Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm trong tố tụng hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (326.91 KB, 7 trang )

Kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm trong tố
tụng hình sự Việt Nam
Nguyễn Như Thắng
Khoa Luật
Luận văn Thạc sĩ ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự; Mã số: 60 38 01 04
Người hướng dẫn: PGS.TS. Nguyễn Ngọc Chí
Năm bảo vệ: 2014
Keywords. Luật hình sự; Tố tụng hình sự; Tái thẩm; Pháp luật Việt Nam
Content
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN và công cuộc cải cách
tư pháp hiện nay thì việc phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm
minh mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, nhưng cũng không làm oan người vô tội, góp
phần bảo vệ pháp chế XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân, là những định hướng quan trọng của pháp luật TTHS Việt Nam.
Để nâng cao chất lượng hoạt động tư pháp, Đảng ta đã có những quan điểm chỉ đạo về
cải cách tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp, đặc biệt tại Nghị quyết số 49-NQ/TW
ngày 02-06-2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Bộ chính trị đã xác định mục
tiêu là:
Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ
công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam XHCN;
hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và
hiệu lực cao [4].
Trong những năm qua, công tác tư pháp nói chung và công tác giải quyết án hình sự nói
riêng đã đạt được những thành tựu đáng kể. Theo đó, các hoạt động TTHS được tiến hành một
cách minh bạch hơn, khách quan hơn, quyền lợi của người tham gia tố tụng được đảm bảo hơn,
xu thế mở rộng tranh tụng tiếp tục được khẳng định. Tuy vậy, vẫn còn một số bản án, quyết định
sau khi có HLPL mới phát hiện ra có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật, vi phạm
nghiêm trọng về thủ tục tố tụng hoặc có tình tiết mới có thể làm thay đổi cơ bản nội dung bản án,
quyết định đó, làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng, nên phải
kháng nghị giám đốc thẩm hoặc kháng nghị tái thẩm.


Thực tiễn cho thấy, kháng nghị giám đốc thẩm là một hoạt động để kiểm tra lại tính hợp
pháp, tính đúng đắn của bản án hoặc quyết định của Tòa án đã có HLPL. Từ đó, Tòa án cấp trên
kịp thời sửa chữa những sai lầm trong việc áp dụng pháp luật của Tòa án cấp dưới, hướng dẫn
Tòa án cấp dưới khắc phục những sai lầm, thiếu sót và áp dụng thống nhất pháp luật. Vì thế, có
thể nói kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm trong TTHS có vai trò, ý nghĩa đặc biệt quan trọng
nhằm đảm bảo cho việc giải quyết vụ án được đúng quy định của pháp luật, đảm bảo pháp chế


XHCN.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây, công tác kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm vẫn
còn nhiều hạn chế như: chất lượng kháng nghị chưa cao, điều này thể hiện ở một số bản kháng
nghị không nêu được căn cứ kháng nghị, dẫn đến phải rút kháng nghị hoặc không được Hội đồng
giám đốc thẩm, tái thẩm chấp nhận; nhiều trường hợp phát hiện căn cứ kháng nghị giám đốc
thẩm, tái thẩm chưa kịp thời nên không còn thời hạn kháng nghị; việc kiểm tra bản án, quyết
định đã có HLPL, cũng như việc giải quyết đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm chưa triệt để
nên số lượng vụ án có kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm còn quá ít… Một trong những nguyên
nhân của tình trạng trên là do nhiều quy định của BLTTHS liên quan đến kháng nghị giám đốc
thẩm, tái thẩm chưa thật sự phù hợp, chưa cụ thể và rõ ràng, như các quy định về căn cứ kháng
nghị giám đốc thẩm, tái thẩm; đối tượng kháng nghị; thời hạn kháng nghị; bổ sung kháng nghị,
rút kháng nghị; hệ quả của kháng nghị… nhưng lại chưa có hướng dẫn của cơ quan có thẩm
quyền, nên trong quá trình áp dụng còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc. Mặt khác, trình độ,
năng lực của một số cán bộ làm công tác giám đốc thẩm, tái thẩm có phần hạn chế, cũng làm ảnh
hưởng đến chất lượng của hoạt động kháng nghị nói trên.
Vì thế, việc nghiên cứu làm sáng tỏ về mặt lý luận và các quy định của pháp luật TTHS
về kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm; chỉ ra những hạn chế, vướng mắc trong thực tiễn áp
dụng và nguyên nhân của những hạn chế đó, từ đó đề ra những giải pháp nhằm tiếp tục hoàn
thiện các quy định của pháp luật TTHS về kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm, là một yêu cầu
cấp thiết trong tình hình hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong thời gian qua, việc nghiên cứu các quy định của BLTTHS về kháng nghị giám đốc

thẩm, tái thẩm đã được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu lý luận, nhà khoa học pháp lý, luật
gia và cán bộ thực tiễn, nhưng nhiều vấn đề về mặt lý luận liên quan đến công tác này còn có
những quan điểm khác nhau; mặt khác trong thực tiễn kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm còn gặp
nhiều khó khăn, vướng mắc, nên cần được tiếp tục nghiên cứu, làm rõ hơn.
Hiện nay, ở các mức độ khác nhau, trực tiếp và gián tiếp đã có một số công trình nghiên
cứu được công bố, như các giáo trình đại học giảng dạy về luật TTHS ở Khoa luật - Đại học
Quốc gia Hà Nội, Đại học Luật Hà Nội, Đại học Cảnh sát nhân dân... đã nghiên cứu khái quát
những vấn đề cơ bản về kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm.
Một số công trình nghiên cứu chuyên sâu về thủ tục giám đốc thẩm và đã được công
nhận là đề tài cấp Bộ, luận án, luận văn, bình luận khoa học, sách chuyên khảo. Trong đó phải
kể đến đề tài khoa học cấp Bộ của TANDTC “Nâng cao hiệu quả công tác giám đốc việc xét
xử các vụ án hình sự”, do Ths. Đinh Văn Quế chủ biên, năm 2005 [37]; luận án Tiến sĩ của tác
giả Phan Thị Thanh Mai với đề tài “Giám đốc thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam”, năm 2007
[30]; luận văn Thạc sĩ của tác giả Quản Thị Ngọc Thảo với đề tài “Giám đốc thẩm: một số vấn
đề lý luận và thực tiễn”, năm 2007 [67]; luận văn Thạc sĩ của tác giả Nguyễn Văn Trượng với
đề tài “Giám đốc thẩm trong TTHS”, năm 1996 [70]; sách chuyên khảo “Giám đốc thẩm, tái
thẩm về hình sự - những vấn đề lý luận và thực tiễn” của tác giả Đinh Văn Quế, năm 1997
[33]...
Một số công trình chỉ nghiên cứu ở phạm vi hẹp, có liên quan một phần đến quy định về
kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm đã được công bố trên các tạp chí, báo chuyên ngành. Chẳng
hạn, bài viết của các tác giả như: Nguyễn Văn Hiện,“Vấn đề thực tiễn, lý luận và yêu cầu hoàn
thiện thẩm quyền xét xử giám đốc thẩm các vụ án hình sự của Tòa án các cấp”, Tạp chí TAND,
tháng 3 năm 1997 [19]; Nguyễn Quang Hiền, “Một số vấn đề về thủ tục giám đốc thẩm”, Tạp chí
TAND, số 7 năm 2009 [17]; Vũ Gia Lâm, “Về căn cứ kháng nghị theo thủ tục tái thẩm trong
BLTTHS năm 2003”, Tạp chí Luật học, số 10 năm 2006 [26]; Lê Kim Quế, “Một số vấn đề về
giám đốc thẩm hình sự”, Tạp chí TAND, số 14 năm 2006 [40]; Nguyễn Văn Trượng, “Thực


trạng thi hành quy định của BLTTHS về phạm vi giám đốc thẩm và những vấn đề cần hoàn
thiện”, Tạp chí TAND, số 7 năm 2011 [72]; Đinh Văn Quế, “Vấn đề kháng nghị giám đốc thẩm

về “dân sự” trong vụ án hình sự”, Tạp chí TAND, số 9 năm 2005 [36]; Đinh Văn Quế, “Căn cứ
kháng nghị giám đốc thẩm theo BLTTHS năm 2003”, Tạp chí TAND, số 22 năm 2004 [35]...
Qua nội dung các công trình nghiên cứu, các bài viết cũng như các giáo trình giảng dạy nêu
trên cho thấy: các tác giả đã nghiên cứu những vấn đề cơ bản về giám đốc thẩm, tái thẩm và có
những kiến nghị, đề xuất có giá trị về mặt lý luận và thực tiễn. Nhưng một số công trình có phạm
vi nghiên cứu quá rộng, ngược lại một số công trình chỉ nghiên cứu một số khía cạnh nhất định liên
quan đến kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm trong TTHS. Chẳng hạn, luận án Tiến sĩ của tác giả
Phan Thị Thanh Mai, luận văn Thạc sĩ của tác giả Nguyễn Văn Trượng đã nghiên cứu chuyên sâu
về lý luận giám đốc thẩm, nhưng không nghiên cứu về kháng nghị tái thẩm, đề cập rất ít đến thực
tiễn kháng nghị giám đốc thẩm và chủ yếu xem xét đánh giá pháp luật để kiến nghị một số giải
pháp nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về giám đốc thẩm. Ngược lại, đề tài cấp Bộ “Nâng cao
hiệu quả công tác giám đốc việc xét xử các vụ án hình sự” của TANDTC do Ths. Đinh Văn Quế
chủ biên và các công trình nghiên cứu khác của tác giả này đều mang tính ứng dụng cao, nhưng lại
đề cập rất ít về mặt lý luận, mà chủ yếu là giải thích pháp luật, liên hệ những quy định của pháp
luật với thực tiễn áp dụng pháp luật của Tòa án, Viện kiểm sát trong công tác giám đốc thẩm, tái
thẩm từ đó đưa ra một số đề xuất, giải pháp để hoàn thiện các quy định của pháp luật về giám đốc
thẩm, tái thẩm. Một số công trình khoa học khác chỉ nghiên cứu trên phạm vi hẹp, đã làm sáng tỏ
phần nào về mặt lý luận cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật liên quan đến kháng nghị giám đốc
thẩm, tái thẩm, như về tính chất giám đốc thẩm, tái thẩm; căn cứ, thẩm quyền, thời hạn, hệ quả
pháp lý... của kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm và đưa ra những giải pháp để hoàn thiện các quy
định trên.
Tuy nhiên, một số vấn đề về mặt lý luận liên quan đến công tác kháng nghị giám đốc
thẩm, tái thẩm chưa được làm rõ, cần phải tiếp tục nghiên cứu một cách toàn diện và sâu sắc hơn,
để đưa ra các khái niệm hoàn chỉnh, đầy đủ và chính xác về kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm.
Mặt khác, như đã trình bày ở trên, thực tiễn hoạt động kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm trong
TTHS chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra, một phần là do các quy định của pháp luật TTHS liên
quan đến vấn đề này còn nhiều bất cập, không còn phù hợp trong tình hình hiện nay, cần phải
tiếp tục nghiên cứu, làm rõ.
Xuất phát từ lý do trên, tác giả đã chọn đề tài: “Kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm trong
TTHS Việt Nam” làm luận văn Thạc sĩ Luật học của mình.

3. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu một cách có hệ thống, toàn diện về những vấn đề pháp lý cơ bản
của việc kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm trong TTHS Việt Nam như: khái niệm kháng nghị
tố tụng, kháng nghị giám đốc thẩm và kháng nghị tái thẩm; đặc điểm của kháng nghị giám đốc
thẩm, tái thẩm; quá trình hình thành, phát triển các quy định của pháp luật về kháng nghị giám
đốc thẩm, tái thẩm; căn cứ, thẩm quyền, thời hạn, hệ quả pháp lý… của kháng nghị giám đốc
thẩm và tái thẩm; đồng thời đi sâu phân tích hoạt động thực tiễn kháng nghị giám đốc thẩm, tái
thẩm. Trên cơ sở đó, tác giả chỉ ra một số vướng mắc, bất cập về mặt lý luận và thực tiễn thi
hành; nguyên nhân của những tồn tại đó và đề xuất một số kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện
pháp luật TTHS về kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động
kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm trong TTHS Việt Nam.
3.2. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu của đề tài là các
quy định của BLTTHS Việt Nam năm 2003 về kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm và thực tiễn
công tác kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm.


4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước ta về đấu tranh phòng,
chống tội phạm.
Quá trình nghiên cứu đề tài còn sử dụng phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp; phương pháp thống kê hình sự; nghiên cứu thực tiễn công tác kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm...
để làm luận chứng cho các vấn đề khoa học cần nghiên cứu trong luận văn. Trong quá trình thực
hiện đề tài luận văn, tác giả có nghiên cứu, tham khảo các văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật
liên quan đến phạm vi đề tài; tiếp thu có chọn lọc kết quả của các công trình đã công bố, tổng
kết, đánh giá của các cơ quan chuyên môn và ý kiến của các chuyên gia có liên quan đến các vấn
đề nghiên cứu trong luận văn.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Về lý luận, kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần hoàn thiện về lý luận kháng nghị
giám đốc thẩm, tái thẩm trong khoa học luật TTHS Việt Nam như: làm rõ khái niệm kháng nghị

tố tụng, đặc biệt là khái niệm kháng nghị giám đốc thẩm và kháng nghị tái thẩm; phân tích khái
quát lịch sử hình thành và phát triển các quy định pháp luật TTHS về kháng nghị giám đốc thẩm,
tái thẩm từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay; làm sáng tỏ các quy định của
BLTTHS năm 2003 về căn cứ kháng nghị, thẩm quyền, thời hạn, hệ quả pháp lý... của kháng
nghị giám đốc thẩm, tái thẩm; phân tích thực tiễn công tác kháng nghị giám đốc thẩm và tái thẩm
để đánh giá. Qua đó chỉ ra những mâu thuẫn, bất cập trong các quy định của pháp luật hiện hành;
những hạn chế, vướng mắc trong quá trình áp dụng các quy định đó, cũng như chỉ ra nguyên
nhân của những tồn tại, để đề xuất một số giải pháp hoàn thiện các quy định của BLTTHS về
kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm.
Về thực tiễn, luận văn còn có ý nghĩa làm tài liệu tham khảo, phục vụ hoạt động nghiên
cứu và học tập. Những đề xuất, kiến nghị của tác giả luận văn sẽ cung cấp những luận cứ khoa
học phục vụ cho công tác lập pháp và hoạt động thực tiễn áp dụng BLTTHS Việt Nam liên quan
đến hoạt động kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn
gồm ba chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm
Chương 2: Kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm theo quy định của BLTTHS năm 2003
và thực tiễn thi hành
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm

References
1.
Ban Cán sự Đảng TANDTC (2013), Báo cáo tổng kết 08 năm thực hiện Nghị quyết số 49NQ/TW ngày 02-6-2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà
Nội.
2.
Bộ Chính trị (2002), Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01 về một số nhiệm vụ trọng tâm
công tác tư pháp trong thời gian tới, Hà Nội.
3.
Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5 về chiến lược xây dựng và hoàn

thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, Hà Nội.
4.
Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6 về chiến lược cải cách tư pháp đến
năm 2020, Hà Nội.
5.
Lê Văn Cảm (2005), Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự (Phần chung), Nxb
Đại học Quốc gia Hà Nội.


6.
7.

8.
9.
10.
11.
12.

13.
14.
15.
16.
17.
18.
19.
20.

21.

22.

23.
24.
25.
26.
27.

28.

Lê Cảm (2006), “Những vấn đề lý luận về bảo vệ quyền con người bằng pháp luật trong lĩnh vực
tư pháp hình sự”, Tạp chí TAND, (11, 12, 13 và 14).
Chánh án TANDTC (2011), Công văn số 340/TANDTC-BTK ngày 25/11 quy định về trách
nhiệm của các Tòa án trong việc phát hiện, kiến nghị xem xét bản án, quyết định theo thủ
tục giám đốc thẩm, tái thẩm, Hà Nội.
Lê Lan Chi (2005), Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTHS - một số vấn đề lý luận
và thực tiễn, luận văn Thạc sĩ, Hà Nội.
Nguyễn Ngọc Chí (chủ biên, 2001), Giáo trình Luật TTHS Việt Nam, Nxb Đại học Quốc
gia Hà Nội.
Nguyễn Ngọc Chí (chủ biên, 2013), Giáo trình Luật TTHS Việt Nam, Nxb Đại học Quốc
gia Hà Nội.
Đỗ Văn Chỉnh (1999), “Cần thực hiện đúng quy định của pháp luật về Hội đồng giám đốc
thẩm, tái thẩm ở Tòa án cấp tỉnh”, Tạp chí TAND, (2).
Nguyễn Quốc Công (2005), “Công tác kiểm sát các bản án và quyết định về hình sự đã có HLPL
của Tòa án - thực trạng và giải pháp”, Nâng cao hiệu quả công tác giám đốc việc xét xử các vụ án
hình sự, Đề tài cấp Bộ, TANDTC.
Ngô Cường (2013), “Thủ tục giám đốc thẩm của Việt Nam: quá trình phát triển và kiến
nghị sửa đổi”, Tạp chí Kiểm sát, (15 và 17).
Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb
Chính trị Quốc gia - sự thật, Hà Nội.
Trần Văn Độ (1995), “Một số vấn đề về tái thẩm”, Tạp chí Luật học (3).
Phạm Hồng Hải (2003), Mô hình lý luận BLTTHS Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà

Nội.
Nguyễn Quang Hiền (2009), “Một số vấn đề về thủ tục giám đốc thẩm”, Tạp chí TAND,
(7).
Mai Thanh Hiếu (2006), “Điều kiện kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm trong luật TTHS
Việt Nam và Cộng hòa Pháp”, Tạp chí Luật học, (4).
Nguyễn Văn Hiện (1997), “Vấn đề thực tiễn, lý luận và yêu cầu hoàn thiện thẩm quyền xét
xử giám đốc thẩm các vụ án hình sự của Tòa án các cấp”, Tạp chí TAND, (3).
Nguyễn Văn Hiện (1998), “Tiếp tục hoàn thiện các quy định về giám đốc thẩm và tái thẩm,
góp phần nâng cao hiệu quả công tác xét xử của Tòa án”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật,
(4).
Hội đồng Thẩm phán TANDTC (2005), Nghị quyết số 05/2005/NQ-HĐTP ngày 08/12 hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ tư “Xét xử phúc thẩm” của BLTTHS, Hà
Nội.
Hội đồng Thẩm phán TANDTC (2006), Nghị quyết số 03/2006/HĐTP ngày 08/7 về bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng, Hà Nội.
Hội đồng Thẩm phán TANDTC (2013), Nghị quyết số 01/2013/HĐTP ngày 06/11 hướng
dẫn áp dụng Điều 60 BLHS về án treo, Hà Nội.
Nguyễn Ngọc Khánh (2007), “Cần một cách nhìn mới về thủ tục giám đốc thẩm trong
TTHS”, Tạp chí Kiểm sát, (20).
Nguyễn Duy Lãm (1996), Sổ tay thuật ngữ pháp lý thông dụng, Nxb Giáo dục.
Vũ Gia Lâm (2006), “Về căn cứ kháng nghị theo thủ tục tái thẩm trong BLTTHS năm
2003”, Tạp chí Luật học, (10).
Nguyễn Quang Lộc (2006), “Thẩm quyền của Hội đồng giám đốc thẩm khi hủy bản án,
quyết định đã có HLPL theo pháp luật tố tụng - những vướng mắc cần tháo gỡ”, Tạp chí
TAND, (21).
Phan Thanh Mai (2006), “Một số ý kiến về căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm theo Điều


29.
30.
31.


32.
33.
34.
35.
36.
37.
38.

39.
40.
41.
42.
43.
44.
45.
46.
47.
48.
49.
50.
51.
52.
53.
54.
55.
56.

273 BLTTHS năm 2003”, Tạp chí Luật học, (2).
Phan Thị Thanh Mai (2006), “Một số ý kiến về thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm”,

Tạp chí Luật học, (11).
Phan Thị Thanh Mai (2007), Giám đốc thẩm trong TTHS Việt Nam, luận án Tiến sĩ, Hà
Nội.
Hương Nhung (2005), “Những khó khăn, vướng mắc khi thực hiện các quy định của
BLTTHS năm 2003 về xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm và thi hành bản án, quyết định
của Tòa án”, Tạp chí Kiểm sát, (24).
Tôn Thiện Phương (2002), Vai trò của VKSND trong xét xử vụ án hình sự, luận văn Thạc
sĩ, Hà Nội.
Đinh Văn Quế (1997), Giám đốc thẩm, tái thẩm về hình sự - những vấn đề về lý luận và
thực tiễn, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Đinh Văn Quế (2003), Thủ tục xét xử các vụ án hình sự, Nxb Tổng hợp thành phố Hồ Chí
Minh.
Đinh Văn Quế (2004), “Căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm theo BLTTHS năm 2003”, Tạp
chí TAND, (22).
Đinh Văn Quế (2005), “Vấn đề kháng nghị giám đốc thẩm về “dân sự” trong vụ án hình
sự”, Tạp chí TAND, (9).
Đinh Văn Quế (Chủ nhiệm đề tài, 2005), Nâng cao hiệu quả công tác giám đốc việc xét xử
các vụ án hình sự, Đề tài cấp Bộ, Hà Nội.
Đinh Văn Quế (2005), “Các quy định pháp luật TTHS về công tác giám đốc việc xét xử
các vụ án hình sự”, Nâng cao hiệu quả công tác giám đốc việc xét xử các vụ án hình sự, Đề
tài cấp Bộ, Hà Nội.
Đinh Văn Quế (2006), “Tòa án cấp phúc thẩm có xét kháng nghị quá hạn không?”, Tạp chí
TAND, (23).
Lê Kim Quế (2006), “Một số vấn đề về giám đốc thẩm hình sự”, Tạp chí TAND, (14).
Đinh Văn Quế (2007), Bình luận khoa học BLTTHS, Nxb Tổng hợp thành phố Hồ Chí
Minh.
Đinh Văn Quế (2008), “Thấy gì qua một số vụ án bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc
thẩm”, Tạp chí TAND, (20).
Đinh Văn Quế, Thủ tục giám đốc thẩm trong luật TTHS Việt Nam.
Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (1981), Luật tổ chức VKSND, Hà Nội.

Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (1980, 1992 và 2013), Hiến pháp, Hà Nội.
Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (1988), BLTTHS, Hà Nội.
Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (1999), BLHS, Hà Nội.
Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (2003), BLTTHS, Hà Nội.
Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (2009), BLHS (sửa đổi, bổ sung), Hà Nội.
Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (2004 và 2011), Bộ luật tố tụng dân sự, Hà
Nội.
Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (1960), Luật tổ chức TAND, Hà Nội.
Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (1960), Luật tổ chức VKSND, Hà Nội.
Quyết định giám đốc thẩm, Quyết định tái thẩm của Hội đồng Thẩm phán TANDTC, Tòa
hình sự TANDTC và một số Tòa án địa phương.
TANDTC (2003), Công văn số 121/2003/KHXX ngày 19/9 về giải quyết các vấn đề liên quan đến
tài sản, bồi thường thiệt hại trong vụ án hình sự, Hà Nội.
TANDTC (2004), Công văn số 117/2004/KHXX ngày 22/7 về việc triển khai thi hành
BLTTHS năm 2003, Hà Nội.
TANDTC (1964), Thông tư số 6-TC ngày 23/7 về trình tự giám đốc xét xử, Hà Nội.


TANDTC, VKSNDTC (1988), Thông tư số 01-TANDTC-VKSNDTC /TTLT ngày 08/12 hướng
dẫn thi hành một số quy định trong BLTTHS, Hà Nội.
58. TANDTC (2009), Báo cáo tổng kết công tác ngành Tòa án năm 2009, Hà Nội.
59. TANDTC (2010), Báo cáo tổng kết công tác ngành Tòa án năm 2010, Hà Nội.
60. TANDTC (2011), Báo cáo tổng kết công tác ngành Tòa án năm 2011, Hà Nội.
61. TANDTC (2012), Báo cáo tổng kết công tác ngành Tòa án năm 2012, Hà Nội.
62. TANDTC (2013), Báo cáo tổng kết công tác ngành Tòa án năm 2013, Hà Nội.
63. TANDTC (2009), Sổ tay Thẩm phán, Nxb Lao động.
64. TANDTC (2013), Dự thảo sửa đổi BLTTHS, Hà Nội.
65. TANDTC (2006), Tài liệu tập huấn về BLTTHS, Hà Nội.
66. Bùi Quang Thạch (2008), “Những vấn đề cần sửa đổi BLTTHS Việt Nam năm 2003 trên
cơ sở nghiên cứu BLTTHS Liên bang Nga năm 2006”, Tạp chí TAND, (16).

67. Quản Thị Ngọc Thảo (2007), “Giám đốc thẩm: một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, luận
văn Thạc sĩ, Hà Nội.
68. Trường Đại học luật Hà Nội (1999), Giáo trình luật TTHS, Nxb Công an nhân dân.
69. Trường Cán bộ Tòa án (2013), Tổng hợp vướng mắc về hình sự năm 2010 và năm 2011,
Mục trao đổi nghiệp vụ, Cổng thông tin điện tử Trường Cán bộ Tòa án
(), ngày 11/4.
70. Nguyễn Văn Trượng (1996), Giám đốc thẩm trong TTHS, luận văn Thạc sĩ, Hà Nội.
71. Nguyễn Văn Trượng (2010), “Thực trạng thực hiện quy định của BLTTHS về thẩm quyền
của Hội đồng giám đốc thẩm và những vấn đề cần hoàn thiện”, Tạp chí TAND, (23).
72. Nguyễn Văn Trượng (2011), “Thực trạng thi hành quy định của BLTTHS về phạm vi giám đốc
thẩm và những vấn đề cần hoàn thiện”, Tạp chí TAND, (7).
73. Từ điển Tiếng Việt (2007), Nxb Từ điển Bách Khoa, Hà Nội.
74. Từ điển tiếng Việt (1998), Nxb Đà Nẵng và Trung tâm từ điển học.
75. Từ điển Luật học (1999), Nxb Từ điển Bách Khoa, Hà Nội.
76. Đào Trí Úc (1997), Nhà nước và pháp quyền của chúng ta trong sự nghiệp đổi mới, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
77. Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Ngôn ngữ học (1998), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà
Nẵng, Trung tâm từ điển học, Hà Nội - Đà Nẵng.
78. Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (2006), Từ điển Luật học, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
79. VKSNDTC (2007), Quy chế công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ
án hình sự, ban hành kèm theo quyết định số 960/2007/QĐ-VKSTC ngày 17/9, Hà Nội.
Trang Web
80. />81. />82. />57.



×