Tải bản đầy đủ (.doc) (116 trang)

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN: BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC TRONG TẢN VĂN Y PHƯƠNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (502.97 KB, 116 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
--------@&?--------

HOÀNG THỊ KIỀU TRANG

BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC TRONG TẢN VĂN Y PHƯƠNG
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam hiện đại
Mã số: 60.22.01.21

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN
Người hướng dẫn khoa học : TS. Lê Thị Bích Hồng

HÀ NỘI - 2014

1


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành được luận văn Bản sắc văn hóa dân tộc trong tản văn Y
Phương tôi đã nhận rất nhiều sự động viên, giúp đỡ của nhiều cá nhân và tập thể.
Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành, sâu sắc tới TS Lê Thị Bích
Hồng, người đã tận tâm hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện và hoàn
thành luận văn này.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến nhà thơ Y Phương đã nhiệt tình giúp đỡ,
khuyến khích tôi trong quá trình nghiên cứu.
Tôi xin chân thành cảm ơn tới Ban Giám hiệu, Phòng đào tạo sau đại học, Ban
Chủ nhiệm khoa Ngữ Văn, Tổ bộ môn Văn học Việt Nam hiện đại, trường Đại học
Sư phạm Hà Nội đã nhiệt tình giảng dạy, giúp đỡ, động viên chúng tôi trong quá
trình học tập, nghiên cứu.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cám ơn chân thành đến gia đình, bạn bè, những người


đã luôn bên tôi, động viên và khuyến khích tôi trong quá trình thực hiện đề tài
nghiên cứu của mình.
Hà Nội, Ngày 15 tháng 10 năm 2014
Tác giả luận văn

Hoàng Thị Kiều Trang

2


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1 Toàn cầu hóa cùng với quá trình giao lưu văn hóa giữa các quốc gia trên
thế giới đã làm cho văn hóa nhân loại càng phong phú, sinh động. Trong quá trình
này, các nền văn hóa bổ sung, tiếp nhận và làm giàu cho nhau dẫn đến sự phát triển
và biến đổi không ngừng. Trong bối cảnh nước ta đang đẩy mạnh công nghiệp hóa –
hiện đại hóa, hoàn thiện nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa và hội
nhập quốc tế, việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc đang đặt ra những
3


vấn đề cần thiết hơn bao giờ hết. Việc quan tâm hàng đầu trong thời điểm này là vấn
đề giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc trên nền tảng kế thừa di sản văn hóa của cha ông,
kết hợp học hỏi những tinh hoa văn hóa nhân loại với phương châm “hòa nhập
không hòa tan”. Là một lĩnh vực tinh tế của văn hóa, văn học nghệ thuật nói chung
và văn học nói riêng có mối quan hệ chặt chẽ với văn hóa. Nghiên cứu văn hóa trong
mối quan hệ với văn chương đang trở thành một hướng đi mới trong việc khám phá
cái hay, cái đẹp của văn chương.
1.2 Cùng đội ngũ nhà văn các dân tộc thiểu số như: Nông Quốc Chấn, Bàn Tài
Đoàn, Triều Ân, Vi Hồng, Nông Minh Châu, Lò Ngân Sủn, Cao Duy Sơn, Lâm

Tiến… luôn ý thức giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc trong sáng tác của mình, Hứa
Vĩnh Sước – Y Phương là một trong số những nhà thơ như vậy. Người trai Tày sinh
ra và lớn lên ở làng Hiếu Lễ, dưới chân núi Bo Păn ở gần biên giới Việt – Trung,
thuộc huyện Trùng Khánh (Cao Bằng) nổi lên như một gương mặt thơ tiêu biểu,
xuất sắc, một phong cách riêng, độc đáo cho vùng văn hóa dân tộc miền núi vừa đậm
đà bản sắc “người đồng mình”, vừa rộng mở giao hòa với vùng văn hóa rộng lớn để
hợp lưu thành con sông văn chương Việt Nam.
Là một trong những cây bút tiêu biểu của dân tộc Tày, cầm bút từ những năm
chiến tranh lửa đạn khốc liệt cho tới bây giờ, Y Phương vẫn miệt mài trên từng con
chữ, lao động sáng tạo không ngừng để hôm nay là “ông chủ” sở hữu một “gia tài”
không nhỏ văn chương gồm thơ và tản văn. Các tác phẩm của anh đã góp phần đưa
văn học của các dân tộc thiểu số đến gần hơn với độc giả và trở thành một bộ phận
không thể thiếu đóng góp vào thành tựu chung của nền văn học Việt Nam hiện đại.
Là nhà thơ dân tộc Tày, sinh ra và lớn lên trên quê hương Cao Bằng, Y Phương
luôn cháy bỏng một khát khao đem đến cho bạn đọc một cái nhìn chân xác nhất về
cảnh sắc thiên nhiên và con người quê hương anh, cũng như cuộc sống và con người
của đồng bào Tày ở Cao Bằng nói chung và vùng quê Trùng Khánh nói riêng. Chính

4


vì vậy, đọc tác phẩm nào của anh, độc giả sẽ cảm nhận được chất “miền núi” thấm
sâu và lan tỏa trên từng con chữ, câu văn.
1.3 Tản văn trong những năm gần đây bắt đầu được sự công nhận từ góc độ giới
chuyên môn. Dường như “Tản văn Việt Nam hiện đại – một thể loại bị lãng quên”
(Trần Đình Sử) đang có sự hồi sinh và ngày càng chứng tỏ thế mạnh cũng như sự
hấp dẫn của mình với nhiều cây bút như: Tản mạn trước đèn của Đỗ Chu, Nhân
trường hợp chị Thỏ bông của Thảo Thảo, Tản văn Nguyễn Ngọc Tư… Tản văn
Kung fu người Co Xàu, đặc biệt tản văn Tháng Giêng, tháng Giêng một vòng dao
quắm của Y Phương nhận được giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam… Đọc tản

văn của Y Phương, người đọc luôn thấy chất miền núi, chất Tày được kết hợp hài
hòa lối tư duy hiện đại, tạo nên những trang viết bình dị mà sâu lắng, thiết tha nghĩa
tình, thấm đượm bản sắc văn hóa dân tộc.
Việc khai thác văn nghiệp Y Phương đã được tiến hành khá sớm. Càng ngày
càng thêm người yêu mến, càng có nhiều công trình nghiên cứu sự nghiệp sáng tác
của anh. Tuy nhiên, việc đánh giá, thẩm định của giới nghiên cứu về Y Phương chủ
yếu tập trung ở thể loại thơ, còn tản văn thì hầu như ít được nhắc đến, trong khi đây
là một trong những thể loại mới mà anh gặt hái được không ít thành công. Vì vậy,
chúng tôi lựa chọn đề tài “Bản sắc văn hóa dân tộc trong tản văn Y Phương” với
mong muốn sẽ đưa thêm một hướng tiếp cận với những giá trị nổi bật của tản văn và
bước đầu thấy được những đóng góp mới trong tản văn Y Phương đối với việc giữ
gìn bản sắc văn hóa dân tộc.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề về thơ Y Phương
Quá trình lao động nghệ thuật miệt mài của Y Phương đã đóng góp không nhỏ
cho thơ ca dân tộc thiểu số nói riêng và nền Văn học Việt Nam hiện đại nói chung.
Thơ Y Phương mang bản sắc rất riêng, độc đáo đã thu hút sự quan tâm của giới
nghiên cứu, phê bình văn học và nhiều nhà văn, như: Tế Hanh, Phạm Hổ, Chu Văn
5


Sơn, Nguyễn Hữu Tiến, Trúc Thông, Hồng Diệu, Thái Vĩnh Linh, Tạ Duy Anh, Đỗ
Trung Lai, Trần Mạnh Hảo, Phạm Quang Trung, Lê Thị Bích Hồng, Bảo Thu, Đỗ
Thị Thu Huyền… Các nhà nghiên cứu đều tập trung khai thác sự độc đáo trong sáng
tác và ý thức giữ gìn bản sắc dân tộc trong thơ của anh.
Nhận xét về thơ Y Phương, Tế Hanh cho rằng “Y Phương là một nhà thơ, một
nhà thơ miền núi rất mới mẻ. Thơ anh vừa dân tộc, nhưng có cái gì hiện đại, hôm
nay và mai sau…Y Phương bắt đầu tuổi trẻ của mình bằng cuộc đời người lính và
bắt đầu đời thơ mình là những bài thơ đánh giặc” [20, 246].
Nguyễn Hữu Tiến nhận thấy: “Thơ Y Phương vừa hiện đại vừa dân tộc là bởi

vì anh đã kết hợp truyền thống văn hóa của quê hương mình với mọi miền quê của
đất nước” [68, 272].
Tác giả Tạ Duy Anh đánh giá Y Phương là “Người gảy khúc đàn trời để viết
những bài ca vút lên từ đất, ca ngợi xứ sở đã nuôi ông thành thi sĩ” [7, 293].
TS Chu Văn Sơn nhận thấy sự gắn kết sâu sắc của Y Phương với cội nguồn xứ
sở: “Sự tha thiết với xứ sở dân tộc mình chính là nhịp tim thầm kín, bền vững nhất
trong từng bài thơ Y Phương, là cốt lõi của giọng hát Y Phương” [60, 264].
Theo Trúc Thông, “Y Phương không yêu dân tộc mình ở đầu lưỡi, lạm dụng
chất dân tộc. Qua tất cả những cảnh huống sinh hoạt vật chất và tinh thần hiện
thực, những đam mê và đau khổ trần trụi, những chìm lặng không sao nói hết và
những sự thật cuộc đời… Y Phương tiếp tục phát hiện về dân tộc mình” [76, 273].
Trần Mạnh Hảo nhận thấy cái chất Y Phương “Nhẩn nha sống – nhẩn nha thơ”
để “nhìn cuộc đời bằng đôi mắt thơ ngây của hoa lá dân tộc mình, rung động bằng
trái tim suối nguồn và tư duy bằng sừng đá”. Trần Mạnh Hảo còn nhận ra sự thống
nhất trong những mặt đối lập “thơ Y Phương bình dị, chân chất, hồn nhiên, giấu cất
mà he hé lộ thiên, lặng lẽ mà bùng nổ, như chính cuộc đời ông, con người ông” [23,
303].

6


Nhiều bài viết về thơ Y Phương đăng trên báo chí: Phạm Quang Trung thừa
nhận:“Y Phương trước sau nhất quán một xác tín nghề nghiệp” [80].
Lê Thị Bích Hồng đã phát hiện ra Y Phương thời kỳ đầu cầm bút không thể
đứng ngoài “dàn đồng ca” thời ấy, nhưng điều quan trọng “người con làng Hiếu Lễ”
đã bứt phá, vượt thoát rất nhanh khỏi “tiếng nói chung” để khẳng định một lối đi
riêng, một phong cách cá nhân với một gia tài thi ca “săn chắc, vạm vỡ, nhưng mềm
mại, tinh tế mang hồn làng”: “Thời kỳ đầu, thơ anh vẫn không thể khác giọng thơ
chung hào sảng vốn đã chi phối cả một thế hệ sáng tác: “Câu hát thiêng liêng lắm
chứ-Hát bây giờ còn để hát mai sau”... Nhưng chỉ sau các tập “Lửa hồng một góc”,

“Lời chúc”, “Đàn then”, anh đã sớm tạo ra tiếng nói riêng, không nhòe lẫn có sự
bồi hồi dân tộc đặc trưng và có sự khao khát chiếm lĩnh đỉnh cao” [29, 226]. Y
Phương đã trở thành nhà thơ có phong cách riêng bởi sự ý thức đi tìm cái mới, cái
độc đáo. Lê Thị Bích Hồng đã “bắt đúng mạch” suy nghĩ về văn chương của nhà thơ
dân tộc Tày: “sáng văn chương không mới, không độc đáo thì khó lòng tạo được
dấu ấn, thu hút được độc giả và không thể có đời sống trong lòng công chúng. Văn
chương với anh là “một thứ chơi. Chơi cho mình thích và cho người ta thích”. Lao
động sáng tạo mang dấu ấn cá nhân đậm nét và không bao giờ là dễ dàng như kiểu
vận hành sản xuất để ra sản phẩm hàng loạt. Khi con tim không rung, đôi tay không
buồn, cầm cây bút sao nổi. Cầm bút không nổi lấy đâu ra thơ ca. Người ta phải yêu
tiếng mẹ đẻ cái đã. Yêu hết mình mới có thơ ca. Yêu từ tim gan bên trong xương thịt
mình. Cảm xúc sáng tạo không phải là thứ đặt hàng” [29-224].
Một số Hội thảo khoa học đã đề cập tới sáng tác của Y Phương đặt trong mối
quan hệ với thơ ca dân tộc thiểu số nói chung “Sự chuyển biến của thơ dân tộc thiểu
số trong quá trình tiếp xúc với văn hóa Kinh (qua trường hợp sáng tác của Y
Phương)” (Kỷ yếu hội thảo Quốc tế Những lằn ranh văn học, Trường Đại học Sư
phạm TP. Hồ Chí Minh, 2011).

7


Trong các bài viết của mình, dù cách nói có khác nhau, nhưng các nhà nghiên
cứu, phê bình đều nhìn nhận, đánh giá đúng “chất Y Phương” với một tình yêu nồng
thắm với quê hương xứ sở, một bản lĩnh kiên cường tích cực giữ gìn bảo tồn văn hóa
dân tộc. Nhưng chủ yếu mới xoay quanh lĩnh vực thơ mà anh đã “gặt hái bội thu”
những “Mùa hoa” giải thưởng.
Những năm gần đây, thơ Y Phương đã thu hút giới nghiên cứu, trong đó phải
kể đến một số luận văn cao học đặt thơ Y Phương trong mối liên hệ với văn hóa, với
bản sắc văn hóa dân tộc, đó là: “Bản sắc dân tộc trong thơ Y Phương – Dương
Thuấn” (Hà Thị Thu Trang, Đại học Sư phạm Hà Nội, 2007); “Ngôn ngữ thơ Y

Phương” (Lê Thị Huệ, Đại học Vinh, 2009); “Ngôn từ nghệ thuật trong thơ Y
Phương” (Nguyễn Thúy Hằng, Đại học Sư phạm Hà Nội, 2011); “Bản sắc Tày
trong thơ Y Phương và Dương Thuấn” (Nguyễn Thị Thu Huyền, Đại học Thái
Nguyên, 2009)... Luận án tiến sĩ “Thơ dân tộc Tày từ 1945 đến nay” (Đỗ Thị Thu
Huyền, Học viện Khoa học xã hội Việt Nam, 2013) nghiên cứu các nhà thơ Tày,
trong đó có thơ Y Phương.
2.2 Lịch sử nghiên cứu vấn đề về tản văn Y Phương
Là nhà thơ Tày thành danh, liên tiếp trong hai năm 2009-2010, Y Phương ra
mắt bạn đọc hai tập tản văn Tháng Giêng, tháng Giêng một vòng dao quắm (Nhà
xuất bản Phụ nữ ấn hành) và tản văn Kung fu người Co Xàu (Nhà xuất bản Hội nhà
văn ấn hành năm 2010) đã thu hút nhiều độc giả và giới nghiên cứu phê bình.
Nhận xét về tập tản văn Y Phương, Lâm Tiến viết “Mỗi tản văn của Y Phương
như một lát cắt, một tầng vỉa làm lộ dần chiều sâu văn hóa của quê hương, của dân
tộc. Y Phương không phải chỉ kể lại, tả lại những sự vật, những hiện tượng mà đi
sâu phân tích ý nghĩa cội nguồn của nó, đẩy những sự kiện, tình huống đi đến tận
cùng để từ đó khám phá, phát hiện tâm hồn, tính cách dân tộc, nói rộng ra là ngọn
nguồn, chiều sâu văn hóa của dân tộc” [66].

8


Tuy Hòa cho rằng “Tháng Giêng, tháng Giêng một vòng dao quắm không khác
gì những bài thơ mà Y Phương từng tin cậy “Câu hát thiêng liêng lắm chứ/ Hát bây
giờ còn để lại mai sau”… Tản văn Y Phương không chinh phục người đọc bằng ánh
mắt sắc sảo, mà bằng cái nhìn đầy âu yếm” [27].
Lê Thị Bích Hồng nhận thấy tản văn của Y Phương là “Chiếu nghỉ giữa
khoảng thơ”, là thời điểm tác giả vịn câu nói của cổ nhân người Tày: "Chỗ nào còn
nước thì làm ruộng, hết nước thì làm rẫy", anh vượt qua cảm giác lống loáng, rỗng
ruột đến với tản văn như phút “nghỉ ngơi” hiếm hoi [28].
Lê Thị Bích Hồng khi viết “Người đàn ông sinh ra ở làng Hiếu Lễ” đã khẳng

định chất văn hóa thấm đẫm trong tản văn: “Chất Tày được bộc lộ độc đáo, trong
trải nghiệm cuộc đời, ở một tầng vỉa làm lộ dần tầm cao và chiều sâu văn hóa. Anh
coi trọng giá trị văn hóa, coi văn hóa là nền tảng tinh thần bền vững nhất, Anh hiểu
hơn ai hết văn hóa là sức mạnh nội sinh, là cội cuồn giá trị của làng Tày “Vách nhà
ken câu hát” với niềm tin vững chắc “Còn quê hương thì làm phong tục”. Và điều
“đáng trân trọng là tác phẩm của nhà thơ Tày ấy không "đóng đinh" bó hẹp trong
cuộc sống sinh hoạt của người Tày mà vượt lên, vươn xa như một dấu nối với thơ ca
các dân tộc khác trong thời kỳ hội nhập. Tác phẩm vì thế mà mở rộng biên độ,
phong phú đề tài về cuộc sống, con người miền núi – thành thị, tình yêu đất nước –
quê hương, tình cảm gia đình – bạn bè - tình yêu lứa đôi…và điều quan trọng là
thẫm đẫm bản sắc văn hóa “người đồng mình”. Tình yêu với đồng bào dân tộc mình
đã cho anh nguồn xúc cảm cùng bản sắc văn hóa Tày khó lẫn” [29].
Những ý kiến nhận xét về tản văn Y Phương chủ yếu dừng lại ở những bài viết
trong sách, báo, tạp chí có dung lượng nhỏ, khai thác một số nét nổi bật chủ yếu của
tản văn. Song đó là những tư liệu quý, giúp người viết trong quá trình tìm hiểu bản
sắc văn hóa dân tộc trong tản văn Y Phương.
Tính đến thời điểm này, chưa nhiều luận văn nghiên cứu tản văn Y Phương.
Mới có một số luận văn, như: “Đặc trưng tản văn Y Phương” (Hồ Thị Loan, Đại
9


học Vinh, 2011); “Đặc sắc tản văn Y Phương” (Sùng Thị Hương, Đại học Sư phạm
Thái Nguyên, 2013). Cùng với tôi, hiện ở Khoa Ngữ văn Đại học Sư phạm Hà Nội
có một luận văn nghiên cứu tản văn Y Phương “Những đặc sắc của tản văn Y
Phương” (Nông Ngọc Hiên, chưa bảo vệ).
Tuy chưa nhiều công trình nghiên cứu tản văn Y Phương, nhưng những nghiên
cứu trước là những gợi ý quý báu cho tôi thực hiện đề tài này.
3. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung khảo sát chủ yếu hai tập tản văn của Y Phương: Tháng
Giêng tháng Giêng một vòng dao quắm (Nhà xuất bản Phụ nữ 2009) và tản văn

Kung fu người Co Xàu ( Nhà xuất bản Hội nhà văn 2010). Ngoài ra, để hiểu đầy đủ
bản sắc dân tộc trong tản văn Y Phương, chúng tôi khảo sát mở rộng sang một số các
tập thơ và trường ca của anh như: Đàn then, Tiếng hát tháng Giêng, Chín tháng. Đò
trăng, Thơ Y Phương, Thất Tàng lồm (Ngược gió)…
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn chủ yếu sử dụng một số phương pháp dưới đây:
- Phương pháp phân tích - tổng hợp.
-Phương pháp thống kê- phân loại.
- Phương pháp liên ngành (văn hóa học, dân tộc học...).
- Phương pháp đối chiếu so sánh.
- Phương pháp phân tích tác phẩm văn học theo đặc trưng thể loại.
5. Đóng góp của luận văn
- Về mặt lý luận: Luận văn của chúng tôi góp phần xác định vị trí, những đóng
góp của tản văn Y Phương trong tản văn hiện đại Việt Nam.
- Về mặt thực tiễn: Qua khảo sát, phân tích tác phẩm của Y Phương (đặt trong
so sánh liên ngành), chúng tôi mong muốn được góp thêm một tiếng nói khẳng định
việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa truyền thống.

10


6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tư liệu tham khảo, nội dung của luận văn bao
gồm ba chương:
Chương 1: Quan niệm về thể loại, một số vấn đề chung về bản sắc văn hóa
dân tộc và vị trí của tản văn trong văn nghiệp Y Phương (trang).
Chương 2: Bản sắc văn hóa dân tộc nhìn từ phương diện nội dung tư tưởng
trong tản văn Y Phương (trang).
Chương 3: Bản sắc văn hóa dân tộc nhìn từ phương diện nghệ thuật (trang).


NỘI DUNG
Chương 1
QUAN NIỆM VỀ THỂ LOẠI, MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG
VỀ BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC VÀ VỊ TRÍ CỦA TẢN VĂN
TRONG VĂN NGHIỆP Y PHƯƠNG
1.1 Quan niệm về thể loại
11


“ Thể loại tản văn khai sinh từ những thập kỉ đầu thế kỉ XX nhưng nó tồn tại
mờ nhạt, không gây được sự chú ý của giới nghiên cứu, phê bình bởi trong ý thức
của nhiều người thì tản văn là thể loại đi ngoài lề đời sống văn học; hơn nữa nó lại
là một thứ văn không có diện mạo, không tiếng nói, không được định danh một cách
nhất quán. Từ những thập niên 90 của thế kỉ XX, tản văn bắt đầu gây sự chú ý
nhiều hơn bởi quá trình giới thiệu tản văn Trung Quốc vào Việt Nam diễn ra mạnh
mẽ hơn, cũng từ đây ý thức thể loại được định hình rõ hơn” [50, 4].
Trong cuốn “Năm bài giảng và thể loại”, tác giả Hoàng Ngọc Hiến cho rằng
tản văn là “một tiểu loại kí ngắn gọn, hàm súc theo tùy hứng của tác giả, có thể bộc
lộ trữ tình, tự sự hoặc nghị luận, thường là mấy thứ đan quyện nhau. Lối thể hiện
đời sống trong tản văn mang tính chất chấm phá, tuy vậy, ngòi bút tản văn chạm
vào những hiện tượng được tái hiện ở những khía cạnh cốt yếu và bất ngờ. Có lẽ
đặc trưng quan trọng nhất của thể loại tiểu kí này là ở chỗ tất cả những gì được thể
hiện biểu hiện trong bài tản văn đều mang đậm dấu ấn cách cảm nhận và cảm nghĩ
của riêng tác giả”. Như vậy, theo quan niệm của GS Hoàng Ngọc Hiến thì tản văn
vẫn chưa thể tách ra thành một thể loại riêng biệt, tồn tại độc lập mà vẫn “dưới
trướng” của thể kí; tuy nhiên có một số đặc trưng nổi bật nhất của tản văn được
Hoàng Ngọc Hiến đề cập tới ở đây: sự tự do trong cách biểu hiện (có thể tự sự, trữ
tình, nghị luận), sự luận giải mang tính cá nhân của người viết đối với vấn đề đưa ra
được đề cao.
Theo Từ điển thuật ngữ văn học (Lê Bá Hán, Trần Đình Sử chủ biên): “Tản

văn là loại văn xuôi ngắn gọn, hàm súc, có thể trữ tình, tự sự, nghị luận, miêu tả
phong cách, khắc họa nhân vật. Lối thể hiện đời sống của tản văn mang tính chất
chấm phá, không nhất thiết đòi hỏi có cốt truyện phức tạp, nhân vật hoàn chỉnh
nhưng có cấu tứ độc đáo, có giọng điệu, cốt cách cá nhân. Tản văn là loại văn tự
do, dài ngắn tùy ý, cách thể hiện đa dạng, đặc biệt là thể hiện nổi bật chính kiến và
cá tính tác giả, có truyền thống lâu đời và sức sống mạnh mẽ”. [22, 293-294].
12


Trong bài tản văn trên báo văn nghệ 2011, tác giả Nguyễn Thị Lan cho rằng
tản văn là một thể loại văn học độc lập:“Tản văn có những đặc điểm khác với những
thể loại khác. Tản văn là những bài viết tản mạn tương đối tự do; về dung lượng khá
ngắn gọn, hàm súc; về kết cấu: có sự linh hoạt tất cả các phương thức, phương tiện
biểu hiện nghệ thuật; về nội dung: thường biểu hiện đời sống theo kiểu chấm phá và
đặc trưng quan trọng nhất là thể hiện đậm nét dấu ấn cá nhân của người viết; về
mặt thẩm mỹ: tản văn đứng giữa thơ và truyện ngắn”.
1.2. Một số vấn đề chung về bản sắc văn hóa dân tộc
1.2.1. Văn hóa và bản sắc văn hóa dân tộc
Theo nghĩa chung nhất, văn hoá được xem là toàn bộ những hoạt động sáng tạo
của con người trong quá khứ cũng như trong hiện tại tạo thành những chuẩn mực giá trị, thị hiếu và truyền thống, gọi chung là hệ giá trị - xã hội, một thành tố cơ bản
làm nên bản sắc riêng của mỗi cộng đồng dân tộc.
Hiện nay có nhiều cách định nghĩa khác nhau về khái niệm “Văn hóa”.
Trong cuốn Từ điển bách khoa Xô viết: “Văn hóa là một tổng thể các giá trị
vật chất và tinh thần được con người sáng tạo ra và phát triển theo lịch sử, khác với
các đối tượng tự nhiên” [70, 16].
Nhà nghiên cứu văn hóa Phan Ngọc cho rằng:“Văn hóa là mối quan hệ giữa
thế giới biểu tượng trong óc một cá nhân hay một tộc người với cái thế giới thực tại
trong biểu tượng” [54, 17.]
GS - Tiến sĩ Trần Ngọc Thêm xác định cụ thể: “Văn hóa là một hệ thống hữu
cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình

hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và
xã hội” [73, 10].
Nhà nhân loại học phương Tây E.B.Taylo lại định nghĩa: “Văn hóa là toàn bộ
phức thể bao gồm hiểu biết, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, pháp luật, phong tục,

13


những khả năng và tập quán khác mà con người có được với tư cách là một thành
viên của xã hội” [82, 8].
Tuy có nhiều khái niệm khác nhau về khái niệm văn hóa, nhưng các định nghĩa
vẫn xoay quanh vấn đề tương đối thống nhất: Văn hóa là một trong những giá trị đặc
trưng về vật chất, tinh thần được con người sáng tạo ra trong sự phát triển của dân
tộc.
Mỗi quốc gia có một nền văn hóa riêng và mỗi dân tộc cũng sẽ có bản sắc văn
hóa của riêng mình. “Bản” là cái gốc, cái căn bản, cái lõi, cái hạt nhân của một sự
vật. “Sắc” là thể hiện ra ngoài. Nói bản sắc dân tộc của văn hóa Việt Nam tức là nói
những giá trị gốc, căn bản, cốt lõi, những giá trị hạt nhân của dân tộc Việt Nam. Nói
những hạt nhân giá trị hạt nhân tức là không phải nói tất cả mọi giá trị, mà chỉ là nói
những giá trị tiêu biểu nhất, bản chất nhất, mang tính dân tộc sâu sắc biểu hiện trong
mọi lĩnh vực của nền văn hóa Việt Nam, trong các lĩnh vực văn học nghệ thuật, sân
khấu, hội họa, điêu khắc, kiến trúc, sinh hoạt, giao tiếp, ứng xử hằng ngày của người
Việt Nam... Bản sắc văn hoá dân tộc bao hàm những mặt được hình thành và gắn bó
với dân tộc từ thuở xa xưa, các mặt này được duy trì theo quá trình của lịch sử. Đó là
các kiểu quan hệ hay một kiểu lựa chọn riêng của một cộng đồng về một phương
thức ứng xử nào đó, khiến cho mỗi dân tộc hiện ra với những nét độc đáo nhằm phân
biệt với các dân tộc khác.
Nói đến bản sắc dân tộc của văn hóa Việt Nam là nói đến những tinh hoa, những
giá trị bền vững được hun đúc, vun đắp trong suốt chiều dài lịch sử hàng nghìn năm
đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc. Những giá trị ấy, những tinh hoa ấy

đã tạo nên những nét đặc sắc, riêng có ở cộng đồng các dân tộc Việt Nam, trong con
người Việt Nam.
Bản sắc văn hóa Việt Nam là tố chất được hợp luyện cùng chiều với lịch sử đấu
tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Bản sắc đó không phải là một

14


hằng số, là những giá trị bất biến, mà có những giá trị mới được hình thành, bồi tụ
trong quá trình hội nhập, tiếp biến giữa các nền văn hóa.
Văn hóa khắc họa bản sắc và phương thức tồn tại của một cộng đồng, khiến cộng
đồng ấy có một đặc thù riêng. Như vậy, văn hóa mang bản sắc dân tộc. Và yếu tố
dân tộc là yếu tố quyết định nhất của một nền văn hóa. Bản sắc văn hóa dân tộc là
cái "hồn", là sức sống nội sinh, là “thẻ căn cước” của mỗi dân tộc, để phân biệt dân
tộc này với dân tộc khác, từ đó nó có thể biểu lộ một cách trọn vẹn nhất sự hiện diện
của mình trong quá trình giao lưu và hội nhập.
Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng khẳng định: “Bản sắc là những nét
riêng biệt, độc đáo của một dân tộc thể hiện trong nền văn hóa, nghệ thuật trong
phong tục tập quán, trong đời sống muôn màu của dân tộc” [17, 11].
Trong cuốn Cơ sở văn hóa, GS Trần Quốc Vượng cho rằng: “Bản sắc là sự lan
tỏa tự nhiên trong sắc thái tư duy ngôn ngữ, trong tâm hồn, trí tuệ, trong phong tục,
cung cách, hành vi, ứng xử, trong lề thói, tập tục, trong văn chương, nghệ thuật, và
trong toàn bộ các giá trị văn hóa vật chất, văn hóa tinh thần của con người. Bản sắc
dân tộc trong mọi sắc thái là sự lan tỏa một cách tự nhiên không ai gò ép được,
nhưng nó phải gắn liền với ý thức dân tộc và tự khẳng định qua thử thách của thời
gian, nếu không qua giao lưu và mở rộng văn hóa, bản sắc sẽ bị biến đổi, mất đi
những gì tinh túy nhất của dân tộc. Do đó các nhà nghiên cứu trên thế giới đã từng
đưa ra những ý kiến thống nhất gọi bản sắc văn hóa dân tộc là một thứ căn cước,
một chứng minh thư của riêng một dân tộc” [82, 78].
Theo GS Trần Đình Sử: “Bản sắc dân tộc là thuộc tính độc đáo của một nền

văn học, vừa là biểu hiện cái chung của nền văn học ấy vừa phân biệt nó với dân tộc
khác” [61, 19].
Tác giả Nguyễn Hùng Vĩ đưa ra ý kiến: “Bản sắc dân tộc không phải cái gì đó
tiên thiên, có sẵn trong cội nguồn mà nó luôn luôn được sáng tạo và bồi đắp. Từng
thế hệ nhà văn đã sáng tạo nên bản sắc dân tộc của văn học Việt Nam” [81].
15


Điều đó đã được thể hiện trong quan điểm chỉ đạo, đường lối, chính sách của
Đảng và Nhà nước. Nghị Quyết Trung ương 5 khóa VIII xác định “xây dựng và
phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa
văn hóa nhân loại, làm cho văn hóa thấm sâu vào toàn bộ đời sống và hoạt động xã
hội, vào từng người”. Trong cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội (bổ sung và phát triển năm 2011), Đảng ta tiếp tục hoàn chỉnh: “Xây
dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện,
thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ;
làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở
thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển”.
Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 09-6-2014 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI
về “xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển
bền vững đất nước” tiếp tục khẳng định bản sắc dân tộc “Xây dựng nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất trong đa dạng của cộng đồng các
dân tộc Việt Nam, với các đặc trưng dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học”.
Văn hóa và văn học có mối quan hệ mật thiết bởi trước hết văn học có thể coi là
một bộ phận nằm trong chỉnh thể của nó là văn hóa, mỗi nhà văn khi sáng tạo tác
phẩm của mình đều phải dựa trên một nền tảng rộng lớn là văn hóa dân tộc và văn
hóa nhân loại. Có thể coi văn học là một tấm gương vừa phản chiếu, vừa thu nhỏ bộ
mặt văn hóa của từng thời đại vào trong đó. Đặc biệt văn học sẽ kết tinh toàn bộ các
phương diện của văn hóa vào trong thế giới nghệ thuật của mình. Bielinxki từng
viết: “Văn học cũng như mọi loại hình nghệ thuật khác đều là sản phẩm tinh thần

của một cá nhân nghệ sĩ. Mà cá nhân người nghệ sĩ đó lại thuộc về một cộng đồng,
một dân tộc nhất định. Mỗi tác phẩm văn học ít nhiều đều mang dấu ấn riêng về văn
hóa, phong tục tập quán hay tâm lí, tính cách đặc trưng của dân tộc mình. Vậy tính
dân tộc được xem như là một thuộc tính xã hội của văn học, là một “thuộc tính tất
yếu của việc sáng tạo”.
16


Bàn về tính dân tộc trong trong văn học, nhà nghiên cứu người Nga A. Tôn xtôi
cho rằng: “Nghệ thuật dân tộc là nghệ thuật mang mùi hương đất đai, trong tiếng
mẹ đẻ mỗi từ dường như có hai lần ý nghĩa nghệ thuật…”. Quan điểm đó rất đúng
bởi vì tác phẩm văn học nghệ thuật là sản phẩm riêng của cá nhân nghệ sĩ, nhưng
đằng sau mỗi người nghệ sĩ bao giờ cũng mang bóng dáng của dân tộc, giai cấp mà
họ đang sống. Vậy nên bản sắc văn hóa dân tộc luôn thấm đẫm trong từng câu chữ,
trong cách cảm cách nghĩ của mỗi nhà văn, nhà thơ. Và cũng chính đặc thù của đời
sống dân tộc đã mang lại cho văn học của dân tộc ấy một bản sắc riêng độc đáo
được bảo tồn lưu giữ qua nhiều thế hệ” [44].
1.2.2 Khái quát về văn hóa dân tộc Tày
Dân tộc Tày là một cộng đồng thuộc nhóm ngôn ngữ Tày – Thái, là cư dân
đông nhất ở vùng núi phía Bắc và chiếm tỉ lệ cao so với các dân tộc thiểu số khác.
Theo số liệu điều tra dân số công bố năm 2001 của Tổng cục Thống kê, dân tộc Tày
có 1.477.514 người, “cư trú trên một địa bàn rộng lớn miền thượng du Việt Bắc,
Đông Bắc… Vùng người Tày cư trú thường xen kẽ các dân tộc Mông, Dao, Nùng,
Sán Chay, Giáy” [14, 284].
Người Tày có mặt ở Việt Nam từ rất sớm. Sử sách còn ghi rõ ngay từ buổi bình
minh của lịch sử, thế kỷ thứ II trước công nguyên, liên minh bộ lạc Âu Việt (Tày,
Nùng) đã cùng liên minh với bộ lạc Lạc Việt (Việt, Mường) dưới sự chỉ huy của thủ
lĩnh An Dương Vương Thục Phán, đã có đủ sức mạnh đánh bại quân Tần xâm lược
và thành lập Vương quốc Âu Lạc. Âu Lạc chính là nhà nước đầu tiên xuất hiện trên
vũ đài lịch sử Việt Nam với tiến trình lịch sử lâu đời của mình, dân tộc Tày chẳng

những góp phần quan trọng vào sự nghiệp dựng nước và giữ nước mà còn sớm hình
thành một nền văn hóa, làm phong phú thêm nền văn hóa truyền thống của các dân
tộc Việt Nam.
* Văn hóa sản xuất

17


Từ rất lâu đời người Tày đã sống chủ yếu bằng nghề trồng lúa nước. Do có mặt
sớm hơn các dân tộc khác nên người Tày đã khai phá và làm chủ được những vùng
thung lũng phẳng. Việc trồng lúa nước của người Tày được ghi dấu trong truyền
thuyết Pú Lương Quân của dân tộc mình. Vì địa hình đồi núi cao, hệ thống sông,
suối thường thấp hơn các cánh đồng, đám ruộng, nên từ xa xưa người dân đã biết
đào mương, đắp phai, bắc máng, làm cọn lấy nước lên ruộng và lợi dụng sức nước
để giã gạo.
Ngoài lúa nước, người Tày còn trồng lúa nương, hoa màu, cây ăn quả… Các
loại cây công nghiệp cũng được người dân chú trọng phát triển như thuốc lá, trẩu,
hồi, tre, trúc…
Người Tày rất chú trọng phát triển về chăn nuôi. Bởi ngoài trồng trọt, chăn nuôi
cũng đem lại nguồn thu lợi đáng kể cho kinh tế hộ gia đình. Từ bao đời nay, dân tộc
Tày đã có quan niệm “tu mò nhò pỏ khỏ” (con bò giúp đỡ người nghèo). Cư dân Tày
cổ cũng đã biết thuần dưỡng trâu để phục vụ sản xuất. Chính vì vậy con trâu được
chọn làm vật tế lễ trong lễ hội “Lồng Tôồng”, hình đầu trâu được treo trong nhà ở
những chỗ trang trọng nhất. Điều này thể hiện tín ngưỡng của dân tộc đối với con
vật sống gần gũi và có ích trong đời sống của người dân.
Săn bắt, hái lượm cũng là một nét phong tục quen thuộc của dân tộc Tày, đặc
biệt là nghề đánh bắt cá ở sông, suối. Hầu như gia đình người Tày nào cũng có dụng
cụ để đánh bắt cá (bằng chài, lưới, vó, đơm…). Một số người còn chủ yếu sống dựa
vào nghề này.
Dân tộc Tày rất nổi tiếng với các nghề thủ công, như: đan lát các vật dụng gia

đình bằng tre, trúc, mây; đục đẽo đá làm cối giã, cối xay; rèn sắt, dao… Họ biết
trồng bông, làm sa quay, làm khung cửi dệt vải, và nhất là có kỹ thuật nhuộm tạo ra
loại vải màu đen rất đặc trưng (màu chàm) để may quần áo, làm màn, mặt chăn. Đặc
biệt là những tấm thổ cẩm được dệt với nhiều hoa văn đẹp, độc đáo làm mặt chăn,
mặt địu…
18


Do nông lâm thổ sản và tiểu thủ công nghiệp phong phú, cộng thêm nhu cầu
trao đổi, buôn bán của mọi người dân, nên ở vùng có người Tày cư trú, chợ được mở
ở nhiều nơi. Chợ họp theo chu kỳ năm ngày một phiên. Các chợ bày bán sản phẩm
phục vụ nhu cầu thiết yếu của người dân. Trong ngày chợ phiên, nhiều hình thức văn
hóa đặc sắc mang đậm dấu ấn địa phương đã tạo nên văn hóa chợ độc đáo của các
dân tộc thiểu số vùng cao.
* Văn hóa tổ chức đời sống
Tục ngữ Tày có câu “vỉ noọng tam tó bấu táy vỉ noọng sỏ rườn” (anh em ruột
ở xa không bằng người dưng ở ngay bên cạnh) cũng giống câu tục ngữ Kinh “Bán
anh em xa mua láng giềng gần” để nói lên sự cố kết dân bản và sự đoàn kết trong
lao động sản xuất, chiến đấu để chống nạn trộm cướp, chống kẻ thù. Hơn thế, họ
luôn quan tâm, giúp đỡ, chia ngọt sẻ bùi lẫn nhau mỗi khi gia đình bạn bè có chuyện
vui buồn như tình làng nghĩa xóm “tắt lửa tối đèn có nhau” của các dân tộc khác.
Trong quan hệ với các dân tộc anh em, đồng bào có tập quán kết nghĩa anh em gọi là
“lạo tồng”, thương yêu, giúp đỡ nhau như anh em ruột thịt. Đồng bào Tày rất mến
khách “Khách đến nhà bao giờ cũng được tiếp đãi chu đáo. Khách đến làng, tuy
không quen biết, nhưng cũng được đồng bào chào hỏi thân mật” [41, 8].
*Văn hóa vật chất
Người Tày ăn cơm tẻ là chính. Mỗi ngày ăn ba bữa sáng, trưa và tối. Những
ngày lễ tết (dù là tết to hay tết nhỏ), cưới hỏi đồng bào thường ăn gà, vịt, ngan, lợn
và chế biến thành những món ăn măng đậm phong vị miền núi. Các loại bánh trái
làm trong ngày tết lễ hết sức phong phú, như: bánh chưng, bánh gai, bánh dợm, bánh

gio, bánh khảo, chè lam, bánh trứng kiến, bánh cuốn… đã trở thành nét độc đáo
trong văn hóa ẩm thực của dân tộc Tày.
Nước chè của người Tày chủ yếu được nấu bằng các loại lá cây do đồng bào hái
trên rừng và đều có tác dụng về y học. Từ lâu, người Tày đã biết cất rượu bằng ngô,

19


gạo, sắn ủ với men lá tự chế. Rượu được uống trong sinh hoạt ngày thường, khi có
khách đến nhà chơi thể hiện lòng hiếu khách vào những ngày lễ tết.
Người Tày từ lâu đã cư trú tập trung thành bản. Vì thế, tên bản thường gọi theo
tên cánh đồng, khúc sông suối, hay dốc núi. Ở những nơi đất rộng ruộng nhiều có
bản tập trung tới hàng trăm nóc nhà, nơi ruộng ít thì cũng dăm chục nóc nhà. Bản
làng thường dựa lưng vào núi, trước mặt trông ra cánh đồng. Nhà ở của dân tộc Tày
thường là nhà sàn, nhà sàn đá, nhà đất; mái nhà lợp bằng ngói âm – dương hoặc lá
cọ, lá gianh…
Người Tày có câu nói “Chiêm slao, chiêm tin slửa” (kén gái nhìn tà áo) để nói
về tài nghệ của người phụ nữ Tày trong việc trồng bông, kéo sợi vải, nhuộm chàm,
cắt quần áo... Bản sắc văn hóa dân tộc thể hiện rất rõ qua trang phục.
Trong trang phục truyền thống của dân tộc, “cả nam lẫn nữ đều mặc quần áo
màu chàm và hầu như cùng một kiểu, không thêu trang trí” [14, 290]. Riêng chiếc
áo của phụ nữ thường may vừa vặn cơ thể: hơi nhân thêm eo, ống tay nhỏ để tôn
những đường nét của cơ thể. Khi mặc áo, bao giờ người phụ nữ cũng thắt ra ngoài
một chiếc thắt lưng bằng vải chàm để xõa mối ra đằng sau tạo nên sự mềm mại.
Người phụ nữ Tày cũng mặc áo dài năm thân, cài khuy áo bên nách phải như nhiều
dân tộc khác, nhưng vẫn tạo ra dáng vẻ riêng của mình, nhờ thân áo dài chấm gót,
tay áo hẹp bó sát giống như áo dài của phụ nữ Kinh, cổ áo không ôm khít vòng cổ
như áo dài Kinh, mà vẫn để hở một khoảng tạo cảm giác như chiếc áo “mềm mại”
hơn. Độc đáo hơn cả có lẽ là màu sắc của áo dài người Tày. Đó là màu vải chàm sậm
đen ánh sắc tím hay màu tím hồng. Để tôn thêm sự duyên dáng, phụ nữ Tày còn vấn

tóc, chít khăn vuông màu chàm theo kiểu chít vuông trước trán, các góc khăn thường
đính tua chỉ màu. Họ cũng hay đeo vòng cổ, vòng tay, chân và dây xà tích bằng bạc.
Do địa hình không bằng phẳng, nhiều núi đồi, khe suối nên phương tiện người
Tày dùng để đi lại, vận chuyển sản phẩm nông nghiệp thường bằng ngựa. Vật dụng
chứa mang vận chuyển thường bằng gánh đôi dậu, đôi xỏng và đôi cuôi. Tất cả
20


những vật dụng này đều do bàn tay người dân đan lát mà tạo thành. Dùng trâu kéo
và bè, mảng để chuyên chở cũng là một nét đặc sắc riêng của dân tộc Tày.
* Văn hóa tinh thần
Thanh niêm nam nữ Tày được tự do tìm hiểu qua các cuộc hội hè, hát lượn.
Nhưng để đi đến hôn lễ hay không lại do hai gia đình quyết định. Người Tày có
phong tục “Khai lục nhình” (bán con gái) nên lễ vật và tiền cưới nhà trai phải mang
đến nhà gái rất hậu hĩnh. Việc tiến hành hôn nhân phải qua rất nhiều khâu; đánh
tiếng (đi hỏi), lễ ăn hỏi, lễ cưới, lễ lại mặt. Lễ cưới thể hiện rõ nhất nét đẹp văn hóa
của người Tày qua việc hát đối đáp sli lượn trong đám cưới. Đó là tiếng hát của ông
quan lang (người chủ đón dâu) và đại diện nhà gái để được lên nhà gái làm lễ tổ tiên
và đón dâu, đưa dâu về nhà chồng. Tiếng hát “quan lang” mang ý nghĩa cao quý bởi
nó thể hiện tình cảm trân trọng của nhà trai đối với nhà gái và ngược lại; đồng thời
nó cũng thể hiện văn hóa ứng xử của cả gia tộc nói riêng, tộc người nói chung thông
qua đại diện của hai gia đình. Đó còn là tiếng lượn của những người đến dự đám
cưới cất lên để mừng cho cô dâu chú rể, mừng cho gia chủ có được con dâu, con rể
thảo hiền, mừng cho cuộc sống mới… Tất cả các điệu si lượn đó đã tạo nên một
phần quan trọng trong đời sống văn nghệ của dân tộc Tày.
Người Tày là dân tộc theo tín ngưỡng đa thần. Các thần đều được gọi là ma
(phi), gồm phi phạ ở trên trời, phi đông ở trong rừng, phi pú pẩu là tổ tiên… Bên
cạnh quan niệm về các loại ma như trên, trong tâm thức của dân tộc này còn có lại
ma gà (phi cáy) ngự trị ở một số người. Đây là một loại ma ác, thường làm hại nên
người Tày rất ghét, sợ những ai bị mang tiếng là ma gà. Mỗi khi gia đình có việc

vui, buồn, ốm đau, bệnh tật… dân tộc Tày đều hay mời thày mo, thày tào, bà bụt
(pựt) về để hành lễ.
Trong một năm, người Tày có nhiều ngày tết với những ý nghĩa khác nhau,
Những dịp tết dù nhỏ hay to, người Tày đều làm những thứ bánh theo từng thời
điểm. Các loại bánh trái luôn biểu hiện cho bản sắc dân tộc của dân tộc. Ví như
21


mùng 3 tháng 3 là ngày tết ăn xôi ngũ vị, bánh trứng kiến; rằm tháng bảy là tết bánh
gai, bánh dợm và ăn thịt vịt quay… Đặc biệt nhất là những ngày hội “Lồng Tôồng”
(xuống đồng) tổ chức vào dịp đầu xuân ở nhiều địa phương trong vùng với nhiều
hình thức văn hóa và tín ngưỡng dân gian mang đậm bản sắc dân tộc càng làm
phong phú hơn đời sống văn nghệ, đời sống tín ngưỡng của người dân.
Người Tày có kho tàng truyện thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, tục ngữ, truyện
thơ phong phú, tiêu biểu là truyện Qủa bầu, Thạch Sanh, Cẩu Khây, Pú Lương
Quân, Báo Luông - Sao Cải, Khảm hải (vượt biển)… Ngoài ra, dân tộc tày còn có
dân ca với các làn điệu đặc trưng như hát sli, lượn, phong slư, phuối pác, puối rọi,
vén eng… các làn điệu dân ca này phục vụ trong đời sống sinh hoạt tinh thần, tín
ngưỡng của người Tày.
Cũng giống như một số dân tộc thiểu số ở vùng cao khác, người Tày còn có một
nền y học nhân dân khá phong phú “Hầu như gia đình nào cũng biết nhiều cây thuốc
chữa bệnh, thuốc bổ” [14, 30] cho con người và gia súc, gia cầm để tự do phục vụ
nhu cầu cuộc sống.
Từ những điều vừa tìm hiểu về đặc điểm văn hóa của dân tộc Tày chúng ta có
thể nhận ra rằng: Mỗi một dân tộc đều mang trong mình những dấu ấn văn hóa riêng
hòa trong những nét văn hóa chung của nhiều dân tộc. Chính cái riêng tạo nên đặc
sắc của dân tộc đó. Còn những nét chung đã tạo nên nét hài hòa giao lưu giữa các
dân tộc anh em. Bản sắc văn hóa hay truyền thống dân tộc là quá trình chọn lọc, tích
lũy qua nhiều thế hệ. Trong xu hướng phát triển kinh tế hội nhập ngày nay, để giữ
gìn bản sắc văn hóa dân tộc Tày cùng các dân tộc anh em khác như giữ lại những

trang phục cổ truyền, sinh hoạt văn hóa trong đám cưới, ma chay, lễ hội là điều
không phải dễ dàng; Do đó việc phát hiện, giữ gìn và phát huy truyền thống văn hóa
của từng dân tộc theo hướng ngày càng hiện đại nhưng vẫn giữ được dấu ấn riêng là
vấn đề ý nghĩa mang tính thời sự, cập nhật.
1.3 Cuộc đời và văn nghiệp Y Phương
22


1.3.1 Cuộc đời và văn nghiệp Y Phương
Tên khai sinh của Y Phương là Hứa Vĩnh Sước (các bút danh: Y Phương, Chu
Văn Păn, Hứa Hiếu Lễ) sinh ngày 24 tháng 12 năm 1948 trong một gia đình nông
dân dân tộc Tày ở xã Lăng Hiếu, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng. Thân phụ là
cụ Hứa Văn Cường biết chữ nho, làm thầy tào và chữa bệnh điên cứu người. Ngày
bé, cậu bé Vĩnh Sước hiếu động đã theo cha gõ trống, đánh não bạt cho đám ma.
Cậu cũng đã từng ước ao ước có được những phép thuật của thầy tào, học được
những bài thuốc của cha, nhưng cha nhìn thấy số mạng Vĩnh Sước không hợp nghề
đó “Con là người nóng tính, ham hố nhiều như tóc. Riêng hai điều đó không thể học
được để làm thày tào”. Cha tôn trọng thiên hướng bẩm sinh và bài học đầu tiên dạy
con là cách xử thế nhân văn:
“Không bao giờ quỳ gối và nói lời cong
Con phải sống thẳng băng như đường mực”.
Thân mẫu anh là bà Nông Thọ Lộc - một phụ nữ, tảo tần, đảm đang, tháo vát,
hiểu biết rộng, giàu đức hy sinh, luôn khích lệ con trai lòng can đảm, ý chí phấn đấu
vươn lên, quý trọng tinh thần tự chủ: "Tốc đin rà mạ tấc. Tốc đin than mạ mè" (Sống
tại đất mình thành ngựa đực. Sống ở nơi người là ngựa cái). Mẹ luôn răn dạy anh:
“Hãy giữ mình như giữ lửa-Cứ ngồi -Đừng sợ bóng người cong”; phải biết sống đẹp,
ngẩng cao đầu kiêu hãnh “Không bao giờ nhỏ bé được nghe con”. Ghi nhớ lời mẹ,
anh đã gửi thông điệp đó vào bài thơ “Nói với con” và cũng chính bài thơ được đưa
vào chương trình giảng dạy văn học lớp 9 đã đưa tên tuổi anh đến gần hơn với công
chúng, với giáo viên, học sinh, với những người yêu thơ…

Hứa Vĩnh Sước lớn lên trong niềm tự hào về truyền thống của quê hương, gia
đình và nhất là chú anh - ông Hứa Văn Khải ở làng Hiếu Lễ. Năm 1947, ông Hứa
Văn Khải và hai cụ lão du kích đã dùng khẩu đại bác do mình tạo ra bằng gỗ nghiến,
đặt tên Sàng Là, bắn giặc Pháp khi chúng đang hành quân qua đèo Keng Phác - một
trận đánh có một không hai trong lịch sử chiến tranh thế giới. Cảm phục chiến công

23


của ba ông lão du kích Co Xàu, trong đó có ông Hứa Văn Khải, Bác Hồ đã tặng bài
thơ Tặng các cụ lão du kích:
“Tuổi cao ý chí càng cao
Múa gươm giết giặc ào ào gió thu
Sẵn sàng tiêu diệt quân thù
Tiếng thơm Việt Bắc ngàn thu lẫy lừng”
Khẩu súng kỳ lạ đó hiện đang được trưng bày tại Bảo tàng Pháo binh ở thủ đô
Hà Nội.
Muộn hơn so với bạn bè cùng trang lứa, lên 9 tuổi, anh mới tập nói tiếng
Kinh. Ngày đầu tiên mẹ đưa đến học trường cấp I thị trấn Trùng Khánh (Cao Bằng),
cậu bé Vĩnh Sước lạ lẫm nhìn thầy cô, bạn bè, chỉ bám riết lấy áo mẹ nằng nặc đòi
về. Sự nghiêm khắc và cả sự kiên trì của pa me khiến anh mới dần quen với bảng
đen, phấn trắng, thầy cô, bạn bè. Niềm đam mê văn chương manh nha và phát lộ khi
pa thấy cậu con trai chắm chúi, nghiền ngẫm như một “con mọt sách” kho sách của
mình. Nhìn thấy tố chất bẩm sinh trong con trai, pa đã ủng hộ, nâng bước cho thiên
hướng lựa chọn của anh. Việc truyền nghề cho con là điều pa me đã từng nghĩ tới,
nhưng không thành.
Thời ấu thơ sống bên đá, trên đá, thở trong đá, anh làm bạn với với đá, với
sách: "Sống trên đá không chê đá gập ghềnh". Sau này khi cái tên Y Phương đã trở
thành một tên tuổi quen thuộc trong làng văn chương, tâm sự của anh vẫn là nỗi
niềm gắn bó, thủy chung với đá: “Tôi nói với núi đá. Núi đá vọng lại. Tôi hát với núi

đá. Núi đá vọng lại. Chúng tôi thân thiết nhau hơn sáu chục năm trời. Nay tôi đang
trở thành người già. Còn núi vẫn... non”. Núi non Cao Bằng – nơi thế kỷ XV là kinh
thành của nhà Mạc, nơi các ngọn núi từ thấp đến cao đều lao vút lên trời nhọn hoắt
đã góp phần hun đúc, dung dưỡng tố chất văn chương của anh.
Ngoài đá, bạn của anh là sách. Anh tâm sự “Tôi coi sách như bạn. Vì tôi
không có hứng thú ham chơi thả diều, đá bóng như nhiều bạn cùng lứa. Tôi cô đơn
và hay buồn, ngay từ khi còn ít tuổi". Từ những cuốn sách đầu tiên của cha, cậu bé

24


Vĩnh Sước đã mở rộng “thư viện nhỏ” của mình bằng nguồn sách bổ sung từ việc
dành dụm số tiền ít ỏi mẹ cho 5 xu mỗi sáng ăn quà để mua sách. Anh say mê đọc ở
bất cứ nơi đâu. Sách theo anh suốt cuộc đời, là hành trang không thể thiếu. Anh nhớ
sách như nỗi nhớ của người yêu nhớ người yêu. Những khi thấy lòng nao nao, hoang
hoảng, nhà thơ trốn vào “Thư viện sách” gia đình như một kẻ ẩn dật để được động
viên, được tiếp nguồn năng lượng [29].
Học hết cấp I, cấp II, đang học dở cấp III ở Trùng Khánh, lại là con một trong
gia đình chỉ có hai chị em, nhưng anh đã "lựa chọn thông minh" [29] với ý thức
"vượt lên số phận". Chàng trai làng Hiếu Lễ nhập ngũ năm 1968 ở Binh chủng Đặc
công, chiến đấu ở mặt trận miền Đông Nam Bộ. Sống chiến đấu cùng đồng đội,
chung chịu những ngày gian khổ, hứng bao mưa bom bão đạn tại vùng đất Lộc Ninh,
Bình Phước tưởng như không còn có kẽ hở, có thời gian nào cho thơ ca “len chân
tới”. Tưởng như thơ ca là thứ “xa xỉ”, “phù hoa” không phù hợp với trận mạc, chiến
trận. Như người cầm bút cùng thời, anh biết tạm gác những đam mê, biết cầm lòng
vậy, đành lòng vậy, nén lại “cái tinh tế cỏ hoa”, tạm thời chưa dám nghĩ đến thơ
phú… nhưng chính thời điểm cuộc chiến tranh khốc liệt của đế quốc Mỹ của những
năm 70 của thế kỷ XX ấy dường như đã “kích hoạt”, “châm ngòi”, dung dưỡng, tạo
nên một hồn thơ cho chàng lính trẻ đặc công. Khởi nghiệp con đường thi ca với cái
tên Hứa Vĩnh Sước và trình làng hai bài thơ đầu tiên Bếp nhà trời và Dáng một con

sông in trên Tạp chí Văn nghệ Quân đội (số 6 năm 1973). Dù sau này khẳng định
một lối đi riêng, một phong cách cá nhân với một gia tài thi ca “săn chắc, vạm vỡ
mang hồn làng” thì thời đầu thơ anh vẫn không thể khác giọng thơ chung hào sảng
vốn đã chi phối cả một thế hệ sáng tác:
“Câu hát thiêng liêng lắm chứ
Hát bây giờ còn để hát mai sau”

25


×