Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

Đặc điểm thơ lục bát nguyễn bính và tố hữu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (295.03 KB, 13 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
--------------------------------------

VŨ THỊ HOÀI

ĐẶC ĐIỂM THƠ LỤC BÁT NGUYỄN BÍNH- TỐ HỮU

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC NGỮ VĂN

Hà Nội, năm 2014

1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
--------------------------------------

VŨ THỊ HOÀI

ĐẶC ĐIỂM THƠ LUC BÁT NGUYỄN BÍNH - TỐ HỮU
Chuyên ngành: Văn Học Viêt Nam
Mã ngành: 60.22.02.21

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS.TS. LÊ VĂN LÂN

Hà Nội, năm 2014


2


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Những nghiên cứu
nêu trong luận văn có nguồn gốc rõ ràng, kết quả của luận văn là trung thực và chưa
được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

Hà Nội, ngày 7 tháng 12 năm 2014

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Vũ Thị Hoài

3


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn thạc sĩ này, tôi đã nhận được sự động viên, giúp đỡ tận
tình của các thầy cô giáo, bạn bè và người thân.
Trước tiên, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới GS.TS. Lê Văn Lân - người đã
tận tình hướng dẫn tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn các thầy giáo, cô giáo trong Khoa Văn học, Trường
Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội những người đã
tận tình giảng dạy, quan tâm tạo điều kiện cho tôi trong quá trình học tập, nghiên
cứu tại trường.
Đồng thời, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới gia đình, bạn bè, đồng nghiệp, những
người đã ủng hộ, động viên, giúp đỡ tôi trong thời gian học tập và hoàn thành luận
văn Thạc sĩ.


Hà Nội, ngày 30 tháng 11 năm 2014
Tác giả luận văn

Vũ Thị Hoài

4


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 7
NỘI DUNG ....................................................................... Error! Bookmark not defined.
CHƢƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THỂ THƠ LỤC BÁT VÀ THƠ
LỤC BÁT NGUYỄN BÍNH - TỐ HỮU ......................... Error! Bookmark not defined.
1.1. Những vấn đề chung về thể thơ lục bát .............. Error! Bookmark not defined.
1.1.1. Nguồn gốc và đặc tính chung ...................... Error! Bookmark not defined.
1.1.2. Tiến trình thể thơ .......................................... Error! Bookmark not defined.
1.2. Khái lược về thơ lục bát của Nguyễn Bính và Tố Hữu .....Error! Bookmark not
defined.
1.2.1. Cái nhìn khái quát về thơ lục bát Nguyễn Bính ..........Error! Bookmark not
defined.
1.2.2. Cái nhìn khái quát về thơ lục bát Tố Hữu .... Error! Bookmark not defined.
CHƢƠNG II: ĐẶC ĐIỂM THƠ LỤC BÁT NGUYỄN BÍNH VÀ TỐ HỮU
PHƢƠNG DIỆN NỘI DUNG ......................................... Error! Bookmark not defined.
2.1. Tình yêu quê hương, đất nước ............................ Error! Bookmark not defined.
2.1.1. Truyền thống dân tộc ................................... Error! Bookmark not defined.
2.1.2 Cảnh sắc thiên nhiên ..................................... Error! Bookmark not defined.
2.1.3. Niềm tin, niềm hi vọng vào tương lai đất nước. ..........Error! Bookmark not
defined.
2.2. Tình yêu lứa đôi .................................................. Error! Bookmark not defined.
2.2.1. Tình yêu chân phác, giản dị. ........................ Error! Bookmark not defined.

2.2.2.Tình yêu đậm chất thế sự .............................. Error! Bookmark not defined.
2.3. Tình yêu cách mạng ............................................ Error! Bookmark not defined.
2.3.1. Hiện thực khốc liệt của chiến tranh.............. Error! Bookmark not defined.
5


2.3.2. Hình ảnh những con người cách mạng ........ Error! Bookmark not defined.
CHƢƠNG III: ĐẶC ĐIỂM THƠ LỤC BÁT NGUYỄN BÍNH VÀ TỐ HỮU
PHƢƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT................................... Error! Bookmark not defined.
3.1. Cấu trúc bài thơ, khổ thơ, câu thơ ....................... Error! Bookmark not defined.
3.1.1. Cấu trúc bài thơ, khổ thơ, câu thơ trong thơ lục bát Nguyễn Bính ...... Error!
Bookmark not defined.
3.1.2.Cấu trúc bài thơ, khổ thơ, câu thơ trong thơ lục bát Tố Hữu ................ Error!
Bookmark not defined.
3.2. Ngôn ngữ ............................................................ Error! Bookmark not defined.
3.2.1. Ngôn ngữ trong thơ lục bát Nguyễn Bính .... Error! Bookmark not defined.
3.2.2. Ngôn ngữ trong thơ lục bát Tố Hữu ............. Error! Bookmark not defined.
3.3. Giọng điệu ........................................................... Error! Bookmark not defined.
3.3.1.Giọng điệu trong thơ lục bát Nguyễn Bính ... Error! Bookmark not defined.
3.3.2.Giọng điệu thơ lục bát Tố Hữu ..................... Error! Bookmark not defined.
KẾT LUẬN....................................................................... Error! Bookmark not defined.
TÀI LIỆU THAM KHẢO

6


PHẦN MỞ ĐẦU
1.LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Từ xưa tới nay thơ ca luôn chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng trong đời sống
tinh thần của con người. Nó nảy sinh từ rất sớm, có thể là những bài niệm chú của thầy

mo, thầy cúng, là lời cầu nguyện tốt lành cho mùa màng bội thu, là bài hát trong cuộc
sống lao động vất vả của người nông dân, là lời đối đáp tình tứ của trai gái trao
duyên…Cho tới sau này, trong văn học viết, nó chính là những tác phẩm trữ tình - nơi
dung hòa và kết hợp tiếng nói của con tim, của trí tưởng tượng phong phú và chất thơ
của cuộc đời. Thơ gắn liền với chiều sâu tâm hồn, với thế giới nội tâm sâu kín của con
người. Thơ có lúc là tiếng nói của tình cảm “chảy tràn trên những dòng cảm xúc”. Lê
Quý Đôn cho rằng: “Thơ phát khởi từ trong lòng người ta”. Đuy Belay nhận xét: “Thơ
là người thư kí trung thành của trái tim”. M.Gorki thì cho rằng: “Thơ trước hết phải
mang tính chất tình cảm”. Đúng thế, nó là nơi mọi cung bậc cảm xúc của con người
được phát khởi: yêu, ghét, giận hờn, nhớ nhung, lo lắng, hờn trách, tủi giận, căm hờn,
say mê hay đau khổ… Thơ chính là nơi con người giãi bày, thể hiện cảm xúc, là nơi
con người khao khát và ước nguyện và cũng là nơi con người chiêm nghiệm, suy
ngẫm về cuộc đời. Thơ không chỉ nói lên tình cảm của riêng nhà thơ mà thông qua đó
nói lên niềm hi vọng của dân tộc, ước mơ của nhân dân, nhịp đập của trái tim quần
chúng và xu thế của lịch sử loài người như nhà thơ Sóng Hồng đã viết: “Thơ là sự thể
hiện con người và thời đại một cách cao đẹp”. Tuy nhiên thơ không chỉ là tiếng nói
của tình cảm mãnh liệt mà có lúc thơ mang những hạt nhân lí tính, là tiếng nói của lí
trí. Chính vì thơ là sự kết hợp nhuẫn nhuyễn giữa lí trí và tình cảm nên thơ cao quý và
tinh vi: “nó là một thông báo thẩm mĩ trong đó kết hợp 4 yếu tố: ý, tình, hình , nhạc”
(Mã Giang Lân).
Thơ lục bát là thể thơ truyền thống của dân tộc Việt Nam, “nó xuất hiện cách
đây khoảng hơn 500 năm, có vai trò đặc biệt qua trọng trong việc thỏa mãn nhu cầu
sáng tác của nghệ sĩ cũng như nhu cầu thưởng thức của quần chúng nhân dân”. Được
hình thành từ điều kiện văn hóa dân tộc, vượt qua mọi khoảng cách của thời gian,
không gian, sự sàng lọc trong văn hóa- văn học, lục bát như thứ “vàng mười” vẫn tồn

7


tại để minh chứng cho sự bất diệt, trường tồn của mình. Nó biểu tượng cho tiếng Việt,

tâm hồn Việt, văn hóa Việt. Từ những câu ca dao ngọt ngào, tha thiết, mộc mạc cho
đến Truyện Kiều, đến các nhà thơ hiện đại và đương đại lục bát vẫn tồn tại và khẳng
định được vị trí của mình trong nền văn học luôn luôn vận động và biến đổi không
ngừng để phù hợp với nhu cầu thẩm mĩ của con người. Nó không chỉ là hồn của đất
nước, hơi thở của thời đại, bóng dáng của lịch sử mà sâu xa hơn nó chính là linh hồn
của con người, đời sống của người Việt. Nó lay động và cuốn hút con người bởi nó
chính là họ, là chính tâm hồn, hình bóng của họ.
Để thỏa mãn nhu cầu thẩm mĩ của con người, đặc biệt trong cái nhìn “khó tính”
của người hiện đại, văn học nói chung, thơ ca nói riêng phải thay đổi cho kịp quá trình
vận động. Thơ lục bát tự mình đổi mới để hoàn thiện cả về nội dung lẫn hình thức biểu
hiện. Vừa kế thừa truyền thống, vừa tiếp thu sáng tạo tinh hoa văn hóa Đông Tây. Thơ
lục bát mới mẻ bởi nó đan xen giữa cổ điển với hiện đại, giữa mộc mạc của dân gian
với uyên thâm của bác học, giữa say đắm của tình cảm với tỉnh táo của lí trí, trí tuệ. Vì
vậy nó không chỉ khẳng định được vị trí của mình trong cái bộn bề của các thể thơ
(một chữ, hai chữ, ba chữ, bốn chữ, năm chữ, sáu chữ, bảy chữ, tám chữ, thơ đường
luật, thơ lục bát, thơ song thất lục bát, thơ tự do,…) mà nó ngày càng độc đáo, hấp dẫn
và cuốn hút bạn đọc. Tuy nhiên việc làm thơ lục bát không phải là một công việc đơn
giản: “Lục bát là thể thơ ngỡ như dễ làm, ai cũng làm được nhưng để đạt tới hay thì
khó thay nếu không nói là khó nhất”. (Nguyễn Quang Sáng), khó hơn các thể loại thơ
khác vì nó là thể thơ nôm na, cổ truyền, đặc trưng Việt Nam. “Người Việt Nam vị
tình, thơ lục bát cũng vị tình”. Nó mộc mạc giản dị như cái chân chất trong lối sống,
nếp nghĩ của người nông dân. Vì vậy người làm thơ lục bát nếu dụng công quá, “khôn
chữ quá” thì không hay bởi nó thiếu tự nhiên, nó bị gò ép trong cái khuôn âm luật chật
hẹp nhưng đồng thời nếu dễ dãi quá nó cũng “dễ tuồn tuột trở thành một bài thơ
thường” (Đinh Nam Khương). Cho nên không phải ai cũng thành công, những người
đến với thể thơ này phải là những người thật sự có tài năng và bản lĩnh, những người
“có duyên”, những người “chịu ân huệ của đất trời”. Trong hàng triệu người làm thơ
mới có một vài người xuất sắc. Thành công với thể lục bát, ta có thể kể đến các tác giả
tiêu biểu trong suốt quá trình phát triển của văn học Việt Nam từ trung đại, cận đại cho


8


tới hiện đại và đương đại như: Nguyễn Du, Tản Đà, Trần Tuấn Khải, Nguyễn Bính, Tố
Hữu, Nguyễn Duy.... Và trong luận văn này, tôi tập trung tìm hiểu, nghiên cứu về thơ
lục bát của hai nhà thơ: Nguyễn Bính và Tố Hữu-hai nhà thơ lớn đại diện cho hai
phong trào thơ lãng mạn và thơ cách mạng của nền văn học Việt Nam hiện đại.
Nguyễn Bính được mệnh danh là “nhà thơ của đồng quê, chân quê và hồn quê”- một
trong những gương mặt tiêu biểu của dòng thơ lãng mạn, và Tố Hữu- nhà thơ của cách
mạng, sống và thuỷ chung son sắt với lý tưởng cách mạng . Nguyễn Bính lôi cuốn
người đọc không phải ở việc sử dụng ngôn ngữ thơ mới lạ, độc đáo, mà chính ở cái
“hồn”, cái chân quê, cái dân dã, mộc mạc. Tố Hữu đi sâu vào lòng người bởi tình yêu
dành cho quê hương, đất nước sâu nặng của người chiến sĩ cách mạng. Sự khác nhau
trong nghiệp văn của họ chính là do sự ảnh hưởng của hoàn cảnh. Hai ông sống trong
hai thời kì lịch sử khác nhau, có thể coi là nối tiếp nhau, đã chi phối đến nhận thức, tư
tưởng, quan điểm, điều đó được thể hiện rõ trong thơ của hai ông. Nguyễn Bính và Tố
Hữu đã trở thành hai hiện tượng lớn của nghệ thuật thơ ca thu hút được hầu hết các
nhà nghiên cứu, phê bình có tên tuổi như: Đặng Thai Mai, Hoài Thanh, Hà Minh Đức,
Lê Đình Kỵ, Nguyễn Đăng Mạnh và các nhà văn, nhà thơ nổi tiếng như Chế Lan Viên,
Hoàng Trung Thông, Nguyễn Đình Thi ... Tuy xuất phát từ những yêu cầu mục đích
khác nhau, những khía cạnh nghiên cứu khác nhau thì những nhận xét, đánh giá của
các nhà nghiên cứu, phê bình đều có sự thống nhất với nhau và hoàn toàn có cơ sở
thực tế. Như bao dòng sông cùng chảy về biển cả, như bao người cùng giải một bài
toán và tìm về một đáp số…Song từ thực tế sáng tác của hai nhà thơ, việc khái quát
đặc điểm thơ lục bát, nhất là những đặc điểm có ý nghĩa phân biệt thơ lục bát Nguyễn
Bính với thơ lục bát Tố Hữu, và vai trò góp phần vào sự phát triển của thể lục bát cũng
như nền thơ ca dân tộc thì chưa có công trình nghiên cứu cụ thể nào.
Hơn thế nữa, hai tác giả này cũng như một số sáng tác của họ đều được đưa vào
chương trình giảng dạy trong các bậc học, đặc biệt là thơ lục bát với một số bài tiêu
biểu như: Việt Bắc, Kính gửi cụ Nguyễn Du, Khi con tu hú (Tố Hữu), Tương tư

(Nguyễn Bính)… Việc đưa các tác phẩm này vào trong nhà trường giảng dạy đã
chứng tỏ chúng có một giá trị nhất định.

9


Ở mặt lý luận thì vậy song ở trong thực tế ta cũng không thể phủ nhận, thơ lục
bát của hai nhà thơ đã đi vào trong cuộc sống hàng ngày của con người, với người
dân, nó “vô tình” mà trở thành những câu hát dân gian, đâu đó vào một trưa hay
một tối, một xóm nhỏ hay một ngõ nhỏ, làng quê hay ở khu phố, ta vẫn nghe thấy
tiếng bà ru cháu, tiếng chị nựng em,…– họ vẫn hát, vẫn ru, vẫn nựng bằng những
câu thơ, dòng thơ lục bát của hai nhà thơ này. Nhà thơ đã thả hồn mình, tâm mình,
lời mình vào nhân dân và cuộc sống, khắc sâu vào trong “ký ức văn hóa của đồng
bào”. Họ cũng như thơ họ sống mãi trong lòng người dân nước Việt và trên từng
mảnh đất của người Việt.
Vì tất cả những lí do trên chúng tôi quyết định chọn đề tài: “Đặc điểm thơ lục
bát Nguyễn Bính và Tố Hữu” để làm luận văn tốt nghiệp.
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
Thơ lục bát là thể thơ thuần Việt, nó gần gũi và quen thuộc với người dân Việt.
Trở về với thể lục bát là trở về với cội nguồn, trở về với dòng trữ tình dân gian. Từ ca
dao đến Truyện Kiều của Nguyễn Du rồi đến thơ hiện đại với các tên tuổi: Tản Đà,
Trần Tuấn Khải, Nguyễn Bính, Huy Cận, Tố Hữu, Bùi Giáng, Nguyễn Duy, …thơ lục
bát là mạch nguồn xuyên suốt thể hiện được tâm thức của dân tộc và thời đại. Việc
nghiên cứu thể thơ này là một công việc khoa học nghiêm túc, là chìa khóa để giải mã
dòng thơ mang âm hưởng dân gian. Từ trước tới nay có rất nhiều công trình nghiên
cứu về thể thơ này, các tác giả đề cập trên nhiều khía cạnh, nhiều góc độ, nhiều
phương diện: nguồn gốc, cấu trúc, chức năng, âm luật, thể tài,…
Về nguồn gốc của thể lục bát có nhiều nhà nghiên cứu đã tìm hiểu và đưa ra
nhiều ý kiến khác nhau.Ví dụ các công trình nghiên cứu của: Chu Xuân Diên, Phan
Diễm Phương, Nguyễn Xuân Kính, Nguyễn Xuân Đức,… Các nghiên cứu của họ đều

gặp nhau ở một điểm là: Lục bát là thể thơ truyền thống của dân tộc Việt Nam, không
chịu ảnh hưởng của những yếu tố ngoại lai, nó xuất hiện sớm nhất vào thế kỷ XV
trong văn học viết… Trong bài nghiên cứu của Chu Xuân Diên (Tục ngữ Việt Nam),
Nguyễn Xuân Đức (Đi tìm nguồn gốc thể loại lục bát Việt Nam)… cho rằng thể lục
bát có dấu vết của ca dao, tục ngữ, thành ngữ. Trong nghiên cứu của Phan Thị Diễm

10


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lại Nguyên Ân, Từ Điển văn học (Từ nguồn gốc đến thế kỉ XIX), NXB Giáo
dục, 1999.
2. Nguyễn Bao, Tuyển tập Tố Hữu - thơ, NXB Văn học, H, 1990.
3. Phạm Thùy Dương, Khảo sát việc sử dụng từ ngữ địa phương trong thơ Tố Hữu,
Luận văn cao học, Đại học sư phạm Thái Nguyên, 2008.
4. Nguyễn Thị Đào, Bằng trắc lục bát của Tố Hữu, Khóa luận tốt nghiệp Đại học
Vinh, 2004.
5. Phan Cự Đệ, Hà Văn Đức, Nguyễn Hoành Khung, Văn học Việt Nam 1930-1945,
NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp, H, 1986.
6. Hà Minh Đức, Lý luận văn học, NXBGD, 2007.
7. Hà Minh Đức, Tuyển tập Tố Hữu – Thơ, NXB Giáo dục, H, 1994.
8. Hà Minh Đức, Bùi Văn Nguyên, Thơ ca Việt Nam- hình thức và thể loại, NXB
Khoa học xã hội, H, 1968.
9. Hà Minh Đức, Đoàn Đức Phương, Nguyễn Bính về tác gia và tác phẩm, NXB Giáo
dục, H, 2001.
10. Nguyễn Xuân Đức, Đi tìm nguồn gốc thể lục bát - Tạp chí Văn học số 6 - 2004.
11. Nguyễn Xuân Đức, Về thể thơ lục bát trong ca dao - Tạp chí Văn học số 2 - 2002.
12. Nhiều tác giả, Tuyển tập Nguyễn Bính, NXB Văn học, H, 1986.
13. Lê Bá Hán, Nguyễn Khắc Phi, Trần Đình Sử, Từ điển thuật ngữ văn học, NXB Đại
học Quốc gia, H, 1997.

14. Mai Hương, Nguyễn Văn Long, Vân Trang, Tố Hữu- thơ và cách mạng, NXB Hội
nhà văn, H, 1996.
15. Mai Hương, Phong Lan, Tố Hữu về tác gia và tác phẩm, NXB Giáo dục, 2007
16. Tố Hữu, Ta với ta, NXB Văn học, H, 2000.


17. Nguyễn Xuân Kính, Thi pháp ca dao, NXB Đại học Quốc gia, H, 2004.
18. Lê Đình Kỵ, Thơ Tố Hữu(chuyên luận), NXB Đại học và Trung học chuyên
nghiệp, H, 1979.
19. Đinh Trọng Lạc, Nguyễn Thái Hòa, Phong cách học Tiếng Việt, NXB Giáo
dục, 1995.
20. Phương Lựu, Lý luận văn học, NXB Giáo dục, 1997.
21. Nguyễn Đăng Mạnh, Dẫn luận nghiên cứu tác giả văn học, NXB Đại học sư
phạm, H, 1983.
22. Nguyễn Đăng Mạnh, Lịch sử văn học Việt Nam- Tập III, NXB Đại học sư phạm,
H, 2004.
23. Mã Giang Lân, Thơ hình thành và tiếp nhận, NXB Đại học Quốc gia, H, 2004.
24. Mã Giang Lân, Tiến trình thơ hiện đại Việt Nam, NXB Giáo dục, 2000.
25. Mã Giang Lân, Văn học hiện đại Việt Nam vấn đề -tác giả, NXB Giáo dục , 2005.
26. Lê Chí Quế, Văn học dân gian Việt Nam, NXB Đại học và Trung học chuyên
nghiệp, H, 1990.
27. Trần Đình Sử, Thi pháp thơ Tố Hữu, NXB Thông tin, HN, 2005.
28. Trần Đình Sử, Tính dân tộc hiện đại của ngôn từ thơ Tố Hữu, Báo Văn nghệ, ngày
7/9/1985.
29. Hoài Thanh, Hoài Chân, Thi nhân Việt Nam, NXB Văn học, H, 2006.
30. Nguyễn Bá Thành, Tư duy thơ hiện đại Việt Nam, NXB Đại học Quốc gia, H, 1995.
31. Nguyễn Trung Thu, Nhạc điệu thơ Tố Hữu, , Tạp chí Văn học, 1968, số 6 (tháng 6
năm 1968).
32. Phạm Minh Thúy, Nhịp trong thơ lục bát của Tố Hữu, Luận văn cao học, Đại học
sư phạm Hà Nội, 1982.

33. Trần Văn Trọng, Đặc điểm thơ lục bát Nguyễn Bính, Luận văn cao học, Đại học
KHXH và NV, H, 2013.


34. Nguyễn Phú Trọng, Phong vị dân ca ca dao trong thơ Tố Hữu, Tạp chí Văn học,
1968, số 11(tháng 11 năm 1968).
35. Chế Lan Viên, Tổ quốc Việt Nam, con người Việt Nam trong thơ Tố Hữu, Báo
Nhân dân, ngày 15/5/1968.
36. Vũ Thanh Việt, Thơ Nguyễn Bính- những lời bình, NXB Văn hóa Thông tin,
H, 1999.
37. Trần Ngọc Vương, Văn học Việt Nam thế kỷ X - XIX( Những vấn đề lý luận và lịch
sử), NXB Giáo dục, 2006.
38. Viện Văn học, Nhà thơ Việt Nam hiện đại, NXB Khoa học xã hội, H, 1984.
39. Hoàng Xuân, Nguyễn Bính - Thơ và đời, NXB Văn học, H, 1984.
40. Trần Đăng Xuyền, Giảng văn văn học Việt Nam, NXB Giáo dục, 1997.



×