Tải bản đầy đủ (.docx) (106 trang)

Luận văn truyền kỳ tân phả của đoàn thị điểm từ góc nhìn thi pháp tự sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (482.52 KB, 106 trang )

Bộ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC sư PHẠM HÀ NỘI 2

ĐINH THỊ HƯƠNG

TRUYỀN KỲ TÂN PHẢ CỦA ĐOÀN THỊ ĐIỂM
TỪ GÓC NHÌN THI PHÁP Tự sự

Chuyên ngành: Lí luận văn học
Mã số: 60 22 oi 20

LUẬN VĂN THẠC sĩ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Phạm Thành Hưng

HÀ NỘI, 2016


Trước khỉ trình bày nội dung chính của luận văn. Tôi xỉn bày tỏ lòng cảm ơn
sâu sắc tới PGS. TS Phạm Thành Hưng - người thầy đã trực tiếp dành nhiều thời gian
và tâm huyết tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu để hoàn
thành Luận văn.
Tôi xỉn bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới Ban giám hiệu cùng các thầy cô
giáo và phòng đào tạo sau Đại học trường Đại học Sư phạm Hà Nội II. Các thầy cô
đã nhiệt tình giảng dạy, truyền thụ tri thức cho chúng tôi trong suốt thời gian học tập
và nghiên cứu tại lớp Cao học Lí luận văn học KI 8, đồng thời cũng đã tạo mọi điều
kiện thuận lợi để tôi hoàn thành tốt Luận văn Thạc sĩ tại trường.
Cuối cùng, tôi xỉn được cảm ơn gia đình, bạn bè - những người đã luôn ở bên
quan tâm, giúp đỡ, khích lệ tôi học tập và hoàn thành tốt Luận văn này.
Tôi xỉn chân thành cảm ơn!



Hà Nội, ngày tháng năm 2016
Tác giả

Đinh Thị Hương
Dưới sự hướng dẫn của thầy PGS. TS. Phạm Thành Hưng, luận văn Thạc sĩ


chuyên ngành lí luận văn học với đề tài “Truyền kỳ tân phả của Đoàn Thị Điểm từ
góc nhìn thi pháp tự sự” được hoàn thành bởi chinh sự nhận thức của bản thân tôi,
không trùng với bất cứ luận văn nào khác.
Trong khỉ nghiên cứu và hoàn thành luận văn, tôi đã kế thừa những thành tựu
của các nhà khoa học đi trước với sự trân trọng và biết om!

Hà Nội, ngày tháng năm 2016
Tác giả

Đinh Thị Hưomg


MỤC LỤC


5
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Văn học trung đại Việt Nam là một di sản văn hóa tinh thần to lớn, có ý nghĩa
nền tảng cho sự xây dựng và phát triển văn hóa hiện đại của dân tộc. Chúng ta đang kế
thừa một di sản thi ca đồ sộ và phong phú với truyền thống nghệ thuật trữ tình mạnh
mẽ hom truyền thống tự sự. Quan niệm mỹ học “văn dĩ tải đạo” và quan niệm “thi

ngôn chí” đã níu kéo và giới hạn các nhà nho Việt Nam chậm đến với các thể loại văn
xuôi tự sự. Tuy vậy, thế kỷ XIV chúng ta đã có Việt điện u lỉnh, cuối thế kỷ XV đã có
Lĩnh nam chích quái, rồi làn lượt tới Thiền uyển tập anh, Truyền kỳ mạn lục, Thánh
tông di thảo, Hoàng Lê nhất thống chỉ.. .bên cạnh các truyện nôm khuyết danh. Như
vậy, ở mỗi thể loại, qua các thời kỳ phát triển văn học trung đại Việt Nam luôn gắn với
sự xuất hiện của các tác giả và tác phẩm xuất sắc. Tác phẩm Truyền kỳ tân phả (còn có
tên gọi ỉầ“Tục truyền kỳ”) của Đoàn Thị Điểm viết bằng chữ Hán là truyện kể về cuộc
đời, thời thế, con người, tuy xuất hiện sau Truyền kỳ mạn lục gàn hai thế kỷ nhưng vẫn
như một viên ngọc quý trong kho tàng văn chương tự sự Việt Nam. Gắn liền với âm
hưởng trữ tình của tác phẩm đồng tác giả Chinh phụ ngâm, “Truyền kỳ tân phả đã trở
thành thứ vật dẫn biểu hiện cho việc đề cao nữ quyền”, [79].
Đoàn Thị Điểm sống gần trọn nửa đàu thế kỷ XVIII. Đây là một giai đoạn lịch
sử hết sức phức tạp: loạn lạc, đói rét, chia ly - tất cả những điều đó điều đó đã tác động
sâu sắc đến cuộc sống riêng của nữ sĩ. Thêm gánh nặng gia đình, hạnh phúc của nữ sỹ
cũng thêm phàn ngắn ngủi. Chịu ảnh hưởng của thời đại, của hoàn cảnh riêng bản thân
và với một khả năng tài văn xuất sắc, Đoàn Thị Điểm đã sáng tác Truyền kỳ tân phả có
giá trị về mặt nội dung và hình thức nghệ thuật.
Truyền kỳ tân phả được viết dựa vào các nguyên mẫu nhân vật ừong cuộc đời,
các mô tip văn học và cả từ ký ức tín ngưỡng dân gian. Bằng việc lựa chọn đề tài, chủ
đề, xây dựng hình tượng, cốt truyện, việc sử dụng các đặc trưng của thi pháp văn học


6
trung đại về hệ thống mô típ, hệ thống hình ảnh ước lệ thẩm mỹ và các điển cố, tác giả
Đoàn Thị Điểm đã tạo nên tính mới lạ trong quan niệm về con người được thể hiện
qua người kể và ngôn ngữ.
Các truyện ừong Truyền kỳ tân phả đều là những câu chuyện về cuộc đời, về
con người trong buổi xế chiều của xã hội phong kiến Việt Nam, được biểu hiện dưới
màu sắc hoang đường, quái đản. Truyền kỳ tân phả có nhiều ưu điểm trong việc phản
ánh thực trạng thối nát của xã hội phong kiến đưorng thời. Tuy nhiên, tác giả cũng

không tránh khỏi những mâu thuẫn quen thuộc của các nhà văn thời đó. Đó là sự mâu
thuẫn trong lập trường phê phán của mình, cũng như trong cách quan niệm về một xã
hội lý tưởng.
Bàn về nghệ thuật của Truyền kỳ tân phả, Phan Huy Chú trong Lịch triều hiến
chương loại chí, có viết: “lời văn hoa lệ, nhưng khi cách yầi ớt, không bằng văn
Nguyễn Dữ”, [25, tr.149]. Tuy nhiên, nhìn chung đây vẫn là một tác phẩm văn xuôi tự
sự bước đàu mang nhiều yếu tố phôi thai của trào lưu nhân đạo chủ nghĩa trong văn
học Việt Nam thế kỷ XVIII.
Thuật ngữ poetika, theo viện sĩ M. Khrapchenco, “thi pháp là hệ thống nguyên
tắc sáng tạo của một tác giả, một trường phái hay cả một thời đại văn học, tức là
những gì mà bất cứ nhà văn nào cũng sáng tạo ra cho mình, bất kể là cỏ ỷ thức tự
giác hay không”. Nói cách khác thi pháp là cách cấu tạo tác phẩm và sử dụng hệ thống
các phưorng tiện thẩm mỹ. Thỉ Pháp học là một danh từ mới nhưng không xa lạ. Đó là
tên gọi một bộ môn cổ xưa nhất nhưng đồng thời cũng là bộ môn hiện đại nhất của
nghiên cứu văn học.
Thi pháp tự sự là cách thức nhà văn - người kể sử dụng các thủ pháp nghệ
thuật, phưomg thức, kỹ thuật trong tác phẩm.
Trên cơ sở những tài liệu đã thu thập từ nhiều nguồn khác nhau, chúng tôi đã
có cái nhìn khái quát về thi pháp tự sự trong truyện Truyền kỳ tân phả của Đoàn Thị
Điểm. Việc tìm đọc và khai thác tài liệu có liên quan đến vấn đề đã giúp chúng tôi có


7
những gợi mở để từ đó tiếp tục đi sâu nghiên cứu, phân tích và tìm hiểu đề tài đã lựa
chọn. Tuy nhiên, tìm hiểu “Truyền kỳ tân phả của Đoàn Thị Điểm từ góc nhìn thi
pháp tự sự” là một đề tài mới. Đây là một khó khăn cho chúng tôi trong quá trì nh
nghiên cứu và tìm hiểu tác phẩm này. Dù còn nhiều thiếu sót, song chúng tôi hy vọng
qua luận văn này có thể góp thêm một góc nhìn mới, toàn diện hơn về tác phẩm
Truyền kỳ tân phả của Đoàn Thị Điểm.
Xuất phát từ thực tế này, chúng tôi đã chọn đề tài: “Truyền kỳ tân phả của

Đoàn Thị Điểm từ góc nhìn thi pháp tự sự” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
Chúng tôi mong muốn vận dụng tự sự học - một lý thuyết hiện đại vào phân tích một
văn bản nghệ thuật thuộc phạm trù văn học cổ với hy vọng hiểu sâu hơn những thành
công hạn chế của tác phẩm, góp một phần nhỏ vào việc đánh giá chung, để cùng khẳng
định tài năng và những đóng góp của tác giả trong nền văn học Việt Nam.
2. Lịch sử nghiên cứu

2.1.

Các công trình nghiên cứu về tác giả Đoàn Thị Điểm
Đoàn Thị Điểm tên tự là Hồng Hà, có sách ghi là “Hồng Hà nữ sĩ” hay “Hồng

Hà phu nhân”, sinh năm 1705, tại làng Giai Phạm (nay thuộc huyện Mỹ Văn, tính
Hưng Yên), mất năm 1748, năm đó bà 44 tuổi.
Đoàn Thị Điểm được các nhà nghiên cứu đánh giá là “một thiểu phụ có danh
nhất trong làng văn ” Việt Nam. Trong 44 năm tuổi đời, nữ sĩ để lại hai tác phẩm:
Truyền kỳ tân phả và Chinh phụ ngâm khúc. Thế nhưng, tài liệu về Đoàn Thị Điểm
còn lại không nhiều. Trong kho thư tịch cổ Việt Nam cũng chỉ có đôi dòng về bà trong
Lịch trỉầi hiến chuơng loại chỉ, Tang thương ngẫu lục, Đại Nam hiển ứng truyện, Nam
thiên trân dị tập, Sơn cư tạp thuật, Hát Đông thư dị...
Sách Lịch sử văn học Việt Nam, tập III, Văn học viết, thời kỳ I - giai đoạn IV,
giữa thế kỷ XVIII - 1858, của các tác giả Lê Trí Viễn, Phan Côn, Đặng Thanh Lê, Phạm
Luận, Lê Hoài Nam, đã nhận xét về tác giả Đoàn Thị Điểm: “Đoàn Thị Điểm một phụ
nữ dòng dõi nho gia, cũng để nhân vật mình bào chữa thái độ bất chấp lễ giáo bằng


8
cách trách người đàn ông, người trượng phu không cần câu chấp lễ nghi lặt vặt”, [75,
tr.33 - 34].
Trong giáo trình Văn học Việt Nam (nửa cuối thể kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ

XIX), các tác giả Đặng Thanh Lê, Hoàng Hữu Yên, Phạm Luận, có giải thích sơ lược
về Đoàn Thị Điểm (1705 - 1748), bà có tên hiệu là Hồng Hà, quê ở làng Giai Phạm
(sau đổi là Hiến Phạm), trấn Kinh Bắc (nay thuộc tỉnh Hải Hưng). Tác phẩm chính viết
bằng chữ Hán còn để lại là tập Truyền kỳ tân phả [39, tr.50].
Trong giáo trình Văn học Việt Nam 0nửa cuối thể kỷ XVIII - hết thế kỷ XIX),
Nguyễn Lộc đã giới thiệu tóm tắt về tiểu sử và sự nghiệp văn chương của Đoàn Thị
Điểm. Nguyễn Lộc có khái quát so sánh giá trị nghệ thuật giữa Truyền kỳ tân phả của
Đoàn Thị Điểm, với truyện Truyền kỳ ừong văn học trung đại Việt Nam, nhất là truyện
Truyền kỳ của Nguyễn Dữ. Tác phẩm của Đoàn Thị Điểm, ngoài bản dịch Chinh phụ
ngâm còn có tập truyện Truyền kỳ tân phả, kể lại những truyện truyền kỳ, theo truyền
thống của Nguyễn Dữ. Phan Huy Chú khen Truyền kỳ tân phả (còn tên nữa là tục
Truyền kỳ là viết tiếp loại truyện Truyền kỳ của Nguyễn Dữ); Lời văn hoa mĩ, dồi dào
nhưng chê khí cách hoi yếu, không bằng Nguyễn Dữ, [38, tr.149].
Trong giáo trình Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, tập 2, Phạm Thế Ngũ,
viết tiểu sử Đoàn Thị Điểm rất tỉ mỉ. Tuy vậy Phạm Thế Ngũ chỉ nhắc đến Truyền kỳ
tân phả, tác phẩm văn xuôi của bà bằng một câu văn rất ngắn gọn và chỉ tập trung nói
về dịch phẩm Chinh phụ ngâm của bà; “Bình sinh, bà Đoàn hay làm văn làm thơ, lấy
hiệu là Hồng Hà nữ sĩ. Bà có soạn tập truyện Truyền kỳ tân phả bằng chữ Hán, về quốc
văn bà để lại bản dịch Chinh phụ ngâm của Đặng Tràn Côn”, [48, tr.194].
Trong giáo trình Văn học Việt Nam, (Từ thể kỷ X - thể kỷ XX), Nguyễn Phạm
Hùng giới thiệu sơ lược về Đoàn Thị Điểm, nhấn mạnh thành công bản dịch Chinh
phụ ngâm của bà, mà không hề đề cập đến Truyền kỳ tân phả, tác phẩm viết bằng chữ
Hán của Đoàn Thị Điểm, [30, tr.117].
Trong Tác gia văn học, Thăng long - Hà Nội, từ thế kỷ XI đến giữa thế kỷ XX,


9
của Tô Hoài, Nguyễn Vinh Phúc, Hoàng Ngọc Hà, Ngô Văn Phú, Phan Thị Thanh
Nhàn, các tác giả đã giới thiệu đầy đủ về tác giả Đoàn Thị Điểm, ngoài ra còn nhắc
đến tác phẩm Truyền kỳ tân phả. Bà hiệu là Hồng Hà nữ sĩ, là con của Đoàn Doãn

Nghi, về sáng tác, ngoài bản dịch Chinh phụ ngâm, Đoàn Thị Điểm còn là tác giả tập
truyện chữ Hán Truyền kỳ tân phả, chép những chuyện Truyền kỳ ở nước ta, (tiếp tục
công việc của Nguyễn Dữ trong Truyền kỳ mạn lục) và một ít thơ văn chữ Hán, chữ
Nôm chép ừong “Hồng Hà phu nhân di văn” mới được phát hiện gần đây, [28, tr.9192].
Qua các tài liệu, giáo trình nói trên, chúng tôi nhận thấy Đoàn Thị Điểm là một
nữ sĩ tài ba, được người đời sau chú ý, đề cao sự nghiệp văn học của bà, ngoài bản
dịch Chinh phụ ngâm rất nổi tiếng, thì không thể không kể đến tác phẩm văn xuôi chữ
Hán Truyền kỳ tân phả. Thực tế đó tạo điều kiện thuận lợi cho chúng tôi rất nhiều
trong việc thực hiện luận văn này.

2.2.

về tác phẩm Truyền kỳ tân phả
Đoàn Thị Điểm nổi tiếng văn thơ. Nhiều tác phẩm của bà còn lưu lại đến ngày

nay, trong đó có Truyền kỳ tân phả.
Một số nhà nghiên cứu cho rằng Tmyền kỳ tân phả còn có tên gọi là Tục
truyền kỳ. Theo Phan Huy Chú, Tục truyền kỳ do Đoàn Thị Điểm gồm sáu truyện:
Bích Câu kỳ ngộ, Hải khẩu linh từ lục, Vân Cát thần nữ, Hoành Sơn tiên cục, An Ấp
liệt nữ và Nghĩa khuyển khuất miêu. Nhưng sách ấy ngày nay không còn.
Bản dịch được sử dụng trong luận văn này do Ngô Lập Chi và Trần Văn Giáp
tuyển dịch gồm bốn truyện: Hải khẩu lỉnh từ lục, Vân Cát thần nữ lục, An Ấp liệt nữ
lục và Bích Câu kỳ ngộ, do Nhà xuất bản Giáo dục ấn hành năm 1963.
Ngoài ra có một số giáo trình, tài liệu có nghiên cứu và ghi chép lại về tác
phẩm truyền kỳ tân phả của Đoàn Thị Điểm:
Sách giáo trình: Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ XIX,
của Đặng Thanh Lê, Hoàng Hữu Yên, Phạm Luận, đã dành một số dòng ngắn gọn để


1

giới thiệu về Truyền kỳ tân phả, đồng thời gợi ý những vấn đề về tác phẩm này cần
nghiên cứu: “Tác phẩm chính viết bằng chữ Hán còn để lại, là tập Truyền kỳ tân phả.
Nay còn lưu lại bản in khắc năm 1811, của Lạc Thiện Đường. Sách gồm sáu truyện,
ghi rõ Hồng Hà Đoàn phu nhân làm. Điều đáng lưu ý là lời văn và ý tứ trong Truyền
kỳ tân phả và Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn có nhiều chỗ trùng hợp khá sít sao,
rõ nhất là trong truyện cùng đề tài người chinh phu, Truyện An ấp liệt nữ”, [39, tr.50 51].
Sách giáo trình: Vẫn học Việt Nam (nửa cuối thể kỷ XVIII - hết thể kỷ XIX),
Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội (1997) của Nguyễn Lộc ngoài việc nhận xét thể loại
của Truyền kỳ tân phả, còn trích dẫn lời khen của Phan Huy Chú về Truyền kỳ tân phả,
trong sự đối sánh với Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ: “Loại truyện Truyền kỳ sang
giai đoạn nửa cuối thế kỷ XVIII - nửa đàu thế kỷ XIX, còn tiếp tục với Truyền kỳ tân
phả của Đoàn Thị Điểm, Đoàn Thị Điểm có ý thức kế thừa truyền thống Nguyễn Dữ,
biểu hiện ngay ừong cách đặt tên tác phẩm của bà. Truyền kỳ tân phả còn có tên là Tục
Truyền kỳ. về phương diện nghệ thuật, Truyền kỳ tân phả không đuổi kịp Truyền kỳ
mạn lục, nhưng về phương diện nội dung thì Truyền kỳ tân phả là có phần gần với
cuộc sống, với con người”, [38, tr.25].
Trong cuốn chuyên khảo Mấy vẩn đề thi pháp văn học trung đại Việt Nam,
Tràn Đình Sử ở mục truyện Truyền kỳ, có giới thiệu và nhận xét về Truyền kỳ tân phả
của Đoàn Thị Điểm, song ông không hề nói đến tiểu sử của Đoàn Thị Điểm: “Truyền
kỳ tân phả đàu thế kỷ XVIII của Đoàn Thị Điểm cùng loại với truyện Truyền kỳ mạn
lục, nhưng rườm lời hơn, thơ ca thù tạc lại quá nhiều làm loãng thú truyện. Tuy vậy ta
không nên đánh giá thể loại này thuần túy từ góc độ truyện. Có thể xem đây như là
một thể loại truyện - thơ hợp thể, trong yếu tố truyện đóng vai trò sáng tạo tình huống
để tác giả thi thố tài thơ, và đặc điểm này phản ánh hứng thú và sinh hoạt văn thơ
đương thời của các văn sĩ”, [55, tr.356].
Sách Văn xuôi tự sự Việt Nam trung đại, tập 1, của Nguyễn Đăng Na, có giải


1
thích nhan đề tác phẩm Truyền kỳ tân phả. Nguyễn Đăng Na bằng cách so sánh một số

truyện như Đen thiêng cửa bể với bộ sử Đại Việt sử kỉ toàn thư, để thấy cốt lõi lịch sử
của câu chuyện và những cách tân của Đoàn Thị Điểm, [44, tr.32].
Sách Vãn học trung đại, dưới góc nhìn văn hóa, của tác giả Trần Nho Thìn, đã
nói về không gian, thời gian trong truyện Truyền kỳ và trong Truyền kỳ tân phả của
Đoàn Thị Điểm: Không gian, thời gian của loại truyện Truyền kỳ có yếu tố kỳ ảo, [69,
tr.183].
Sách Con đường giải mã văn học trung đại Việt Nam, của Nguyễn Đăng Na đã
nói về những mối tình say đắm và đau khổ của người phụ nữ trong Truyền kỳ tân phả:
“Một số tác giả chuyển sang miêu tả những mối tình đắm say, thà chết để được ở bên
nhau, còn hơn sống phải ly biệt, An Ấp liệt nữ, của Đoàn Thị Điểm là một ví dụ điển
hình. Các truyện ngắn thế kỷ XVIII - XIX ít khai thác những mâu thuẫn, dẫn đến bi
kịch khổ đau cho người phụ nữ hoặc cả hai. Họ thường viết về những mối tình tuy
đắm đuối, nhưng thiên về tình cảm thuần túy, chẳng hạn mối tình Tú Uyên, Giáng
Kiều, (Truyện Bích
Câu kỳ ngộ). Đinh Phu Nhân, An Ấp liệt nữ, Ca nữ họ Nguyễn, chàng lái đò họ
Nguyễn - con gái Trần Phú Ông (chuyện tình ở Thanh Trì)... Điều cần lưu ý là, dường
như các cô gái trong truyện ngắn thế kỷ XVIII - XIX đều chủ động tìm đến tình yêu và
đều hy sinh cho người mình yêu”, [46, tr.397 - 398]...
Nằm ữong số những tác phẩm văn xuôi chữ Hán, Truyền kỳ tân phả ít được
giới nghiên cứu Việt Nam quan tâm chú ý về phương diện nghệ thuật tự sự. Những
công trình nghiên cứu thật sự chuyên sâu, nghiêm túc về nó hầu như không có.

3. Mục đích nghiền cứu
Với đề tài “Truyền kỳ tân phả của Đoàn Thị Điểm dưới góc nhìn thi pháp tự
sự” chúng tôi cố gắng nhận diện tính hệ thống cùng tính khu biệt trong thi pháp kể
truyện của Đoàn Thị Điểm, đồng thời, cũng đánh giá được vai trò, chức năng của thi
pháp tự sự trong văn học. Bên cạnh đó, đề tài cũng là bước khởi đầu cho việc nghiên


1

cứu những nội dung của thi pháp tự sự như một cách thức mới mẻ để tư duy những
vấn đề khác nhau trong văn học.

4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu “Truyền kỳ tân phả của Đoàn Thị Điểm từ góc nhìn thỉ
pháp tự sự” nhằm chỉ ra những giá trị về mặt nội dung tư tưởng cũng như hình thức
nghệ thuật trong sáng tác của tác giả. Khẳng định tài năng, vị trí, những đóng góp tích
cực của tác giả đối với sự phát triển của nền văn học Việt Nam.

5. Đối tượng và phạm vỉ nghiên cứu
Luận văn tập trung tìm hiểu “Truyền kỳ tân phả của Đoàn Thị Điểm từ góc
nhìn thi pháp tự sự”.
Truyền kỳ tân phả của Đoàn Thị Điểm có rất nhiều văn bản. Thực hiện luận
văn này, chúng tôi căn cứ vào tác phẩm chính viết bằng chữ Hán, nhan đề Truyền kỳ
tân phả ký hiệu A.48 Thư viện khoa học nhà nước, nhà xuất bản
Lạc Thiện Đường in năm Gia Long thứ 10 (1811). Đồng thời, tiến hành phân tích và lí
giải những vấn đề trong tác phẩm Truyền kỳ tân phả của Đoàn Thị Điểm bao gồm 4
truyện: Hải khẩu lỉnh từ, Vân cát thần nữ, An ấp liệt nữ, Bích câu kỳ ngộ.
Do sự hạn chế về tri thức và thời gian, chúng tôi không thể khái quát lại toàn
bộ đặc điểm trong tác phẩm của Đoàn Thị Điểm, mà đi sâu vào lý giải trên cơ sở khoa
học, những đặc sắc nghệ thuật trong tác phẩm của Đoàn Thị Điểm, từ đó, tìm ra một
cách nhìn nhận mới mẻ hơn. Chúng tôi vẫn theo cách truyền thống khi tiến hành tìm
hiểu đối tượng, phân tích hai mặt nội dung là thể loại (kết cấu cốt truyện, nhân vật) và
các vấn đề về phương diện nghệ thuật là ngôn ngữ, người kể.
Ngoài ra, để thấy được những nét riêng đặc sắc của Đoàn Thị Điểm chúng tôi
còn khảo sát một số bài viết trên tạp chí, những bài luận văn thạc sỹ, những bài tham
luận bàn về sáng tác của bà ừên các diễn đàn văn học, báo điện tử... để hiểu thêm về
những giá trị nội dung cũng như hình thức nghệ thuật ừong sáng tác của tác giả.



1

6. Phương pháp nghiên cứu
Để triển khai đề tài này, chúng tôi vận dụng phối hợp các phương pháp nghiên
cứu sau:

-

Phương pháp loại hình: phương pháp này là để có các dẫn liệu có tính thuyết phục cao.
Qua khảo sát, thống kê sắp xếp các dẫn liệu, tổng họp thành những luận điểm lớn, tạo
cơ sở đáng tin cậy cho việc nghiên cứu.

-

Phương pháp hệ thống: nhằm nghiên cứu Truyền kỳ tân phả của Đoàn Thị Điểm trong
mối quan hệ với các thể loại văn học khác.

-

Phương pháp so sánh: việc so sánh Truyền kỳ tân phả của Đoàn Thị Điểm với các tác
phẩm truyền kỳ của các tác giả khác cũng góp phần làm sáng rõ hơn cho đề tài.

-

Phương pháp phân tích tổng hợp: qua phân tích các truyện trong Truyền kỳ tân phả của
Đoàn Thị Điểm, từ đó rút ra những nhận định mang tính khái quát nhất về thi pháp tự
sự

-


Phương pháp tiểu sử: tìm ra mối liên hệ giữa cuộc đời của Đoàn Thị Điểm với những
sáng tác của bà nhằm giải thích chính xác hơn những chi tiết nghệ thuật trong tác
phẩm cũng như trong toàn bộ sự nghiệp sáng tác của tác giả...vv

7. Cấu trúc của luân văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phần nội dung chính của luận
văn gồm 3 chương:
Chương 1: Quan niệm nghệ thuật về con ngưòi và thế giới của Đoàn Thị Điểm.
Chương 2: Người kể chuyện truyền kỳ.
Chương 3: Hệ thống môtip và điển cố trong Truyền kỳ tân phả.


PHẦN NÔI DUNG

CHƯƠNG 1
QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT
VÈ CON NGƯỜI VÀ THẾ GIỚI CỦA ĐOÀN THỊ ĐIỂM
Trong văn học, đặc biệt là trong văn xuôi tự sự, vấn đề quan niệm nghệ thuật
của nhà văn đóng vai trò đặc biệt quan ừọng. Hoạt động sáng tác, hoạt động kiến tạo
thế giới nghệ thuật của nhà văn đều có xuất phát điểm ở quan niệm của tác giả về thế
giới, về con người. Từ lâu, quan niệm nghệ thuật đã được xem như một phạm trù thi
pháp đầu tiên và cơ bản nhất trong thi pháp học. Không thể cắt nghĩa được những yếu
tố thi pháp cụ thể, hoặc các thủ pháp nghệ thuật của tác giả nếu không nắm bắt quan
niệm nghệ thuật của nhà văn. Do vậy, tìm hiểu thi pháp tự sự của Truyền kỳ tân phả
chỉ có thể bắt đàu từ quan niệm nghệ thuật của nữ sỹ Đoàn Thị Điểm.

1.1.
1.1.1.

Giói thuyết khái niệm

Thế giói nghệ thuật
Thế giới nghệ thuật là thành phẩm chỉnh thể tổng hợp trên cả hai phương diện

nội dung và hình thức của tác phẩm văn học. Văn bản ngôn từ xét từ một mặt, chỉ là
một biểu hiện của hình thức bề ngoài tác phẩm. Tác phẩm toàn vẹn xuất hiện như một
thế giới nghệ thuật.
Thế giới nghệ thuật là sản phẩm sáng tạo của con người, về mặt tâm lý học, nó
phục vụ từng quy luật sau: Con người sống trong thế giới khách thể, bốn chiều (ba
chiều không gian và một chiều thời gian), nó phải thích nghi với ba chiều không gian
và sự biến đổi của thời gian (chronotop). Mọi cảm xúc, tri giác đều gắn với thế giới đó,
không thể miêu tả sự sống mà không miêu tả thế giới của con người. Thế giới nghệ
thuật là sản phẩm sáng tạo mang tính cảm tính có thế cảm thấy được của nghệ sĩ, là
một kiểu tồn tại đặc thù, có trong chất liệu và ừong cảm nhận của người thưởng thức,
là sự thống nhất của mọi yếu tố, đa dạng trong tác phẩm. Thế giới nghệ thuật có cấu


trúc, có ý nghĩa riêng nó chịu sự chi phối của quan niệm nghệ thuật của tác giả về thế
giới như một quy luật tuyệt đối. Do có quy luật, nên thế giới nghệ thuật là một cấu tạo
hữu hạn, có tính ước lệ so với thế giới thực tại.
Đọc vào một tác phẩm văn học dù là thơ, kịch hay truyện, kí, ở mức độ cụ thể
khác nhau, ta đều có thể bắt gặp trước hết là lời kể, sự bộc bạch miêu tả, lời thoại, tiếp
đó là các chi tiết về con người, môi trường, hành động, với từng nhân vật, từng quan
hệ, mâu thuẫn, xung đột, nhận ra tính cách, số phận, nỗi niềm nhân vật, cuối cùng
nhận ra con người, cuộc đời, thế giới và ý nghĩa nhân sinh.
Trong thế giới nghệ thuật không chỉ có thế giới được miêu tả, mà còn có thế
giới miêu tả, thế giới của những người kể chuyện, của những nhân vật trữ tình.. .Bên
trong thế giới này lại có con người kể chuyện và con người trữ tình cần được tìm hiểu.

1.1.2.


Quan niệm nghệ thuật về con người và thế giới
M. Gorky từng nói “văn học là nhân học”. Nhà thơ Tố Hữu cũng từng quan

niệm “Con người chính là điểm xuất phát cũng là đích hướng đến của văn học Có thể
nói con người là tinh hoa của cuộc sống luôn được văn học hướng đến khám phá và
thể hiện. Trong bức tranh đa sắc màu của cuộc sống và văn chương, con người chính là
trung tâm của sự phản ánh và thể hiện. Viết về con người mỗi nhà văn có một quan
niệm nghệ thuật khác nhau. Quan niệm nghệ thuật về con người là một phương diện
thi pháp của tác phẩm. Trong giáo trình “Dan luận thỉ pháp học” GS. Trần Đình Sử
cho rằng: “Quan niệm nghệ thuật về con người chính là sự lý giải, cẳt nghĩa, sự cảm
thấy con người đã được hóa thân thành các nguyên tắc phương tiện, biện pháp thể
hiện con người trong văn học, tạo nên giá trị nghệ thuật và thẩm mỹ cho các hình
tượng nhân vật trong đỏ Là một phương diện quan ừọng của thi pháp học, quan niệm
nghệ thuật về con người không chỉ bộc lộ nghệ thuật thể hiện nhân vật trong tác phẩm
mà còn phản ánh chiều sâu cách cảm, cách nghĩ của nhà văn về con người về cuộc đời.
Do đó, nó là một yếu tố cơ bản và then chốt của một chỉnh thể nghệ thuật chi phối các
phương diện nghệ thuật khác của thi pháp và góp phàn tạo nên tính độc đáo trong cách


thể hiện tác phẩm. Vì vậy, thông qua quan niệm nghệ thuật về con người của nhà văn,
ta có thể hình dung đầy đủ tư tưởng nghệ thuật cũng như dấu ấn sáng tạo của nhà văn
ấy.
Quan niệm nghệ thuật về con người và thế giới là nguyên tắc cắt nghĩa thế giới
và con người vốn có của hình thức nghệ thuật, đảm bảo cho khả năng thể hiện đời
sống với một chiều sâu nào đó. Đây là tiêu chuẩn quan ừọng nhất để đánh giá, giá trị
nhân văn vốn có của văn học. Nhà văn là người suy nghĩ về con người đặt con người
trong một thế giới nghệ thuật, từ đó nêu ra những tư tưởng mới, khám phá nhiều quan
niệm nghệ thuật về con người.
Quan niệm nghệ thuật về con người và thế giới thể hiện ở điểm nhìn nghệ
thuật, ở chủ đề cảm nhận đời sống được hiểu như những hằng số tâm lý của chủ thể, ở

kiểu nhân vật và biến cố mà tác phẩm cung cấp, ở cách xử lý các biến cố và quan hệ
nhân vật. Quan niệm nghệ thuật về con người và thế giới chẳng những cung cấp một
điểm xuất phát để tìm hiểu nội dung của tác phẩm văn học cụ thể, mà còn cung cấp
một cơ sở để nghiên cứu sự phát triển tiến hoá của văn học.

1.2.

Quan niệm nghệ thuật về con người và thế gỉổi trong Truyền kỳ tân phả của

Đoàn Thị Điểm
Quan niệm nghệ thuật thường bộc lộ trực tiếp qua các phát ngôn lý thuyết,
những lời tự bạch hoặc tuyên ngôn nghệ thuật của nhà văn. Quan niệm nghệ thuật bộc
lộ cụ thể, sinh động nhất là qua hệ thống hình tượng của tác giả. Nhiều khi quan niệm
lý thuyết của nhà văn chỉ mang tính văn bản, hoặc chỉ dừng lại ở bình diện nhận thức
lý trí. Lịch sử văn học từng chứng kiến nhiều trường họp tự mâu thuẫn của nghệ sỹ:
mâu thuẫn giữa tuyên ngôn lý thuyết và thực tế sáng tác. Vì vậy các lời tự bạch, tuyên
bố của nhà văn không thể là bằng chứng duy nhất đáng tin cậy. Đi tìm bằng chứng về
quan niệm nghệ thuật của nhà văn không đâu tốt hơn là tìm ngay trong hệ thống hình
tượng nghệ thuật mà nhà văn xây dựng. Trong trường hợp hiếm hoi về tài liệu như
Đoàn Thị Điểm, chúng ta còn có thể dự đoán quan niệm nghệ thuật của bà qua thân thế


và hoàn cảnh sáng tác.

1.2.1.

Hoàn cảnh sáng tác và thân thế nữ sĩ
Đoàn Thị Điểm sinh ra tại xã Giai Phạm, huyện Văn Giang (trong tỉnh Hưng

Yên ngày nay) vào năm 1705, được nuôi lớn từ gia đình bên mẹ của bà noi xã Vu

Điện, nay thuộc huyện Nam Sang, tỉnh Nam Định. Cha của bà là ông Đoàn Doãn
Nghi, thi trượt kỳ thi hội tại tỉnh, trở về quê và mở một trường dạy học cùng hành nghề
thày thuốc. Trên bà Điểm có người anh trai là Đoàn Doãn Luân. Bất kể là con gái, bà
Điểm được theo học cùng người anh. Mười sáu tuổi, Đoàn Thị Điểm được một người
bạn của cha bà là Thượng thư Lê Anh Tuấn nhận làm con nuôi. Nhà của quan thượng
thư ở phường Bích Câu - sát kề Quốc tử giám, noi được coi là trung tâm văn hóa
đưomg thời với rất nhiều dinh thự lớn, ngày đêm dập dìu văn nhân tài tử. Ông cũng là
người sau đó muốn tiến cung bà vào phủ chúa Trịnh. Tuy nhiên, bà đã không đồng ý
với sự sắp xếp này và muốn quay về sống với cha mẹ hom.
Trong suốt quãng thời gian bà ở nhà ông Lê Anh Tuấn và ở tại gia đình của
chính mình, bà đã được tiếp xúc với các nhà trí thức đưomg đại. Bà là một thiếu nữ
xinh đẹp, có học thức cao, và nhiều người đàn ông muốn hỏi cưới bà, nhưng bà cưomg
quyết từ chối. Trong thâm tâm bà xem tất cả họ là không xứng với trình độ trí thức của
bà. Bà Đoàn Thị Điểm “thường hay thà rằng đừng lập gia đình hơn là phải kết hôn
với một người mà mình không lẩy làm yêu thương”. Vì không tìm được người xứng
đôi, bà sẵn sàng sống độc thân.
Năm 1729, khi ở tuổi hai mươi lăm, cha bà từ ừần. Không lâu sau đó, anh bà
cũng mất đi, để lại cho bà trách nhiệm trông nom hai đứa con của người anh cùng
người chị dâu đau ốm nặng. Bà đã hành nghề thày thuốc và dạy học để giúp đỡ gia
đình người anh và nuôi mẹ già, nhưng bà vẫn tiếp tục việc học của mình, về sau, bà
còn nhận lời dạy học trong phủ Chúa Trịnh. Chắc hẳn, đây là khoảng thời gian mà bà
đã tận mắt thấy những cảnh phồn hoa, tai đã nghe những chuyện thâm cung bí sử, cho
đến cả những cuộc thanh trừng thảm khốc mà chính những người quen thân của bà
từng là nạn nhân (Thượng thư Lê Anh Tuấn, Thượng thư Nguyễn Công Hãng đều vì bị


nghi ngờ chống lại việc Trịnh Giang lên ngôi mà bị cách chức, sau bị bắt uống thuốc
độc chết). Nhưng chỉ sau một thời gian, bà lại quay ừở về quê và mở một trường dạy
học. Rời phủ chúa có lẽ vào những năm đầy biến động, quê nhà và các vùng lân cận
đều đã bị tàn phá vì loạn lạc, Đoàn Thị Điểm khi ấy 35 tuổi đã đưa cả gia đình đến

lánh nạn và mở trường dạy học ở Chương Dương (nay thuộc Thường Tín - Hà Nội).
Có thể nói, Thăng Long chưa lúc nào tách khỏi cuộc đời Đoàn Thị Điểm, kể cả
khi bà đã quyết rửa sạch lòng trần, yên phận với nghề dạy học và bốc thuốc thì tiếng
tăm về tài sắc của bà đã khiến các danh sĩ Hà thành ưong đó có Đặng Trần Côn, có
“Trường An tứ hổ”... không để bà được yên. Lại một lần nữa bén duyên với mảnh đất
Thăng Long khi bà ưng thuận lời cưới hỏi của ông Nguyễn Kiều người làng Phú Xá
(Phú Thượng - Tây Hồ ngày nay), một học giả quan chức, là người mà bà đã tìm thấy
một sự tâm đắc về mặt trí thức. Bà kết duyên với ông vào lúc đã ba mươi bẩy tuổi.
Hơn một tháng sau khi cưới và liền kề sau đó là ba năm bà chờ chồng đi sứ Trung Hoa
để chu toàn công vụ, tiếp nữa là ba năm hạnh phúc ngắn ngủi ở quê chồng. Sau khi trở
về, ông được bổ nhiệm làm việc tại tỉnh Nghệ An, và bà Điểm đã đi theo chồng. Bà đã
mất tại đó, không có con, vào năm 1748 khi bà được bốn mươi bốn tuổi.
Bà Đoàn Thị Điểm viết Vân Cát Thần Nữ Truyện vào thập niên 1730, khi dạy
học tại quê nhà của bà trước khi lấy chồng. Truyện này được gộp trong một tuyển tập
của bà có nhan đề là Truyền Kỳ Tân Phả. Bà đã viết ở một thời điểm khi mà văn
chương Việt Nam tiến vào một giai đoạn phát triển mới. Có nhiều văn gia tự do, có
học thức hon, một số người thuộc các gia đình nghèo khó, là những người không có
chức vụ trong chính quyền và, giống như thân phụ của bà Điểm, kiếm sống bằng việc
hành nghề thày thuốc và dạy học. Những văn gia - hàn nho này đã tạo ra một môi
trường trí thức cởi mở, đối chọi với ý thức hệ Khổng học. Tiếp xúc với họ, bà biết là
họ đã viết với sự quan tâm lớn lao về cuộc sống của cá nhân và của cả cộng đồng dân
tộc trong một thời đại biến động, thăng ừầm. Họ đã vay mượn cốt truyện cho các câu
chuyện của họ từ văn học dân gian và từ đời sống của người nghèo để thách đố Khổng


học, mặc dù không trực tiếp.
Nhìn chung lại, cuộc đòi bà Điểm ngắn ngủi bốn mươi bốn năm hiện lên không
khác gì một thiên truyền kì với rất nhiều sóng gió. Cả cuộc đời bà chủ yếu vẫn gần gũi
hơn với nếp sống bình thường của một gia đình nhà nho nghèo, đời đời làm nghề dạy
học chốn thôn quê. Đoàn Thị Điểm cùng gia đình đã nhiều lần phải di cư từ nơi này

đến nơi khác. Tình hình xã hội lúc này không ổn định: loạn lạc, đói rét luôn luôn rình
rập. Lại thêm gánh nặng gia đình sau khi cha và anh nối nhau qua đời, để lại cho bà
mẹ già, chị dâu đau ốm, các cháu nhỏ mồ côi mà bà thì gàn như suốt đời cô đơn chiếc
bóng. Hai câu mở đầu của Chinh phụ ngâm khúc:
“Thiên địa phong trần, hồng nhan đa truân ”
Mà bà dịch nôm như vận vào với cuộc đời bà Điểm. Chính thời đại đó, hoàn
cảnh riêng đó, đã kết hợp cùng với tài văn xuất sắc của bà để làm nên Chinh phụ ngâm
khúc diễn âm và Truyền kỳ tân phả truyền tụng đến tận ngày nay.

1.2.2.

Quan niệm nho gia về xã hội và con người
Nho giáo là một học thuyết không những nổi tiếng ở phương Đông mà còn ừên

toàn thế giới. Tư tưởng Nho giáo gắn liền với thời kỳ phát triển của nhà nước phong
kiến với mục đích xây dựng một xã hội thịnh trị. Có rất nhiều quan niệm mà Nho giáo
đặt ra như: Tam cương: chỉ mối quan hệ quân - thần theo quan niệm Nho giáo luôn
yêu cầu hai phía phải chuẩn mực. Vua phải là vua sáng, Tôi phải là lương thần, bề tôi
phải trung thành với vua, thần phải suốt đời thờ một vua. Quan hệ phu - tử chỉ mối
quan hệ giữa cha và con là cha nhân từ thì con phải có hiếu. Quan hệ phu - phụ chỉ
mối quan hệ vợ chồng là người vợ phải nghe theo chồng, luôn luôn thủ tiết với chồng.
Ngữ thường là năm phẩm chất luôn luôn phải có và không thể thay đổi trong con
người đó là: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Ngoài ra Nho giáo còn quan niệm về cái Chí của
người nam nhi, dạy về đạo hiếu của người làm con, quan niệm về mối quan hệ Sư Đệ, Bằng - Hữu, Huynh - Đệ....
Đối với người phụ nữ theo quan niệm của Nho giáo phải Tam tòng, Tứ đức. Tam
tòng nghĩa là Tại gia tòng phụ: người phụ nữ khi còn ở nhà phải nghe theo cha; Xuất


giá tòng phu: lúc lấy chồng phải nghe theo chồng; Phu tử tòng tử: nếu chồng qua đời
phải theo con trai. Quy định tam tòng người phụ nữ khi xuất giá lấy chồng thì hoàn

cảnh tốt hay xấu thế nào cũng đã trở thành người nhà chồng, chứ không được nương
nhờ ai nữa. Bên cạnh đạo tam tòng, còn có đạo tứ đức gồm: phụ công, phụ dung, phụ
ngôn và phụ hạnh. Trong đó, Công: nữ công, gia chánh phải khéo léo. Tuy nhiên các
nghề với phụ nữ ngày xưa chủ yếu chỉ là may, vá, thêu, dệt, bếp núc, buôn bán, với
người phụ nữ giỏi thì có thêm cầm, kỳ, thi, họa; Dung: dáng người đàn bà phải hòa
nhã, gọn gàng, biết tôn trọng hình thức bản thân; Ngôn: lời ăn tiếng nói khoan thai, dịu
dàng, mềm mỏng; Hạnh: tính nết hiền thảo, ừong nhà thì nết na, kính trên nhường
dưới, chiều chồng thương con, ăn ở tốt với anh em họ nhà chồng. Ra ngoài thì nhu mì
chín chắn, không hợm hĩnh, cay nghiệt.
Tất cả đều quy tụ về mối quan hệ giữa con người với con người. Đây là mối
quan hệ đom giản nhất mà cũng rất phức tạp, vì con người phải có quan hệ với những
cộng đồng khác như: gia đình, xã hội, nhà nước...Tức là Nho giáo đòi hỏi con người
phải xác định được ta đứng ở vị trí nào trong mối quan hệ ấy và phải luôn luôn làm
tròn bổn phận của mình. Điều này được đưa vào trong văn học mang tính chất truyền
bá và giáo dục. Khi viết các tác giả văn học trung đại theo quan niệm của Nho giáo
luôn đòi hỏi văn chương phải tuân thủ theo nguyên tắc: “Vãn dĩ tải đạo, thi dĩ ngôn
chí”. Nghĩa là văn chương với mục đích văn để ữở đạo, thơ để nói chí. Đó là quan
niệm của Nho giáo về xã hội và con người trong văn học trung đại.
Từ giai đoạn thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ XIX với sự biến đổi của hoàn cảnh
lịch sử xã hội. Lúc này, nhà nước phong kiến đang bắt đầu đi vào con đường suy thoái
khủng hoảng tràm trọng và không có lối thoát. Ý thức hệ phong kiến đó là tư tưởng
Nho giáo cũng bị khủng hoảng, các quan niệm về tam cương, ngũ thường với những
giá trị chính thống của Nho giáo bị lung lay. Phong trào nông dân khởi nghĩa phát triển
liên tục, tính dân chủ được hình thành. Từ yếu tố lịch sử xã hội và những tư tưởng của
thời đại đã tác động đến văn học. Điều đó làm cho nền văn học trung đại có sự thay


đổi ừong diện mạo cũng như trong quan niệm sáng tác. Các tác giả đều chịu sự chi
phối của tư tưởng Nho giáo, họ là những môn đệ của Thánh hiền cộng với sự tác động
trực tiếp của hiện thực cuộc sống. Văn chương một phần vẫn theo quan niệm “Văn dĩ

tải đạo, thỉ dĩ ngôn chỉ” nhưng đã có sự đổi mới ừong quan niệm của người sáng tác,
họ viết theo quan niệm “sở kiến, sở văn ” những điều mắt thấy, tai nghe dựa trên
những người thật, việc thật trong lịch sử - xã hội đương thời, có sự kết họp giữa yếu tố
siêu hình và yếu tố hiện thực. Văn chương ngoài nhiệm vụ “chở đạo” nó còn phản ánh
hiện thực cuộc sống và số phận con người. Mục đích của người sáng tác cũng thay đổi,
với họ văn chương lúc này không chỉ làm đẹp cái đạo của Nho giáo mà còn có nhiệm
vụ thể hiện thái độ của người nghệ sĩ với cuộc đời. Khẳng định những giá trị chân
chính của con người những vấn đề về đạo đức, về lòng thủy chung, về tình yêu và
hạnh phúc trần thế....Người viết khám phá ra những con người mới, đi sâu hơn vào
tâm tư tình cảm của nhân vật để họ xuất hiện như một tất yếu của lịch sử. Đồng thời
lên án, phê phán thế lực phong kiến chà đạp lên quyền sống con người. Tạo ra một
bước ngoặt lớn cho văn học dân tộc “đổ là sự ra đời của trào lưu nhân đạo chủ nghĩa
”. vẫn là những câu chuyện cũ nhưng các tác giả có sự đổi mới trong cách kể, cách
viết, cách nhìn nhận nhân vật nên hàu như những người viết sau này hay thêm vào chữ
“tân” trong nhan đề tác phẩm: Truyền kỳ tân phả, Tân truyền kỳ ỈUC...Đoàn Thị Điểm
là một tác giả tiêu biểu cho sự đổi mới trong quan niệm nghệ thuật về con người.
Truyền kỳ tân phả được ra đời vào khoảng thế kỷ XVIII - đây được nhận định
là thế kỷ vàng của ttào lưu nhân đạo chủ nghĩa. Nếu các truyện ở những giai đoạn
trước như: truyện Thiên uyển tập anh; truyện Tam tổ thực lục; truyện Việt điện u linh
tập; truyện Lĩnh Nam chích quái; truyện Nam Ông mộng lục; truyện Giao chỉ ký;
truyện Báo cực truyện....chì giống như là cuốn biên niên sử ghi chép lại gần như
nguyên bản ngắn gọn các sự tích, truyền thuyết về các sự kiện và các nhân vật lịch sử.
Đặc biệt các câu truyện này đều kể lại các sự tích với hầu hết nhân vật trung tâm là
nam giới, đề cao uy quyền của vua chúa, có quá nhiều yếu tố mê tín dị đoan, chưa đưa


vào trong văn học được cái nhìn hài hòa mà vẫn còn nặng về một phía. Thì đến Đoàn
Thị Điểm với tài năng sáng tác văn học, đã chọn cho mình một hình tượng nhân vật
trung tâm là nữ giới. Những người phụ nữ ấy qua cách kể của tác giả họ hiện lên với
đầy đủ màu sắc, cung bậc tính cảm: yêu, ghét, buồn, vui, giận hờn, trách móc, có

những suy nghĩ, ước mơ, hoài bão cá nhân....Trong truyện của Đoàn Thị Điểm họ được
đề cao về tài năng, đạo đức, phẩm chất, họ được ca ngợi ngay cả khi còn sống, đến khi
họ chết thì trở thành một con người linh thiêng. Vì thế, mà Truyền kỳ tân phả đã trở
thành tác phẩm bước đàu mang nhiều yếu tố phôi thai của trào lưu nhân đạo chủ nghĩa.
Giống như Nguyễn Dữ, Truyền kỳ tân phả của Đoàn Thị Điểm cũng ghi chép lại
truyện cũ. Nhưng bà có sự cách tân ừong cách kể thường thêm vào trong câu truyện
những vần thơ, văn tế, biền ngẫu...cũng như trong việc truyền tải thông tin về các nhân
vật lịch sử gắn liền với yếu tố tâm linh. Đó là những câu chuyện về cuộc đời và con
người ừong buổi xế chiều của xã hội phong kiến Việt Nam, được biểu hiện dưới màu
sắc kỳ ảo, hoang đường. Đây là một hình thức nghệ thuật độc đáo trong văn xuôi Việt
Nam trung đại.
Nhiều tác phẩm văn xuôi tự sự khác ra đời vào giai đoạn này như Truyền kỳ mạn
lục của Nguyễn Dữ gồm 20 truyện, cũng là kể lại các câu chuyện lỳ kỳ xảy ra trong
dân gian. Truyền kỳ mạn lục phán ánh một hiện thực thối nát của chế độ phong kiến
lúc bấy giờ; phạm vi phản ánh tương đối rộng, đề cập đến nhiều vấn đề của xã hội: cờ
bạc, trộm cắp, dịch bệnh, ma quỷ hoành hành... con người được đề cập ở đó là: sư sãi,
học trò, thương nhân, nhiều kẻ đắm chìm trong sắc dục... Nhưng chủ yếu Nguyễn Dữ
dành sự quan tâm nhiều hơn đến những người dân lương thiện, những người phụ nữ
phải chịu nhiều đau khổ do chiến tranh, đói nghèo, cướp bóc, dịch bệnh.. .như các
truyện: Chuyện nghiệp oan của Đào Thị, Chuyện người nghĩa phụ ở Khoái Châu,
Chuyện người con gái Nam Xương, Truyện Lý tướng quân...
Trong Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ với tư tưởng chủ đạo là tư tưởng Nho
gia, ông cho người đọc thấy được cái xấu xa của xã hội, vạch trần chế độ chính trị đen


tối, sự mục nát của triều đại đương thời, phê phán bọn vua quan tàn bạo, phỉnh nịnh,
dâm tà... để hiện lên cảnh chiến tranh khiến cho nhân dân khổ. Từ đó, đề cao ca ngợi
bậc minh quân thánh hiền, nêu gương những con người đạo đức, tiết nghĩa, nhân hậu,
thủy chung.. .Sâu thẳm trong tư tưởng của tác giả là mong muốn một vương triều lý
tưởng mọi người được sống yên bình trong nền đức trị, trong sự công bằng, trong tình

yêu thương nhân ái giữa con người với con người.
Hay trong cuốn Thánh Tông di thảo ịBản thảo để lại của Thánh Tông). Truyện
phản ảnh tâm lý căm ghét quân Minh của nhân dân, có truyện đả kích rất mạnh giới sư
sãi vô dụng: Truyện người hành khất giàu, Bài kỷ hai Phật cãi nhau...có truyện đề cập
đến tình yêu lứa đôi với những nhân vật nữ nết na, đức hạnh và chung thủy: Duyên lạ
nước Hoa, Ngọc nữ về với chân chúa, Truyện ký về hai thần hiểu đễ...
Truyền kỳ tân phả của Đoàn Thị Điểm ra đời sau, khi viết bà cũng ít nhiều bị ảnh
hưởng “phỏng theo” lối viết của những người trước. Bà vẫn lấy tư tưởng Nho giáo làm
chuẩn mực cho các nhân vật của mình. Có lẽ, Truyền kỳ tân phả được viết từ một tác
giả nữ, nên có phần nhẹ nhàng và đỡ gay gắt hơn. Nhưng không phải vì thế mà làm
mất đi ý nghĩa sâu xa ẩn sau mỗi câu truyện. Đoàn Thị Điểm cũng dựa vào các tích,
truyện, truyền thuyết của dân gian cộng thêm sự sáng tạo ừong cách kể chuyện, để viết
lại các truyện thuộc thể loại Truyền kỳ có nhiều yếu tố thần kỳ, hoang đường. Đằng sau
những nét truyền kỳ, kỳ quái này, vẫn thấy hiện lên một thực ừạng của xã hội. Tác giả
vừa chỉ trích sự lộng hành của bộ máy quan lại, vừa hướng tới một trật tự quân chủ lý
tưởng, về đề tài gắn với người phụ nữ, tác giả vừa đồng tình với lối sống phóng
khoáng, ít nhiều vượt khỏi khuân khổ của lễ giáo, lại vừa lấy những gương tiết nghĩa
vẹn toàn để đề cao phẩm chất và vai trò của người phụ nữ trong xã hội phong kiến.
Ở truyện Hải khẩu lỉnh từ, tác giả một mặt chỉ trích gay gắt giới quan lại từ cao
xuống thấp, những kẻ đại diện cho quyền lực của nhà nước phong kiến chuyên lộng
hành ức hiếp nhân dân, mặt khác lại ra sức đề cao đạo đức, phẩm chất của người phụ
nữ. Nàng Bích Châu, tư dung tươi đẹp, thông hiểu âm luật


Lê Viên, giúp vua trong việc cứu nước. Có thể nói nàng Bích Châu là mẫu người phụ
nữ theo chuẩn lễ giáo phong kiến. Qua câu chuyện ta phàn nào thấy được trật tự xã hội
phong kiến, vai trò của minh quân. Từ đó, tác giả muốn vẽ lên hình tượng lý tưởng về
những ông vua công minh, vì dân. Đoàn Thị Điểm không tập trung quá nhiều vào việc
lên án tội ác của kẻ thù. Mà chỉ giống như mang tính chất thông báo “dưới thời vua
Long Khánh năm thứ tư (1376) bờ cõi phía Nam nước ta có giặc xâm lẩn”. Cho đến

phần cuối câu chuyện Hải khẩu lỉnh từ, khi tiếp được thư tố giác của vua Lê, vua thủy
tề bèn nổi giận trị tội ngay thần thuồng luồng độc ác và ữả nàng Bích Châu về trần.
Trong Truyện người liệt nữ ở An Ấp, tác giả chủ trương đề cao đến mức cực đoan
về người phụ nữ tiết nghĩa vẹn toàn bằng cách cho người đàn bà nhân vật chính của
truyện, vì một tình yêu mãnh liệt đã tự nguyện thủ tiết chết theo chồng “đến ngày lễ
tiểu tường ông, người nhà bận việc, phu nhân ở trong buồng xé cái áo mà ông tặng
ngày trước tự thắt cổ chết”.
Ở trong Truyện nữ thần ở Vân Cát, tác giả chủ trương đề cao tình yêu nam nữ,
tuy rất ngắn ngủi nhưng chàng trai rất thủy chung với người vợ mặc dù người vợ đã
chết “từ khỉ vợ chết, chàng mang theo con vào Kinh đô, ở một mình trong phòng, bỏ
cả việc học hành, lúc đứng lúc ngồi, không lúc nào là không đeo nỗi u sầu
Trần kiếp than ôi luống những sầu
Duyên xưa nhớ lại nghĩ càng đau
Cầu hoàng gẩy khúc đàn Tư Mã Hạc
lánh loan chưa bởi tại đâu? ”
Sau đó người chồng cũng chết và được giáng xuống trần gian, hai người gặp
nhau lại kết duyên vợ chồng như xưa “trông mặt trăng đinh ước, nhìn lên trời lạy tạ.
Từ đó sắt cầm hòa hợp, kỉnh yêu lẫn nhau”. Truyện đề cao tình yêu kiếp này đến kiếp
kia vẫn gặp nhau và vẫn là vợ chồng.
Truyện Cuộc gặp gỡ kỳ lạ ở Bích Câu, được tác giả kể về tình yêu giữa tiên nữ
và người thường. Đây là một câu chuyện tình mang yếu tố hoang đường, tình yêu nam


nữ được miêu tả dưới nhiều màu sắc và phong vị nên thơ, mãi mãi ở bên nhau, không
xa rời. Thể hiện một khát vọng về một tình yêu đẹp của con người ừần thế.
Truyền kỳ tân phả có nhiều ưu điểm trong việc phản ánh thực trạng của xã hội
phong kiến đương thời, vừa mang những yếu tố tiến bộ, vừa phản ánh tinh thần tự hào
dân tộc có những người phụ nữ trở thành nữ thần - tiên liệt làm vẻ vang thêm truyền
thống của văn học. Tuy nhiên, phương thức sáng tác của tác giả cũng không tránh khỏi
những hạn chế tất yếu của thời đại cũng như những mâu thuẫn quen thuộc của các nhà

văn thời đó trong lập trường phê phán của mình, cũng như cách quan niệm về một xã
hội lý tưởng.
Các truyện của Đoàn Thị Điểm đã đề cao tài năng của người phụ nữ làm tròn
bổn phận của một người mẹ, người vợ, làm ừòn thiên chức của người phụ nữ. Hầu hết
nhân vật trong các truyện của Đoàn Thị Điểm vẫn theo chuẩn mực đạo đức của Nho
giáo, nhưng đã có ảnh hưởng ít nhiều tư tưởng của Phật giáo, đạo tu tiên. Các truyện
trong Truyền kỳ tân phả có sự sáng tạo, hơi phá cách, lệch với tư tưởng Nho giáo. Khi
hình ảnh mô hình gia đình Việt Nam truyền thống đó là người vợ phải phụ thuộc vào
người chồng đã dần phai mờ, mà dường như số phận của người chồng ở một mức độ
nào đó được quyết định bởi người vợ. Người phụ nữ luôn luôn nắm vai trò làm chủ
trong gia đình. Đây có thể coi là một ừong những điểm mới, trong quan niệm nho gia
về xã hội và con người ở Truyền kỳ tân phả của Đoàn Thị Điểm.

1.2.3.

Một cách nhìn nhân văn về cuộc sổng
Khi đánh giá về giá trị của Truyền kỳ tân phả, Phan Huy Chú cho rằng: “lời văn

hoa lệ, nhung khí cách yểu ớt, không bằng văn Nguyễn Dữ”, [25, tr.149]. Tuy nhiên,
nếu nhìn dưới góc độ văn học nữ quyền hay giá trị nhân đạo của tác phẩm, đặc biệt là
góc độ tương tác giữa văn học trung đại và văn hóa dân gian, Truyền kỳ tân phả lại cho
ta thấy những nét đẹp và giá trị riêng.
Các câu truyện của Đoàn Thị Điểm thường có cái nhìn cách tân và thoáng hơn
so với các truyện truyền kỳ được viết ở giai đoạn trước, đặc biệt là cách nhìn nhận về


×