊp chøng chỉ kiểm toán độc lập qui định ngơì dự thi phải đạt yêu
cầu cả 8 môn thi bắt buộc mới đợc cấp chứng nhận trúng tuyển kiểm toán viên.
Đối với KTVNB hiện nay cha có qui định cụ thể. Tuy nhiên, trang bị những
kiến thức và nghiệp vụ chuyên môn cho KTVNB cũng cần đạt đợc những điều
kiện tơng đơng nh thế.
Ngoài ra, cũng cần chú ý là cán bộ của DN cử ra nên yêu cầu và bớc đi
trong công việc bồi dỡng nghiệp vụ cho đội ngũ này có thể không nhất thiết
phải giống hệt với yêu cầu bồi dỡng thi tuyển kiểm toán viên độc lập.

KTVNB cần đợc tuyển chọn từ bộ phận kế toán tài vụ và đợc huấn luyện, đào
tạo thêm để quay trở lại làm kiểm toán nội bộ cho DN.Có nh vậy mới đảm bảo
cho KTVNB nắm chắc tình hình của đơn vị và không làm tăng biên chế, ảnh hởng đến kết quả hoạt động kinh doanh của đơn vị trong điều kiện các DNNN
hiện đang gặp khó khăn vì dôi thừa lao ®éng.
19


Trong khi Chính phủ tạo ra các cơ sở pháp lý cho nghề kiểm toán tồn tại
và phát triển thì việc tổ chức chuyên môn trong quản lý nghề kiểm toán có một
trách nhiệm lớn lao trong việc chăm lo cho các lợi ích của kiểm toán viên; thiết
lập duy trì và theo dõi các yêu cầu đối với việc vào nghề, tổ chức hoặc giám sát
các kì thi chuyên môn để cấp giấy phép hành nghề kiểm toán , giám sát việc
tuân thủ các yêu cầu về giáo dục chuyên môn thờng xuyên; theo dõi đánh giá
năng lực, việc chấp hành bộ luật đạo đức và khi cần thiết thì áp dụng biện pháp
kỉ luật đối với những ngời không tuân thủ, đồng thời giúp cho các kiểm toán
viên cËp nhËt kiÕn thøc, tiÕp cËn víi sù ph¸t triĨn nghỊ nghiƯp cđa qc gia
cịng nh qc tÕ. Cã nh vậy mới đảm bảo cho hệ thống KTNB hoạt động có hiệu
quả và thiết thực hơn đối với DN.
3.

Về chính sách vật chất và phơng tiện kĩ thuật:
Do đòi hỏi đối với kiểm toán viên là phải trung thực, chính xác nên cần
phải có các chính sách đÃi ngộ thích hợp đối với các kiểm toán viên để các kiểm
toán viên có điều kiện làm việc tốt, an tâm hơn trong công việcvà tránh đợc nạn
tham nhũng, thiếu trung thực của kiểm toán viên, giúp cho hoạt động kiểm toán
ngày càng có hiệu quả.
Bên cạnh đó, để thúc đẩy tiến trình hình thành bộ phận KTNB ở nớc ta cần
phải có một cơ sở vật chất kĩ thuật vững mạnh, các DN cần đầu t các máy móc,
công cụ, thiết bị hiện đại để giúp cho các KTVNB của mình có thể giải quyết
một khối lợng công việc lớn của DN với chất lợng cao. Đây là hoạt động cần

thiết vì rằng việc đầu t thiết bị hiện đại trong kiểm toán sẽ giúp cho hiệu quả
kiểm toán cao và có thể sử dụng lâu dài.
4.

Về mô hình tổ chức kiểm toán nội bộ.
Để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình một cách hữu hiệu, bộ phận

KTNB phải trực thuộc cấp cao nhất trong DN. ở các đơn vị không có hội đồng
quản trị, bộ phận KTNB nên đợc tổ chức thuộc và báo cáo trực tiếp cho giám
đốc . Mô hình :

20


Giám đốc

Bộ phận KTNB

Bộ phận Kế toán

Các phòng ban
khác

Theo nh mô hình này, bộ phận KTNB có nhiệm vụ thực hiện kiểm toán đối
với bộ phận kế toán và các phòng ban khác,sau đó sẽ trình báo cáo kiểm toán
cho giám đốc.
ở các DN có hội đồng quản trị, bộ phận KTNB nên trực thuộc uỷ ban kiểm soát
của hội đồng quản trị. Uỷ ban này gồm một số thành viên của hội đồng quản trị
nhng không giữ chức vụ hay đảm trách công việc gì trong đơn vị. Tính chất độc
lập giúp cho uỷ ban kiểm soát thực hiện tốt chức năng giám sát của mình đối

với mọi hoạt ®éng cña DN.

21


Mô hình nh sau:
Hội đồng quản trị

Ban Kiểm soát

Bộ phận KTNB

(Tổng) Giám đốc

Bộ phận Kế toán

Các Phòng, Ban khác

Kiểm toán

Theo ®ã, bé phËn KTNB sÏ b¸o c¸o kiĨm to¸n cho uỷ ban kiểm soát sau
khi đà thực hiên công việc kiểm toán đối với bộ phận kế toán và các phòng ban
khác.
Trên đây là một số giải pháp để đảy nhanh quá trình hình thành và nâng
cao hiệu quả hoạt ®éng cđa bé phËn KTNB trong c¸c DNNN ë níc ta hiện
nay. Đây là một yêu cầu tất yếu của nền kinh tế , cũng là một nhân tố cần
thiết nhằm đảm bảo cho sự phát triển bền vững của các DN trong cơ chế kinh
tế thị trờng.

22



kết luận
Sự chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao
cấp sang nền kinh tế thị trờng có sự quản lý của nhà nớc đà mang lạI cho Việt
Nam những biến chuyển lớn trong đời sống kinh tế xà hôị. Trong những năm
vừa qua, các DNNN đà không ngừng vơn lên, tự khẳng định vị trí quan trọng
của mình trong nền kinh tế nhiều thành phần. Các DNNN vững mạnh là một
trong những nhân tố góp phần tạo nên sự vững mạnh cho tổng thể nền kinh tế.
Các quốc gia trên thế giới có nền kinh tế vận động theo cơ chế thị trờng
đều có một đặc điểm chung nhất là hoạt động kiểm toán trong nền kinh tế đợc
coi là thiết chế để duy trì sự công bằng và tạo ra niềm tin trong các quan hệ
kinh tế xà hội trong cạnh tranh.
Nh Lênin đà chỉ rõ: Không có kiểm tra, kiểm soát là không có quản lý.
Trong nền kinh tế thị trờng theo định hớng xà hội chủ nghĩa ở Việt Nam , vấn
đề kiểm tra, kiểm soát đang là vấn đề bức xúc và cơ bản lâu dài.
Xuất phát từ vai trò của kiểm toán nói chung và KTNB nói riêng trong nền
kinh tế thị trờng thì việc hình thành KTNB trong các DNNN ở nớc ta hiện nay
là một vấn đề tất yếu cần thiết để đảm bảo tính trung thực của báo cáo tài chính
trong DN cũng nh tính tân thủ, tính hoạt động cuả DN.Trên cơ sở đó đa ra các
kiến nghị và giải pháp về chế độ kế toán , hình thức quản lý và tính hiệu quả
của DN. Đối với Việt Nam , đây là một lĩnh vực mới mẻ nên việc thực thi còn
gặp phải vô vàn khó khăn. Chuyên đề này nghiên cứu một số vấn đề về tổ chức
KTNB trong các DNNN ë níc ta víi tinh thÇn gióp Ých cho thùc tiễn hoạch định
chính sách và nâng cao hiệu quả hoạt động của loai hình kiểm tra, kiểm soát
này trong nền kinh tế. Chắc chắn chuyên đề không tránh khỏi những sai sót nhng đó là những tâm huyết của một sinh viên kinh tế đối với sự tồn tại và phát
triển lành mạnh của nền kinh tế nớc nhà. Trên cơ sở đó sẽ giúp cho em có điều
kiện nghiên cứu thêm nhiều vấn đề liên quan khác trong thời gian tíi.

23




×