Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Đối tượng điều chỉnh của luật dân sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (144.32 KB, 24 trang )

LỜI MỞ ĐẦU

Bộ luật dân sự năm 2005 được quốc hội nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 14/6/2005, có hiệu lực từ ngày
01/01/2006. Đây là bộ luật lớn nhất của nước ta hiện nay. Với 777 điều luật, bộ
luật dân sự điều chỉnh các quan hệ xã hội có tính phổ biến trong đời sống của
nhân dân ta hiện nay.
Ngành luật dân sự quy định cách chuẩn mực pháp lý cho cách ứng xử của
các chủ thể trong giao lưu dân sự nhằm bảo đảm sự ổn định và lành mạnh hoá
các quan hệ dân sự trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa.Luật dân sự được coi là luật chung trong lĩnh vực luật tư bao gồm
các quy định liên quan đến quyền lợi của chủ thể và về nguyên tắc có thể thay
đổi bằng sự thoả thuận của các bên. Luật dân sự điều chỉnh các quan hệ tài sản
và quan hệ nhân thân theo nghĩa rộng bao gồm các quan hệ dân sự, hôn nhân và
gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, trong nền kinh tế thị trường ./
Để làm rõ vấn đề đối tượng điều chỉnh của luật dân sự thì chắc bài viết sau
sẽ giúp các bạn hiểu được phần nào về vấn đề trên. Mặc dù đã cố gắng nhưng bài
viết khó tránh khỏi những khiếm khuyết , rất mong các bạn và thầy cô góp ý để
bài viết được hoàn thiện hơn. Xin chân thành cảm ơn./

1


Luật Dân sự Việt Nam là một ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật
Việt Nam, bao gồm tổng hợp các quy phạm pháp luật nhằm điều chỉnh các quan
hệ tài sản mang tính chất hàng hóa - tiền tệ và các quan hệ nhân thân trên cơ sở
bình đẳng, độc lập của các chủ thể khi tham gia vào các quan hệ đó và có hiệu
lực pháp lý trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam.

I) Lịch sử của luật dân sự việt nam:
Trong giai đoạn nhà nước phong kiến, luật dân sự Việt Nam không được


tách ra thành một bộ luật riêng mà được tìm thấy trong các điều khoản của các
bộ luật phong kiến như Lê triều hình luật (Luật Hồng Đức), Nguyễn triều hình
luật (Hoàng Việt luật lệ). Đến khi người Pháp chiếm đóng Việt Nam thì các bộ
luật dân sự được áp dụng riêng rẽ ở ba kỳ lần lượt xuất hiện. Ví dụ ở Nam Kỳ thì
bộ luật dân sự Nam Kỳ giản yếu ra đời năm 1883, bộ dân luật Bắc Kỳ ra đời năm
1931 và tại Trung Kỳ là bộ dân luật Trung Kỳ (Hoàng Việt Trung Kỳ hộ luật) ra
đời năm 1936. Sau ngày 2 tháng 9 năm 1945, do hoàn cảnh chiến tranh với
người Pháp nên chính phủ của chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn áp dụng các bộ luật
dân sự này. Ngày 22 tháng 5 năm 1950, chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh số
97/SL để "sửa đổi một số quy lệ và chế định trong dân luật" nhằm sửa đổi một số
điều trong các bộ dân luật cũ này. Tại miền bắc Việt Nam, ngày 10 tháng 7 năm
1959 tòa án tối cao ra chỉ thị số 772/TATC để "đình chỉ việc áp dụng luật pháp
cũ của phong kiến đế quốc". Từ thời điểm đó trở đi, tại miền bắc Việt Nam thiếu
hẳn bộ luật dân sự thực thụ. Một số mảng của luật dân sự được tách ra thành các
bộ luật khác như Luật hôn nhân và gia đình hay các văn bản pháp quy dưới luật
như thông tư, chỉ thị, nghị định, pháp lệnh. Tuy nhiên, nhiều lĩnh vực dân sự như
thừa kế, quyền sở hữu trí tuệ v.v. không được điều chỉnh trực tiếp. Các quy định
về nghĩa vụ dân sự được quy định chủ yếu là các vấn đề về nhà ở, vàng bạc, kim

2


khí quý và đá quý v.v. và nói chung mang nặng tính chất hành chính. Có thể liệt
kê một số văn bản pháp luật trong lĩnh vực dân sự như: Luật hôn nhân gia đình
(1986), Luật Quốc tịch (1988), Pháp lệnh chuyển giao công nghệ nước ngoài vào
Việt Nam (1988), Pháp lệnh về sở hữu công nghiệp (1989), Pháp lệnh Hợp đồng
kinh tế (1989), Pháp lệnh về thừa kế (1990), Pháp lệnh về Hợp đồng dân sự
(1991), Pháp lệnh về nhà ở (1991) v.v. Tuy các pháp lệnh có nhiều nhưng đôi
khi chồng chéo và mâu thuẫn với nhau nên đã gây ra nhiều khó khăn cho việc áp
dụng pháp luật.

Năm 1995, quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua Bộ
luật Dân sự (có hiệu lực từ ngày 1 tháng 7 năm 1996). Sau 10 năm thi hành, Bộ
luật Dân sự đã có nhiều hạn chế, bất cập như: một số quy định không phù hợp
với sự chuyển đổi nhanh của nền kinh tế thị trường, không rõ ràng hay không
đầy đủ hoặc còn mang tính hành chính. Nhiều bộ luật mới ra đời có các nội dung
liên quan đến Bộ luật Dân sự Việt Nam 1995 nhưng bộ luật này lại không điều
chỉnh, sửa đổi dẫn đến mâu thuẫn giữa chúng cũng như chưa có sự tương thích
với các Điều ước quốc tế và thông lệ quốc tế.
Ngày 14 tháng 6 năm 2005, Quốc hội Việt Nam đã thông qua Bộ luật Dân sự
sửa đổi. Bộ Luật Dân sự Việt Nam 2005 có hiệu lực kể từ ngày 1 tháng 1 năm
2006.
Để quản lý xã hội bằng pháp luật và không ngừng nâng cao tính thực thi của
các văn bản pháp luật,tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, đảng và nhà nước
ta chủ trương xây dựng một hệ thống ngày càng hoàn chỉnh phản ánh tốt hơn
đường lối của đảng trong công cuộc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. Với mục tiêu, động lực chính của sự phát
triển là vì con người ,do con người , đặt con người vào vị trí trung tâm,giải
3


phóng sức sản xuất,khơi dậy mọi tiềm năng của mỗi cá nhân,mỗi tập thể lao
động và của cả cộng đồng dân tộc; động viên và tạo điều kiện cho mọi người
Việt Nam phát huy ý chí tự lực,tự cường,cần kiện xây dựng tổ quốc,ra sức làm
giàu cho mình và cho đất nước. Trong đó, mọi người được tự do kinh doanh theo
pháp luật, được bảo hộ quyền sở và thu nhập hợp pháp.
Hệ thống pháp luật của nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam bao
gồm nhiều nghành luật, điều chỉnh các quan hệ xã hội đa dạng ,phức tạp.Trong
đó ,mỗi nghành luật điều chỉnh những nhóm quan hệ xã hội nhất định. Những
nhóm quan hệ xã hội do một nghành luật điều chỉnh được gọi là đối tượng điều
chỉnh của ngành luật đó. Để điều chỉnh các quan hệ xã hội,nhà nước sử dụng

các biện pháp tác động khác nhau,hướng cho các quan hệ xã hội phát sinh,thay
đổi,chấm dứt phù hợp với ý chí nhà nước. Phương pháp tác động của nhà nước
lên các quan hệ xã hội có những đặc thù khác nhau phụ thuộc vào các quan hệ xã
hội cần điều chỉnh bằng pháp luật.

II) Đối tượng điều chỉnh của luật dân sự việt nam
Đối tượng điều chỉnh của luật dân sự Việt Nam là những nhóm quan hệ về
nhân thân và tài sản trong quan hệ dân sự ,hôn nhân và gia đình ,kinh doanh
,thương mại ,lao động (Điều 1 BLDS năm 2005)
Các quan hệ dân sự là những quan hệ xã hội phát sinh một cách khách quan.
Chúng tồn tại và phát triển gắn liền với sự tồn tại và phát triển của xã hội loại
người . Pháp luật dân sự là công cụ pháp lý của nhà nước thực hiện chức năng
điều chỉnh các quan hệ dân sự, nó ra đời và tồn tại cùng với nhà nước và là một
phạm trù lịch sử. Trong từng thời kỳ nó có thể chỉ là các quy định về dân sự giản
4


đơn chưa thành một nghành luật độc lập nhưng đã có vị trí , vai trò tích cực trong
việc điều chỉnh , bảo vệ quan hệ sở hữu, quan hệ tài sản tồn tại khách quan trong
xã hội.
1) Quan hệ tài sản :
Nhóm quan hệ tài sản là đối tượng điều chỉnh chủ yếu của luật dân sự .Quan
hệ tài sản là quan hệ giữa người với người thông qua một tài sản dưới dạng tư
liệu sản xuất hoặc tư liệu tiêu dùng hay giao dịch chuyển quyền chiếm hữu ,sử
dụng tài sản đó trong quá trình sản xuất ,phân phối lưu thông .Quan hệ tài sản
bao giờ cũng gắn liền với một tài sản và khái niệm quan hệ tài sản có liên quan
chặt chẽ với khái niệm tài sản.Trong luật dân sự,tài sản không chỉ bao gồm các
đồ vật nằm trong sở hữu ,trong sự quản lí hay sử dụng của một người nào đó mà
còn bao gồm cả quyền yêu cầu mang nội dung tài sản,như quyền yêu cầu trả nợ
chuyển giao đồ vật đã bán ... các quan hệ tài sản bao giờ cũng phát sinh và tồn

tại trong mối liên hệ với tài sản nhất định hoặc với việc chuyển giao các quyền
lợi về tài sản từ người này sang người kia.
Tài sản và quyền sở hữu tài sản là một trong những tiền đề vật chất quan
trọng cho sự phát triển của kinh tế xã hội .Các quan hệ tài sản và sở hữu được
điều chỉnh bằng nhiều văn bản pháp luật thuộc các nghành luật khác nhau : Hiến
pháp ,luật đất đai ,luật dân sự ...Trong luật dân sự, các quy phạm pháp luật điều
chỉnh các quan hệ tài sản và sở hữu giữ vị trí trung tâm .Tuy nhiên ,ngoài nghĩa
là đối tượng ( hay khách thể của quyền sở hữu ).Tiền đề vật chất quan trọng làm
phát sinh các quan hệ tài sản trng giao lưu dân sự ( hợp đồng, thừa kế,... ).Khái
niệm tài sản được xác định rõ tại điều 172 BLDS : “ tài sản bao gồm vật có
thực, tiền, giấy tờ trị giá được bằng tiền và các quyền về tài sản ”.Như vậy , khái
niệm tài sản theo quy định của bộ luật dân sự khái quát và mở rộng phù hợp với
5


nền kinh tế thị trường . Đối với mỗi loại tài sản , điều kiện để cho chúng trở
thành đối tượng của quyền sở hữu và là cơ sở làm phát sinh quan hệ tài sản trong
giao lưu dân sự cũng rất khác nhau. vật có thực là những vật nhìn thấy ,sờ thấy
được (trong dân luật la mã gọi là tài sản hữu hình ), chúng có sẵn trong tự nhiên
hoặc do con người sáng tạo ra, vật đó phải có ích và con người có thể chiếm giữ
được làm của mình. Tiền , giấy tờ trị giá được bằng tiền ( séc, tín phiếu , kỳ
phiếu,công trái ,... ) cũng là một loại tài sản có giá trị trao đổi, lưu thông kinh tế .
Khi chủ sở hữu thực hiện các quyền năng pháp lý đối với loại tài sản này phải
tuân thủ nghiêm ngặt các quy định của nhà nước. Các quyền tài sản ( sản phẩm
sáng tạo trí tuệ, quyền đòi nợ ... )cũng trị giá được bằng tiền và được phép
chuyển dịch trong giao lưu dân sự .
Như vậy, trong nền kinh tế thị trường ,khái niệm tài sản trong giao lưu dân sự,
kinh tế được mở rộng hơn. Để xây dựng chế độ pháp lý đối với mỗi loại tài sản
nhằm hướng dẫn hành vị xử sự của các chủ thể tham gia quan hệ tài sản , luật
dân sự phân loại tài sản theo thông lệ quốc tế thành bất động sản và động sản. Ở

các nước khác nhau , phạm vị tài sản đưa vào giao lưu dân sự được pháp luật quy
định khác nhau phụ thuộc vào quan niệm của nhà nước đó về tài sản và quyền sở
hữu . Các tài sản được đưa và giao lưu dân sự phải luôn luôn thuộc về chủ sở
hữu nào đó ( cá nhân, tổ chức... )
Quan hệ tài sản là quan hệ giữa con người với con người về một tài sản nào đó
,chứ không phải là quan hệ giữa con người với đồ vật.Các quan hệ tài sản rất đa
dạng ,phong phú và các chủ thể tham gia vào các quan hệ này cũng rất khác nhau
( có thể là cá nhân hay tổ chức ) nhằm thoả mãn nhu cầu sinh hoạt,tiêu dùng , sản
xuất – kinh doanh ... Trong nhiều trường hợp chủ thể tham gia vào quan hệ tài
sản còn chính là nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, với tư cách là

6


đại diện chủ sở hữu đối với các tài sản thuộc sở hữu toàn dân (điều 206 bộ luật
dân sự ).
Các quan hệ tài sản là những quan hệ kinh tế cụ thể được phát sinh giữa người
với người trong quá trình sản xuất ,phân phối ,lưu thông tư liệu sản xuất ,tư liệu
tiêu dùng và cung ứng dịch vụ trong xã hội . Điều đó có nghĩa là , các quan hệ tài
sản có liên quan trực tiếp với quan hệ sản xuất và phù hợp với phương thức sản
xuất thuộc hạ tầng cơ sở của xã hội. Bên cạnh đó cũng có ý kiến cho rằng , các
quan hệ tài sản nói chung không liên quan gì tới quan hệ sản xuất.
Mối liên hệ qua lại giữa các quan hệ tài sản và quan hệ sản xuất đặc biệt quan
trọng và rất phức tạp . Vấn đề này C.MÁC viết “...trong sản xuất xã hội của cuộc
sống ,con người tham vào các quan hệ nhất định và cần thiết không phụ thuộc
vào ý chí con người –các quan hệ sản xuất mà chúng phù hợp với từng giai đoạn
phát triển của lực lượng sản xuất nhất định ...”. Suy ra các quan hệ sản xuất xã
hội là những quan hệ mang tính khách quan không phụ thuộc vào ý chí con
người . Tính độc lập của các quan hệ sản xuất đối với ý chí con người được đặc
trưng ở 3 yếu tố .

Thứ nhất, khi được sinh ra con người đã đứng trước một giai đoan phát triển
của quan hệ sản xuất nhất định, phù hợp với mức độ phát triển của lực lượng sản
xuất . Tất nhiên con người đó phải tham gianvào một hệ thống các mối quan hệ
sản xuất đang tồn tại và không thể thay đổi hệ thống đó theo ý mình .
Thứ hai, do đặc điểm xã hội của sản xuất và phân công lao động, để đảm bảo
cuộc sống và lao động ,con người phải tham gia vào các quan hệ giữa họ với
nhau ,phải trao đổi kết quả lao động của mình và chính điều đó đã thu hút con
người vào hệ thống các mối quan hệ sản xuất – xã hội đang tồn tại .

7


Thứ ba, sự tồn tại độc lập của các quan hệ sản xuất xã hội đối với ý chí con
người còn được thể hiện chỗ, khi tham gia vào các quan hệ với người khác , trao
đổi thành quả lao động, con người không ý thức đầy đủ được tất cả sự đa dạng
và phức tạp của các quan hệ sản xuất xã hội mà họ tham gia. Tuy nhiên trong
khuôn khổ của sự cần thiết đó con người đã thể hiện ý chí ,tức là hành động có
suy nghĩ và có ý thức để đạt được những mục đích đặt ra và cuối cùng, quan hệ
sản xuất là kết quả của hoạt động có ý thức của con người trong quá trình sản
xuất ,phân phối, trao đổi và tiêu dùng các tư liệu sản xuất và sản phẩm lao động.
Khi tham gia vào các quan hệ với nhau bằng cách đó con người bị thu hút vào hệ
thống các quan hệ sản xuất – xã hội đang tồn tại . Nhận xét về điểm này Lê nin
viết : “khi trao đổi các sản phẩm lao động con người đã tham gia vào các quan hệ
sản xuất ,thậm chí cả khi chưa ý thức được rằng ở đấy có quan hệ sản xuất xã
hội”.
Sự liên hệ biện chứng giữa quan hệ sản xuất và quan hệ tài sản thể hiện ở chỗ
một mặt các quan hệ tài sản ( quan hệ kinh tế cụ thể ) chỉ là hình thức biểu hiện
của quan hệ sản xuất , nhưng mặt khác ,các quan hệ sản xuất – xã hội suy cho
cùng chính là sự liên kết chặt chẽ , phức tạp thành quả của nhiều loại hoạt động
khác nhau của con người trong quá trình sản xuất ,phân phối trao đổi, tiêu dùng

sản phẩm lao động . Hay nói cách khác, quan hệ tài sản là mặt chủ quan của
quan hệ sản xuất .
Pháp luật điều chỉnh hành vi xử sự của con người . Nó chỉ có khả năng tác
động đối với các quan hệ có ý chí . Chỉ có các quan hệ kinh tế cụ thể ,tức là các
quan hệ giữa những người cụ thể về việc chiếm hữu hoặc chuyển giao các phục
lợi vật chất mới là quan hệ tài sản biểu lộ ý chí của các bên tham gia quan hệ
.thông qua các quy phạm pháp luật ,nhà nước tác động lên các quan hệ tài sản ,
tức là các quan hệ có ý chí mang nội dụng kinh tế ,hướng cho các quan hệ đó
8


phát sinh, phát triển phù hợp với ý chí nhà nước . Vì vậy, sự tác động này nếu
phù hợp với những quy luật khách quan sẽ góp phần thúc đẩy quan hệ sản xuất
và lực lượng sản xuất phát triển và ngược lại. Có thể nói rằng , quan hệ tài sản là
sự biểu hiện về ý thức của chủ thể , của nhà nước về quan hệ sản xuất trong một
giai đoạn lịch sử nhất định. Trong giai đoạn hiện nay với sự phát triển nền kinh
tế nhiều thành phần với nhiều hình thức sở hữu và nhiều loại hình kinh doanh,
việc xác định đúng các quan hệ tài sản phù hợp với lực lượng sản xuất sẽ thúc
đẩy sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế .
Như đã phân tích ở trên các quan hệ tài sản rất đa dạng , phong phú và là đối
tượng điều chỉnh của nhiều ngành luật : luật nhà nước ,luật hành chính ,luật tài
chính , luật đất đai, luật dân sự... Mỗi ngành luật điều chỉnh các quan hệ này ở
một phạm vi, mức độ và giới hạn nhất định , bằng phương pháp đặc thù của
mình . Luật dâ sự chỉ điều chỉnh những quan hệ tài sản có những tính chất và đặc
điểm sau đây :
Về tính chất quan hệ tài sản do luật dân sự điều chỉnh là quan hệ xã hội giữa
người này với người khác đối với một tài sản nhất định . Đó không phải là quan
hệ giữa người với vật, hoặc giữa vật với vật quan hệ tài sản là quan hệ có ý chí
( thể hiện ý chí của các bên tham gia ). Chính nhờ có yếu tố ý chí mà các quan hệ
này mới chịu sự tác động của pháp luật. Các quan hệ tài sản luôn gắn liền với tài

sản ( nhờ có tài sản mới có thể cá thể hoá được các quan hệ xã hội tức là mới có
thể phân biệt được quan hệ tài sản này với quan hệ tài sản khác ). Ví dụ : cùng là
quan hệ mua bán nhưng quan hệ mua bán nhà ở khác với quan hệ mua bán xe
máy , xe đạp ... Đối với mỗi loại tài sản nhà nước quy định một chế độ pháp lý
khác nhau . khi tham gia vào các quan hệ cụ thể , các chủ thể phải căn cứ vào các
quy định của pháp luật để xử sự cho phù hợp .

9


Về đặc điểm, quan hệ tài sản do luật dân sự điều chỉnh là các quan hệ mang
tính chất hàng hoá - tiền tệ. Đây mới là tiêu chuẩn để phân biệt các nhóm quan
hệ tài sản do mỗi nghành luật điều chỉnh. Phần lớn các quan hệ tài sản bắt nguồn
từ việc trao đổi hàng hoá ,dịch vụ,các sản phẩm trí tuệ ...theo cơ chế thị trường.
Một số tài nguyên thiên nhiên (điều 17 Hiến Pháp 1992 ) tuy là khách thể đặc
biệt của quyền sở hữu toàn dân ( mà nhà nước là đại diện ) nhưng lại không phải
là khách thể của quyền dân sự do các quy phạm pháp luật dân sự điều chỉnh
.Trong trường hợp nếu chúng là đối tượng của quyền dân sự thì chỉ là quyền
được phát sinh từ các quy phạm pháp luật của nghành luật khác . Ví dụ : quyền
sử dụng đất đai , rừng , khai thác các tài nguyên khoáng sản ... Theo quan điểm
hiện nay đất đai cũng “ có giá ” và pháp luật quy định người sử dụng đất có 5
quyền : quyền chuyển nhượng, chuyển đổi , cho thuê quyền sử dụng đất , thế
chấp quyền sử dụng đất và để lại thừa kế quyền sử dụng đất . Luật dân sự điều
chỉnh loại quan hệ tài sản đặc biệt này theo phương pháp đặc thù . Chẳng hạn ,
khi ký kết hợp đồng chuyển nhượng , chuyển đổi quyền sử dụng đât,..., các bên
tham gia phải tuân thủ các quy định của luật đất đai và các quy định cụ thể của
luật dân sự. Quan hệ tài sản mang tính hàng hoá - tiền tệ trong nền kinh tế hoạt
động theo cơ chế “ tự chủ kinh doanh, hợp tác và cạnh tranh ” với nhau càng cần
phải có sự điều tiết bằng các quy phạm pháp luật . Quy luật thị trường trong nền
sản xuất hàng hoá chi phối các quan hệ tài sản mà chúng được biểu hiện dưới

hình thức tiền tệ. Trong sự trao đổi thông qua hình thức hàng - tiền : sức lao
động và các hoạt động dịch vụ khác cũng được coi là hàng hoá.
Một đặc điểm khác của quan hệ tài sản là tính đền bù tương đương .Do phát
sinh trên cơ sở sử dụng hình thức tiền – hàng trong lưu thông phân phối ,trao đổi
nên các quan hệ tài sản do luật dân sự điều chỉnh phải tuân theo quy luật giá trị.
điều đó có nghĩa là những người tham gia quan hệ tài sản có giá trị tương đương

10


với giá trị hàng hoá mà mình đã nhận. Chỉ có một số rất ít các quan hệ tài sản do
luật dân sự điều chỉnh không có tính đền bù như : quan hệ tặng, cho, cho mượn,
cho vay không lấy lãi, để lại thừa kế ... các quan hệ tài sản không có đền bù này
chủ yếu phát sinh trên cơ sở tình cảm.
Những người tham gia quan hệ tài sản là chủ thể (theo phương diện pháp lí )
độc lập với nhau ,có tài sản riêng và hoàn toàn chủ động định đoạt tài sản đó, họ
không bị phụ thuộc,ràng buộc với nhau bởi bất kì mối quan hệ hành chính , hay
xã hội khác. Do độc lập và có tài sản riêng nên những người tham gia quan hệ tài
sản ở vào vị trí bình đẳng với nhau ( bình đẳng ở đây không phải về quyền và
nghĩa vụ ). Đó là sự bình đẳng mang yếu tố nội hàm của quan hệ đó trên tinh
thần “ thuận mua, vừa bán ”, không có sự ép buộc nhau , kể cả quan hệ tặng , cho
, thừa kế ... chủ thể của các quan hệ tài sản này rất đa dạng ( cá nhân, pháp
nhân )... nhưng đều có mục đích là nhằm thoả mãn nhu cầu về vật chất , tinh thần
.Các quan hệ tài sản do luật dân sự điều chỉnh được phân thành hai loại cơ bản
sau đây :
- Các quan hệ tài sản gắn với việc chiếm giữ những đối tượng vật chất nhất
định – chúng được gọi là các quan hệ sở hữu ( quan hệ vật quyền ). Đây là
các quan hệ tài sản ở trạng thái “ tĩnh ” .
- Các quan hệ tài sản trong lĩnh vực trao đổi ( giao lưu dân sự ) những lợi
ích vật chất , được gọi là các giao dịch dân sự ( quan hệ trái quyền ). Đây

là hình thức pháp lý phổ biến được sử dụng trong lưu thông dân sự và trao
đổi hàng hoá ( quan hệ tài sản ở trạng thái “động ” )
Tóm lại : các quan hệ tài do luật dân sự điều chỉnh là quan hệ giữa người này
với người khác đối với một tài sản nhất định . Các quan hệ này hình thành
một cách khách quan trong quá trình sản xuất , phân phối lưu thông tư liệu
11


sản xuất và tư liệu tiêu dùng . Chúng được thực hiện thông qua các hoạt động
ý chí của con người /.
2 ) Quan hệ nhân thân :
Một nhóm các quan hệ xã hội khác thuộc đối tượng điều chỉnh của bộ luật
dân sự là các quan hệ nhân thân. các quan hệ này không mang nội dung kinh tế ,
chúng phát sinh từ một giá trị tinh thần của một cá nhân hay một tổ chức và luôn
luôn gắn liền với chủ thể đó, không thể tách rời để chuyển dịch cho một chủ thể
khác và trong nhiều trường hợp không thể bị tước đoạt. Trong khoa học pháp lý
gọi đó là các quyền nhân thân về dân sự. ở mỗi quốc gia ,do hoàn cảnh lịch sử ,
điều kiện kinh tế - xã hội, chế độ chính trị khác nhau ,các quyền nhân thân được
ghi nhận trong pháp luật của mỗi nước không giống nhau. Tuy nhiên, ở mức độ
này hay mức độ khác pháp luật các nước cũng ghi nhận quyền nhân thân về dân
sự của cá nhân như một phần không thể thiếu của con người.
Quyền con người là một vấn đề mang tính chất toàn cầu và được ghi nhận
trong pháp luật quốc tế. Trong bản tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền được
Đại hội đồng liên hợp quốc thông qua ngày 10- 12- 1948đã khẳng định “ Việc
thừa nhận phẩm giá cố hữu ,các quyền bình đẳng và không thể tước bỏ của mọi
thành viên trong gia đình nhân loại là cơ sở của tự do,công bằng và hoà bình trên
thế giới ...”. Tiếp đó , năm 1966 Liên hợp quốc đã thông qua hai Công ước quốc
tế rất quan trọng : Công ước về các quyền dân sự và chính trị và Công ước về
các quyền kinh tế - xã hội và văn hoá . Đây là cơ sở pháp lý để các nước tham
gia ký kết hoặc phê chuẩn các công ước này thể chế hoá các quyền của công dân

trong pháp luật của nước mình.

12


Là một nước thành viên của Liên hợp quốc thừa nhận các văn bản pháp lý
quốc tế trên , Việt nam luôn nỗ lực thực hiện các nghĩa vụ của mình , nhất là
trong lĩnh vực xây dựng và hoàn thiện pháp luật quốc gia và tham gia tích cực
vào đời sống của pháp luật của cộng đồng quốc tế ... hiến pháp 1992 của nước ta
ghi nhận : “ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa việt nam , các quyền con người về
chính trị ,dân sự , kinh tế, văn hoá và xã hội được tôn trọng, thể hiện các quyền
công dân và được quy định trong hiến pháp và pháp luật ”( điều 50 hiến pháp
1992 ).Xuất phát từ đặc trưng ,tính chất của đối tượng điều chỉnh và phương
pháp điều chỉnh , mỗi nghành luật cụ thể hoá các quyền nhân thân được hiến
pháp ghi nhận trong các quy phạm pháp luật của mình. Thí dụ :,các quyền tự do
dân chủ của công dân trong lĩnh vực chính trị được các văn bản pháp luật về bầu
cử , về báo chí , xuất bản , về tổ chức hoạt động của bộ máy nhà nước ... quy
định cụ thể. Các quyền về kinh tế , văn hoá, xã hội của công dân , trước hết là
các quyền kinh doanh, lao động, bảo hộ lao động, nghỉ ngơi,bảo hiểm xã hội ,
bảo vệ sức khoẻ, học tập được các văn bản pháp luật về lao động , giáo dục,bảo
vệ sức khoẻ quy định ... Các quyền trong lĩnh vực dân sự của công dân được cụ
thể hoá trong pháp luật dân sự mà cụ thể ở đây là được quy định trong Bộ luật
dân sự . Lời nói đầu của bộ luật dân sự nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam khẳng định : “ một trong những nhiệm vụ quan trọng của bộ luật dân sự là
tạo cơ sở pháp lý phát huyu dân chủ , bảo đảm công bằng xã hội , bảo đảm
quyền con người về dân sự ”. Các quyền con người về dân sự chủ yếu và cơ bản
là quyền về nhân thân ( họ, tên, hình ảnh, danh dự, nhân phẩm, uy tín, kết hôn, ly
hôn,...)và các quyền về tài sản ( quyền sở hữu, quyền tự do dao dịch dân sự,
quyền thừa kế ...)
Luật dân sự thực hiện chức năng chủ yếu của mình là điều chỉnh các quan hệ

nhân thân và bảo vệ lợi ích nhân thân gắn liền với cá nhân hay tổ chức. Trong

13


nhiều trường hợp việc thừa nhận một công dân, hay một tổ chức nào đó có một
số quyền nhân thân điều kiện chủ yếu làm phát sinh các quan hệ tài sản. Thí
dụ ,việc thừa nhận quyền tác giả của một người nào đó đối với tác phẩm văn học
nghệ thuật hay khoa học kỹ thuật sẽ làm phát sinh quyền được nhận tiền nhuận
bút, thù lao theo quy định của pháp luật. Ngoài ra các quan hệ nhân thân con có
ý nghĩa độc lập , chẳng hạn , việc thừa nhận quyền tác giả của người này hay
người khác tự nó đã mang một ý nghĩa xã hội quan trọng không phụ thuộc vào
các hậu quả tài sản nào.
Trong khoa học luật dân sự, người ta phân biệt các quan hệ nhân thân thành
hai loại : các quan hệ nhân thân có liên quan đến tài sản và các quan hệ nhân
thân không liên quan đến tài sản. Các quan hệ nhân thân do pháp luật dân sự
điều chỉnh có đặc điểm là luôn gắn liền với một chủ thể nhất định và không thể
chuyển dịch cho một chủ thể khác, không thể tính được thành tiền, thành tài sản.
Các quan hệ nhân thân có liên quan đến tài sản bao gồm các quan hệ phát
sinh trên cơ sở quyền tác giả đối với tác phẩm văn học nghệ thuật, khoa học kỹ
thuật ( phát minh, sáng chế ...), các quan hệ phát sinh do vi phạm quyền bất khả
xâm phạm các tác phẩm của tác giả do sử dụng trái phép tên hẵng sản xuất, nhãn
hiệu hàng hoá kiểu dáng công nghiệp ...Trong lọai quan hệ này các quan hệ nhân
thân là tiền đề làm phát sinh quan hệ tài sản. một số quan hệ tài sản khác được
xác định trên cơ sở những quan hệ nhân thân như quyền của người sáng tác ra
tác phẩm văn học , nghệ thuật, khoa học - kỹ thuật... được đứng tên tác giả của
tác phẩm, công trình khoa học do mình sáng tạo ra. Đây là quyền nhân thân
không htể tách rời với tác giả , nó luôn gắn liền với sản phẩm trí tuệ của tác giả
( tên tác giả gắn với tác phẩm mà tác giả đã sáng tạo bằng trí tuệ của mình ) kể
cả sau khi tác giả chết. đồng thời khi sản phẩm của trí tuệ được người khác sử

dụng, theo quy định của pháp luật, tác giả được hưởng quyền nhuận bút , hay lợi
14


nhuận do xuất bản tác phẩm của tác giả, hay do áp dụng sáng chế, giải pháp hữu
ích, kiểu dáng công nghiệp trong sản xuất kinh doanh...
Như vậy, trong nội dung của các quan hệ nhân thân này không chỉ bao gồm
những quyền nhân thân không thể chuyển dịch ( như tên tác giả gắn liền với tác
phẩm do tác giả sáng tạo ra ...) mà còn cả những quyền có thể chuyển dịch (đưa
vào giao lưu dân sự ) mang tính chất tài sản cũng như mang tính chất nhân thân ,
như quyền được hưởng tiền nhuận bút, thù lao, quyền quyết định sử dụng các tác
phẩm đã in ra cũng như các sáng tạo chưa công bố của tác giả, quyền bất khả
xâm phạm về tác phẩm vv...Các quyền nhân thân liên quan đến tài sản này ,
được chuyển dịch cho những người thừa kế sau khi tác giả chết theo trình tự kế
quyền. Luật dân sự điều chỉnh các quan hệ sáng tạo trí tuệ này là hoàn toàn phù
hợp , bởi vì nội dung của chúng hoàn toàn mang tính chất dâ sự, và một trong
các chủ thể tham gia vào loại quan hệ này tác giả ( hay người sử dụng hợp pháp )
là người chủ sở hữu độc lập, bình đẳng của một sản phẩm sáng tạo biệt lập nhất
định. Việc điều chỉnh các quan hệ nhân thân có liên quan đến tài sản bằng pháp
luật dân sự được đa số các nhà khoa học pháp lý đồng tình. Những người ủng hộ
quan điểm này cho rằng, mặc dù các quan hệ nhân thân này tồn tại độc lập,
nhưng chúng có quan hệ chặt chẽ với các quan hệ tài sản do luật dân sự điều
chỉnh. Đó là các quan hệ liên quan đến tài sản, có hình thức hàng hoá tiền tệ, trao
đổi trên cơ sở quy luật giá trị , các chủ thể tham gia quan hệ bình đẳng ( ví dụ,
người khác muốn sử dụng sản phẩm trí tuệ của tác giả như phát minh, sáng chế,
áp dụng vào sản xuất – kinh doanh, phải trên cơ sở thoả thuận với tác giả ...). Bởi
vậy, việc đưa các quan hệ hình thành trong lĩnh vực hoạt động sáng tạo trí tuệ
( quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp ...)vào bộ luật dân sự để điều chỉnh là
cần thiết.


15


Ở một số nước khác việc điều chỉnh các quan hệ này được thực hiện bằng
một văn bản pháp luật riêng . Thí dụ, ở công hoà nhân dân trung hoa , chúng
được điều chỉnh bằng luật về quyền tác gải ban hành năm 1990 bao gồm 6
chương 56 điều. Ở cộng hào dân chủ đức trước đây , các quan hệ trong lĩnh vực
phát minh, sáng chế được tách ra khỏi sự điều chỉnh của luật dân sự và kết hợp
với một số chế định khác tạo thành một nghành luật mới – pháp luật bảo vệ đối
với các thành tựu khoa học kỹ thuật.
Ở các nước tư bản chủ nghĩa, từ lâu người ta đã nhận thức được rằng, ngoài
các tài sản vật chất thông thường như đất đai , nhà cửa công cụ lao động, phương
tiện sản xuất, đồ dùng sinh hoạt ... còn có một loại tài sản khác rất có giá trị do
bộ óc con người sáng tạo ra cần phải được pháp luật bảo hộ. Đó là những thành
quả của lao động sáng tạo nẩy sinh trong mọi mặt đời sống tinh thần của con
người. Từ đó hình thành khái niệm sở hữu trí tuệ bao gồm hai lĩnh vực : sở hữu
công nghiệp và quyền tác giả. Bản quyền chủ yếu là quyền tác giả trong khoa
học , văn hóa nghệ thuật, trong khi đó sở hữu công nghiệp bao gồm các quyền
liên quan đến sáng chế , nhãn hiệu hàng hoá , kiểu dáng công nghiệp, tên gọi
xuất xứ hàng hoá, quyền chống cạnh tranh không lành mạnh. Để bảo hộ quyền
sở hữu công nghiệp, các nước đều ban hành bộ luật về sáng chế, nhãn hiệu hàng
hoá, kiểu dáng công nghiệp...nhằm bảo vệ quyền lợi cho những người được cấp
văn bằng bảo hộ. Luật sáng chế đầu tiên trên thế giới ban hành ngày 19-3-1474 ở
Vơnidơ ( Italia ) trong đó quy định người nào tạo ra được thiết bị mới thì được
độc quyền chế tạo thiết bị đó trong 10 năm. Nhà nước nghiêm cấm bất cứ ai bắt
chước chế tạo nếu không được phép của nhà sáng chế. Năm 1623 nước Anh
công bố luật sáng chế của mình, tiếp đó là các nước khác cũng lần lượt ban hành
luật sáng chế của nươc mình: mỹ ( 1790 ), pháp ( 1791), bỉ ( 1854)...Những bộ
luật này được sửa đổi bổ sung và hoàn thiện theo thời gian. Như vậy, ở các nước


16


này, quyền sở hữu công nghiệp được điều chỉnh bằng một văn bản pháp luật
riêng. Chúng tôi cho rằng, các quan hệ sở hữu trí tuệ có những đặc thù riêng,
chúng được điều chỉnh và bảo vệ nhiều nghành luật khác nhau : Luật nhà nước.
luật hành chính, luật kinh tế, luật dân sự , luật hình sự...Mỗi nghành luật điều
chỉnh, bảo vệ các qua hệ đó phù hợp với chức năng, nhiệm vụ , đặc điểm của đối
tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh của mình. Tuy nhiên , xét về bản
chất của các quan hệ đó mang nhiều tính đặc thù của quan hệ dân sự do vậy
chúng cần được điều chỉnh và bảo vệ bằng các quy phạm pháp luật dân sự.
Loại quan hệ nhân thân thứ hai bao gồm các quan hệ liên quan đến việc bảo
vệ danh dự, phẩm giá của công dân hoặc uy tín của các tổ chức , bảo đảm an
toàn tính mạng, sức khoẻ, bí mật đời tư, kết hôn , ly hôn...Các lợi ích đó gọi
chung là đời sống riêng tư của công dân ( quyền nhân thân ). Về các quan hệ
này, một số tác giả cho rằng , đây là các quan hệ thuộc phạm vi điều chỉnh của
luật dân sự , bởi vì chúng phản ánh sự thuộc hữu của những lợi ích nhất định về
những cá nhân cụ thể và chúng thể hiện ( cá thể hoá ) bản sắc của những người
có lợi ích đó, sự bình đẳng và độc lập của họ .Tôi đồng ý với với quan điểm cho
rằng các quan hệ nhân thân loại này là sự biểu hiện của trạng thái đạo đức và
tinh thần trong đời sống riêng của con người .Chủ thể của những trạng thái ấy là
những chủ thể độc lập và bình đẳng. Một số khác cho rằng, luật dân sự không
điều chỉnh các quan hệ nhân thân không liên quan đến tài sản. Chỉ trong trường
hợp bi xâm phạm chúng mới được bảo vệ bằng các phương tiện của luật dân sự.
Lại ý kiến nữa cho rằng ,việc bảo vệ bằng pháp luật cũng là một hình thức điều
chỉnh của pháp luật. Tôi cho rằng về mặt lý luận thì việc bảo vệ bằng pháp luật
các quan hệ xã hội này hay các quan hệ xã hội khác cũng là một trong các hình
thức điều chỉnh của pháp luật. Khi một quan hệ xã hội được một ngành luật nào
đó điều chỉnh thì nó trở thành đối tượng điều chỉnh của nghành luật ấy. Một loại


17


quan hệ xã hội có thể là đối tượng điều chỉnh của nhiều ngành luật khác nhau.
Vấn đề quan trọng là ở chỗ , các quan hệ đó được điều chỉnh bằng ngành luật
nào có hiệu quả hơn. Khi xem xét ở góc độ đó, việc bảo vệ danh dự, uy tín nhân
phẩm vv... được thực hiện bằng cả các quy phạm hình luật và bằng cả các quy
phạm dân luật. Có thể nhận thấy rằng, các nghành luật điều chỉnh các quan hệ
này ở những phương diện và mức độ khác nhau. Nếu luật hình sự bảo vệ danh
dự, nhân phẩm ... của công dân bằng biện pháp trừng phạt kẻ xâm phạm, thì luật
dân sự bảo vệ bằng cách buộc người có hành vi xâm phạm đến danh dự, nhân
phẩm,...phải xin lỗi,cải chính,...phục hồi danh dự cho bên bị hại bằng sự tuyên
bố công khai. Cùng với trách nhiệm tinh thần do việc vi phạm các lợi ích nhân
thân phí phạm đến vật chất của công dân , người có lỗi phải chịu cả trách nhiệm
vật chất nếu sự vi phạm đó kéo theo những chi phí mà người bị hại phải ghánh
chịu ( tiền tàu xe đi lại, mất hoặc giản thu nhập do bị chết , cấp cứu, bồi dưỡng
sức khoẻ ,...). Những chi phí này hoàn toàn có thể tính toán được. Ngoài ra,
người bị thiệt hại còn được bồi thường một số tiền nhất định gọi là “ bù đắp tổn
thất về tinh thần ”. Khoản tiền bồi thường thiệt hại về tinh thần khó có thể tính
toán cụ thể vì tình cảm của con người là vô giá, do vậy pháp luật của mỗi quốc
gia quy định việc bồi thường đó cũng chỉ có tính chất tượng trưng mà thôi.
Trong bộ luật dân sự của nước ta, hầu hết các điều luật đều thể hiện tinh thần
bảo vệ đúng đắn các quyền dân sự con người cả quyền về nhân thân lẫn quyền
về tài sản. Trân trọng các quyền nhân thân của con người , những quyền sinh ra
mà con người đã có không phải ai hay nhà nước ban cho . Các quan hệ nhân thân
có liên quan đến tài sản được bộ luật quy định tại phần thứ VI “ quyền sở hữu trí
tuệ và chuyển giao công nghệ ”. Đây là các quy phạm pháp luật điều chỉnh và
bảo vệ các quan hệ nhân thân trong lĩnh vực dân sự, góp phần tạo môi trường
thuận lợi thúc đẩy giao lưu dân sự phát triển.


18


KẾT LUẬN
Trong hệ thống pháp luật có nhiều ngành luật khác nhau, mỗi ngành luật chỉ
tác động lên một nhóm quan hệ xã hội nhất định mang tính chất đặc thù. Đây
chính là một trong các căn cứ cơ bản để phân biệt ngành luật này với ngành luật
khác. Đối tượng điều chỉnh của luật dân sự là các quan hệ tài sản mang tính chất
hàng hoá tiền tệ, có đền bù giá trị tuân theo quy luật giá trị của nền kinh tế sản
xuất hàng hoá, và một số quan hệ nhân thân có liên hệ ( hoặc không liên hệ ) với
tài sản. Chính các đặc điểm đặc thù của nhóm quan hệ xã hội do luật dân sự điều
chỉnh , giúp cho nhà làm luật xác định rõ phạm vi, mức độ điều chỉnh của bộ luật
dân sự đối với các quan hệ trong lĩnh vực dân sự.
Luật dân sự ra đời có đối tượng, phương pháp điều chỉnh riêng và là một
nghành luật độc lập trong hệ thống pháp luật của nhà nước. Đây là thành tựu của
nền văn minh nhân loại, thể hiện sự phát triển của khoa học pháp lý nói chung và
khoa học luật dân sự nói riêng phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội. Lịch sử
chứng minh rằng, nền kinh tế phồn thịnh thì những quy định của luật dân sự phải
phát triển kịp thời để điều chỉnh các quan hệ tài sản, quan hệ sở hữu phát sinh từ
quan hệ sản xuất trong xã hội đó. ở nước ta, sự hình thành và phát triển của hệ
thống pháp luật và đất nước ta qua từng giai đoạn . Việc xây dựng pháp luật nói
chung và pháp luật dân sự nói riêng phải phù hợp với quy luật phát triển của xã
hội đáp ứng được các nhu cầu của xã hội. Nó phải được tiến hành trên cơ sở
phân tích, cân nhắc các điều kiện chính trị - kinh tế - xã hội và các yếu tố khác
của đời sống xã hội, địa vị pháp lý, các quyền và lợi ích của cá nhân, tổ chức
trong xã hội và các yêu cầu của các nguyên tắc dân sự.

19



Đối tượng, phạm vi điều chỉnh của Bộ luật dân sự được mở rộng hơn rất nhiều
so với các văn bản pháp luật dân sự đã được ban hành trước đây. Đó chính là
điều kiện thuận lợi và là sự đảm bảo bền vững, ổn định cho các quan hệ kinh tế dân sự, các giao lưu dân sự, phát sinh, phát triển một cách lành mạnh phù hợp
với lợi ích của nhà nước, lợi ích của xã hội. Đối với nhóm quan hệ hôn nhân và
gia đình tuy có những đặc thù riêng, nhưng xét về bản chất , chúng là một dạng
quan hệ dân sự.thực tiễn cho thấy quá trình điều chỉnh các quan hệ đó Luật hôn
nhân và gia đình luôn có sự phối hợp với luật dân sự và ngược lại. Vì vậy, để tạo
điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng pháp luật trong thực tiễn xét xử, sau khi
Luật hôn nhân gia đình được sửa đổi bổ sung cần có sự tổng kết rút kinh nghiệm
về hiệu quả tác động của pháp luật lên các quan hệ hôn nhân và gia đình, và mối
liên hệ qua lại giữa luật hôn nhân gia đình và luật dân sự trong quá trình điều
chỉnh các quan hệ xã hội đó để có sự chỉnh lý về phạm vi đối tượng điều chỉnh
giữa hai ngành luật này cho phù hợp.
Nếu như hiến pháp là đạo luật cơ bản của nhà nước, văn bản mang tính chính
trị pháp lý thì bộ luật dân sự là một trong các văn bản pháp luật có vị trí trung
tâm trong toàn bộ hệ thống pháp luật của nhà nước ta. Bộ luật dân sự được coi là
“luật gốc ” giữ vai trò chi phối và quyết định cái “đặc thù ”, “ chuyên biệt ” trong
từng lĩnh vực cụ thể của đời sống dân sự. Do vậy, việc bộ luật dân sự được ban
hành là cơ sở để tiếp tục xây dựng và hoàn thiện pháp luật dân sự đáp ứng kịp
thời yêu cầu nhiệm vụ mà đảng và nhà nước đã đặt ra cho luật dân sự trong thời
kỳ mới. Nhiệm vụ đó trước hết được thể hiện ở sự bảo vệ một cách đầy đủ, toàn
diện và đồng bộ các quyền dân sự của con người : từ các quyền tài sản cho đến
các quyền nhân thân , từ những lĩnh vực chỉ đòi hỏi các giao kết phổ biến thông
dụng cho đến những lĩnh vực mới mẻ trong pham vi quốc gia và cả trên phạm vi
quốc tế.

20


TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam, Tr. ĐH Luật Hà Nội, tập 1-

Nxb CAND, 2007.
2. Bộ Luật dân sự 2005.
3. Trang web
4. Giáo trình luật dân sự, Viện ĐH Mở.
5. Luận văn thạc sĩ luật học về quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân

là đối tượng điều chỉnh của luật Dân sự.

21


MỤC LỤC
******************
Trang
Lời mở đầu…………………………………………………..1
I/ Lịch sử luật dân sự Việt Nam……………………………..2
II/ Đối tượng điều chỉnh của luật dân sự Việt Nam…………4
1. Quan hệ tài sản…………………………………………..5
2. Quan hệ nhân thân……………………………………...12
Kết luận……………………………………………………. 19
Tài liệu tham khảo………………………………………….20

22


23



LỜI MỞ ĐẦU

Bộ luật dân sự năm 2005 được quốc hội nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 14/6/2005, có hiệu lực từ ngày
01/01/2006. Đây là bộ luật lớn nhất của nước ta hiện nay. Với 777 điều luật, bộ
luật dân sự điều chỉnh các quan hệ xã hội có tính phổ biến trong đời sống của
nhân dân ta hiện nay.
Ngành luật dân sự quy định cách chuẩn mực pháp lý cho cách ứng xử của
các chủ thể trong giao lưu dân sự nhằm bảo đảm sự ổn định và lành mạnh hoá
các quan hệ dân sự trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa.Luật dân sự được coi là luật chung trong lĩnh vực luật tư bao gồm
các quy định liên quan đến quyền lợi của chủ thể và về nguyên tắc có thể thay
đổi bằng sự thoả thuận của các bên. Luật dân sự điều chỉnh các quan hệ tài sản
và quan hệ nhân thân theo nghĩa rộng bao gồm các quan hệ dân sự, hôn nhân và
gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, trong nền kinh tế thị trường ./
Để làm rõ vấn đề đối tượng điều chỉnh của luật dân sự thì chắc bài viết sau
sẽ giúp các bạn hiểu được phần nào về vấn đề trên. Mặc dù đã cố gắng nhưng bài
viết khó tránh khỏi những khiếm khuyết , rất mong các bạn và thầy cô góp ý để
bài viết được hoàn thiện hơn. Xin chân thành cảm ơn./

24



×