Tải bản đầy đủ (.docx) (126 trang)

Luận văn thạc sĩ : Xây dựng chương trình phần tự chọn môn Giáo dục thể chất cho sinh viên Trường Đại học Kinh tế và Quản trị Kinh doanh – Đại học Thái Nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (829.35 KB, 126 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, đây là công trình nghiên cứu
của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận
văn là trung thực và chưa từng được ai công bố
trong bất kỳ công trình nào.

Hà Nội, tháng 10 năm 2015
Tác giả luận văn

Nguyễn Ngọc Bính


LỜI CẢM ƠN
Với lòng biết ơn sâu sắc, tôi xin trân trọng cảm ơn Ban giám hiệu trường Đại
học Kinh tế và Quản trị Kinh doanh – Đại học Thái Nguyên, Ban chủ nhiệm khoa
Khoa học cơ bản, Bộ môn GDTC, các Thầy/Cô tham gia giảng dạy lớp Cao học
K23 đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong thời gian học tập cũng như trong quá trình
nghiên cứu để tôi có thể hoàn thành luận văn này.
Tôi xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến GS.TS Lê Văn Lẫm người trực tiếp hướng
dẫn khoa học, định hướng đề tài,cũng như tận tình chỉ bảo cho tôi trong suốt quá trình
nghiên cứu và hoàn thiện luận văn.
Mặc dù bản thân đã cố gắng rất nhiều song luận văn không thể trách khỏi những
khiếm khuyết và thiếu sót, kính mong được nhận những ý kiến đóng góp của các Thầy/
Cô, các bạn đồng nghiệp để luận văn của tôi được hoàn thiện hơn.
Xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, tháng 10 năm 2015
Tác giả luận văn

Nguyễn Ngọc Bính



DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CBGV

Cán bộ giáo viên

CLB

Câu lạc bộ



Cao đẳng

ĐH

Đại học

ĐHKT&QTKD – ĐHTN

Đại học Kinh tế và Quản trị Kinh doanh

ĐHTN

Đại học Thái Nguyên

ĐHSP

Đại học sư phạm

ĐC


Đối chứng

GDTC

Giáo dục thể chất

GD&ĐT

Giáo dục và đào tạo

TDTT

Thể dục thể thao

TC RLTT

Tiêu chuẩn rèn luyện thân thể

TT

Thể thao

TN

Thực nghiệm

K9

Sinh viên khóa 9


K10

Sinh viên khóa 10

K11

Sinh viên khóa 11

SV

Sinh viên

%

Phần trăm


DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ


MỤC LUC


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Công tác giáo dục thể chất (GDTC) và hoạt động Thể dục thể thao (TDTT)
trong trường học các cấp là một mặt giáo dục quan trọng trong sự nghiệp giáo dục
và đào tạo, giữ vai trò quan trọng trong việc phát triển thể chất cho học sinh, sinh
viên (HS, SV). GDTC trường học gắn liền với việc giải quyết những nhiệm vụ giáo

dục chung nhằm hình thành nhân cách cho HS, SV, phát triển ý thức xã hội, rèn
luyện đạo đức, ý chí, khả năng trí lực, óc thẩm mỹ và phát triển thể chất cho HS,
SV. GDTC trường học góp phần quan trọng vào việc thực hiện mục tiêu nâng cao
dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế, xã
hội của đất nước. Bên cạnh đó phát triển TDTT trường học còn đóng vai trò quyết
định để thực hiện chủ trương xã hội hóa TDTT của Đảng và Nhà nước.
Hệ thống GDTC trong các nhà trường là một bộ phận hữu cơ của hệ thống
Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT) Việt Nam. GDTC được hiểu là: “Quá trình sư
phạm nhằm giáo dục và đào tạo thế hệ trẻ, hoàn thiện về thể chất và nhân cách,
nâng cao khả năng làm việc và kéo dài tuổi thọ của con người” [21]. GDTC cũng
như các loại hình giáo dục khác, là quá trình sư phạm với đầy đủ đặc điểm của nó,
có vai trò chủ đạo của nhà sư phạm, tổ chức hoạt động của nhà sư phạm phù hợp
với HS, SV tuân theo nguyên tắc sư phạm. GDTC chia thành hai mặt tương đối độc
lập: Dạy học động tác (giáo dưỡng thể chất) và giáo dục tố chất thể lực. Trong hệ
thống giáo dục, nội dung đặc trưng của GDTC được gắn liền với giáo dục trí dục,
đức dục, mỹ dục và giáo dục lao động nhằm phát triển toàn diện con người. Điều
20, Luật thể dục, thể thao đã nêu: “GDTC là môn học chính khoá thuộc chương
trình giáo dục nhằm cung cấp kiến thức, kỹ năng vận động cơ bản cho người học
thông qua các bài tập và trò chơi vận động, góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục
toàn diện; Hoạt động thể thao trong nhà trường là hoạt động tự nguyện của người
học được tổ chức theo phương thức ngoại khoá phù hợp với sở thích, giới tính, lứa
tuổi và sức khoẻ nhằm tạo điều kiện cho người học thực hiện quyền vui chơi, giải

6


trí, phát triển năng khiếu thể thao” cho HS, SV những chủ nhân tương lai của đất
nước [23].
GDTC là một môn học bắt buộc, trong đó chứa đựng rất nhiều yếu tố về nội
dung, hình thức, phương pháp và yêu cầu kiểm tra, đánh giá phụ thuộc vào năng

lực, sở thích cũng như thực trạng cơ sở vật chất, đối tượng dạy và học,… Xu thế
quá trình dạy học hiện nay là phải tích cực hóa hoạt động học tập của HS, SV. Vì
vậy nắm bắt nhu cầu của HS, SV là một vấn đề vô cùng quan trọng, nó tạo điều
kiện cho việc thiết kế nội dung chương trình, tổ chức và định hướng đổi mới
phương pháp và phát triển năng lực vận động của HS, SV thông qua nội dung các
môn học GDTC. Do đó việc tìm hiểu nhu cầu về nội dung, hình thức, phương pháp,
tổ chức tập luyện, và kiểm tra đánh giá,…trong dạy và học môn GDTC là hết sức
cần thiết.
Thực tế đã chứng minh công tác GDTC trong những năm qua tại các trường
Đại học, Cao đẳng và Trung học Chuyên nghiệp đã và đang giữ một vai trò vô cùng
quan trọng trong việc giáo dục toàn diện cho thế hệ trẻ. Môn GDTC đã tạo ra được
sức hút rất lớn trong phong trào rèn luyện thân thể của HS, SV. Song, do đặc thù
của môn học và mỗi trường lại có những điều kiện khác nhau, vì vậy việc áp dụng
chung theo một khung chương trình cứng nhắc là chưa phù hợp. Trên thực tế ở
nhiều trường Đại học hiện nay trên cả nước vẫn còn có việc SV coi môn GDTC như
là một gánh nặng, nhiều SV thấy sợ học môn GDTC. Điều đó xuất phát từ nhiều
nguyên nhân, trong đó có một nguyên nhân cơ bản mang tính chủ quan là chúng ta
chưa xây dựng được chương trình môn học đáp ứng được nhu cầu của người học
theo sở thích và năng lực, phù hợp với điều kiện cơ sở vật chất và đặc thù của từng
trường, nhằm phát huy tối đa hiệu quả môn học trong quá trình giảng dạy.
Trường Đại học Kinh tế & Quản trị Kinh doanh – Đại học Thái Nguyên luôn
quan tâm đến công tác GDTC nhằm thực hiện mục tiêu phát triển toàn diện cho SV.
Do đó, công tác GDTC cũng như hoạt động TDTT trong nhà trường cần hướng tới
việc phát triển thể chất cho SV sao cho phù hợp với sở thích, giới tính và năng lực

7


cá nhân. Việc rèn định hướng cho các em tham gia các hoạt động tập thể, hoạt động
thể thao ngoại khoá, các hoạt động phong trào của trường là hết sức cần thiết.

Trên thực tế chương trình GDTC của Trường ĐHKT&QTKD - ĐHTN hiện
nay vẫn còn tồn tại nhiều bất cập như việc nội dung chương trình phần tự chọn chưa
hoàn toàn áp dụng theo học chế tín chỉ, SV vẫn phải học theo chương trình bắt buộc
(học phần 1 là môn thể dục phát triển chung, học phần 2 là môn bóng chuyền, học
phần 3 là môn Bóng đá), chương trình vẫn còn mang tính cứng nhắc, chưa phát huy
được hết năng lực, chưa tạo ra được sự chủ động và tích cực trong học tập của SV,
chưa được lựa chọn môn học theo sở thích, giới tính và năng lực cá nhân sinh viên.
Cho đến nay đã có một số công trình nghiên cứu về đổi mới chương trình môn
GDTC cho SV các trường Đại học và Cao đẳng như: “Nghiên cứu hiệu quả môn thể
thao tự chọn thích hợp đối với sự phát triển thể chất của nữ sinh viên trường Đại
học khoa học xã hội và nhân văn – Thành phố Hồ Chí Minh” (Phan Thanh Mỹ,
Luận văn Thạc sĩ, 2006) [26]; “XD chương trình GDTC cho SV nhóm sức khoẻ yếu
Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội” (Trần Huy Quang, Luận văn thạc sĩ, 2008)
[29];[18]... nhưng chưa có tác giả nào nghiên cứu về xây dựng chương trình phần tự
chọn môn GDTC cho sinh viên Trường Đại học Kinh tế & Quản trị Kinh doanh –
Đại học Thái Nguyên.
Xuất phát từ những nguyên nhân trên, với mong muốn đóng góp cho sự phát
triển của môn GDTC nhà trường. Tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Xây dựng
chương trình phần tự chọn môn Giáo dục thể chất cho sinh viên Trường Đại học
Kinh tế và Quản trị Kinh doanh – Đại học Thái Nguyên”.
2. Mục đích nghiên cứu
Qua đánh giá thực trạng việc thực hiện chương trình phần tự chọn môn GDTC
của SV nhà trường, đề tài sẽ xây dựng chương trình phần tự chọn môn GDTC cho
SV Trường ĐHKT&QTKD - ĐHTN, nhằm nâng cao kết quả học tập, cải thiện thể
lực cho sinh viên nhà trường.

8


3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu

3.1. Khách thể nghiên cứu
Hoạt động dạy và học môn GDTC của SV Trường ĐHKT&QTKD – ĐHTN.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
- Đối tượng khách thể là chương trình phần tự chọn môn học GDTC cho SV
Trường Đại học Kinh tế & Quản trị Kinh doanh – Đại học Thái Nguyên.
4. Giả thuyết khoa học
Chương trình GDTC của Trường ĐHKT&QTKD - ĐHTN còn nhiều bất cập,
chưa nâng cao được hiệu quả, SV chưa được lựa chọn những nội dung tập luyện mà
mình yêu thích, môn học sở trường và phù hợp với khả năng, năng lực của bản thân.
Vì vậy nếu xây dựng chương trình phần tự chọn môn GDTC ở Trường
ĐHKT&QTKD - ĐHTN cho sinh viên phù hợp với nhu cầu cầu, yêu thích, năng lực
của sinh viên và điều kiện của nhà trường, thì chắc rằng chất lượng học tập môn
GDTC của SV sẽ nâng cao hơn, thể lực của sinh viên cũng sẽ được cải thiện hơn,
đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới giáo dục trong giai đoạn hiện nay.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu, đề tài tiến hành giải quyết 2 nhiệm vụ sau:
- Nhiệm vụ 1: Đánh giá thực trạng công tác GDTC cho SV Trường
ĐHKT&QTKD – ĐHTN.
- Nhiệm vụ 2: Xây dựng và đánh giá chương trình phần tự chọn môn GDTC
cho SV Trường ĐHKT&QTKD - ĐHTN.
6. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu
- Thực trạng công tác GDTC cho SV Trường ĐHKT&QTKD – ĐHTN
+ Thực trạng đội ngũ giảng viên, cơ sở vật chất, sân bãi, phục vụ môn học GDTC.
+ Thực trạng công tác giảng dạy môn GDTC của Trường ĐHKT&QTKD – ĐHTN.
+ Thực trạng kết học tập, kết quả rèn luyện thân thể và hoạt động TDTT ngoại
khóa của SV Trường ĐHKT&QTKD – ĐHTN.
- Xây dựng chương trình phần tự chọn môn GDTC cho SV Trường
ĐHKT&QTKD – ĐHTN.

9



7. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết nhiệm vụ nghiên cứu đề tài sử dụng các phương pháp nghiên
cứu sau [35], [45]:
7.1. Phương pháp tổng hợp và phân tích tài liệu
Phương pháp này giúp cho việc hệ thống hoá các kiến thức có liên quan đến
lĩnh vực nghiên cứu, hình thành cơ sở lý luận về quan điểm đánh giá chất lượng
giáo dục thể chất, xác định mục đích và mục tiêu nghiên cứu. Đồng thời việc sử
dụng phương pháp nghiên cứu này cho phép thu thập thêm các số liệu để kiểm
chứng và so sánh với những số liệu đã thu thập được trong quá trình nghiên cứu.
Các tài liệu tham khảo chủ yếu được thu thập từ Thư viện trường Đại học sư Phạm
Hà Nội, Thư viện của trường Đại học TDTT Bắc Ninh và các tư liệu khác.
Trong quá trình nghiên cứu, đề tài sử dụng các sách và tài liệu tham khảo tiếng
việt thuộc các lĩnh vực:
- Các tài liệu gồm có: các chỉ thị, văn bản, quyết định của Đảng và Nhà nước
về TDTT trong giai đoạn mới, định hướng công tác TDTT…
- Các sách gồm có: sách lý luận, tâm lý, sinh lý học, y học… và các tài liệu
liên quan tới giáo dục thể chất và thể dục thể thao.
- Các đề tài nghiên cứu lĩnh vực giáo dục thể chất và thể thao trường học.
- Các bài viết trên các trang thông tin điện tử của các báo của Tổng cục TDTT,
Các báo khuyến học như Dân trí…
Các tài liệu nêu trên được trình bày trong phần “danh mục tài liệu tham khảo”.
7.2. Phương pháp phỏng vấn
- Tác giả sử dụng phương pháp phỏng vấn trực tiếp và phương pháp phỏng vấn
bằng phiếu hỏi đối với các nhà chuyên gia, nhà quản lý giáo dục, giáo viên GDTC và
SV Trường ĐHKT&QTKD - ĐHTN các vấn đề sau:
+ Phỏng vấn SV K9, K10, K11 của Trường ĐHKT&QTKD – ĐHTN về
chương trình môn học GDTC hiện hành, điều kiện tập luyện và nhu cầu của SV.
+ Phỏng vấn chuyên gia, giáo viên, nhà quản lý về sự cần thiết và yêu cầu

của việc xây dựng nội dung chương trình phần tự chọn môn GDTC cho SV
Trường ĐHKT&QTKD – ĐHTN.

10


+ Phỏng vấn CBGV, SV về mức độ hứng thú, tích cực học tập, tập luyện trong
giờ học phần tự chọn môn GDTC cho SV Trường ĐHKT&QTKD - ĐHTN.
7.3. Phương pháp kiểm tra sư phạm
- Nhằm mục đích đánh giá trình độ thể lực của SV trường ĐHKT&QTKD –
ĐHTN, đề tài sẽ sử dụng phương pháp này dưới dạng các test được lựa chọn từ bộ
tiêu chuẩn đánh giá thể lực áp dụng mới nhất cho HS, SV ban hành kèm theo Quyết
định số 53/2008/QĐ-BGDĐT ngày 18 tháng 9 năm 2008 của Bộ trưởng Bộ
GD&ĐT [32]. Kết quả của phương pháp này là cơ sở cho việc xác định trình độ thể
lực của SV.
Các test được đề tài sử dụng là:
* Lực bóp tay thuận (KG): Đánh giá sức mạnh tối đa.
* Nằm ngửa gập bụng (số lần/30 giây) : Đánh giá sức mạnh - tốc độ.
* Bật xa tại chỗ (cm): Đánh giá sức mạnh bột phát.
* Chạy 30m xuất phát cao (s): Đánh giá sức nhanh .
* Chạy con thoi 4x10m (s): Đánh giá sự khéo léo.
* Chạy tùy sức 5 phút (m): Đánh giá sức bền.
- Phân loại thể lực chung: Với 4 chỉ tiêu xếp loại thì: xếp loại tốt là có 3 chỉ tiêu
đánh giá là tốt và 01 chỉ tiêu đạt (1/4 chỉ tiêu đạt = 25%). Xếp loại đạt là tất cả các chỉ
tiêu đều đạt (4/4 chỉ tiêu đạt = 100%), xếp loại không đạt là có 01 chỉ tiêu không đạt
(1/4 chỉ tiêu không đạt = 25%). Từ căn cứ trên ta xếp loại với 6 chỉ tiêu như sau:
+ Xếp loại tốt là có 5 chỉ tiêu đánh giá tốt và 01 chỉ tiêu đạt (6x25% chỉ tiêu
đạt = 1,5 đạt + 4,5 tốt).
+ Xếp loại đạt là tất cả các chỉ tiêu đánh giá đều đạt.
+ Xếp loại không đạt là có 01 chỉ tiêu không đạt.

- Nhằm đánh giá kỹ thuật cơ bản môn Bóng chuyền cho SV, Bộ môn GDTC
đang thực thi 3 test:
* Kỹ thuật chuyền bóng cao tay: Mỗi SV và người phục vụ thực hiện chuyền
luân lưu bóng ở khoảng cách 3 - 5m, thực hiện 3 lần và lấy lần có thành tích tốt
nhất. Thành tích được quy ra điểm số như sau:

11


- Đạt 2 quả: 1 điểm
- Đạt 10 quả: 5 điểm
- Đạt 16 quả: 8 điểm
- Đạt 4 quả: 2 điểm
- Đạt 12 quả: 6 điểm
- Đạt 18 quả: 9 điểm
- Đạt 6 quả: 3 điểm
- Đạt 14 quả: 7 điểm
- Đạt 20 quả: 10 điểm
- Đạt 8 quả: 4 điểm
* Kỹ thuật chuyền bóng thấp tay (đệm bóng): Mỗi SV và người phục vụ thực
hiện chuyền bóng luân lưu ở khoảng cách 3 - 5m, thực hiện 3 lần và lấy lần có
thành tích tốt nhất. Điểm số tính như kỹ thuật chuyền cao tay.
* Kỹ thuật phát bóng: Mỗi SV thực hiện phát bóng từ cuối đường biên ngang
qua trên lưới và bóng rơi trong sân ở khu vực cuối sân.
+ Số lần thực hiện phát 5 quả.
+ Điểm số tính:
- Đạt 1 quả: 2 điểm
- Đạt 2 quả: 4 điểm
- Đạt 3 quả: 6 điểm
7.4. Phương pháp thực nghiệm sư phạm


- Đạt 4 quả: 8 điểm
- Đạt 5 quả: 10 điểm

Thực nghiệm sư phạm là phương pháp nghiên cứu được đưa vào quá trình giáo
dục thể chất những nhân tố mới cần nghiên cứu và làm sáng tỏ tính ưu việt của chúng
trước những nhân tố và tác động khác. Đề tài sử dụng phương pháp này nhằm mục
đích kiểm nghiệm hiệu quả chương trình phần tự chọn môn GDTC. Đề tài tiến hành
so sánh song song hai nhóm TN và nhóm ĐC được lựa chọn ngẫu nhiên.
- Nhóm TN học theo chương trình Bóng chuyền mới mà đề tài xây dựng.
- Nhóm ĐC học theo chương trình Bóng chuyền đang giảng dạy tại nhà trường.
7.5. Phương pháp toán học thống kê [35], [37], [42].
Phương pháp toán học thống kê được sử dụng để thu thập và xử lý số liệu đã thu
thập được của quá trình nghiên cứu. Các công thức toán học đề tài sử dụng là: [36];[4]
Giá trị số trung bình :
n

x=
Trong đó :

∑x
i =1

i

n

Xi : là giá trị quan sát thứ i
n: là số đối tợng quan sát
Σ: là kí hiệu tổng cộng


12

(n>30)


δ

2

∑( x
=

− x) 2

i

n

- Phương sai:
δ = δ =
2

- Độ lệch chuẩn :

∑ (x

i

− x) 2


n

Cv =
- Công thức tính hệ số biến sai Cv:

δX
× 100%
X

+ Nếu Cv ≤ 10% số liệu đám đông tương đối đồng đều.
- Kiểm tra tính đại diện của số trung bình:

ε=
Kết quả:

ε 0,05 là số trung bình đại diện được cho số trung bình tổng thể.
ε > 0,05 là số trung bình không đại diện được cho số trung bình tổng thể.
- Công thức tính tỷ lệ %:

Tỷ lệ %

=

x
× 100 0 0
n

- Công thức tính nhịp độ tăng trưởng:
W=

Trong đó:

V2 − V1
× 100%
0.5(V1 + V2 )

V1: Thành tích trước thực nghiệm
V2: Thành tích sau thực nghiệm

- Chỉ số (t) Student so sánh hai giá trị trung bình quan sát:
+ Với hai mẫu độc lập
Với n
Trong đó: t: là chỉ số t-student
n1, n2: số cá thể được quan sát của hai tập hợp mẫu tương ứng.
+ Với 2 mẫu có liên quan

t=

Trong đó: d là giá trị gia tăng.
;

13


- Đánh giá chất lượng bằng chỉ số X2 (Khi bình phương)
Trong đó:

- là tần số quan sát.
- : là tần số lý thuyết.


Đánh giá:
- Nếu X2tính < X20,05 tra trong bảng thì hai nhóm không có sự khác biệt ở
ngưỡng xác suất (p>0,05).
- Nếu X2tính ≥ X20,05 tra trong bảng thì hai nhóm có sự khác biệt, hay là sự khác
biệt của 2 nhóm là có ý nghĩa thống kê với ở ngưỡng xác suất (p<0,05).
- Chỉ số dấu hiệu (S): So sánh thành tích giữa hai nhóm thông qua dấu hiệu
tốt hơn (+) và kém hơn (–). Khi đánh giá chỉ lấy dấu hiệu ít hơn làm cơ sở để so
sánh với S của bảng.
+ Nếu S(+, -) Sbảng thì sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê.
+ Nếu S(+, -) Sbảng thì sự khác biệt có ý nghĩa thống kê.
Việc phân tích và xử lý Các số liệu thu thập được trong quá trình nghiên cứu
của đề tài được tác giả xử lý bằng phần mềm Excel đã được xây dựng trên máy tính.
8. Cấu trúc luận văn
- Phần mở đầu
- Chương 1: Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu.
- Chương 2: Đánh giá thực trạng công tác GDTC cho sinh viên Trường
ĐHKT&QTKD – ĐHTN.
- Chương 3: Xây dựng và ứng dụng chương trình phần tự chọn môn GDTC
cho sinh viên Trường ĐHKT&QTKD - ĐHTN
- Kết luận và kiến nghị
- Danh mục tài liệu tham khảo
- Phụ lục

14


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về GDTC trong trường học.
Đảng ta qua nhiều giai đoạn Cách mạng đều nhất quán với quan điểm “Giáo

dục là quốc sách hàng đầu” và luôn quan tâm, coi trọng việc đào tạo nguồn nhân
lực cho đất nước. Con người là hạt nhân của xã hội, xã hội muốn bền vững thì cần
phải có con người tài năng, có sức khoẻ tốt, nhân cách đạo đức tốt. Do vậy, mục
tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri
thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội, hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của
công dân đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ tổ quốc [25].
Để đạt được mục tiêu giáo dục con người toàn diện, ngoài giáo dục về nhân
cách, đạo đức, chuyên môn thì giáo dục thể chất nâng cao sức khoẻ cho con người,
là yếu tố quan trọng không thể thiếu. Với ý nghĩa và vai trò rất quan trọng của
TDTT đối với con người, Bác Hồ kính yêu của chúng ta lúc sinh thời rất quan tâm
đến phát triển sự nghiệp TDTT và việc rèn luyện TDTT trong quần chúng nhân dân.
Để dân cường nước thịnh Bác đã viết "Lời kêu gọi toàn dân tập thể dục" [21] vào
ngày 27/3/1946, và ngày đó đã trở thành ngày truyền thống của ngành TDTT. Lời
kêu gọi của Bác đã định hướng cho sự hình thành và phát triển của một nền thể thao
mới do Người sáng lập. Câu nói "Tự tôi ngày nào cũng tập" đến "Khoẻ vì nước"
(năm 1946) và nay là "Cuộc vận động toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác
Hồ vĩ đại" [21] đã trở thành tư tưởng Hồ Chí Minh về TDTT Việt Nam.
Tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc đặt nền tảng xây dựng sự nghiệp TDTT của
nước ta là: Khẳng định rõ TDTT là một công tác cách mạng, vừa là nhu cầu, vừa là
quyền lợi, vừa là nghĩa vụ của quần chúng, một sự nghiệp của toàn dân, do dân và
vì dân. Mục tiêu của TDTT là bảo vệ và tăng cường sức khoẻ của nhân dân, góp
phần cải tạo nòi giống Việt Nam, làm cho dân cường, nước thịnh. Tiêu biểu cho
điều mong muốn thiết tha của Bác là lời kêu gọi toàn dân tập thể dục: "Giữ gìn dân
chủ, xây dựng nước nhà, gây đời sống mới, việc gì cũng cần đến sức khoẻ mới

15


thành công, mỗi một người dân yếu ớt tức là làm cho cả nước yếu ớt một phần, mỗi

người dân khoẻ mạnh tức là góp phần cho cả nước mạnh khoẻ. Vậy rèn luyện tập
thể dục, bồi bổ sức khoẻ là bổn phận của mỗi người dân yêu nước" [21].
Thực hiện tâm nguyện của Người, trong những năm qua Đảng ta với chủ
trương: "Để đảm bảo cho sự nghiệp TDTT của nước ta phát triển vững chắc, đem
lại những hiệu quả thiết thực, từng bước xây dựng nền TDTT xã hội chủ nghĩa phát
triển cân đối, có tính chất dân tộc, khoa học và nhân dân. Công tác TDTT cần coi
trọng, nâng cao chất lượng GDTC trong trường học, tổ chức hướng dẫn và vận
động đông đảo nhân dân RLTT hàng ngày" [37].
Đảm bảo cho TDTT phát triển đúng hướng, cần tạo sự quản lý thống nhất của
Nhà nước và xúc tiến quá trình xã hội hoá TDTT trong các tổ chức và cơ sở hoạt
động. Đánh giá công tác TDTT trong những năm qua, tại Chỉ thị 36 CT/TW của
Ban Bí thư Trung ương Đảng về công tác TDTT trong giai đoạn mới nêu rõ
"Những năm gần đây, công tác TDTT đã có nhiều tiến bộ, phong trào TDTT ở một
số địa phương và ngành đã được chú ý đầu tư nâng cấp, xây dựng mới. Tuy nhiên,
TDTT nước ta còn ở trình độ rất thấp, số người thường xuyên tập luyện thể thao
còn rất ít, đặc biệt là thanh niên chưa tích cực tham gia tập luyện. Hiệu quả GDTC
trong trường học và trong các lực lượng vũ trang còn rất thấp. Đội ngũ cán bộ
TDTT còn thiếu và yếu về nhiều mặt. Nguyên nhân chủ yếu của những yếu kém là
do nhiều cấp uỷ Đảng, chính quyền chưa nhận thức được đầy đủ và còn xem nhẹ
vai trò của TDTT trong sự nghiệp đào tạo, bồi dưỡng và phát huy nhân tố con
người, chưa thực sự coi TDTT là một bộ phận trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội, an ninh - quốc phòng, chưa có chế độ phù hợp với yêu cầu phát triển của
TDTT”[5].
Trước tình hình mới, định hướng của Đảng về sự nghiệp TDTT: "Phát triển
TDTT là một bộ phận quan trọng trong chính sách phát triển kinh tế - xã hội của
Đảng và Nhà nước, nhằm bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người. Công tác TDTT
phải góp phần tích cực nâng cao sức khoẻ thể lực, giáo dục nhân cách, đạo đức, lối
sống lành mạnh, làm phong phú đời sống văn hoá, tinh thần của nhân dân, nâng cao

16



năng xuất lao động xã hội và sức chiến đấu của các lực lượng vũ trang"[14].
Pháp lệnh TDTT đã được Uỷ ban Thường vụ Quốc hội khoá X thông qua và
ban hành: TDTT là sự nghiệp của Nhà nước và của toàn dân. Phát triển sự nghiệp
TDTT; tăng cường quản lý Nhà nước về TDTT nhằm nâng cao sức khoẻ, phát triển
thể lực toàn dân, góp phần hình thành và bồi dưỡng nhân cách con người Việt Nam,
phục vụ công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhà nước khuyến khích và tạo
điều kiện để mọi người tham gia hoạt động TDTT và hưởng thụ giá trị TDTT; phát
triển TDTT thành tích cao đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế; giữ gìn và phát triển
thể thao dân tộc. Kết hợp với phát triển thể thao hiện đại phù hợp với bản sắc văn
hoá Việt Nam [28].
Chỉ thị số 112-CT năm 1989 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng yêu cầu các
cấp các ngành thực hiện tốt nhiệm vụ và biện pháp sau: "Đối với học sinh, sinh
viên, trước hết nhà trường phải thực hiện nghiêm túc việc dạy và học môn thể dục
theo chương trình quy định, có biện pháp tổ chức, hướng dẫn các hình thức tập
luyện và hoạt động thể thao ngoài giờ học”[8]. Điều đó đã khẳng định sự quan tâm
chỉ đạo của Đảng và Nhà nước đối với công tác TDTT và GDTC trong nhà trường,
coi đó là nhiệm vụ cấp thiết và liên tục của toàn Đảng, toàn dân.
Để tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển sự nghiệp TDTT nước nhà, Thủ
tướng Chính phủ đã có chỉ thị 133/TTg về quy hoạch phát triển ngành TDTT.
Trong đó đã nêu: "Ngành TDTT phải xây dựng định hướng phát triển có tính chiến
lược, trong đó quy định rõ các môn thể thao và các hình thức hoạt động mang tính
phổ cập đối với mọi đối tượng, lứa tuổi, tạo thành phong trào tập luyện rộng rãi
của quần chúng, Bộ Giáo dục và Đào tạo cần đặc biệt coi trọng việc GDTC trong
nhà trường. Cải tiến nội dung giảng dạy TDTT nội khoá, ngoại khoá, quy định tiêu
chuẩn RLTT cho học sinh ở các cấp học, quy chế bắt buộc ở các trường. Nhất là
trường Đại học, Cao đẳng phải có sân bãi, phòng tập TDTT, có kế hoạch đào tạo,
bồi dưỡng và đảm bảo đủ giáo viên, giảng viên TDTT đáp ứng nhu cầu ở tất cả các
cấp học" [6].
Để đưa công tác GDTC trong nhà trường trở thành một khâu quan trọng, cũng


17


như xác định nhận thức đúng về vị trí GDTC trong nhà trường các cấp phải được
triển khai đồng bộ với các mặt giáo dục tri thức và nhân cách từ tuổi thơ cho đến bậc
đại học. Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có văn bản quyết định ban hành quy chế về công
tác GDTC trong nhà trường các cấp, trong đó đã khẳng định: "GDTC được thực hiện
trong hệ thống nhà trường từ mầm non đến đại học, góp phần đào tạo những công
dân phát triển toàn diện. GDTC là một bộ phận hữu cơ của mục tiêu giáo dục và đào
tạo, nhằm giúp con người phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong
phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức: Thể chất - sức khoẻ tốt là nhân tố quan
trọng trong việc phát triển sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc" [37].
Trong Điều 16, Pháp lệnh TDTT đã khẳng định: "Nhà trường có trách nhiệm
thực hiện chương trình GDTC cho người học. Tổ chức hoạt động TDTT ngoại
khoá, xây dựng cơ sở vật chất cần thiết đáp ứng việc giảng dạy và hoạt động TDTT
trong nhà trường" [28].
Trong các trường đại học, GDTC có tác dụng tích cực trong việc hoàn thiện
nhân cách, những phẩm chất cần thiết và hoàn thiện thể chất cho SV. Trong những
năm qua, kể từ buổi lễ phát động "Toàn dân RLTT theo gương Bác Hồ vĩ đại"
(26/03/2000) [21]. Công tác GDTC và hoạt động thể thao trong trường học đã có
nhiều khởi sắc. Liên Bộ đã phối hợp xây dựng pháp lệnh TDTT và đã được Uỷ ban
Thường vụ Quốc hội thông qua, các vụ chức năng của Bộ GD&ĐT, Uỷ ban TDTT
và Bộ Y tế đã phối hợp xây dựng quy chế về GDTC và y tế trường học được Bộ
trưởng Bộ GD&ĐT duyệt ký và ban hành. Quy chế GDTC và Y tế trường học có ý
nghĩa quan trọng tạo điều kiện để nhà trường các cấp và các địa phương triển khai
tốt công tác GDTC trong giáo dục toàn diện cho học sinh, sinh viên. Hai ngành đã
và đang nghiên cứu cải tiến nội dung chương trình và sách hướng dẫn GDTC, các
hoạt động vui chơi trong ngày học, định hướng giảm tải và nâng cao chất lượng
giáo dục. Trong quy chế có quy định rõ trách nhiệm của học sinh, sinh viên: “Học

sinh, sinh viên có trách nhiệm hoàn thành tốt nhiệm vụ học tập môn thể dục và môn
sức khoẻ. Sinh viên các trường Đại học và Cao đẳng phải có chứng chỉ GDTC mới
đủ điều kiện cấp bằng tốt nghiệp” [2].

18


Theo thông tư liên tịch Bộ GD&ĐT và Uỷ ban TDTT thống nhất ban hành,
TDTT trường học là một bộ phận đặc biệt quan trọng trong việc nâng cao sức khoẻ
và thể lực, bồi dưỡng phẩm chất đạo đức, ý chí, giáo dục nhân cách cho HS, SV góp
phần đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. TDTT trường học là
môi trường thuận lợi và giầu tiềm năng để phát hiện và bồi dưỡng tài năng thể thao cho
đất nước.
- Phát triển GDTC trường học theo hướng đổi mới và nâng cao chất lượng giờ
học thể dục nội khoá, đa dạng hoá các hình thức hoạt động ngoại khoá, đồng thời tổ
chức chặt chẽ việc kiểm tra tiêu chuẩn RLTT đối với người học.
- Tăng cường phối hợp liên ngành giáo dục và TDTT, đồng thời đẩy mạnh xã
hội hoá và chuyên nghiệp hoá, tranh thủ các nguồn lực từ xã hội để xây dựng và
phát triển TDTT trường học.
- Tăng cường hợp tác, giao lưu quốc tế về TDTT trường học, góp phần nâng
cao vị thế của Thể thao Việt Nam trong khu vực và thế giới.
1.2. Khái quát về Trường Đại học Kinh tế & Quản trị Kinh doanh – ĐHTN.
Trường ĐHKT&QTKD - ĐHTN là trường trực thuộc Đại học Thái nguyên,
được thành lập 8/2004 [31]. Khi mới thành lập, nhà trường có 3 khoa, 4 đơn vị
chức năng (các phòng với 2 đoàn thể là Công đoàn và Đoàn thanh niên). Trải qua
quá trình phát triển và trưởng thành hiện nay quy mô đào tạo đã được mở rộng, số
lượng và chất lượng các chuyên nghành đào tạo đều được nâng cao. Hiện nay
trường có 7 khoa, 9 đơn vị hỗ trợ đào tạo nghiên cứu (các trung tâm) và 4 tổ chức
đoàn thể. Số khoa trực thuộc Trường ĐHKT&QTKD - ĐHTN là 07 Khoa: Khoa
Kinh tế, khoa Kế toán, khoa Quản trị kinh doanh, khoa Ngân hàng – Tài chính,

khoa Quản lý luật – Kinh tế, khoa Marketing - Thương mại và Du lịch, Khoa khoa
học cơ bản.
Khoa Khoa học cơ bản là một khoa hiện nay công tác tổ chức vẫn mang tính
kiêm nhiệm (vừa làm công tác quản lý vừa làm cán bộ giảng dạy).

19


1.2.1. Cơ chế tổ chức
- Ban chủ nhiệm khoa bao gồm: 1 Trưởng khoa, 02 Phó khoa phụ trách công
tác đào tạo và nghiên cứu khoa học, 1 Phó khoa phụ trách về công tác đảng, công
tác chính trị. Khoa có 62 cán bộ cơ hữu, 09 giảng viên kiêm nhiệm, 02 giảng viên
thỉnh giảng, 01 chuyên viên, với rất nhiều các chuyên ngành khác nhau như: Toán,
Ngoại ngữ, Lý luận chính trị, Tin học và GDTC. Trong đó: 02 tiến sĩ; 45 thạc sĩ
(trong đó có 16 giảng viên đang nghiên cứu sinh) và 24 cử nhân (trong đó có 17
học viên cao học).
Khoa khoa học cơ bản là một đơn vị mới được thành lập từ năm 2006. Với
nhiệm vụ là giảng dạy môn học cơ bản cho SV các khoa, đồng thời tổ chức các
phong trào Thể dục, thể thao cho cán bộ, SV trong toàn trường.
1.2.2. Hoạt động đào tạo
Hiện nay khoa Khoa học cơ bản Trường ĐHKT&QTKD - ĐHTN đã và đang
tổ chức giảng dạy cho SV theo khóa học, lớp học và từng bước áp dụng các yếu tố
tích cực của đào tạo tín chỉ vào quá trình giảng dạy. Khoa chủ động phân công cán
bộ xây dựng đề cương môn học, tiến hành đổi mới phương pháp giảng dạy và cách
thức kiểm tra đánh giá phù hợp với hình thức đào tạo tín chỉ theo chủ trương chung
của Đại học Thái Nguyên (ĐHTN). Bước đầu trường đưa vào chương trình một số
môn học mới nhằm từng bước chuyển sang giảng dạy theo hướng SV tự chọn môn
học. Tuy nhiên việc xây dựng thời khóa biểu ở từng học kỳ cho các đơn vị đào tạo
trong Trường ĐHKT&QTKD - ĐHTN là rất khó khăn và phức tạp. Do đó trong
tương lai cần phải có sự liên kết với các đơn vị đào tạo trong ĐHTN về thống nhất

quy trình xây dựng thời khóa biểu để có thể chủ động hơn trong việc tổ chức đào
tạo theo hướng tự chọn.
Tuy nhiên, bên cạnh những khó khăn nêu trên thì lại có những thuận lợi nhất
định. Với đội ngũ cán bộ giảng dạy đông đảo và rất nhiều các chuyên ngành khác
nhau nên sẽ rất thuận lợi cho việc phân công cán bộ giảng dạy theo đúng chuyên
ngành đào tạo, nhằm mục đích nâng cao chất lượng giảng dạy môn học GDTC theo
hướng SV tự chọn phù hợp với nhu cầu và sở thích của SV. Bên cạnh đó, cũng

20


thường xuyên tổ chức tham gia các lớp tập huấn về chuyên môn, nghiệp vụ nhằm
nâng cao trình độ cho cán bộ giảng dạy để đáp ứng được với xu thế phát triển của
thời đại.
Trên thực tế, việc giảng dạy môn học GDTC tại Trường ĐHKT&QTKD –
ĐHTN vẫn còn mang tính bắt buộc. SV chưa được chủ động lựa chọn môn học mà
mình yêu thích cũng như môn học phù hợp với khả năng của các em. Vì vậy chất
lượng môn học GDTC vẫn chưa cao, đặc biệt chưa phát huy được hết tính tự giác
tích cực của SV trong quá trình học tập.
1.2.3. Đặc điểm hoạt động giảng dạy của giáo viên và hoạt động học tập của SV
Trường ĐHKT&QTKD – ĐHTN.
Hàng năm một khóa tuyển sinh của nhà trường số lượng SV từ 1300 – 1500
SV, trong số đó phần đa là SV thuộc diện miền núi. Với mỗi vùng miền có bản sắc
văn hóa của địa phương khác nhau nên để hòa nhập được chung các em cũng phải
có thời gian được học tập và giao lưu một khoảng thời gian.
Hoạt động giảng dạy không có tính thuật ngữ, được dùng để thể hiện quan
điểm về hoạt động trong công tác dạy học và được dùng để chỉ một phương thức xã
hội đặc thù của hoạt động học tập. Tính xã hội của hoạt động này bộc lộ ở chỗ nó
diễn ra dưới hình thức nhà trường, có tổ chức chặt chẽ, được những người thực hiện
có ý thức rõ ràng, tự giác. Hoạt động giảng dạy là một quá trình phức tạp gồm hoạt

động dạy của thầy và hoạt động học của trò. Hai hoạt động này có mối quan hệ chặt
chẽ với nhau. Hoạt động dạy và hoạt động học tuy có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau trong hoạt động giảng dạy nhưng không ngang nhau.
1.3. Một số vấn đề về Giáo dục thể chất ở bậc đại học
1.3.1. Chủ chương của hai ngành Giáo dục đào tạo và TDTT.
Để GDTC và thể thao trường học thực sự có vị trí quan trọng trong việc góp
phần đào tạo thế hệ trẻ phát triển toàn diện, hoàn thiện về nhân cách, trí tuệ và thể
chất sức khỏe, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, giữ vững
tăng cường an ninh quốc phòng, đồng thời xây dựng nhà trường thành những cơ sở
phong trào TDTT quần chúng của HS, SV, quán triệt sâu sắc nội dung của các Nghị

21


quyết, chỉ thị của Đảng, Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam năm
1992 và các văn bản pháp lệnh của Chính phủ về công tác TDTT trong tình hình
mới. Để khắc phục thực trạng giảm sút sức khỏe thể lực của HS, SV hiện nay, hai
ngành giáo dục đào tạo và TDTT đã thống nhất những nội dung, biện pháp và hợp
đồng trách nhiệm chỉ đạo nhằm đẩy mạnh và nâng cao chất lượng GDTC của HS,
SV: "Hai ngành nhất trí xây dựng chương trình nâng cao GDTC, sức khỏe, bồi
dưỡng năng khiếu thể thao HS, SV... kiến nghị với Nhà nước phê duyệt thành
chương trình quốc gia và được đầu tư kinh phí thỏa đáng" [16].
Hai ngành: GD&ĐT và Thể dục thể thao đã thống nhất những biện pháp chủ
yếu, để nhằm tăng cường đẩy mạnh nâng cao chất lượng công tác GDTC trong nhà
trường các cấp là: "Hai ngành thống nhất tổ chức cuộc vận động tuyên truyền rộng
khắp nhằm có được nhận thức đúng về vị trí quan trọng của công tác GDTC trong
chiến lược phát triển con người tới đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục đào
tạo và TDTT, HS, SV và toàn xã hội. Kiện toàn tổ chức chỉ đạo và quản lý GDTC từ
Trung ương tới trường học. Cần có hình thức chỉ đạo linh hoạt, gắn hoạt động
GDTC với sự nghiệp giáo dục, đào tạo, TDTT, văn hóa, kinh tế - xã hội". Cũng như:

"Xác định rõ trách nhiệm hiệu trưởng nhà trường các cấp và toàn thể đội ngũ cán bộ
quản lý giáo dục đối với công tác GDTC. Kiến nghị với các cấp, các ngành cần
chấm dứt việc lấn chiếm sân chơi, bãi tập của nhà trường. Các địa phương cần cấp
đất đủ để xây dựng sân chơi bãi tập cho HS, SV trong trường học các cấp" [16].
Để đưa công tác GDTC trong nhà trường trở thành một khâu quan trọng của
sự nghiệp giáo dục - đào tạo, cũng như xác định đúng về vị trí GDTC trong nhà
trường các cấp thì GDTC phải được triển khai thực hiện đồng bộ với các mặt giáo
dục tri thức và nhân cách từ tuổi thơ cho đến Đại học. Bộ trưởng Bộ GD&ĐT đã có
quyết định ban hành quy chế về công tác GDTC trong nhà trường các cấp. Trong đó
đã khẳng định: "GDTC được thực hiện trong nhà trường từ mầm non đến Đại học,
góp phần đào tạo những công dân phát triển toàn diện. GDTC là một bộ phận hữu
cơ của mục tiêu giáo dục và đào tạo, nhằm giúp con người phát triển cao về trí tuệ,
cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức" [37].

22


Nội dung của quy chế đã xác định phải đảm bảo thực hiện dạy và học môn thể
thao theo chương trình cho HS, SV trong tất cả các trường từ mầm non đến cấp Đại
học, bao gồm nhiều hình thức có liên quan chặt chẽ với nhau: giờ học thể dục, tập
luyện thể thao theo chương trình tập luyện của SV, SV giữ gìn vệ sinh cá nhân và
vệ sinh môi trường nhằm phát triển thể lực và nhân cách của người SV, cũng như đã
khẳng định: "Nhà trường phải có kế hoạch hướng dẫn HS, SV tự tập luyện thường
xuyên, tổ chức thi kiểm tra tiêu chuẩn rèn luyện thân thể theo lứa tuổi và chỉ tiêu
phát triển thể lực cho HS, SV theo quy định của chương trình GDTC" [37].
1.3.2. Chương trình môn học GDTC trong các trường Cao đẳng - Đại học
1.3.2.1. Mục đích, nội dung và nhiệm vụ chương trình môn học GDTC.
GDTC là bộ phận hữu cơ trong mục tiêu giáo dục toàn diện đối với lực lượng
lao động tương lai của đất nước đó là lực lượng có trí thức, phẩm chất, tinh thần và sức
khoẻ. GDTC trong nhà trường các cấp được hiểu là: “Quá trình sư phạm nhằm giáo

dục và đào tạo thế hệ trẻ, hoàn thiện về thể chất và nhân cách, nâng cao khả năng làm
việc, và kéo dài tuổi thọ của con người” [24].
* Mục đích
GDTC là một loại hình giáo dục, nên nó là một quá trình giáo dục có tổ chức,
có mục đích, có kế hoạch để truyền thụ những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo...về TDTT từ
thế hệ này đến thế hệ khác. Điều đó có nghĩa là, GDTC cũng như các loại hình giáo
dục khác, là quá trình sư phạm với đầy đủ đặc điểm của nguyên tắc sư phạm, có vai trò
chủ đạo, tổ chức hoạt động của nhà sư phạm phù hợp với học sinh. GDTC bao gồm hai
mặt tương đối độc lập: Dạy học động tác (giáo dục kỹ năng, kỹ xảo) và giáo dục tố
chất thể lực (giáo dưỡng thể chất). Trong hệ thống giáo dục nói chung đặc trưng của
GDTC được gắn liền với giáo dục trí dục, đức dục, mỹ dục và giáo dục lao động.
GDTC là lĩnh vực TDTT xã hội với nhiệm vụ là. Phát triển toàn diện các tố
chất thể lực, và trên cơ sở đó phát triển các năng lực hoạt động, hoàn thiện cấu trúc
thể hình, củng cố sức khoẻ, bồi dưỡng các kỹ năng và kỹ xảo quan trọng cho cuộc
sống và lao động. Đồng thời, giáo dục thể chất gắn liền với bồi dưỡng các phẩm
chất đạo đức, giáo dục ý thức và nhân cách. Chương trình GDTC trong các trường

23


Đại học nhằm giải quyết các nhiệm vụ giáo dục: “Trang bị kiến thức, kỹ năng và
rèn luyện thể lực của sinh viên”. Trong các trường Đại học, GDTC có tác dụng tích
cực trong việc hoàn thiện nhân cách, những phẩm chất cần thiết cho nghiệp vụ và
hoàn thiện thể chất của sinh viên. Việc tiến hành GDTC nhằm giữ gìn sức khoẻ và
phát triển thể lực, tiếp thu những kiến thức và kỹ năng vận động cơ bản, còn có tác
dụng chuẩn bị tốt về mặt tâm lý và tinh thần của người cán bộ tương lai. Đồng thời
giúp họ hiểu biết phương pháp khoa học để tiếp tục rèn luyện thân thể, củng cố sức
khoẻ, góp phần tổ chức xây dựng phong trào TDTT trong nhà trường.
* Nội dung và nhiệm vụ chương trình môn học GDTC.
Tác dụng của GDTC và các hoạt động TDTT là quá trình giáo dục sư phạm có

chủ đích đối với sức khoẻ và thể chất người học trong các trường đại học là toàn
diện, là phương tiện để hợp lý hoá chế độ hoạt động, nghỉ ngơi tích cực, giữ gìn và
nâng cao năng lực hoạt động, học tập của học sinh sinh viên trong suốt thời kỳ học
tập trong nhà trường, cũng như đảm bảo chuẩn bị thể lực chung và chuẩn bị thể lực
chuyên môn phù hợp với những điều kiện của nghề nghiệp trong tương lai.
Chương trình GDTC trong trường đại học đã được Bộ GD&ĐT xác định các
nhiệm vụ cơ bản sau đây [41]:
1. Giáo dục đạo đức xã hội chủ nghĩa, rèn luyện tinh thần tập thể, ý thức tổ
chức kỷ luật, xây dựng niềm tin, lối sống tích cực lành mạnh, tinh thần tự giác học
tập và rèn luyện thể lực, chuẩn bị sẵn sàng phục vụ sản xuất và bảo vệ Tổ quốc.
2. Cung cấp cho SV những kiến thức lý luận cơ bản về nội dung và phương
pháp luyện tập TDTT, kỹ năng vận động và kỹ thuật cơ bản một số môn thể thao
thích hợp. Trên cơ sở đó, bồi dưỡng khả năng sử dụng các phương tiện nói trên để
tự rèn luyện thể lực, tham gia tích cực vào việc tuyên truyền, tổ chức các hoạt động
TDTT.
3. Góp phần duy trì và củng cố sức khoẻ của SV, phát triển cơ thể một cách hài
hoà, xây dựng thói quen sống lành mạnh và khắc phục những thói quen xấu trong cuộc
sống, nhằm đạt hiệu quả tốt trong quá trình học tập và đạt những chỉ tiêu thể lực quy
định cho từng đối tượng và năm học.

24


4. Giáo dục tính thẩm mỹ cho SV và tạo điều kiện để nâng cao trình độ thể
thao, nâng cao thể lực của sinh viên.
1.3.2.2. Hình thức giảng dạy
Nội dung chương trình GDTC trong các trường Đại học được tiến hành trong
cả quá trình học tập của sinh viên trong nhà trường bằng các hình thức:
- Giờ học TDTT chính khoá: Là hình thức cơ bản nhất của GDTC được tiến
hành trong kế hoạch học tập của nhà trường. Đào tạo cơ bản về thể chất, thể thao

cho HS, SV là nhiệm vụ cần thiết, trước hết chương trình phải có cấu trúc nội dung
thích hợp để phát triển các tố chất thể lực và phối hợp vận động cho HS, SV. Đồng
thời, giúp các em có trình độ nhất định để tiếp thu được các kỹ thuật động tác TDTT
theo chương trình. Với mục tiêu chính của việc đào tạo cơ bản về thể chất và thể
thao trong trường học là: “Xúc tiến quá trình đào tạo năng lực đạt thành tích trong
thể chất và thể thao của HS, phát triển các tố chất thể lực, phát triển năng lực tâm
lý, tạo ý thức tập luyện TDTT thường xuyên, giáo dục được đức tính cơ bản và lòng
nhân đạo cho HS”.
Do vậy, giờ học chính khoá môn học GDTC mang tính hành chính pháp quy,
quy định đối với học sinh và cán bộ giảng dạy. Đó là, giờ học theo chương trình có
quy định thời gian và quy cách đánh giá chất lượng, được bố trí theo kế hoạch và có
sự kiểm tra giám sát của Nhà nước. Giờ học chính khoá đã được Luật Giáo dục
cũng như Luật thể dục thể thao quy định bắt buộc.
- Giờ học ngoại khoá - tự tập luyện TDTT: Là quá trình tập luyện của một
bộ phận SV có nhu cầu và ham thích trong thời gian nhàn rỗi với mục đích phát
triển năng lực thể chất một cách toàn diện, đồng thời nâng cao thành tích thể thao
của HS, SV. Giờ học ngoại khoá có tác dụng củng cố và hoàn thiện các bài học
chính khoá và được tiến hành vào giờ tự học của HS, SV dưới sự hướng dẫn của
giáo viên TDTT hay hướng dẫn viên TDTT. Ngoài ra còn các hoạt động thể thao
quần chúng ngoài giờ học bao gồm: Luyện tập trong các câu lạc bộ, các đội đại biểu
từng môn thể thao, các bài tập thể dục vệ sinh chống mệt mỏi hàng ngày, cũng như
giờ tự luyện tập của học sinh sinh viên, phong trào tự rèn luyện thể lực.

25


×