Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

Bài tập học kỳ hình sự tình huống

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (125.91 KB, 9 trang )

Bài 3
Hiếu và Hoa kết hôn đã được 15 năm. Hiếu thường xuyên uống rượu say thì về
đập phá đồ đạc trong gia đình và đánh vợ rất dã man. Mỗi khi không lo được tiền
cho chồng mua rượu, chị Hoa lại phải gánh chịu những lời lăng mạ tồi tệ cùng trận
đòn quái ác của chồng. Có lần chưa hả dạ, Hiếu còn kéo chị Hoa ra đầu làng và
làm nhục chị. Do quá uất ức và tủi nhục, chị Hoa đã nhảy xuống sông để tự sát.
Thấy vậy, Hiếu nhảy xuống sông dìm đầu vợ xuống nước và nói: “Muốn chết tao
cho chết luôn”. Mấy phút sau chị Hoa tắt thở.
HỎI:
1. Xác định tội danh của Hiếu(2 điểm)
2. Giả sử Hiếu không có hành vi dìm đầu vợ xuống nước thì tội danh của Hiếu là
gì (2điểm)
3. Giả sử Hoa nhẩy xuống sông tự sát nhưng được hàng xóm cứu, không chết thì
TNHS của Hiếu được giải quyết như thê nào (2 điểm)
4. Giả sử Hiếu vừa chấp hành xong ban án 7 năm tù về tội cố ý gây thương tích và
đã có các hành vi nêu trên thì trường hợp phạm tội của Hiếu được coi là tái phạm
hay tái phạm nguy hiểm (1 điểm)


1. Xác định tội danh của Hiếu?
Trả lời:
Tội danh của Hiếu là tội giết người được quy định tại Điều 93 BLHS.
Xem xét các dấu hiệu pháp lý trong hành vi của Hiếu:
Về khách thể: Tội giết người thuộc nhóm tội xâm phạm tính mạng của con
người, nên khách thể của nó là một trong những khách thể quan trọng nhất được
luật hình sự bảo vệ. Khách thể của tội giết người là quyền sống, quyền được tôn
trọng và bảo vệ tính mạng. Đối tượng của hành vi tước đoạt tính mạng chỉ có thể là
con người đang sống, đang tồn tại trong thế giới khách quan với tư cách là con
người – thực thể tự nhiên của xã hội. Do đó, đói tượng tác động ở đây chính là chị
Hoa, một người đang sống bình thường.
Về chủ thể của tội phạm này là anh Hiếu, người có đủ năng lực trách nhiệm


hình sự và có đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự là 14 tuổi trở lên.
Về mặt khách quan
Về hành vi khách quan: Hành vi khách quan của tội giết người là hành vi
tước đoạt trái pháp luật tính mạng của người khác. Hành vi tước đoạt tính mạng
của người khác được hiểu là hành vi có khả năng gây ra cái chết cho con
người,chấm dứt sụ sống của họ. Những hành vi không có khả năng này không thể
là hành vi khách quan của tội giết người. Hành vi có khả năng gây ra cái chết của
con người có thể là hành đọng hoặc không hành động. Ở tình huống trên, khi thấy
chị Hoa nhảy xuống sông tự sát Hiếu đã nhảy xuống sông dìm đầu vợ xuống nước
và nói “muốn chết tao cho chết luôn”, mấy phút sau chị Hoa tắt thở. Hiếu đã có
hành vi dìm đầu vợ xuống nước. Hành vi của Hiếu được coi là hành vi khách quan
của tội giết người vì đó là hành vi tước đoạt trái pháp luật tính mạng của người
khác (tính mạng của chị Hoa). Có hành vi làm chết người khác. Được thể hiện qua
hành vi dùng mọi thủ đoạn nhằm làm cho người khác chấm dứt cuộc sống. Cụ thể,
xét trong trường hợp này Hiếu đã dìm đầu chị Hoa xuống nước.
Hậu quả của tội phạm: Hậu quả được quy định là dấu hiệu bắt buộc trong
CTTP tội giết người. Tội giết người chỉ được coi là tội phạm hoàn thành khi có hậu


quả chết người. Chị Hoa đã tắt thở sau khi Hiếu dìm đầu chị Hoa xuống nước. Như
vậy, hậu quả chết người đã xảy ra, tội phạm do Hiếu thực hiện là ở giai đoạn tội
phạm hoàn thành.
Quan hệ nhân quả giữa hành vi khách quan – hành vi tước đoạt tính mạng
của người khác – đã thực hiện và hậu quả chết người đã xảy ra cũng là một dấu
hiệu bắt buộc trong CTTP tội giết người. Hành vi đó của Hiếu chính là nguyên
nhân trực tiếp dẫn đến cái chết của chị Hoa (chấm dứt sự sống của chị Hoa).
Lỗi của Hiếu là lỗi cố ý trực tiếp. Hiếu đã thấy trước được hâu quả chết
người có thể xảy ra (hoặc tất nhiên xảy ra) nhưng vì mong muốn là hậu quả là thiệt
hại về tính mạng nên đã thực hiện hành vi phạm tội. hành vi dìm đầu vợ xuống
nước là hành vi cố ý. Hiếu nói: “Muốn chết tao cho chết luôn” khi dìm chị Hoa

xuống thể hiện ý chí của Hiếu là mong muốn chị Hoa chết.
Trong quá trình định tội danh cho hành vi của Hiếu, có ý kiến cho rằng khi
chị Hoa tự sát đã cấu thành tội bức tử (Điều 100 BLHS). Nếu chỉ dừng lại ở hành
vi tự sát của chị Hoa thì Hiếu có thể bị xem xét về tội bức tử theo Điều 100 BLHS.
Tuy nhiên, xem xét mặt chủ quan của tội phạm, Hiếu khi thực hiện hành vi thì lỗi
của Hiếu là lỗi cố ý trực tiếp, Hiếu mong muốn chị Hoa chết. Trong khi lỗi của tội
bức tử là lỗi cố ý gián tiếp hoặc vô ý. Hay nói cách khác, trong trường hợp này,
hành vi của Hiếu đã chuyển biến từ tội bức tử sang tội giết người.
Từ các dấu hiệu trên, kết luận rằng, tội danh mà Hiếu thực hiện là tội
giết người được quy định tại Điều 93 BLHS.
2. Giả sử Hiếu không có hành vi dìm đầu vợ xuống nước thì tội danh
của Hiếu là gì ?
Trả lời:
Khoản 1 điều 100BLHS quy định về tội bức tử như sau: “Người nào đối xử
tàn ác, thường xuyên ức hiếp, ngược đãi hoặc làm nhục người lệ thuộc mình làm
người đó tự sát, thì bị phạt tù từ hai đến bảy năm”. Hành vi của Hiếu phù hợp với
cấu thành tội phạm của tội bức tử với những dầu hiệu pháp lí sau:


Về khách thể, cũng như tội giết người, tội này thuộc nhóm tội phạm xâm
phạm tính mạng con người nên khách thể của nó là một trong những khách thể
quan trọng nhất của luật hình sự bảo vệ. Đó là quyền sống, quyền được tôn trọng
và bảo vệ tính mạng.
Về chủ thể của tội phạm này – chủ thể đặc biệt, là người có quan hệ lệ thuộc
nhất định với nạn nhân (chị Hoa). Trong đó, chị Hoa là người bị lệ thuộc vào Hiếu
về quan hệ hôn nhân, gia đình (hai người đã kết hôn được 15 năm). Hiếu đã lời
dụng quan hệ hôn nhân này để có hành vi xâm phạm đến sức khỏe, xúc phạm danh
dự, nhân phẩm của nạn nhân.
Về mặt khách quan của tội phạm. Thứ nhất, Hiếu đã có những hành vi sau
đây: Đối xử tàn ác với chị Hoa (Hiếu thường xuyên uống rượu say thì về đập phá

đồ đạc trong gia đình và đánh vợ rất dã man), Hiếu đã đối xử một cách tàn nhẫn,
có hành động gây đau khổ cho Hoa, vợ của y. Sự đau khổ của Hoa là cả sự đau khổ
về thể xác và tinh thần. Hoa bị đánh rất dã man. Bên cạnh đó Hiếu cũng thường
xuyên ức hiếp ngược đãi chị Hoa: Mỗi khi không lo được tiền cho chồng mua
rượu, chị Hoa lại phải gánh chịu những lời lăng mạ tồi tệ cùng những trận đòn quái
ác của chồng. Điều này đồng nghĩa với Hiếu nhiều lần (mỗi khi) dựa vào quyền
hành, dựa vào sức mạnh của người chồng trong gia đình để đè nén, bắt Hoa phải
chịu điều bất công, phi lí (bị đánh dã man và bị lăng mạ tồi tệ với lí do không lo
được tiền mua rượu cho Hiếu) mà không dám phản kháng (chị Hoa không dám
chống trả, không dám lên tiếng). Ngoài ra Hiếu còn cả hành vi làm nhục vợ mình:
có lần Hiếu kéo chị Hoa ra đầu làng và làm nhục chị. Hành động đó Hiếu đã làm
tổn thương đến nhân phẩm, danh dự của chị Hoa. Hành động đó Hiếu đã làm tổn
thương đến nhân phảm, danh dự của chị Hoa. Hành vị của Hiếu diễn ra thường
xuyên, trong một thời gian kéo dài (kết hôn được 15 năm).
Hành vi của Hiếu với chị Hoa đã đi ngược lại những quy tắc xử sự trong xã
hội, những truyền thống tốt đẹp của nhân dân ta về tình cảm gia đình, quan hệ vợ
chồng; không chỉ xâm hại đến các quan hệ được luật hình sự bảo vệ mà còn xâm
hại các quy định của luật Hôn nhân gia đình.


Hậu quả của tội phạm: Các hành vi khách quan nói trên là nguyên nhân dẫn
đến việc chị Hoa tự sát. Do bị đối xử tàn ác, bị ức hiếp, làm nhục và quá uất ức mà
chị Hoa đã có hành vi tự kết liễu tính mạng của mình bằng cách nhảy sông tự sát.
Về mối quan hệ nhân quả: quan hệ nhân quả giữa hành vi phạm tội của
Hiếu và việc tự sát của chị Hoa là dấu hiệu bắt buộc cấu thành tội phạm. Hiếu phải
chịu trách nhiệm hình sự về tội bức tử vì những hành vu đã gây ra hậu quả là nạn
nhân tự sát. Chỉ cần dẫn đến việc nạn nhân tư sát là tội phạm đã hoàn thành và bị
truy cứu trách nhiệm hình sự đối với tội danh này, không cần xét nạn nhân có chết
hay không.
Về yếu tố lỗi, Hiếu cố ý thực hiện hành vi kể trên, nhưng đối với hậu quả tự

sát , lỗi của Hiếu ở đây là lỗi vô ý hoặc cố ý gián tiếp. Vì Hiếu tuy không thấy
trước hành vi hay thấy trước hành vi của mình có thể dẫn đến việc tự sát của vợ
những đã quá tin rằng việc đó sẽ không xảy ra hoặc Hiếu nhận thức được hành vi
của mình có thể dẫn đến việc tự sát của Hoa nhưng có ý thức bỏ mặc.
Những hành vi của Hiếu thỏa mãn các dấu hiệu pháp lí: khách thể, chủ thể,
mặt khách quan và mối quan hệ nhân quả, lỗi của tội bức tử được quy định tại Điều
100 BLHS. VIệc chị Hoa tự sát do hành vi của Hiếu đã cấu thành tội bức tử, bất kể
Hiếu có hành vi dìm đầu chị Hoa xuống hay không, chị Hoa có chết hay không.
Nếu Hiếu không có hành vi dìm chị Hoa mà chị Hoa vẫn chết thì cái chết của chị
Hoa chỉ có ý nghĩa xem xét khi quyết định hình phạt.
Như vậy, nếu Hiếu không có hành vi dìm đầu vợ xuống nước thì tội
danh của Hiếu là tội bức tử (theo điều 100 BLHS).
3. Giả sử Hoa nhảy xuống sông tự sát nhưng được hàng xóm cứu, không
chết thì TNHS của Hiếu được giải quyết như thế nào ?
Trả lời:
Trách nhiệm hình sự là trách nhiệm của người phạm tội phải chịu, là hậu quả
pháp lí bất lợi về hành vi phạm tội của mình.
Xét vụ án trên chúng ta thấy, hành vi của Hiếu đã thỏa mãn các yếu tố cấu
thành của tội bức tử theo Điều 100 BLHS. Chị Hoa, vợ của anh Hiếu là người
chung sống với anh đã được mười lăm năm, trong quá trình sống anh Hiếu còn có


những hành động nhằm làm nhục vợ mình không chỉ ở nhà, mà còn ở những nơi
đông người qua lại (kéo chị Hoa ra đầu làng và làm nhục chị). Vì quá uất ức nên
chị Hoa đã nhảy xuống sông tự sát, nhưng lại được hàng xóm cứu nên chị không
chết. Điều đáng nói ở đây chính là mặc dù chị Hòa là người muốn tự tước đi tước
đi tính mạng của mình, nhưng nếu xét ở nguyên nhân dẫn đến việc chị Hoa tự sát
thì chúng ta dễ dàng nhận thấy đó là do hành vi đối xử tàn ác và thường xuyên làm
nhục vợ của anh Hiếu (người tri kỉ sống cùng Hiếu có thể coi là người sống phụ
thuộc vào Hiếu cả vật chất lẫn tinh thần). Tuy chị Hoa tự sát không chết nhưng

Hiếu vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự về tội bức tử theo điều 100 BLHS vì tội
bức tử có cấu thành tội phạm hình thức có nghĩa là chỉ cần nạn nhân có hành vi tự
sát là tội phạm hoàn thành và phải truy cứu trách nhiệm hình sự đối với tội danh
này và không cần hậu quả chết người xảy ra, còn việc nạn nhân chết hay được cứu
sống chỉ có ý nghĩa xem xét quyết định mức hình phạt. Khoản 1 điều 100 BLHS
quy định: “Người nào đối xử tàn ác, thường xuyên ức hiếp, ngược đãi hoặc làm
nhục người lệ thuộc mình làm người đó tự sát, thì bị phạt tù từ 2 năm đến 7 năm”.
Theo đó, tùy vào mức độ nguy hiểm của hành vi và nhân thân của người phạm tội
mà Tòa án có thể quyết định hình phạt nằm trong khoảng từ 2 năm đến 7 năm. Anh
Hiếu phải chịu trách nhiệm hình sự đối với tội bức tử mà mình gây ra theo quyết
định xét xử của Tòa án.
Hình phạt mà Hiếu phải chịu là hình phạt tù – hình phạt nghiêm khắc nhà
nước dành cho HIếu đối với tội danh mà anh gây ra. Đồng nghĩa với điều đó, Hiếu
bị tước quyền tự do (hạn chế), buộc phải chấp hành các nội quy, quy chế của trại
giam, cải tạo và bị mất một số quyền nhất định như: quyền bầu cử, bị hạn chế
quyền của cha mẹ đối với con cái,…
Vậy đối với trường hợp trên anh Hiếu vẫn sẽ phải chịu trách nhiệm hình
sự về tội bức tử theo khoản 1 điều 100 BLHS.
4. Giả sử Hiếu vừa chấp hành xong bản án 7 năm tù về tội cố ý gây
thương tích và đã có các hành vi nêu trên thì trường hợp phạm tội của Hiếu
được coi là tái phạm hay tái phạm nguy hiểm ?
Trả lời:


Trước tiên để giải quyết yêu cầu này thì chúng ta phải hiểu như thế nào là tái
phạm và tái phạm nguy hiểm. Tại điều 49 BLHS Việt Nam có quy định rõ ràng:
“Tái phạm và tái phạm nguy hiểm:
1. Tái phạm là trường hợp đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại phạm
tội do cố ý, hoặc phạm tội rất nghiêm trọng , tội đặc biệt nghiêm trọng do vô ý.
2. Những trường hợp sau đây được coi là tái phạm nguy hiểm:

a) Đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý,
chưa được xóa án tích mà lại phạm tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng
do cố ý;
b) Đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại phạm tội do cố ý.”
Như vậy từ quy định trên chúng ta nhận thấy rằng để xác định hành vi của
Hiếu là tái phạm hay tái phạm nguy hiểm thì trước hết chúng ta phải xác định Hiếu
đã được xóa án tích hay chưa? Trong vụ án trên chúng ta thấy Hiếu vừa chấp hành
xong bản án 7 năm tù về tội cố ý gây thương tích. Do đó căn cứ vào điểm c khoản
2 điều 64 quy định về trường hợp đương nhiên được xóa án tích: “c)năm năm
trong trường hợp hình phạt tù từ trên 3 năm đến dưới mười lăm năm”, Điều 66 về
xóa án tích trong trường hợp đặc biệt và tình tiết Hiếu vừa chấp hành xong bản án
7 năm tù, ta có thể khẳng định rằng đương nhiên Hiếu chưa được xóa án tích.
Thứ hai, căn cứ theo tội danh của Hiếu đã được xác định ở phần 1 thì hành
vi của Hiếu cấu thành tội phạm của tội giết người (Điều 93 BLHS). Theo đó, Hiếu
đã phạm tội giết người theo khoản 2 điều 93 BLHS: “phạm tội không thuộc các
trường hợp quy định tại khoản 1 điều này, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm
năm”. Theo khoản 3 điều 8 BLHS thì tội phạm được quy định tại khoản 2 điều 93
blHS là tội rất nghiêm trọng . Như vậy, tội mà HIếu đã thực hiện là tội rất nghiêm
trọng. Điều đó có nghĩa Hiếu đã bị kết án, mặc dù chưa được xóa án tích nhưng
Hiếu đã lại phạm tội rất nghiêm trọng.
Quay trở lại vụ án trên chúng ta thấy Hiếu vừa chấp hành án bảy năm tù về
tội cố ý gây thương tích theo điều 104 BLHS. Như vậy, với mức án Hiếu vừa thi
hành xong là bảy năm tù giam thì ta cần xem xét ba trường hợp:


Trường hợp 1: Hiếu vừa thi hành xong bản án 7 năm tù về tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác tai khoản 2 Điều 104
BLHS: “Phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
mà tỉ lệ thương tật từ 31% đến dưới 60% nhưng thuộc một trong các trường hợp
quy định tại các điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ hai năm đến

7 năm”. Với khung hình phạt cao nhất trong khoản này là 7 năm tù, căn cứ theo
khoản 3 Điều 8 BLHS thì loại tội mà Hiếu phạm phải trong trường hợp này là tội
nghiêm trọng. Dựa vào điểm c, khoản 2 Điều 64, ĐIều 49 BLHS và việc sau đó
Hiếu lại phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý. Do vậy trường hợp phạm tội này của
Hiếu được coi là tái phạm.
Trường hợp 2: Hiếu vừa chấp hành xong bản án 7 năm tù về tội cố ý gây
thương tích tại Khoản 3 Điều 104 BLHS: “phạm tội cố ý gây thương tích, gây tổn
cho sức khỏe người khác mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc dẫn đến chết
ngừoi hoặc từ 31% đến 60% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại
các điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười lăm
năm”. Với mức án cao nhất là mười lăm năm tù thì theo khoản 3 Điều 8 BLHS thì
Hiếu phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý, Hiếu chưa được xóa án tích theo điểm c
Khoản 2 Điều 64 mà phạm thêm tội giết người (rất nghiêm trọng do cố ý) thì Hiếu
được coi là tái phạm nguy hiểm.
Trường hợp này tội này của Hiếu được coi là tái phạm nguy hiểm.
Trường hợp 3: Hiếu bị kết án về tội cố ý gây thương tích theo khoản 4 Điều
104 BLHS: “phạm tội dẫn đến chết nhiều người hoặc trong trường hợp đặc biệt
nghiêm trọng khác, thì bị phạt tù từ mười lăm năm đến hai mươi năm hoặc tù
chung thân”. Nhưng lại có các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại Điều 46 và căn
cứ Điều 47 BLHS về quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của bộ luật: “Khi có ít
nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 của Bộ luật này, tòa án có
thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt mà điều luật
đã quy định nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật; trong
trường hợp điều luật chỉ có một khung hình phạt hoặc khung hình phạt đó là
khung hình phạt nhẹ nhất của điều luật, thì Tòa án có thể quyết định một hình phạt


dưới mức thấp nhất của khung hình phạt hoặc chuyển sang một mức hình phạt
khác thuộc loại nhẹ hơn. Lý dó của việc giảm nhẹ phải được ghi rõ trong bản án”
thì hình phạt dành cho Hiếu trong trường hợp này được giảm nhẹ. Tức là Tòa án có

thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt tại khoản 4
Điều 104 (từ mười năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân) nhưng phải trong
khung hình phạt liền kề - khung hình phạt tại khoản 3 Điều 104 BLHS (từ từ năm
năm đến mười lăm năm). Trường hợp này hình phạt mà Hiếu phải chịu là 7 năm tù.
Tuy nhiên, để xác định trường hợp nào là tái phạm nguy hiểm thì không
được căn cứ vào mức hình phạt Hiếu phải chịu mà phải căn cứ vào tội à Tòa án
tuyên cho Hiếu. Trường hợp này, mặc dù Hiếu thuộc khoản 4 Điều 104 (từ mười
năm đến hai mưoi năm hoặc tù chung thân). Như vậy, theo khoản 3 Điều 8 BLHS
thì Hiếu phạm tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, Hiếu chưa được xóa án tích theo
điểm c Khoản 2 Điều 64 mà phạm thêm tội giết người (rất nghiêm trọng do cố ý)
thì Hiếu được coi là tái phạm nguy hiểm.
Trường hợp phạm tội này của Hiếu được coi là tái phạm nguy hiểm.



×