Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

Thực hiện pháp luật công chứng trên địa bàn thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (386.02 KB, 28 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THANH HÀ

THỰC HIỆN PHÁP LUẬT CÔNG CHỨNG
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2014


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THANH HÀ

THỰC HIỆN PHÁP LUẬT CÔNG CHỨNG
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật
Mã số

: 60 38 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Hoàng Anh

HÀ NỘI - 2014




Lời cam đoan

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và
trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy,
chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học
của luận văn ch-a từng đ-ợc ai công bố trong bất
kỳ công trình nào khác.

Tác giả luận văn

Nguyễn Thanh Hà


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU

Chương 1:

1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT VỀ CÔNG

6


CHỨNG VÀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ CÔNG CHỨNG

1.1.

Pháp luật về công chứng

1.1.1. Khái quát sự hình thành, phát triển của pháp luật về công

6
6

chứng ở nước ta
1.1.2. Một số nội dung chính của Luật Công chứng số 82/2006/QH11

8

1.2.

22

Thực hiện pháp luật công chứng

1.2.1. Khái niệm thực hiện pháp luật công chứng

22

1.2.2. Hình thức thực hiện pháp luật công chứng

25


1.2.3. Nội dung thực hiện pháp luật công chứng

28

1.2.4. Vai trò thực hiện pháp luật công chứng

29

1.2.5. Các yếu tố tác động đến thực hiện pháp luật công chứng

31

Chương 2:

THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT CÔNG CHỨNG

36

TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

2.1.

Thực trạng việc thực hiện quy định về công chứng viên

37

2.1.1. Về tiêu chuẩn công chứng viên

39


2.1.2. Miễn đào tạo nghề và miễn tập sự hành nghề công chứng

46

2.2.

Thực trạng việc thực hiện quy định về tổ chức hành nghề

49

công chứng
2.2.1. Phòng công chứng

49

2.2.2. Văn phòng công chứng

51

2.2.3. Quy hoạch tổ chức hành nghề công chứng

56


2.2.4. Nghĩa vụ của các tổ chức hành nghề công chứng
2.3.

Thực trạng việc thực hiện quy định về thủ tục công chứng

58

64

2.3.1. Thủ tục chung về công chứng

64

2.3.2. Thủ tục công chứng một số loại giao dịch cụ thể

78

Chương 3:

ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN

82

PHÁP LUẬT CÔNG CHỨNG

3.1.

Định hướng bảo đảm thực hiện pháp luật công chứng

82

3.1.1. Bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật

82

3.1.2. Bảo đảm khả thi của văn bản quy phạm pháp luật


82

3.1.3. Bảo đảm an toàn pháp lý

83

3.1.4. Thực hiện cải cách hành chính, cải cách tư pháp

84

3.2.

Giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật công chứng trên địa

84

bàn thành phố Hà Nội
3.2.1. Hoàn thiện pháp luật liên quan đến công chứng viên, tổ chức

84

hành nghề công chứng, thủ tục công chứng
3.2.2. Đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật công chứng,

109

nâng cao ý thức pháp luật công chứng
3.2.3. Nâng cao năng lực và trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước

112


3.2.4. Tăng cường giám sát, thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm và

114

khen thưởng
KẾT LUẬN

117

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

119



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quốc hội khóa XI tại kỳ họp thứ 10 đã thông qua Luật Công chứng, có hiệu
lực từ ngày 01 tháng 07 năm 2007. Đây là một bước tiến quan trọng trong việc cụ
thể hóa nội dung về hoàn thiện thể chế công chứng ở nước ta được nêu trong Nghị
quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư
pháp đến năm 2020. Đến nay, sau 07 năm thi hành Luật Công chứng, những kết
quả bước đầu đạt được đã khẳng định Luật đã thực sự đi vào cuộc sống, chủ trương
xã hội hóa hoạt động công chứng là hết sức đúng đắn, đội ngũ công chứng viên và
tổ chức hành nghề công chứng ở nước ta đã phát triển nhanh về số lượng và ngày
càng tăng cường về chất lượng. So với thời điểm giữa năm 2007 khi Luật Công
chứng bắt đầu có hiệu lực thi hành, Hà Nội có tổng số 341 công chứng viên đang
hành nghề, đứng đầu trong cả nước (68 công chứng viên tại 10 Phòng công chứng
và 273 công chứng viên tại 93 Văn phòng công chứng). Thông qua việc đảm bảo

tính an toàn pháp lý cho các hợp đồng, giao dịch dân sự và kinh tế, hoạt động công
chứng đã góp phần quan trọng vào việc phòng ngừa các tranh chấp, khiếu nại trong
lĩnh vực đất đai, nhà ở, một lĩnh vực vốn phức tạp và tiềm ẩn nhiều nguy cơ dẫn
đến tranh chấp, khiếu kiện. Chúng ta không thể phủ nhận công chứng là -lá chắnphòng ngừa hữu hiệu, đảm bảo an toàn pháp lý cho các hợp đồng, giao dịch, tiết
kiệm thời gian, chi phí cho xã hội, giảm thiểu -gánh nặng- pháp lý cho Tòa án
trong việc giải quyết các tranh chấp dân sự.
Tuy nhiên qua 07 năm thi hành, Luật Công chứng cũng bộc lộ những bất
cập, hạn chế. Tiêu chuẩn công chứng viên quy định còn đơn giản; thời gian đào tạo
nghề ngắn, cơ sở đào tạo nghề chưa đáp ứng được yêu cầu; chưa quy định về
quyền, nghĩa vụ của công chứng viên cũng như người tập sự hành nghề công
chứng, đối tượng miễn đào tạo nghề, miễn tập sự hành nghề công chứng rộng nên


chất lượng công chứng viên được bổ nhiệm thấp, có nhiều sai sót khi công chứng
hợp đồng, giao dịch. Tiêu chuẩn thành lập Văn phòng công chứng chưa chặt chẽ;
quy hoạch ban hành chậm và thiếu cơ sở pháp lý; thiếu sự kiểm tra, thanh tra sau
khi cho phép thành lập tổ chức hành nghề công chứng; chưa có quy định về việc
chuyển đổi mô hình Văn phòng công chứng do một công chứng viên thành lập
sang mô hình văn phòng công chứng do 2 công chứng viên trở lên thành lập và
ngược lại; nghĩa vụ của các tổ chức hành nghề công chứng chưa chặt chẽ, đặc biệt
về việc thực hiện lưu trữ hồ sơ công chứng và mua bảo hiểm trách nhiệm nghề
nghiệp cho công chứng viên, chưa quy định việc chia sẻ và khai thác cơ sở dữ liệu
công chứng giữa tổ chức hành nghề công chứng và các cơ quan liên quan. Thủ tục
công chứng chưa cụ thể, chi tiết, chưa thuận tiện, chưa có sự phối hợp, liên thông
với các thủ tục hành chính khác liên quan, khiến người yêu cầu công chứng phải
mất nhiều thời gian, công sức; một số thủ tục công chứng chưa hợp lý, chưa rõ
ràng, thậm chí còn chồng chéo, mâu thuẫn với các quy định của pháp luật liên
quan, gây khó khăn, lúng túng cho công chứng viên khi hành nghề...
Tôi chọn đề tài "Thực hiện pháp luật công chứng trên địa bàn thành phố
Hà Nội" làm luận văn thạc sĩ của mình nhằm kiến nghị những giải pháp bảo đảm

thực hiện pháp luật về công chứng trên địa bàn thành phố Hà Nội nói riêng và trên
cả nước nói chung.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Từ trước tới nay, trong lĩnh vực công chứng, tuy là một chế định pháp luật
mới xuất hiện trong hệ thống pháp luật nước ta, nhưng đã có nhiều công trình, đề
tài nghiên cứu về lĩnh vực này. Trước khi Luật Công chứng số 82/2006/QH11
được ban hành, có thể kể đến các công trình, đề tài sau: Cơ sở lý luận và thực tiễn
xây dựng và hoàn thiện tổ chức và hoạt động công chứng ở Việt Nam, Đề tài cấp
Bộ mã số 92-98-224 năm 1993 của Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý Bộ Tư
pháp; Công chứng nhà nước những vấn đề lý luận và thực tiễn ở nước ta, Luận văn


thạc sĩ của tác giả Trần Ngọc Nga; Những vấn đề lý luận và thực tiễn trong việc
xác định phạm vi, nội dung hành vi công chứng và giá trị pháp lý của văn bản
công chứng ở nước ta hiện nay, Luận án tiến sĩ của tác giả Đặng Văn Khanh; Tổ
chức và hoạt động công chứng nhà nước ở nước ta hiện nay, Luận án tiến sĩ của
tác giả Dương Khánh; Xã hội hóa công chứng ở Việt Nam hiện nay, của tác giả Lê
Thị Phương Hoa; Thẩm quyền của Ủy ban nhân dân trong lĩnh vực thực hiện các
việc công chứng, luận văn thạc sĩ của tác giả Lê Thị Thúy; Hoàn thiện pháp luật về
công chứng, chứng thực ở Việt Nam hiện nay - lý luận và thực tiễn, Luận văn thạc
sĩ của tác giả Tuấn Đạo Thanh; Nâng cao hiệu quả hoạt động công chứng ở nước
ta trong giai đoạn hiện nay, Luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Chí Thiện.
Từ khi Luật Công chứng số 82/2006/QH11 được Quốc hội thông qua, có
thể kể tới một số công trình, bài viết nghiên cứu về lĩnh vực công chứng sau:
Nghiên cứu pháp luật về công chứng một số nước trên thế giới nhằm góp phần xây
dựng luận cứ khoa học cho việc hoàn thiện pháp luật về công chứng ở Việt Nam
hiện nay, Luận án tiến sĩ Luật học của tác giả Tuấn Đạo Thanh năm 2008; Phân
cấp quản lý nhà nước về công chứng, chứng thực (Qua thực tiễn tại thành phố Hồ
Chí Minh, Luận văn thạc sĩ của tác giả Phan Hải Hồ năm 2008; Xã hội hóa công
chứng ở Việt Nam hiện nay - một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận văn thạc sĩ

của tác giả Nguyễn Quang Minh năm 2009; Xã hội hóa công chứng ở Việt Nam
hiện nay, thực trạng và giải pháp, Luận văn thạc sĩ của tác giả Phạm Thị Mai
Trang năm 2011; Bồi thường thiệt hại do công chứng viên gây ra, Bài viết của tác
giả Đỗ Văn Đại đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 14(199), tháng 7 năm
2011; Kiến nghị hoàn thiện Luật Công chứng, Bài viết của tác giả Lê Quốc Hùng
đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 1+2 (210+211), tháng 1 năm 2012;
Hoàn thiện pháp luật về quản lý nhà nước đối với văn phòng công chứng, Bài viết
của tác giả Phan Hải Hồ đăng trên tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 14 (222), tháng 7
năm 2012…


Các đề tài, công trình nghiên cứu trên đã nghiên cứu những vấn đề mang
tính tổng thể hoặc những khía cạnh, phạm vi cụ thể khác nhau của hoạt động công
chứng. Nhưng đến nay, chưa có công trình nghiên cứu nào đi sâu về việc thực hiện
pháp luật về công chứng trên các phương diện công chứng viên, tổ chức hành nghề
công chứng và thủ tục công chứng, đặc biệt trong phạm vi một địa phương cụ thể:
Thành phố Hà Nội. Có thể khẳng định, đề tài Thực hiện pháp luật công chứng trên
địa bàn thành phố Hà Nội là đề tài đầu tiên nghiên cứu về khía cạnh này.
3. Mục đích của đề tài
Luận văn tổng hợp những kiến thức lý luận về thực hiện pháp luật về công
chứng; trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn việc thi hành Luật Công chứng trên địa bàn
thành phố Hà Nội để đánh giá những mặt được, chưa được của hoạt động công
chứng trên một số phương diện như: công chứng viên, tổ chức hành nghề công
chứng, thủ tục công chứng dưới góc độ lý luận nhà nước và pháp luật. Từ đó đưa
ra một số luận cứ khoa học làm cơ sở cho việc nâng cao hiệu quả thực hiện pháp
luật công chứng trên địa bàn thành phố Hà Nội nói riêng và trên cả nước nói
chung.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Những vấn đề có tính lý luận và thực tiễn về thực hiện pháp luật công

chứng trên địa bàn thành phố Hà Nội trong thời gian qua, những giải pháp chủ yếu
để từng bước hoàn thiện pháp luật công chứng trong thời gian tới.
Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu và phân tích những tồn tại, bất
cập của pháp luật công chứng và thực hiện pháp luật về công chứng để đưa ra những
kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật công chứng trong thời gian tới.
- Về thời gian: Các tài liệu được thu thập trong giai đoạn từ năm 2007 đến
năm 2014.


5. Ý nghĩa khoa học và đóng góp của luận văn
Luận văn tập trung đánh giá toàn diện hoạt động công chứng trên địa bàn
thành phố Hà Nội, những mặt được và chưa được, những thiếu sót trong quy định
của pháp luật khiến cho việc thực thi Luật Công chứng khó khăn, gây lúng túng
cho các công chứng viên khi hành nghề cũng như người yêu cầu công chứng. Mặt
khác, luận văn đưa ra các giải pháp khoa học, tính khả thi cao để khắc phục những
thiếu sót đó, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động công chứng trên địa bàn thành
phố Hà Nội, mang lại nhiều tiện ích cho cá nhân, tổ chức khi tham gia các hợp
đồng, giao dịch dân sự, để công chứng thực sự là một công cụ hữu hiệu của nhà
nước trong việc điều chỉnh các quan hệ pháp luật về dân sự.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về pháp luật về công chứng và thực hiện
pháp luật về công chứng.
Chương 2: Thực trạng thực hiện pháp luật công chứng trên địa bàn thành
phố Hà Nội.
Chương 3: Định hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật
công chứng.



Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT VỀ CÔNG CHỨNG
VÀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ CÔNG CHỨNG
1.1. PHÁP LUẬT VỀ CÔNG CHỨNG

1.1.1. Khái quát sự hình thành, phát triển của pháp luật về công chứng ở
nước ta
Hệ thống công chứng ở nước ta được thành lập kể từ khi Hội đồng Bộ
trưởng (nay là Chính phủ) ban hành Nghị định số 45/HĐBT ngày 27 tháng 2 năm
1991 về tổ chức và hoạt động công chứng nhà nước. Việc ban hành Nghị định đã
đặt ra cơ sở pháp lý cần thiết cho các hoạt động công chứng là một chức năng nhà
nước rất cần thiết trong cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
Tiếp đó, Chính phủ đã có thêm hai lần ban hành các nghị định về công
chứng đó là: Nghị định số 31/CP ngày 18 tháng 5 năm 1996 và Nghị định số
75/2000/NĐ-CP ngày 8 tháng 12 năm 2000 (sau đây gọi tắt là Nghị định số
75/2000/NĐ-CP). Các văn bản nêu trên là cơ sở pháp lý quan trọng góp phần cho
việc xây dựng và hoàn thiện tổ chức và hoạt động công chứng, nghề công chứng ở
Việt Nam.
Trên cơ sở tổng kết 15 năm thi hành pháp luật về công chứng, kể từ khi ban
hành Nghị định số 45/HĐBT ngày 27 tháng 2 năm 1991 về tổ chức và hoạt động
công chứng Nhà nước, ngày 29/11/2006 Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 10 đã thông
qua Luật Công chứng số 82/2006/QH11, có hiệu lực thi hành kể từ ngày
01/7/2007, đây là một văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý cao, điều
chỉnh một cách toàn diện và đồng bộ lĩnh vực công chứng nhằm khắc phục những
điểm hạn chế bất cập về mặt tổ chức, hoạt động và quản lý công chứng ở nước ta,
cụ thể hóa nội dung về hoàn thiện thể chế về công chứng ở nước ta trong Nghị
quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư



pháp đến năm 2020.
Sau khi Luật Công chứng số 82/2006/QH11 được Quốc hội thông qua,
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ Tư pháp đã ban hành các văn bản quy phạm
pháp luật quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Công chứng, cụ thể như
sau:
- Nghị định số 02/2008/NĐ-CP ngày 04/01/2008 quy định chi tiết và hướng
dẫn thi hành một số điều của Luật Công chứng.
- Nghị định số 60/2009/NĐ-CP ngày 23/7/2009 quy định xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực tư pháp (sửa đổi, bổ sung các chế tài xử lý vi phạm hành
chính trong hoạt động công chứng).
- Nghị định số 04/2013/NĐ-CP ngày 07/01/2013 của Chính phủ quy định
chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Công chứng (thay thế Nghị
định số 02/2008/NĐ-CP ngày 04/01/2008).
- Quyết định số 250/QĐ-TTg ngày 10/02/2010 của Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt Đề án -Xây dựng Quy hoạch tổng thể phát triển tổ chức hành nghề công
chứng ở Việt Nam đến năm 2020-.
- Quyết định số 240/QĐ-TTg ngày 17/02/2011 của Thủ tướng Chính phủ
ban hành -Tiêu chí quy hoạch phát triển tổ chức hành nghề công chứng ở Việt
Nam đến năm 2020-.
- Quyết định số 2104/QĐ-TTg ngày 29/12/2012 của Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt -Quy hoạch tổng thể phát triển tổ chức hành nghề công chứng đến năm
2020-.
- Thông tư liên tịch số 91/2008/TTLT-BTC-BTP ngày 17/10/2008 của Bộ
Tài chính và Bộ Tư pháp hướng dẫn về mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử
dụng phí công chứng.
- Thông tư số 11/2011/TT-BTP ngày 27/6/2011 của Bộ Tư pháp hướng dẫn
thực hiện một số nội dung về công chứng viên, tổ chức và hoạt động công chứng,
quản lý nhà nước về công chứng.



- Thông tư liên tịch số 08/2012/TTLT-BTC-BTP ngày 19/01/2012 của Bộ
Tài chính và Bộ Tư pháp hướng dẫn về mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử
dụng phí công chứng (thay thế Thông tư liên tịch số 91/2008/TTLT-BTC-BTP
ngày 17/10/2008).
- Thông tư số 11/2012/TT-BTP ngày 30/10/2012 của Bộ Tư pháp ban hành
Quy tắc đạo đức hành nghề công chứng.
- Quyết định số 01/2008/QĐ-BTP ngày 20/02/2008 của Bộ trưởng Bộ Tư
pháp ban hành một số mẫu giấy tờ dùng trong hoạt động công chứng.
Sau 7 năm triển khai thi hành Luật Công chứng số 82/2006/QH11, ngày
20/6/2014, Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 7 đã thông qua Luật Công chứng số
53/2014/QH13, có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2015 thay thế cho Luật Công chứng
số 82/2006/QH11 nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập về thể chế, tạo cơ sở
pháp lý cho bước phát triển mới của hoạt động công chứng theo chủ trương xã hội
hóa, nâng cao chất lượng và tính bền vững của hoạt động công chứng, từng bước
phát triển nghề công chứng Việt Nam phù hợp với thông lệ quốc tế.
Ngoài ra, bên cạnh hệ thống các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Công
chứng, các công chứng viên còn phải áp dụng nhiều văn bản quy phạm pháp luật
khác có liên quan đến công chứng: Bộ luật Dân sự, Bộ luật Tố tụng Dân sự, Luật
đất đai, Luật nhà ở, Luật hôn nhân và gia đình, Luật cư trú, Luật doanh nghiệp,
Luật kinh doanh bất động sản...
1.1.2. Một số nội dung chính của Luật Công chứng số 82/2006/QH11
1.1.2.1. Khái niệm công chứng
Việc xác định khái niệm công chứng là vấn đề mấu chốt của hoạt động công
chứng. Khái niệm công chứng đã được nêu trong 3 nghị định của Chính phủ về
công chứng: Nghị định số 45/HĐBT ngày 27 tháng 2 năm 1991, Nghị định số
31/CP ngày 18 tháng 5 năm 1996 và Nghị định số 75/2000/NĐ-CP ngày 8 tháng
12 năm 2000. Việc thể hiện cụ thể khái niệm này có sự khác nhau, song có sự


giống nhau về cơ bản như sau: công chứng là việc chứng nhận tính xác thực, tính

hợp pháp của hợp đồng, giao dịch.
Kế thừa quy định của các nghị định nêu trên, Điều 2 của Luật Công chứng
số 82/2006/QH11 đưa ra khái niệm công chứng như sau: "Công chứng là việc công
chứng viên chứng nhận tính xác thực, tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch khác
(sau đây gọi là hợp đồng, giao dịch) bằng văn bản mà theo quy định của pháp luật
phải công chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng" [39].
Hợp đồng, giao dịch có công chứng được coi là hình thức mang tính xác
thực cao nhất và thường được pháp luật quy định với các trường hợp sau: a) Đối
với các hợp đồng có tính chất phức tạp, dễ xảy ra tranh chấp; b) Đối tượng của nó
là những tài sản mà Nhà nước cần phải quản lý, kiểm soát.
Từ khái niệm trên cho thấy, có hai loại hợp đồng, giao dịch được công
chứng. Loại thứ nhất là những hợp đồng, giao dịch mà pháp luật quy định bắt buộc
phải công chứng. Quy định này phù hợp với quy định tại Điều 401 của Bộ luật Dân
sự:
1. Hợp đồng dân sự có thể được giao kết bằng lời nói, bằng văn
bản hoặc bằng hành vi cụ thể, khi pháp luật không quy định loại hợp
đồng đó phải được giao kết bằng một hình thức nhất định.
2. Trong trường hợp pháp luật có quy định hợp đồng phải được
thể hiện bằng văn bản có công chứng hoặc chứng thực, phải đăng ký
hoặc xin phép thì phải tuân theo các quy định đó.
Hợp đồng không bị vô hiệu trong trường hợp có vi phạm về hình
thức, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác [36].
Loại thứ hai là những hợp đồng, giao dịch mà nhà nước không bắt buộc
phải công chứng nhưng cá nhân, tổ chức cảm thấy cần thiết nên tự nguyện yêu cầu
công chứng.
Nguyên nhân là do hợp đồng, giao dịch có công chứng sẽ bảo đảm an toàn


pháp lý cho các bên khi tham gia giao kết. Việc đảm bảo tính an toàn pháp lý được
thể hiện ở chỗ: công chứng viên xác nhận tính xác thực, tính hợp pháp của những

tình tiết trong nội dung hợp đồng, giao dịch, bảo đảm cân bằng quyền và lợi ích
hợp pháp của các bên ngay từ khi giao kết, kiểm tra năng lực hành vi, tính tự
nguyện, chữ ký của các chủ thể tham gia hợp đồng, giao dịch, kiểm tra nội dung và
mục đích của hợp đồng, giao dịch có vi phạm điều cấm của pháp luật, có trái đạo
đức hay không, đối tượng hợp đồng, giao dịch là có thật hay giả mạo, hình thức
của hợp đồng, giao dịch có phù hợp với quy định của pháp luật không. Trong
trường hợp nếu có tranh chấp xảy ra thì văn bản công chứng là chứng cứ tin cậy
nhất để các chủ thể tham gia hợp đồng, giao dịch tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình; đồng thời đây cũng là chứng cứ để Tòa án, các cơ quan có thẩm
quyền giải quyết tranh chấp một cách nhanh chóng.
Quy định này được cụ thể hóa tại Điều 6 của Luật Công chứng số
82/2006/QH11, quy định về giá trị pháp lý của văn bản công chứng:
1. Văn bản công chứng có hiệu lực thi hành đối với các bên liên
quan; trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ của
mình thì bên kia có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết theo quy định của
pháp luật, trừ trường hợp các bên tham gia hợp đồng, giao dịch có thỏa
thuận khác.
2. Văn bản công chứng có giá trị chứng cứ; những tình tiết, sự
kiện trong văn bản công chứng không phải chứng minh, trừ trường hợp
bị Tòa án tuyên bố là vô hiệu [39].
Đây là vấn đề quan trọng, là lý do tồn tại của công chứng. Giá trị chứng cứ
không phải chứng minh của văn bản công chứng đã được quy định tại điểm c
khoản 1 Điều 80 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004: "c) Những tình tiết, sự kiện
đã được ghi trong văn bản và được công chứng, chứng thực hợp pháp" [35].
Cơ sở thực tiễn của việc quy định này là: Các tình tiết, sự kiện về thời gian,


địa điểm xác lập hợp đồng, giao dịch, năng lực hành vi dân sự, sự tự nguyện của
chủ thể hợp đồng, giao dịch, nội dung trong hợp đồng, giao dịch, chữ ký của các
bên hợp đồng, giao dịch... là những tình tiết, sự kiện đã được công chứng viên nhìn

thấy trước mắt trong khi diễn ra việc ký kết hợp đồng và công chứng viên được
Nhà nước giao nhiệm vụ chứng nhận điều đó. Do đó, sau này các bên ký kết hợp
đồng không thể chối cãi theo một cách khác. Vì vậy, các tình tiết, sự kiện đó sẽ
được Tòa án mặc nhiên công nhận là có giá trị chứng cứ không phải chứng minh.
Tuy nhiên, quy định này không vi phạm nguyên tắc về quyền đánh giá chứng cứ
của Tòa án trong tố tụng dân sự. Trong trường hợp có chứng cứ ngược lại để bác
bỏ tình tiết, sự kiện trong văn bản công chứng thì Tòa án vẫn có thể bác bỏ giá trị
chứng cứ của các tình tiết, sự kiện này.
Hiệu lực thi hành của văn bản công chứng được quy định trong Luật Công
chứng số 82/2006/QH11 được hiểu là trong trường hợp hợp đồng, giao dịch đã
được công chứng theo đúng quy định của pháp luật thì hợp đồng, giao dịch đó phải
được các bên liên quan thực hiện nghiêm túc; trong trường hợp bên có nghĩa vụ
không thực hiện nghĩa vụ của mình thì bên kia có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước
có thẩm quyền giải quyết theo quy định của pháp luật.
Quy định về hiệu lực thi hành của văn bản công chứng không triệt tiêu
quyền khởi kiện của các bên vì trong trường hợp bên có căn cứ cho rằng văn bản
công chứng được thực hiện không đúng quy định của pháp luật thì vẫn có quyền
khởi kiện tại Tòa án để yêu cầu Tòa án ra quyết định tuyên bố văn bản công chứng
đó là vô hiệu.
1.1.2.2. Công chứng viên (từ Điều 13 đến Điều 22)
Công chứng viên là yếu tố trung tâm trong hoạt động công chứng, là chủ
thể chứng nhận hợp đồng, giao dịch, bảo đảm an toàn pháp lý cho các bên. Công
chứng viên có vai trò rất quan trọng là không chỉ xác lập hợp đồng, giao dịch về
mặt hình thức phù hợp pháp luật mà còn phải giải thích về pháp luật và tư vấn cho


các bên về quyền và nghĩa vụ của họ; bảo đảm các quy định bắt buộc của pháp luật
phải được tuân thủ; tư vấn cho các bên về những sự lựa chọn mà họ có thể trong
trường hợp các bên còn chưa thống nhất, hay nói cách khác làm cho nội dung của
hợp đồng, giao dịch phù hợp theo quy định của pháp luật và đạo đức xã hội. Một

vấn đề rất quan trọng là công chứng viên làm cho các hợp đồng, giao dịch thực tế
đúng theo các quy định của pháp luật. Nó cũng đòi hỏi công chứng viên phải xác
định chính xác và khách quan là những người tham gia giao kết hợp đồng, giao
dịch hoàn toàn tự nguyện, không bị ép buộc, lừa dối.
Đảm bảo các yếu tố trên trong văn bản công chứng chính là việc công
chứng viên đảm bảo an toàn pháp lý cho hợp đồng, giao dịch, hạn chế tranh chấp,
đạt hiệu quả tích cực về mặt kinh tế - xã hội vì những tình tiết, sự kiện, sự thỏa
thuận của các bên tham gia giao kết là xác thực và hợp pháp, hay có thể nói công
chứng viên đã hoàn thành nhiệm vụ chính trị của một -thẩm phán phòng ngừa- là
phòng ngừa những giao dịch, thỏa thuận không phù hợp với quy định của Pháp
luật, tạo môi trường lành mạnh, trong sạch cho đời sống kinh tế, thương mại, dân
sự của xã hội.
Với mục tiêu xây dựng đội ngũ công chứng viên chuyên nghiệp, đủ về số
lượng, giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, có bản lĩnh chính trị, trong sáng về đạo đức
nghề nghiệp, Điều 13 Luật Công chứng số 82/2006/QH11 quy định:
1. Công dân Việt Nam thường trú tại Việt Nam, trung thành với
Tổ quốc, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, có phẩm chất đạo đức tốt và
có đủ các tiêu chuẩn sau đây thì được xem xét, bổ nhiệm làm công
chứng viên:
a) Có bằng cử nhân luật;
b) Có thời gian công tác pháp luật từ năm năm trở lên tại các cơ
quan, tổ chức;
c) Có Giấy chứng nhận tốt nghiệp đào tạo nghề công chứng;


d) Đã qua thời gian tập sự hành nghề công chứng;
đ) Có sức khỏe bảo đảm hành nghề công chứng.
2. Thời gian đào tạo nghề công chứng và tập sự hành nghề công
chứng được tính vào thời gian công tác pháp luật [39].
So với Nghị định số 75/2000/NĐ-CP, công chứng viên được quy định

trong luật có tiêu chuẩn cao hơn: có bằng cử nhân luật, có thời gian công tác pháp
luật từ 05 năm trở lên, tham gia khóa đào tạo nghề 06 tháng và tập sự 12 tháng tại
tổ chức hành nghề công chứng. Bên cạnh việc quy định nhằm nâng cao chất lượng
đội ngũ công chứng viên, Luật Công chứng số 82/2006/QH11 còn có quy định
nhằm tăng nhanh số lượng đội ngũ công chứng viên thông qua các quy định về
miễn đào tạo nghề công chứng:
Điều 15. Người được miễn đào tạo nghề công chứng
1. Đã là thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên; luật sư đã hành
nghề từ ba năm trở lên.
2. Giáo sư, phó giáo sư chuyên ngành luật, tiến sĩ luật.
3. Đã là thẩm tra viên cao cấp ngành tòa án, kiểm tra viên cao cấp
ngành kiểm sát; chuyên viên cao cấp, nghiên cứu viên cao cấp, giảng
viên cao cấp trong lĩnh vực pháp luật [39].
Đây là những người có trình độ cao, có kinh nghiệm chuyên môn về pháp
luật nói chung và một số người có trình độ, kinh nghiệm chuyên sâu trong lĩnh vực
dân sự, kinh tế, là những lĩnh vực gần với hoạt động chuyên môn. Ngoài ra, Luật
Công chứng số 82/2006/QH11 cũng quy định người được miễn đào tạo nghề đồng
thời cũng được miễn tập sự hành nghề công chứng:
Điều 17. Người được miễn tập sự hành nghề công chứng
Người được miễn đào tạo nghề công chứng quy định tại Điều 15
của Luật này được miễn tập sự hành nghề công chứng [39].
Người mà có đủ các tiêu chuẩn cần thiết nêu trên thì có thể nộp hồ sơ xin


bổ nhiệm công chứng viên theo quy định tại khoản 1 và khoản 2, Điều 18 Luật
Công chứng số 82/2006/QH11.
1.1.2.3. Tổ chức hành nghề công chứng (từ Điều 22 đến Điều 31)
Luật Công chứng số 82/2006/QH11 quy định hai hình thức tổ chức hành
nghề công chứng là Phòng công chứng và Văn phòng công chứng:
* Phòng công chứng

Phòng công chứng là hình thức tổ chức hành nghề công chứng do Nhà
nước thành lập. Việc thành lập Phòng công chứng do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh
quyết định. Phòng công chứng là tổ chức dịch vụ công, có trụ sở, con dấu và tài
khoản riêng, hoạt động theo nguyên tắc tự chủ về tài chính của đơn vị sự nghiệp có
thu. Điều 24 Luật Công chứng số 82/2006/QH11 quy định:
1. Phòng công chứng do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định
thành lập.
2. Phòng công chứng là đơn vị sự nghiệp thuộc Sở Tư pháp, có
trụ sở, con dấu và tài khoản riêng.
Người đại diện theo pháp luật của Phòng công chứng là Trưởng
phòng. Trưởng Phòng công chứng phải là công chứng viên và do Chủ
tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức.
Chính phủ quy định chế độ tài chính, con dấu của Phòng công
chứng.
3. Tên gọi của Phòng công chứng bao gồm số thứ tự thành lập và
tên của tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi Phòng công chứng
được thành lập [39].
* Văn phòng công chứng
Văn phòng công chứng: là hình thức tổ chức hành nghề công chứng do một
công chứng viên hoặc một số công chứng viên thành lập. Việc thành lập Văn
phòng công chứng phải theo một thủ tục chặt chẽ, cụ thể là phải được sự cho phép


của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và phải đăng ký hoạt động tại Sở Tư pháp nơi
đặt trụ sở. Văn phòng công chứng là tổ chức dịch vụ công, có trụ sở, con dấu và tài
khoản riêng, hoạt động theo nguyên tắc tự chủ về tài chính bằng nguồn thu từ kinh
phí đóng góp của công chứng viên, phần để lại từ lệ phí công chứng, phí dịch vụ và
các nguồn thu hợp pháp khác. Điều 26 Luật Công chứng số 82/2006/QH11 quy
định:
1. Văn phòng công chứng do công chứng viên thành lập.

Văn phòng công chứng do một công chứng viên thành lập được
tổ chức và hoạt động theo loại hình doanh nghiệp tư nhân. Văn phòng
công chứng do hai công chứng viên trở lên thành lập được tổ chức và
hoạt động theo loại hình công ty hợp danh.
Người đại diện theo pháp luật của Văn phòng công chứng là
Trưởng Văn phòng. Trưởng Văn phòng công chứng phải là công chứng
viên.
2. Văn phòng công chứng có trụ sở, con dấu và tài khoản riêng,
hoạt động theo nguyên tắc tự chủ về tài chính bằng nguồn thu từ kinh phí
đóng góp của công chứng viên, phí công chứng, thù lao công chứng và
các nguồn thu hợp pháp khác.
Chính phủ quy định con dấu của Văn phòng công chứng.
3. Tên gọi của Văn phòng công chứng do công chứng viên lựa
chọn nhưng phải bao gồm cụm từ - Văn phòng công chứng, không được
trùng hoặc gây nhầm lẫn với tên của tổ chức hành nghề công chứng khác,
không được sử dụng từ ngữ, ký hiệu vi phạm truyền thống lịch sử, văn hóa,
đạo đức và thuần phong mỹ tục của dân tộc [39].
Việc quy định mô hình Văn phòng công chứng trong Luật Công chứng số
82/2006/QH11 là nhằm thực hiện chủ trương xã hội hóa công chứng của Đảng và
Nhà nước ta và cũng phù hợp với thông lệ quốc tế về công chứng. Vấn đề xã hội


hóa công chứng được thể hiện ở Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 2 tháng 1 năm
2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong
thời gian tới và được khẳng định lại một cách mạnh mẽ, rõ ràng hơn trong Nghị
quyết số 49/NQ-TW ngày 2 tháng 6 năm 2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải
cách tư pháp.
* Nghĩa vụ của tổ chức hành nghề công chứng
Điều 32. Nghĩa vụ của tổ chức hành nghề công chứng
1. Niêm yết lịch làm việc, thủ tục công chứng, phí công chứng,

thù lao công chứng, nội quy tiếp người yêu cầu công chứng tại trụ sở của
tổ chức hành nghề công chứng.
2. Thực hiện chế độ làm việc theo ngày, giờ làm việc của cơ quan
hành chính nhà nước.
3. Chấp hành các quy định của pháp luật về lao động, thuế, tài
chính, thống kê.
4. Chấp hành các yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền
về việc báo cáo, kiểm tra, thanh tra.
5. Bồi thường thiệt hại do lỗi mà công chứng viên của tổ chức
hành nghề công chứng gây ra cho người yêu cầu công chứng.
6. Lưu trữ hồ sơ công chứng.
7. Văn phòng công chứng có nghĩa vụ mua bảo hiểm trách nhiệm
nghề nghiệp cho công chứng viên của tổ chức mình.
8. Các nghĩa vụ khác theo quy định của Luật này và các quy định
khác của pháp luật có liên quan [39].
Theo quy định, các tổ chức hành nghề công chứng có một số nghĩa vụ đáng
lưu ý sau:
Về thời gian làm việc (Khoản 2): không chỉ các Phòng công chứng là các
đơn vị do nhà nước thành lập mà các văn phòng công chứng do các công chứng
viên đủ điều kiện thành lập cũng phải áp dụng chế độ làm việc giống các cơ quan


hành chính nhà nước.
Bồi thường thiệt hại (Khoản 5): Việc rủi ro xảy ra là không thể tránh khỏi,
tuy nhiên, khi thiệt hại do lỗi mà công chứng viên gây ra thì tổ chức hành nghề
công chứng phải bồi thường thiệt hại.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Tư pháp (1987), Thông tư số 574/QLTPK ngày 10/10/1987 hướng dẫn
công tác công chứng nhà nước, Hà Nội.

2. Bộ Tư pháp (1996), Thông tư số 1411/TT.CC ngày 3/10/1996 hướng dẫn thực
hiện Nghị định số 31/CP ngày 18/5/1996 của Chính phủ về tổ chức và hoạt
động công chứng nhà nước, Hà Nội.
3. Bộ Tư pháp (2001), Thông tư số 03/2001/TP-CC ngày 14/3/2001 hướng dẫn
thi hành Nghị định số 75/2000/NĐ-CP ngày 08/12/2001 của Chính phủ về
công chứng, chứng thực, Hà Nội.
4. Bộ Tư pháp (2011), Thông tư số 11/2011/TT-BTP ngày 27/6/2011 hướng dẫn
thực hiện một số nội dung về công chứng viên, tổ chức và hoạt động công
chứng, quản lý nhà nước về công chứng, Hà Nội.
5. Bộ Tư pháp (2012), Thông tư số 11/2012/TT-BTP ngày 30/10/2012 ban hành
Quy tắc đạo đức hành nghề công chứng, Hà Nội.
6. Bộ Tư pháp (2013), Báo cáo số 105/BC-BTP ngày 13/5/2013 tổng kết 05 năm
thi hành Luật Công chứng, Hà Nội.
7. Bộ Tư pháp - Bộ Tài chính (2008), Thông tư liên tịch số 91/2008/TTLT-BTCBTP ngày 17/10/2008 hướng dẫn về mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử
dụng phí công chứng, Hà Nội.
8. Bộ Tư pháp - Bộ Tài chính (2012), Thông tư liên tịch số 08/2012/TTLT-BTCBTP ngày 19/01/2012 hướng dẫn về mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử


dụng phí công chứng (thay thế Thông tư liên tịch số 91/2008/TTLT-BTC-BTP
ngày 17/10/2008), Hà Nội.
9. Bộ Tư pháp - Bộ Tài nguyên và Môi trường (2006), Thông tư liên tịch số
04/2006/TTLT-BTP-BTNMT ngày 13/6/2006 hướng dẫn việc công chứng,
chứng thực hợp đồng, văn bản thực hiện quyền của người sử dụng đất, Hà
Nội.
10. "Các khái niệm và nguyên tắc cơ bản trong bảo hiểm", />ki%E1%BA%BFn-th%E1%BB%A9c-chung/1238-cac-khai-niem-va-nguyen- tacco-bn-trong-bo-him.html.
11. "Cần nâng cao địa vị pháp lý của công chứng viên" (2012), />dien-dan/5-nam-thuc-hien-luat-cong-chung-ky-4can-nang-cao-dia-vi-phap-

ly-

cua-cong-chung-vien.html, ngày 17/4/2012.

12. "Chấn chỉnh hoạt động công chứng ở Hà Nội" (2012), />Chan-chinh-hoat-dong-cong-chung-o-Ha-Noi/58/8459143.epi, ngày 14/5/2012.
13. Chính phủ (1996), Nghị định số 31/CP ngày 18/5/1996 về tổ chức và hoạt động
công chứng nhà nước, Hà Nội.
14. Chính phủ (2001), Nghị định số 75/2000/NĐ-CP ngày 08/12/2001 về công
chứng, chứng thực, Hà Nội.
15. Chính phủ (2004), Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 về thi hành
Luật Đất đai, Hà Nội.
16. Chính phủ (2006), Tờ trình số 40/TTr-XDPL của Chính phủ ngày 18/4/2006 về
dự án Luật Công chứng, Hà Nội.
17. Chính phủ (2006), Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 về giao
dịch đảm bảo, Hà Nội.
18. Chính phủ (2008), Nghị định số 02/2008/NĐ-CP ngày 04/01/2008 quy định chi
tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Công chứng, Hà Nội.
19. Chính phủ (2009), Nghị định số 60/2009/NĐ-CP ngày 23/7/2009 quy định xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tư pháp (sửa đổi, bổ sung các chế tài


×