Tải bản đầy đủ (.docx) (35 trang)

Thực trạng và các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (184.76 KB, 35 trang )

ĐỀ TÀI Thực trạng hoạt động và các giải
pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ
quan hành chính nhà nước
Thực hiện : Nhóm sinh viên lớp Luật hành chính _thứ 7 tiết 3,4,5
MỤC LỤC

TRANG

Phần mở đầu
1. Lí do chọn đề tài

5

2. Mục đích nghiên cứu

5

3. Tình hình nghiên cứu

6 4.

Phạm vi nghiêncứu

6

5. Phương pháp nghiên cứu
6. Kết cấu đề tài

6
6


Chương 1. Cơ sở lý luận về bộ máy hành chính nhà nước Việt Nam
2. Đặc điểm

7
7

2.1. Đặc điểm chung

7

2.2. Đặc điểm riêng

8

3.Cơ cấu tổ chức bộ máy hành chính nhà nước hiện nay

10

4. Chức năng của bộ máy hành chính nhà nước

12

4.1. Chính phủ

12

4.2. Các bộ và cơ quan ngang bộ

12


4.3. UBND các cấp

13

4.3.1. UBND cấp tỉnh

13

4.3.2. UBND câp huyện

13

4.3.3 UBND cấp xã

14

1


Chương2:Thực trạng hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước hiện nay.
14
2.1. Những thành tựu đã đạt được

15

2.2. Hạn chế của nền hành chính hiện nay

23

2.3. Một số nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của bộ máy hành

chính nước ta hiện nay

27

Chương 3. Phương hướng nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan hành
chính nhà nước

29

3.1. Quan điểm cải cách hành chính

29

3.2. Nguyên tắc cải cách hành chính

29

3.3. Phương hướng cải cách bộ máy hành chính nhà nước

30

Kết luận

37

Danh mục tài liệu tham khảo

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
UBND
CQHCNN

BMHCNN

Uỷ ban nhân dân
Cơ quan hành chính nhà nước
Bộ máy hành chính nhà nước

2


ĐỀ TÀI Thực trạng hoạt động và các giải
pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ
máy hành chính nhà nước
Phần mở đầu
1.Lí do chọn đề tài
Bộ máy hành chính nhà nước là một bộ phận quan trọng cấu thành
nên bộ máy nhà nước được thành lập theo Hiến pháp và pháp luật để thực
hiện quyền lực nhà nước có chức năng quản lí hành chính nhà nước trên
tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Kể từ khi đất nước ta bước vào thời
kì đổi mới đến nay bộ máy hành chính nhà nước đã có rất nhiều cải cách
tiên bộ nhằm làm cho bộ máy hoạt động hiệu quả hơn và bước đầu đã có
những sự chuyển biến tích cực trên tất cả các mặt, tuy nhiên bên cạnh
những mặt tích cực thì bộ máy hành chính nhà nước vẫn còn tồn tại những
khó khăn khuyết điểm cần phải được giải quyết trong thời gian tới bài viết
của chúng tôi với mong muốn đem lại cho người đọc một cái nhìn tổng quát
về thực trạng hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước hiện nay qua đó
đề ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu lực hiệu quả hoạt động của bộ máy
hành chính nhà nước trong thời gian tới. Trong quá trình hoàn thành bài
3



viết vẫn còn nhiều thiếu xót, khó khăn rất mong được sự đóng góp ý kiến
của quý thầy cô và các bạn.
2. Mục đích nghiên cứu :
Hiệu quả hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước là kết quả cuối
cùng của hoạt động quản lý xã hội, là quá trình thực hiện Hiếp Pháp và
pháp luật. Nếu hệ thống cơ quan hành chính nhà nước hoạt động kém hiệu
quả sẽ tạo ra sự ách tắc trong quả lý xã hội, các chi phí cho quản lý xã hội
của hệ thống cơ quan hành pháp nhiều nhưng kết quả thu lại không cao
làm chậm sự phát triển đi lên của xã hội, làm ảnh hưởng đến đời sống của
nhân dân, làm mất lòng tin của nhân dân đối với nhà nước.
Đề tài nghiên cứu nhằm làm rõ thực trạng hoạt động của bộ máy hành
chính nhà nước và đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của
bộ máy hành chính nhà nước.
3. Tình hình nghiên cứu
Mục tiêu chung của chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà
nước giai đoạn 2001-2010(ban hành theo quyết định số 136/2001/QĐ-Ttg
ngày 17/9/2001 của Thủ tướng Chính phủ) và nghị quuyết 30c/ NQ-CP ban
hành chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 20102020 là xây dựng một nền hành chính dân chủ , trong sạch, vững mạnh,
chuyên nghiệp, hiện đại hóa, hoạt động theo nguyên tắc của nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng xây dựng đội ngũ cán
bộ công chức có phẩm chất năng lực đáp ứng yêu cầu của công cuộc xây
dựng và phát triển đất nước. Vấn đề về bộ máy hành chính nhà nước hiện
nay cũng đã có một số bài viết nhưng chỉ dừng lại ở một góc độ nào đó như
bài viết giải pháp nâng cao hiệu lực hiệu quả hoạt động của bộ máy hành
chính nhà nước mà chưa nêu lên tình hình hoạt động bài viết của chúng tôi
sẽ đề cập đến vấn đề thực trạng hoạt động và giải pháp nâng cao hiệu quả
hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước

4



4.Phạm vi nghiêncứu :
Phạm vi nghiên cứu nằm trong bộ máy hành chính nhà nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam bao gồm Chính phủ; các bộ, cơ quan ngang
bộ; và Uỷ ban nhân dân các cấp.
5.Phương pháp nghiên cứu :
Để hoàn thành bài viết này chúng tôi đã sử dụng các phương pháp
như phương pháp phân tích, phương pháp so sánh, phương pháp lịch sử,
phương pháp thống kê kết hợp với các bài giảng của giáo viên.
6 .Kết cấu đề tài :
Đề tài gồm 3 chương
Chương 1: Cơ sở lý luận.
Chương 2: Thực trạng hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước hiện
nay.
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động bộ máy nhà nước

Chương 1. Cơ sở lý luận về bộ máy hành chính nhà nước Việt Nam
Bộ máy hành chính nhà nước được hình thành từ nhiều cơ quan nhà
nước từ trung ương xuống địa phương, có cơ cấu tổ chức phức tạp, phong
phú và đa dạng, mỗi cơ quan đều có vị trí, vai trò, chức năng và nhiệm vụ
riêng nhưng chúng hợp thành một thể thống nhất, tổ chức và hoạt động
theo những nguyên tắc chung và nhằm đạt được những mục tiêu thống
nhất đặt ra trước nhà nước.
1.Khái niệm về bộ máy hành chính nhà nước
Bộ máy hành chính nhà nước là hệ thống các cơ quan nhà nước có tư
cách pháp nhân công quyền do cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp lập

5



ra nhằm quản lí công việc hằng ngày của xã hội, cung cấp dịch vụ thông
qua hoạt động công sở.
2. Đặc điểm
2.1. Đặc điểm chung
BMHCNN là một bộ phận quan trọng trong bộ máy nhà nước được
thành lập theo hiến pháp và pháp luật, để thực hiện quyền lực nhà nước, có
chức năng quản lý hành chính nhà nước trên tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội. Do vậy BMHCNN cũng mang các đặc điểm chung của bộ máy
nhà nước, đó là:
Thứ nhất, bộ máy hành chính nhà nước hoạt động mang tính quyền
lực nhà nước, được tổ chức và hoạt động trên nguyên tắc tập trung dân
chủ. Tính quyền lực nhà nước thể hiện ở chỗ, bộ máy hành chính nhà nước
nhân danh nhà nước khi tham gia vào các quan hệ pháp luật nhằm thực thi
quyền quản lý hành chính nhà nước. Chính những biện pháp này là sự thể
hiện tập trung và rõ nét của sức mạnh nhà nước, một bộ phận tạo nên
quyền lực nhà nước.
Hai là, cũng như bộ máy nhà nước, bộ máy hành chính nhà nước
mang tính chỉnh thể. Tính chỉnh thể được thể hiện: bộ máy hành chính nhà
nước là hệ thống các cơ quan có mối liên hệ chặt chẽ, thống nhất, thành lập
từ trung ương đến địa phương, được tổ chức theo hệ thống thứ bậc, có mối
quan hệ mật thiết phụ thuộc nhau về tổ chức và hoạt động nhằm thực thi
quyền quản lý hành chính nhà nước.
Ba là, bộ máy hành chính nhà nước thể hiện tính lợi ích, thông qua
chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền để bảo vệ, duy trì các lợi ích (lợi ích dân
tộc, quốc gia, giai cấp...)
2.2. Đặc điểm riêng
Một là, xem xét BMHC là gắn với tổ chức, với lý thuyết về tổ chức.Tức
xem là một thực thể tồn tại trong một môi trường nhất định, chia thành các
6



bộ phận,có cơ cấu thứ bậc chặt chẽ, hợp lý, có mục tiêu chung, có cơ chế
thông tin và phối hợp, có quan hệ giao tiếp. Có văn hóa tổ chức, được mô tả
như một tập hợp chung các thông lệ, hệ thống giá trị, quy chuẩn hành vi
ứng xử và cách kinh doanh riêng của từng tổ chức. Những mặt này sẽ quy
định mô hình hoạt động riêng của từng tổ chức và cách ứng xử của các
thành viên trong tổ chức. Có các mô hình văn hóa tổ chức, văn hóa tổ chức
quyền lực mang tính áp đặt, cưỡng chế nhiều hơn văn hóa tổ chức nhiệm
vụ là việc hoàn thành nhiệm vụ được giao, đây là sự phân công, phân
nhiệm, văn hóa tổ chức gương mẫu là mọi người gương mẫu thực hiện, từ
lãnh đạo đến từng thành viên tổ chức, văn hóa tổ chức khuyến khích chấp
nhận rủi ro trong công việc, văn hóa đề cao vai trò cá nhân, văn hóa đề cao
vai trò tập thể.
Hai là, bộ máy hành chính nhà nước thực hiện chức năng chấp hành và
điều hành (quyền hành pháp); đây là phương diện hoạt động chủ yếu của
bộ máy hành chính nhà nước. Chức năng chấp hành có nghĩa là bộ máy
hành chính nhà nước chỉ tiến hành các hoạt động để chấp hành Hiến pháp,
luật, pháp lệnh, nghị quyết của cơ quan quyền lực nhà nước. Chức năng
điều hành được thể hiện trong việc bộ máy hành chính nhà nước có thẩm
quyền tổ chức thực hiện pháp luật trong đời sống xã hội. Trong quá trình
đó, bộ máy hành chính không chỉ tự mình thực hiện pháp luật mà quan
trọng hơn cả là đảm nhận chức năng chỉ đạo, vận hành hoạt động của các
cơ quan, đơn vị trực thuộc theo một quy trình thống nhất; tổ chức để mọi
đối tượng có liên quan thực hiện pháp luật nhằm hiện thực hóa các quyền
và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ quản lý. Chức năng chấp hành và
điều hành trong bộ máy hành chính nhà nước luôn đan xen, song song tồn
tại, tạo nên sự đặc thù của hoạt động quản lý hành chính nhà nước, nhờ đó
có thể phân biệt với hoạt động lập pháp và tư pháp.
Thứ ba, bộ máy hành chính nhà nước được tổ chức thống nhất, do cơ
quan quyền lực nhà nước cùng cấp lập ra theo nguyên tắc “song trùng trực

7


thuộc”. Bộ máy hành chính nhà nước được tổ chức thành một khối thống
nhất từ Trung ương tới địa phương, đứng đầu là Chính phủ, nhờ đó các
hoạt động của bộ máy được chỉ đạo, điều hành thống nhất, bảo đảm lợi ích
chung của cả nước, bảo đảm sự liên kết, phối hợp nhịp nhàng giữa các địa
phương tạo ra sức mạnh tổng hợp của cả bộ máy, tránh được sự cục bộ
phân hóa giữa các địa phương hay vùng miền khác nhau. Tuy nhiên. do
mỗi địa phương đều có những nét đặc thù riêng về điều kiện kinh tế - xã
hội, nên để có thể phát huy tối đa những yếu tố của từng địa phương, tạo sự
năng động sáng tạo trong quản lý điều hành, bộ máy hành chính còn được
tổ chức theo hướng phân cấp cho chính quyền địa phương. Để cùng lúc đạt
được hai mục đích này, nguyên tắc “song trùng trực thuộc” được sử dụng
như một giải pháp hữu hiệu trong việc tổ chức bộ máy hành chính nhà
nước. Theo đó, loại trừ Chính phủ là cơ quan đứng đầu bộ máy hành chính
nhà nước thì mỗi cơ quan khác trong bộ máy này đều lệ thuộc vào hai cơ
quan: một cơ quan theo chiều dọc (cơ quan hành chính cấp trên) để đảm
bảo sự thống nhất của bộ máy; một cơ quan theo chiều ngang (cơ quan
quyền lực cùng cấp) để đảm bảo sự chủ động của mỗi cấp quản lý. Việc tổ
chức bộ máy hành chính nhà nước thống nhất theo nguyên tắc “song trùng
trực thuộc” thể hiện sự hợp lý về thẩm quyền của mỗi cấp quản lý, vừa bảo
đảm sự điều hành xuyên suốt, thống nhất trong bộ máy, vừa tạo ra được sự
chủ động, sáng tạo của mỗi cấp quản lý.
Bốn là, BMHCNN là bộ phận rất phức tạp nhưng phát triển nhất trong
bộ máy nhà nước. Mỗi cơ quan trong bộ máy hành chính nhà nước hoạt
động dựa trên những quy định của pháp luật, có chức năng, nhiệm vụ,
thẩm quyền nhất định và có những mối quan hệ phối hợp trong thực thi
công việc được giao, đó là mối quan hệ trực thuộc trên-dưới, trực thuộc
ngang-dọc...Bộ máy hành chính nhà nước hoạt động thường xuyên, liên

tục, hằng ngày nhằm mục tiêu đưa quan điểm, chính sách của Đảng và
pháp luật của nhà nước vào cuộc sống của công dân và tổ chức đáp ứng sự
8


vận động không ngừng của đời sống xã hội. Chính điểm đặc thù này được
coi là một cơ sở quan trọng trong việc xác lập quy định về tổ chức và hoạt
động, quy chế công chức, công vụ của bộ máy hành chính nhà nước.
3. Cơ cấu tổ chức bộ máy hành chính nhà nước hiện nay
Cơ cấu tổ chức của BMHCNN hiện nay gồm có:
a. Chính phủ
b. Các bộ, cơ quan ngang bộ

Theo nhiệm kì của Quốc hội khóa XIII nhiệm kì 2013- 2017 nước ta 18 Bộ
bao gồm:
Bộ Công an,
Bộ Công thương,
Bộ Giáo dục và Đào tạo,
Bộ Giao thông vận tải,
Bộ Kế hoạch và đầu tư,
Bộ Khoa học và Công nghệ,
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội,
Bộ Ngoại giao,
Bộ Nội vụ,
Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn,
Bộ Quốc phòng,
Bộ Tài chính, Bộ Tài nguyên và Môi trường,
Bộ Thông tin và Truyền thông,
Bộ Tư pháp,
Bộ Văn hóa - Thể thao và du lịch,

Bộ Xây dựng,
Bộ Y tế.
Và 4 cơ quan ngang bộ bao gồm
Ngân hàng Nhà nước,
Thanh tra Chính phủ,
Ủy ban dân tộc,
Văn phòng Chính phủ.
c. ủy ban nhân dân cấp tỉnh, ủy ban nhân dân cấp huyện , ủy ban nhân

dân cấp xã
hiện nay nước ta có 63 tỉnh thành phố trực thuộc trung ương(gọi
chung là cấp tỉnh) tương đương với 63 UBND cấp tỉnh
9


có 703 huyện, quận, thị xã , thành phố trực thuộc tỉnh( gọi chung là
cấp tỉnh) tương đương với 703 UBND huyện
có 11480 xã, hường , thị trấn (gọi chung là cấ xã) tương đương với
11480 UBND xã

4. Chức năng của bộ máy hành chính nhà nước
4.1. Chính phủ
Theo quy định tại điều 94 hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam 2013 thì Chính phủ là CQHCNN cao nhất của nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành
của Quốc hội
Chức năng của Chính phủ được quy định tại điều 1 luật tổ chức Chính
phủ 2001 đó là: “Chính phủ thống nhất quản lý việc thực hiện các nhiệm
vụ chính trị, kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của Nhà
nước; bảo đảm hiệu lực của bộ máy nhà nước từ trung ương đến cơ sở; bảo

đảm việc tôn trọng và chấp hành Hiến pháp và pháp luật; phát huy quyền
làm chủ của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo
đảm ổn định và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.”
4.2. Các bộ và cơ quan ngang bộ
Bộ, cơ quan ngang bộ là cơ quan của Chính phủ có chức năng chủ yếu là
quản lí nhà nước về ngành hoặc lĩnh vực chuyên môn. Theo quy định tại
điều 22 luật tổ chức Chính phủ 2001 thì “Bộ, cơ quan ngang bộ là cơ quan
của Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với ngành hoặc
lĩnh vực công tác trong phạm vi cả nước; quản lý nhà nước các dịch vụ
công thuộc ngành, lĩnh vực; thực hiện đại diện chủ sở hữu phần vốn của
nhà nước tại doanh nghiệp có vốn nhà nước theo quy định của pháp luật.”
4.3 Chức năng của UBND các cấp
10


Tại điều 2 luật tổ chức hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân năm
2003 quy định chức năng của UBND như sau ”Uỷ ban nhân dân do Hội
đồng nhân dân bầu là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan
hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm trước Hội đồng nhân
dân cùng cấp và cơ quan nhà nước cấp trên.
Uỷ ban nhân dân chịu trách nhiệm chấp hành Hiến pháp, luật, các
văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên và nghị quyết của Hội đồng nhân
dân cùng cấp nhằm bảo đảm thực hiện chủ trương, biện pháp phát triển
kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh và thực hiện các chính sách
khác trên địa bàn”.
4.3.1 Chức năng của ủy ban nhân dân cấp tỉnh
UBND tỉnh là cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chung ở
địa phương thực hiện chức năng quản lí hành chính nhà nước theo lãnh thổ
địa giới hành chính tỉnh đối với mọi ngành, mọi lĩnh vực thuộc địa hương
mình , bảo đảm việc thi hành văn bản pháp luật của cơ quan hành chính

nhà nước cấp trên và của hội đồng nhân dân cấp tỉnh , giám sát việc thi
hành pháp luật của các đơn vị cơ sở của các cơ quan hành chính nhà nước
đóng tại địa phương trong phạm vi vấn đề thuộc quyền quản lí lãnh thổ.
4.3.2 Chức năng của ủy ban nhân dân cấp huyện
UBND cấp huyện có chức năng quản lí hành chính nhà nước trên mọi
lĩnh vực trong phạm vi lãnh thổ huyện nhằm triển khi thực hiện các văn
bản của cơ quan nhà nước cấp trên và của hội đồng nhân dân cấp huyện.
4.3.3 Chức năng của ủy ban nhân dân cấp xã
UBND cấp xã có chức năng quản lí hành chính nhà nước chung trong
phạm vi cấp xã bảo đảm thi hành văn bản luật của cơ quan hành chính nhà
nước cấp trên và của hội đồng nhân dân cấp xã.
Như vậy về cơ bản UBND các cấp thực hiện chức năng giống như Chính
phủ tuy nhiên nó khác với Chính phủ ở phạm vi và hiệu lực.
11


Chương 2. Thực trạng hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước
Đường lối đổi mới do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI đề ra như
sau: “Nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước. Nêu cao vị trí và vai trò
của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp, tào điều kiện cho các cơ quan
dân cử thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn theo Hiến pháp
quy định. Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa và quản lý xã hội bằng
pháp luật. Phân định rành mạch nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của cơ
quan nhà nước từng cấp theo nguyên tắc tập trung dân chủ, phân biệt rõ
chức năng quản lý hành chính - kinh tế với quản lý sản xuất - kinh doanh,
kết hợp quản lý theo ngành với quản lý theo địa phương và vùng lãnh thổ.
Chấn chỉnh bộ máy quản lý nhà nước theo hướng tinh, gọn, có đủ năng lực
thể chế hoá đường lối, chủ trương của Đảng thành pháp luật, chính sách cụ
thể; xây dựng và tổ chức thực hiện các kế hoạch nhà nước; quản lý và điều
hành có hiệu quả các hoạt động kinh tế; xã hội; giữ vững pháp luật, kỷ

cương và trật tự, an toàn xã hội.”
Như vậy đại hội đã đề ra yêu cầu khách quan cấp bách là phải đổi mới
tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước , để xác định được nội dung đổi
mới tổ chức của bộ máy nhà nước đáp ứng yêu cầu phát triển nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và mở cửa hội nhập kinh tế với
nước ngoài thì trước hết chúng ta phải đôi mới nền hành chính quốc gia.
Đây là nội dung hết sức quan trọng trong nghị quyết của Dảng từ Đại hội
đảng lần thứ VI đến đại hội đảng lần thứ X được đưa ra và xem đây là kim
chỉ nam cho các cơ quan nha nước trong tiến trình đổi mới nội dung này
cũng được xem là một trong năm chủ trương lớn của đảng trong quá trình
12


lãnh đạo nhà nước và xã hội. Nội dung của cải cách hành chính bao gồm,
cải cách thể chế hành chính , cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà
nước, xây dựng và nâng cao đội ngũ các cán bộ công chức viên chức , cải
cách nền tài chính công
2.1 Những thành tựu đã đạt được
Cải cách bộ máy hành chính là khâu quan trọng trong cải cách nền hành
chính quốc gia , trong thời gian qua chúng ta đã đạt dược một số thành tựu
quan trọng trong cải cách như :
-Bước đầu đã có sự phân biệt giữa quản lí nhà nước và quản lí sản xuất
kinh doanh
-Cơ cấu bộ máy cơ quan hành chính nhà nước bắt đầu tinh giảm trên
cơ sở sát nhập một số cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chuyên
môn ở trung ương và địa hương
+.Về cơ cấu ở trung ương
Cải cách tổ chức bộ máy Chính phủ
Trên cơ sở rà soát, điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ của Chính phủ,
các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ để sắp xếp, kiện toàn

cơ cấu tổ chức của Chính phủ theo mục tiêu, yêu cầu cải cách hành chính.
Trong 10 năm qua, cơ cấu tổ chức Chính phủ đã được tiến hành sắp xếp,
kiện toàn vào các năm 2002 và 2007 tương ứng với cơ cấu tổ chức Chính
phủ khóa XI (2002-2007) và cơ cấu tổ chức Chính phủ khóa XII (20072011).
.Cơ cấu tổ chức Chính phủ khoá XI
Trên cơ sở kế thừa cơ cấu tổ chức Chính phủ khóa X việc sắp xếp, kiện
toàn cơ cấu tổ chức Chính phủ khóa XI đảm bảo tinh gọn, hợp lý hơn;
giảm đầu mối các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ đến mức
cần thiết, cụ thể như:
Thời điểm năm 2001, cơ cấu tổ chức Chính phủ khóa X có 48 cơ quan
(trong đó có 23 bộ, cơ quan ngang bộ và 25 cơ quan thuộc Chính phủ).
13


Chính phủ có 31 thành viên bao gồm Thủ tướng Chính phủ, 05 Phó Thủ
tướng Chính phủ, 23 thành viên Chính phủ là Bộ trưởng và Thủ trưởng
các cơ quan ngang bộ và hai Bộ trưởng được phân công phụ trách cơ quan
thuộc Chính phủ. Sau khi sắp xếp, kiện toàn lại các bộ, cơ quan ngang bộ,
cơ quan thuộc Chính phủ cơ cấu tổ chức Chính phủ khoá XI (2002-2007)
bao gồm:
Tổ chức bộ máy Chính phủ: tổng số có 37 cơ quan, trong đó có 26 bộ,
cơ quan ngang bộ và 11 cơ quan thuộc Chính phủ (so với Chính phủ khoá
X giảm được 11 đầu mối; trong đó, tăng 03 bộ, cơ quan ngang bộ, chủ yếu
trên cơ sở hợp nhất, tổ chức lại các cơ quan thuộc Chính phủ có chức năng
quản lý nhà nước do vậy đã giảm được 14 cơ quan thuộc Chính phủ).
Thành viên Chính phủ có 30 thành viên, bao gồm: Thủ tướng Chính
phủ, 03 Phó Thủ tướng Chính phủ, 26 thành viên Chính phủ là Bộ trưởng
và Thủ trưởng các cơ quan ngang bộ (so với Chính phủ khoá X có 31 thành
viên Chính phủ giảm 01 thành viên). Đây là nhiệm kỳ Chính phủ có số
lượng Phó Thủ tướng tinh gọn nhất, nhưng vận hành, điều hành công việc

vẫn trôi chảy, có hiệu quả.
* Điểm nhấn mạnh về sắp xếp, kiện toàn các bộ, cơ quan ngang bộ,cơ
quan thuộc Chính phủ mang tính cải cách như sau:
Thành lập Bộ Tài nguyên và Môi trường trên cơ sở tổ chức lại Tổng cục
Địa chính, Tổng cục Khí tượng thuỷ văn và điều chuyển chức năng quản lý
về môi trường từ Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường sang Bộ Tài
nguyên và Môi trường quản lý; điều chuyển chức năng quản lý về tài
nguyên nước từ Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; điều chuyển chức
năng và tổ chức quản lý nhà nước về địa chất và khoáng sản từ Bộ Công
nghiệp sang Bộ Tài nguyên và Môi trường quản lý.
Thành lập Bộ Bưu chính, Viễn thông trên cơ sở nâng cấp và tổ chức lại
Tổng cục Bưu điện; điều chuyển chức năng quản lý về công nghệ thông tin

14


từ Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường sang Bộ Bưu chính, Viễn thông
quản lý.
Thành lập Uỷ ban Dân số, Gia đình và Trẻ em trên cơ sở hợp nhất và tổ
chức lại Uỷ ban Quốc gia Dân số và Kế hoạch hoá gia đình, Uỷ ban Chăm
sóc và Bảo vệ trẻ em Việt Nam; giao thêm chức năng quản lý nhà nước về
gia đình cho Uỷ ban này quản lý để tạo sự liên thông giữa các lĩnh vực nêu
trên vào một cơ quan của Chính phủ thực hiện và chịu trách nhiệm.
Đổi tên Ban Tổ chức - Cán bộ Chính phủ thành Bộ Nội vụ; chuyển Học
viện Hành chính Quốc gia vào Bộ Nội vụ quản lý.
Đổi tên Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường thành Bộ Khoa học và
Công nghệ (sau khi chuyển chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước về môi
trường sang Bộ Tài nguyên và Môi trường quản lý).
Đổi tên Uỷ ban Dân tộc và Miền núi thành Uỷ ban Dân tộc (chuyển chức
năng quản lý về miền núi cho các bộ có liên quan thực hiện).

.Cơ cấu tổ chức Chính phủ khoá XII (2007-2011)
Trước yêu cầu đẩy mạnh cải cách hành chính theo tinh thần Nghị
quyết Trung ương IV khóa X về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với
công tác phòng, chống, tham nhũng lãng phí; Nghị quyết Trung ương 5
khóa X về đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản
lý của bộ máy nhà nước và triển khai kế hoạch cải cách hành chính năm
2010, cơ cấu tổ chức Chính phủ khóa XII tiếp tục được kiện toàn trên cơ sở
rà soát, điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ, khắc phục sự chồng chéo hoặc bỏ
trống để hình thành các bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực với quy mô được
mở rộng hợp lý hơn; giảm đáng kể đầu mối tổ chức đến mức cần thiết, phù
hợp với yêu cầu đổi mới chức năng, nhiệm vụ của Chính phủ, các bộ trong
tình hình mới.
Theo đó, cơ cấu tổ chức Chính phủ khóa XII có 30 cơ quan, trong đó có
22 bộ, cơ quan ngang bộ và 08 cơ quan thuộc Chính phủ (so với Chính phủ
khoá XI giảm được 07 đầu mối; trong đó, giảm 04 bộ, cơ quan ngang bộ).
15


Thành viên Chính phủ có 27 thành viên, bao gồm: Thủ tướng Chính
phủ, 05 Phó Thủ tướng Chính phủ, 21 thành viên Chính phủ là Bộ trưởng
và Thủ trưởng cơ quan ngang bộ (có 01 Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ
Ngoại giao; so với Chính phủ khoá XI có 30 thành viên Chính phủ, đã giảm
03 thành viên).
Như vậy Trọng tâm cải cách cơ cấu tổ chức Chính phủ khóa XI chủ
yếu tập trung vào sắp xếp các cơ quan thuộc Chính phủ theo hai hướng:
Hợp nhất các cơ quan thuộc Chính phủ có chức năng quản lý nhà nước
để hình thành bộ hoặc cơ quan ngang bộ nhằm bước đầu thu gọn đầu mối
quản lý, sau này làm cơ sở cho việc tiếp tục sắp xếp, kiện toàn trong các
nhiệm kỳ Chính phủ theo mục tiêu dài hạn hơn.
Sáp nhập các cơ quan thuộc Chính phủ có chức năng quản lý nhà nước

vào các bộ quản lý ngành tương ứng, để hình thành bộ quản lý đa ngành,
đa lĩnh vực với quy mô mở rộng hơn, nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà
nước đối với từng ngành, lĩnh vực trong mối quan hệ đa ngành, đa lĩnh
vực.
Cơ cấu tổ chức Chính phủ khóa XII có bước cải cách căn bản hơn trong
việc sắp xếp kiện toàn các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ;
đặc biệt là chuyển đổi không còn các cơ quan thuộc Chính phủ có chức
năng quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực. Khái quát chung, về cơ cấu tổ
chức Chính phủ khóa XII như sau:
Sắp xếp, kiện toàn các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ
theo mô hình quản lý đa ngành, đa lĩnh vực với quy mô ngày càng được
hoàn thiện hợp lý hơn. Vấn đề cần nhấn mạnh ở đây là theo mục tiêu, quan
điểm cải cách nếu tổ chức nào cần thiết phải có thì vẫn thành lập, nhưng tổ
chức nào xét thấy không cần thiết thì kiên quyết điều chỉnh chức năng và
sáp nhập hoặc giải thể tổ chức. Trên cơ sở đó đã tiến hành sắp xếp, kiện
toàn tổ chức bộ máy thông qua các hình thức sau:
16


Hợp nhất, sáp nhập, tổ chức lại và giải thể một số bộ, cơ quan ngang bộ
có chức năng, nhiệm vụ và phạm vi, đối tượng quản lý giống nhau, gần
nhau, liên thông với nhau và phương thức quản lý tương tự nhau vào một
bộ để tinh gọn hợp lý bộ máy và khắc phục đáng kể sự chồng chéo, giao
thoa hoặc chưa rõ ràng về chức năng, nhiệm vụ, phạm vi và đối tượng
quản lý giữa các bộ, ngành với nhau; đặc biệt là sắp xếp, điều chỉnh mạnh
một số cơ quan ngang bộ theo yêu cầu giảm bớt loại hình cơ quan là ủy
ban; trong đó: giải thể ủy ban Dân số, Gia đình và Trẻ em; hợp nhất ủy ban
Thể dục Thể thao vào Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch; theo đó tổ chức lại
ủy ban Thể dục thể thao thành Tổng cục Thể dục thể thao.
Đã chuyển các cơ quan thuộc Chính phủ có chức năng quản lý nhà

nước vào các bộ quản lý; không còn cơ quan thuộc Chính phủ có chức
năng quản lý nhà nước. Sự cải cách này đánh dấu một mốc quan trọng là
kết thúc loại hình cơ quan thuộc Chính phủ có chức năng quản lý nhà nước
tồn tại trong nhiều khóa Chính phủ; đã thu gọn đáng kể số lượng các cơ
quan thuộc Chính phủ đến mức cần thiết để chuyển sang hoạt động theo cơ
chế mới - tự chủ, tự chịu trách nhiệm phù hợp với cơ chế kinh tế thị trường
và hội nhập quốc tế.
Sau 10 năm cải cách tổ chức bộ máy hành chính, cơ cấu tổ chức Chính
phủ khóa sau tinh gọn, hợp lý hơn; số lượng các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ
quan thuộc Chính phủ từ 48 cơ quan (năm 2001) đến năm 2010 còn 30 cơ
quan (giảm được 18 cơ quan). Trong quá trình kiện toàn cơ cấu tổ chức bộ
máy Chính phủ luôn tuân theo định hướng phải xác định đúng, và rõ số
lượng các bộ, cơ quan ngang bộ trong cơ cấu tổ chức Chính phủ để từng
bước đi đến ổn định cần thiết và hợp lý.
Kết quả cải cách tổ chức bộ máy đáng ghi nhận là:
Đã hình thành được các bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực giúp cho bộ
máy tổ chức Chính phủ được tinh gọn, khắc phục đáng kể tình trạng bỏ
trống hoặc chồng chéo chức năng, nhiệm vụ giữa các cơ quan nhằm nâng
17


cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước; đảm bảo tính thống nhất, thông
suốt và liên thông giữa các ngành, lĩnh vực khi nằm trong cùng một bộ
quản lý đa ngành, đa lĩnh vực.
Chuyển đáng kể các cơ quan ngang bộ theo hướng thu gọn dần số
lượng để chuyển thành bộ; cần thiết điều chuyển chức năng, nhiệm vụ để
sáp nhập, hợp nhất hoặc giải thể tổ chức. Đặc biệt, thực hiện được mục
tiêu, yêu cầu cải cách hành chính đó là không còn loại hình cơ quan thuộc
Chính phủ có chức năng quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực, thu gọn số
lượng các cơ quan thuộc Chính phủ đến mức cần thiết, khẳng định các cơ

quan thuộc Chính phủ là đơn vị sự nghiệp chuyển sang hoạt động theo cơ
chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm.
Về cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương
Cơ cấu bộ máy hành chính đã có sự thay đổi đáng kể theo hướng thu gọn
các cơ quan cụ thể như sau
Tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp
huyện tương ứng với cơ cấu Chính phủ khóa XI
+. ở cấp tỉnh:
Cơ quan chuyên môn cấp tỉnh được tổ chức thống nhất: 19 cơ quan
Cơ quan chuyên môn cấp tỉnh được tổ chức theo đặc thù riêng của một số
địa phương: 07 cơ quan
+.ở cấp huyện:
Cơ quan chuyên môn cấp huyện được tổ chức thống nhất: 12 cơ quan
Cơ quan chuyên môn cấp huyện được tổ chức theo đặc thù riêng của
một số địa phương: 03 phòng (Phòng Dân tộc; Phòng Tôn giáo; ủy ban Dân
số, Gia đình và Trẻ em).
Tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp
huyện tương ứng với cơ cấu Chính phủ khóa XII
+.ở cấp tỉnh:
18


Cơ quan chuyên môn cấp tỉnh được tổ chức thống nhất: 17 cơ quan
Cơ quan chuyên môn cấp tỉnh được tổ chức theo đặc thù riêng của một số
địa phương để có thêm 03 cơ quan sau: Sở Ngoại vụ; Ban Dân tộc; Sở Quy
hoạch - Kiến trúc (đối với thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh).
+.ở cấp huyện:
Cơ quan chuyên môn cấp huyện được tổ chức thống nhất: 10 cơ quan
Cơ quan chuyên môn được tổ chức để phù hợp với từng loại đơn vị hành
chính cấp huyện: 02 cơ quan

Cơ quan chuyên môn cấp huyện được tổ chức theo đặc thù riêng của một
số địa phương: 01 cơ quan (Phòng Dân tộc)
Cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp xã từ 3 đến 5 thành viên
-Đổi mới chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ và các cơ
quan hành chính nhà nước khác
.

- Cải biến một bước thể chế hành chính và thủ tục hành chính
Về xây dựng thể chế: Chính phủ đã tập trung chỉ đạo xây dựng, ban

hành theo thẩm quyền hoặc trình Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội
ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật nhằm hoàn thiện thể chế về
kinh tế, tổ chức và hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước, hội nhập
khu vực, quốc tế và quản lý nhà nước trên tất cả các lĩnh vực của đời sống
xã hội theo quy định của Hiến pháp và pháp luật. Hội đồng nhân dân, ủy
ban nhân dân các địa phương cũng đã ban hành và tổ chức thực hiện các
văn bản quy phạm pháp luật theo thẩm quyền để cụ thể hóa các văn bản
của Trung ương cho phù hợp với điều kiện cụ thể của từng địa phương
Về thủ tục hành chính từ khi Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số
38/CP ngày 04-5-1994 về cải cách một bước thủ tục hành chính trong việc
giải quyết công việc của công dân và tổ chức, mở đầu cho hoạt động thực
hiện đơn giản hóa thủ tục hành chính, đã tạo bước đột phá lớm trong hoạt
động nâng cao hiệu quả quản lý của các cơ quan nhà nước đối với mọi lĩnh
19


vực, là sự chuyển biến rõ rệt trong việc xây dựng và hoàn thiện thể chế Nhà
nước. Tiếp đó, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành một loạt các quy định về
cải cách thủ tục hành chính, tạo hành lang pháp lý cơ bản cho việc triển
khai thực hiện cải cách thủ tục hành chính theo hướng đổi mới, đáp ứng

được nhu cầu của xã hội như Quyết định số 136/2001/QĐ-TTg với Chương
trình tổng thể cải cách hành chính Nhà nước giai đoạn 2001-2010; Quyết
định số 181/2003/QĐ-TTg về việc ban hành quy chế thực hiện cơ chế “một
cửa” tại cơ quan nhà nước ở địa phương và gần đây nhất là Quyết định số
93/2007/QĐ-TTg về Ban hành Quy chế thực hiện cơ chế “một cửa”, cơ chế
“một cửa liên thông” tại cơ quan hành chính nhà nước tại địa phương thì
thủ tục hành chính bước đầu chuyển mình theo hướng phục vụ nhân dân
giảm bớt sự phiền hà, sách nhiễu, chi phí đi lại đối với nhân dân, các công
việc của nhân dân đã được thực hiện nhanh chóng thuận tiện hơn rất nhiều

2.2. Hạn chế của nền hành chính hiện nay
Công cuộc CCHC nhà nước mặc dù đã đạt được những kết quả tiến bộ,
quan trọng, đáng ghi nhận nhưng vẫn đang còn nhiều mặt hạn chế, yếu
kém, chưa đáp ứng đòi hỏi của nhịp điệu phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước trong thời kỳ mới, những hạn chế lớn tập trung chủ yếu ở những
điểm sau:
Cho đến nay vẫn chưa tạo lập được một hệ thống thể chế đầy đủ, đồng
bộ, phù hợp với yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN và dân chủ hóa đời sống xã hội trong điều kiện mở cửa hội nhập
quốc tế và tiến bộ khoa học công nghệ của thế giới hiện đại. Hiện vẫn chưa
xác định được một cách đầy đủ, rõ ràng về khung khổ thể chế cần phải có
cho quản lý các hoạt động kinh tế - xã hội của đất nước trong điều kiện
mới. Những bổ sung, sửa đổi về mặt thể chế mặc dù rất tích cực nhưng chất

20


lượng còn nhiều hạn chế; mang tính chắp vá, thiếu đồng bộ và vẫn còn bị
ảnh hưởng bởi thể chế cũ - thể chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp.
Thủ tục hành chính tuy đã có những tiến bộ nhất định nhưng nhìn

chung vẫn còn nhiều phức tạp, rườm rà, gây không ít phiền toái cho doanh
nghiệp và người dân; chủ yếu vẫn theo cơ chế “xin - cho”. Cơ chế “một
cửa”, “ một cửa liên thông” tuy được triển khai rất rộng rãi nhưng còn
mang tính hình thức, chưa có chuyển biến thực sự về chất trong quan hệ
giữa Nhà nước với công dân.
Việc điều chỉnh, đổi mới chức năng, nhiệm vụ của cả bộ máy hành chính
Nhà nước cũng như của từng cấp, từng cơ quan hành chính còn rất chậm,
chưa phù hợp với yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN, chưa phù hợp với thông lệ chung của thế giới trong bối cảnh toàn
cầu hóa. Hiện nay bộ máy hành chính Nhà nước, từ Chính phủ đến chính
quyền địa phương còn ôm đồm quá nhiều việc thuộc lĩnh vực quản lý sản
xuất, kinh doanh và hoạt động sự nghiệp dịch vụ, chưa tập trung vào thực
hiện chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước. Hiện vẫn chưa có sự phân biệt
rõ vai trò, chức năng của ba khu vực: Nhà nước - Thị trường - Xã hội dân
sự, kể cả trong lĩnh vực thể chế cũng như trong thực tiễn hoạt động của bộ
máy nhà nước.
Cơ cấu bộ máy hành chính nhà nước vẫn đang còn rất cồng kềnh, đồ sộ,
nhiều tầng cấp trung gian.
Hoa Kỳ một quốc gia có diện tích khoảng 9.3 triệu km2 nhưng họ chỉ có
50 bang hoặc một quốc gia láng giềng của chúng ta là Trung Quốc cũng có
diện tích khoảng 9.6 triệu km2 họ có 34 đơn vị hành chính cấp tỉnh và
khoảng 2800 đơn vị cấp huyện trong khi đó Việt Nam có diện tích
331.210km2 nhưng có tới 63 tỉnh thành phố trực thuộc trung ương và có số
huyện là 703 cùng với đó là 11480 xã và con số này đang có xu hướng hình
to ra ví dụ mới đây huyện Từ Liêm thành hố Hà Nội đã được tách thành
21


hai quận Nam Từ Liêm và Bắc Từ Liêm hoặc là ở Tuyên Quang đã thành
lập thêm một huyện mới là Lâm Bình trên cơ sở cắt một phần hai huyện

Chiêm Hóa và Na Hang ...

Số lượng, chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức còn nhiều mặt chưa đáp
ứng được yêu cầu đổi mới, phát triển đất nước. Công tác kiểm tra, thanh
tra công vụ và xử lý cán bộ, công chức có vi phạm pháp luật tiến hành chưa
nghiêm minh, chưa thường xuyên, thiếu khách quan, công bằng dẫn đến
kém hiệu quả, ít tính giáo dục, răn đe, làm gương…Do vậy đạo đức công
vụ, trách nhiệm của công chức chậm được nâng cao. Một bộ phận cán bộ,
công chức sa xút về phẩm chất đạo đức, tham nhũng, vô cảm, thiếu trách
nhiệm trước yêu cầu của dân, của xã hội.
Một ví dụ minh chứng cho việc này là hiện nay nước ta với dân số gần
90 triệu người nhưng số cán bộ công chức lên đến 2,8 triệu người tính ra cứ
khoảng hơn 30 người dân lại có một người , con số này cao hơn rất nhiều so
với Hoa Kỳ một quốc gia có tới 316 triệu người gấp khoảng 3,3 lần dân số
Việt Nam nhưng con số lãnh đạo chỉ bằng 1/3 so với nước ta.
Hiện nay, số lượng các thứ trưởng thuộc các bộ quá nhiều so với quy
định của Chính phủ: theo Nghị định số 178/2007/NĐ-CP ngày 03 tháng 12
năm 2008 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ
cấu tổ chức của bộ, cơ quan ngang bộ, mỗi bộ, cơ quan ngang bộ không
quá 04 thứ trưởng và tương đương nhưng trong thực tế có những bộ như:
- Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn: trước đây có 10 thứ trưởng,
nay còn 09 thứ trưởng.
- Bộ Công Thương: trước đây có 10 thứ trưởng, nay còn 09 thứ
trưởng.

Ở cấp địa phương
22


Tại nghị định Số: 107/2004/NĐ-CP quy định về số lượng cấp phó chủ

tịch trong UBND các cấp quy định số lượng cấp phó trong UBND tỉnh là 4
người ( các tỉnh có dân số từ 2.000.000 người trở lên hoặc có diện tích từ
10.000 km2 trở lên và thành phố trực thuộc Trung ương là đô thị loại I )
riêng 2 thành hố Hà Nội và Thành hố Hồ Chí Minh số lượng này là 5 phó
chủ tịch sau đó số lượng phó chủ tịch của UBND Thành phố Hà Nội được
điều chỉnh lại Giữa năm 2011, Nghị định 36/2011/NĐ-CP đã sửa đổi, bổ
sung một số điều của Nghị định số 107/2004/NĐ-CP, theo đó UBND thành
phố Hà Nội có thể có tối đa 6 phó chủ tịch. Số lượng phó chủ tịch UBND
huyện cũng dao động từ 2 đến 4 người , còn cấp xã là từ 1 đến 3 người tùy
thuộc vào điều kiện kinh tế, chính trị , xã hội mỗi địa phương
Việc phân cấp Trung ương - địa phương vẫn rất chậm chạp. Cho đến
nay, các Bộ ngành vẫn đang nắm giữ nhiều việc cụ thể của chính quyền địa
phương làm hạn chế tính chủ động, sáng tạo của địa phương. Các Bộ vẫn
được tổ chức theo mô hình Bộ đơn ngành, đơn lĩnh vực, cơ cấu tổ chức bên
trong của các Bộ, số lượng cơ quan chuyên môn của UBND cấp tỉnh, cấp
huyện lại đang có xu hướng tăng thêm đầu mối. Bộ máy cồng kềnh, nhiều
đầu mối như hiện nay tất yếu dẫn đến tình trạng chồng chéo, trùng lắp về
chức năng, thẩm quyền và sức ỳ, sự trì trệ, quan liêu của bộ máy là không
thể tránh khỏi.
Phương thức quản lý điều hành của bộ máy hành chính các cấp vẫn theo
chế độ làm việc tập thể, quyết định theo đa số có nhiều hạn chế nhưng
chậm được thay đổi. Hoạt động quản lý điều hành hành chính, cũng như
các dạng quản lý điều hành khác, đòi hỏi phải theo chế độ thủ trưởng, phải
đề cao vai trò và trách nhiệm của người đứng đầu thì mới đảm bảo nhanh
nhạy, hiệu lực, hiệu quả.
Về thực hiện yêu cầu hiện đại hóa nền hành chính còn chậm, chưa có sự
thay đổi cơ bản trong phương thức lề lối làm việc của cơ quan hành chính
23



và phong cách thực thi công vụ của cán bộ, công chức mà vẫn mang nặng
dấu ấn của cơ chế cũ. Khả năng sử dụng công nghệ thông tin trong quản lý
hành chính còn nhiều hạn chế làm cho năng suất lao động, hiệu quả công
tác của công chức thấp, trình độ ngoại ngữ và tin học của đội ngũ cán bộ,
công chức còn yếu kém, nhất là trước yêu cầu hội nhập quốc tế hiện nay.”(3)
2.3 Một số nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của bộ máy hành
chính nhà nước
Chức năng của cơ quan hành chính nhà nước là quản lí hành chính nhà
nước, là hoạt động chịu sự chi phối, tác động của rất nhiều yếu tố.Chúng có
mối quan hệ chặt chẽ với nhau nên khi một nhân tố thay đổi sẽ kéo theo các
nhân tố khác thay đổi theo.Đó là các yếu tố như cơ cáu,tổ chức ,chức năng
của bộ máy hành chính nhà nước, đội ngũ cán bộ,công chức,công vụ…Chỉ
cần làm rõ sự tác động,ảnh hưởng của các nhân tố ta sẽ tìm ra nguyên
nhân và phương hướng,giải pháp để nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ
máy hành chính nhà nước. Các yếu tố đó được biểu hiện như sau:
Trước hết là thể chế pháp luật, đó là hành lang pháp lí để cơ quan, cán
bộ, công chức thực hiện nhiệm vụ được giao,việc cụ thể hoá , xác định rõ
ràng nhiệm vụ, quyền hạn giúp họ thực hiện hiệu quả chức năng của mình.
Đối với cơ cấu, khi nói đến cơ cấu cơ bản của một cơ quan , người ta phải
xét đến những vấn đề chủ yếu như sự phân công trong nội bộ tổ chức, việc
sắp xếp các nhiệm vụ công tác cho các chức danh khác nhau,làm thế nào để
thực hiện sự điều hoà, phối hợp cần thiết nhằm đảm bảo thực hiện được
mục tiêu tổng thể của cơ quan hành chính đó nói riêng và bộmáy nói
chung. Các cấp đọ của cơ cấu tổ chức của cơ quan hành chính cũng giống
như các cơ quan khác đó là phải có 3 cấp đọ như sau:
Cấp độ cơ cấu vĩ mô: là cách sắp xếp, tổ chức vị trí, vai trò của từng cán
bộ,công,nhân,viên chức trong cơ quan.

24



Cấp độ vi mô: là cách quy định quyền hạn, trách nhệm của từng vị trí mà
cán bộ công, nhân, viên chức trong cơ quan nắm giữ.
Hệ thống bổ trợ: bao gồm hệ thống điều hành của cơ quan,quá trình
quản lí sự phát triển của cơ quan, hệ thống văn hoá công ty và hệ thống
quản lí hoạt động cơ quan hành chính đó.
Cơ quan sẽ không thực hiện có hiệu quả các chức năng của mình nếu 3 cơ
cấu này không được thiết lập một cách đúng mức đẻ bổ trợ cho hoạt động
của mình.Cơ cấu tổ chức hợp lí sẽ tránh được sự chồng chéo,rườm rà,dễ
dàng phối hợp điều chỉnh công việc trong khi thực hiện nhiệm vụ,tiết kiệm
được thời gian còn ngược lại nếu cơ cấu bất hợp lí sẽ làm giảm hiệu quả
hoạt động.Bộ máy hành chính được xem là một hệ thống và mỗi cơ quan
hành chính là một bộ phận, cả hệ thống chỉ hoạt động tốt khi mỗi bộ phận
vừa thực hiện tốt nhiệm vụ của mình vừa phối hợp tốt với các bộ phận
khác để hoàn thành được mục tiêu chung.
Một yếu tố quan trọng nữa là năng lực, phẩm chất của đội ngũ cán bộ,
công chức là một trong những điều kiện tiên quyết bảo đảm cho quá trình
diễn ra đạt kết quả tốt.Đội ngũ cán bộ, công chức là nguồn lực chủ yếu của
hệ thống quản lí hành chính có thể vận hành và hoàn thành nhiệm vụ được
giao. Do tình hình kinh tế, xã hội thường xuyên thay đổi đòi hỏi phải liên
tục phát triển năng lực, giáo dục về phẩm chất cho tất cả cán bộ, công chức
trong hệ thống quản lí hành chính,vì đó là cũng một nhân tố quyết định
dến hiệu quả hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước.
Ngoài ra sự tín nhiệm,ủng hộ của nhân dân đối với bộ máy hành chính
nhà nước cũng là một nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động của bộ mấy hành
chính nhà nước. Sự tín nhiệm ủng hộ càng lớn thì hoạt động quản lí của bộ
máy hành chính nhà nước càng dễ dàng đạt được mục tiêu.Đặc điểm tổ
chức và nguyên tắc vận hành của hệ thống chính trị cũng ảnh hưởng đến
hiệu lực quản lí của bộ máy hành chính nhà nước. Hiệu lực quản lí của bộ
25



×