Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

tìm hiểu pháp luật về huy động vốn của công ty cổ phần

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (146.68 KB, 16 trang )

Bài tập cuối kì môn: luật thương mại.
Đề bài: tìm hiểu pháp luật về huy động vốn của công ty cổ phần.
Bài làm:
Công ty cổ phần là loại hình doanh nghiệp phổ biến trong nền kinh tế thị
trường, nó góp phần phát triển nền kinh tế và hoàn thiện thể chế nền kinh tế thị
trường. Công ty cổ phần đầu tiên trên thế giới ra đời khoảng thế kỉ XVII, nó gắn liền
với sự bóc lột của chủ nghĩa đế quốc với các nước thuộc địa, công ty cổ phần đầu tiên
xuất hiện vào năm 1602 đó là công ty Đông Ấn Độ của Anh, sang thế kỉ XIX công ty
cổ phần ngày càng phát triển mạnh mẽ. Mặc dù công ty cổ phần và pháp luật về công
ty cổ phần đã ra đời từ rất lâu, nhưng ở nước ta do hoàn cảnh kinh tế xã hội mà gần
đây công ty cổ phần và pháp luật về công ty cổ phần mới được quan tâm nhiều. Với
nhiều ưu thế so với các loại hình công ty khác như: có tư cách pháp nhân, các cổ
đông công ty chỉ phải chịu trách nhiệm hữu hạn trong phần vốn góp, có cấu trúc vốn
linh hoạt và khả năng chuyển nhượng vốn góp tự do, dễ dàng, có tính ổn định trong
kinh doanh và không hạn chế thời gian tồn tại… Với rất nhiều ưu thế trong đó có ưu
thế lớn nhất cấu trúc vốn linh hoạt và khả năng huy động vốn của công ty cổ phần dễ
dàng, ưu việt hơn hẳn các loại hình công ty khác là một trong những lý do khiến công
ty cổ phần ngày càng được nhiều nhà đầu tư lựa chọn khi muốn đầu tư kinh doanh
hoặc thành lập, chuyền đổi loại hình công ty.
Để hiểu rõ hơn về những ưu thế của công ty cổ phần trong khả năng huy động
vốn, em chọn đề tài “tìm hiểu pháp luật về huy động vốn của công ty cổ phần” để tìm
hiểu.
A.

Khái quát về công ty cổ phần và vấn đề huy động vốn của công ty

cổ phần.
I. khái quát về công ty cổ phần.
Trong hệ thống khoa học pháp lý của các quốc gia khác nhau có nhiều cách
định nghĩa khác nhau về công ty cổ phần. pháp luật hiện hành của Việt Nam không
đưa ra định nghĩa công ty cổ phần mà chỉ đưa ra những dấu hiệu nhận biết công ty cổ


phần, được quy định rõ tại khoản 1 điều 77 luật doanh nghiệp 2005 là:
1


“1. Công ty cổ phần là loại hình doanh nghiệp, trong đó:
a) Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần;
b) Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân, số lượng cổ đông tối thiểu là ba và
không hạn chế tối đa;
c) Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ về tài sản
khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp;
d) Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác
trừ trường hợp quy định tại khoản 3 điều 81 và khoản 5 điều 54 của luật này”.
Ngoài ra tại khoản 2 và khoản 3 điều 77 LDN 2005 còn cho thấy rõ công ty cổ
phần có tư cách pháp nhân độc lập và có quyền phát hành chứng khoán ra công
chúng.
II. khái quát về vốn và cấu trúc vốn của công ty cổ phần.
Muốn hoạt động kinh doanh không thể không có vốn, vốn của doanh nghiệp
nói chung là giá trị được tính bằng tiền của những tài sản thuộc sở hữu của DN hoặc
sử dụng hợp pháp của DN, được DN sử dụng trong kinh doanh. Có thể nói vốn là
nhân tố cơ bản không thể thiếu được trong các DN. Công ty cổ phần là loại hình công
ty đối vốn điển hình do vậy vấn đề vốn của CTCP hết sức phức tạp. Ta có thể tiếp cận
vốn của CTCP dước nhiều góc độ, dựa trên các tiêu chí khác nhau. Căn cứ vào nguồn
gốc hình thành vốn thì vốn của CTCP gồm có: Vốn chủ sở hữu (vốn tự có) và vốn tín
dụng (vốn vay).
Vốn chủ sở hữu: là vốn thuộc sở hữu của công ty, được hình thành từ nguồn
vốn đóng góp của các cổ đông và vốn do CTCP tự bổ sung từ lợi nhuận của công ty.
Vốn tín dụng: là nguồn vốn hình thành từ việc đi vay bằng nhiều hình thức
khác nhau: vay ngân hang, vay từ tổ chức cá nhân, vay bằng các phát hành trái phiếu.
Vốn của CTCP có thể được hình thành bằng nhiều con đường khác nhau,
nhưng điều quan trong là công ty có tỷ lệ vốn hợp lý, phương thức huy động vốn

thích hợp và có phương án kinh doanh đúng đắn để sử dụng vốn hiệu quả và tạo được
niềm tin cho đối tác đảm bảo công ty pháp triển vững mạnh.
2


B.
I.

Huy động vốn trong công ty cổ phần.
Những ưu thế của CTCP so với các loại hình công ty khác trong việc

huy động vốn.
Điểm lý tưởng trong vấn đề huy động vốn của CTCP hơn hẳn các loại hình
công ty khác là “CTCP có quyền phát hành chứng khoán các loại để huy động vốn”
(khoản 3 điều 77 LDN 2005) trong khi đó doanh nghiệp tư nhân và công ty hợp danh
“không được phát hành bất kì một loại chứng khoán nào” (khoản 3 điều 130 và khoản
2 điều 141), khả năng huy động vốn của công ty trách nhiệm hữu hạn có thuận lợi
hơn là được quyền phát hành trái phiếu nhưng cũng “không được quyền phát hành cổ
phần” (khoản 3 điều 38). Trong các loại chứng khoán của CTCP cổ phiếu là ưu thế
lớn nhất của CTCP nhờ khả năng thu hút vốn dễ dàng, có thể huy động được một
lượng vốn góp lớn, và giảm được nhiều chi phí trung gian so với các hình thức huy
động khác do tiếp cận trực tiếp các nhà đầu tư.
CTCP có cấu trúc vốn rất linh hoạt, đáp ứng được nhu cầu đa dạng của người
đầu tư. Phần vốn của cổ đông có thể được tự do chuyển nhượng thông qua việc
chuyển quyền sở hữu cổ phần (trừ các trường hợp do pháp luật quy định) hay đó là
hình thức chuyển nhượng cổ phiếu trên thị trường chứng khoán (TTCK). Tính chuyển
nhượng cổ phiếu mang lại cho nền kinh tế sự vận động nhanh chóng của vốn đầu tư
mà không phá vỡ tính ổn định của tài sản công ty.
Mặt khác, cổ phần có mệnh giá nhỏ kết hợp với tính thanh khoản và chuyển
nhượng dễ dàng đã khuyến khích mọi tầng lớp dân chúng đầu tư. Những đặc điểm

này đã giúp CTCP có khả năng huy động một lượng vốn ngầm chảy trong các tầng
lớp nhân dân, khả năng tích tụ và tập trung vốn với quy mô lớn đáp ứng được các dự
án đầu tư cần lượng vốn lớn và lâu dài, mở rộng đa dạng hóa các ngành nghề kinh
doanh dễ dàng hơn.
II.

Quy định của pháp luật về các hình thức huy động vốn của công ty cổ

phần.
Cũng giống như nhiều loại hình công ty khác, CTCP cổ phần có hai cách để
huy động vốn là: tăng vốn chủ sở hữu và tăng vốn vay, và trong mỗi cách lại có
3


những phương thức huy động vốn khác nhau. Tăng vốn chủ sở hữu bằng cách phát
hành cổ phiếu, tăng vốn vay được thực hiện thông qua ba hình thức: phát hành trái
phiếu, tín dụng ngân hang, tín dụng thuê mua.
1. Huy động vốn thông qua phát hành cổ phiếu.
Cổ phần là phần chia nhỏ nhất vốn điều lệ của CTCP được thể hiện dưới hình
thức cổ phiếu, bao gồm cổ phần phổ thông và cổ phần ưu đãi. Cổ phiếu là chứng chỉ
do CTCP phát hành hoặc bút toán ghi sổ xác nhận quyền sở hữu một hoặc một số cổ
phần của công ty trong đó. Cổ phiếu là bằng chứng chứng minh quyền sở hữu cổ
phần của công ty (được quy định rõ tại khoản 1 điều 85 LDN 2005)
Phát hành cổ phiếu là việc chào bán cổ phần của CTCP cho người đầu tư nhằm
đáp ứng nhu cầu về vốn của công ty. Kết quả của việc chào bán cổ phần sẽ đảm bảo
huy động vốn điều lệ trong quá trình thành lập công ty hoặc sẽ làm tăng vốn điều lệ
của công ty trong quá trình thành lập công ty hoặc làm tăng vốn điều lệ của công ty
khi công ty đang trong quá trình hoạt động.
Việc phát hành cổ phiếu có thể làm ảnh hưởng đến quyền lợi của các cổ đông
hiện có hoặc có thể dẫn tới sự thay đổi vị thế của từng cổ đông. Do vậy việc quyết

định bán loại cổ phần, số lượng mỗi cổ phần chào bán sẽ do Đại hội đồng cổ đông
quyết định còn Hội đồng quản trị quyết định thời điểm bán, phương thức và giá chào
bán.
Quy định của pháp luật về việc phát hành cổ phiếu:
Phát hành cổ phiếu có thể diễn ra nhiều lần. có thể chia thành các trường hợp:
phát hành cổ phiếu lần đầu để huy động vốn thành lập công ty và phát hành cổ phiếu
trong quá trình hoạt động công ty.
-

phát hành cổ phiếu lần đầu khi thành lập công ty:

khi thành lập, CTCP phải huy động vốn góp từ các cổ đông. Theo quy định thì
các cổ đông sáng lập phải cùng nhau đăng kí mua ít nhất 20% tổng số cổ phần được
chào bán, sổ cổ phiếu còn lại sẽ được phát hành để huy động đủ số vốn điều lệ. Các
cổ đông sáng lập thực hiện nguyên tắc nhất trí về số lượng cổ phần và loại cổ phần dự
kiến chào bán.
4


-phát hành cổ phiếu trong quá trình hoạt động của công ty.
Trong quá trình hoạt động, phát hành cổ phiếu là hình thức huy động vốn rất
hiệu quả. Đặc biệt là đối với CTCP lớn, có nhiều dự án đầu tư dài hạn, ngắn hạn mà
cần lượng vốn lớn. Việc phát hành cổ phiếu lúc này sẽ làm tăng vốn chủ sở hữu của
công ty tạo ra một lá chắn chống lại sự phá sản công ty, làm tăng độ tín nhiệm của
công ty. Phát hành cổ phiếu có thể được thực hiện qua hai phương thức: phát hành
riêng lẻ và phát hành rộng rãi ra công chúng.
+ phát hành riêng lẻ: là hình thức phát hành cổ phiếu trong phạm vi một số
người nhất định và với số lượng hạn chế, thường là bán cho những người trong công
ty. Tại khoản 2 điều 87 LND 2005 quy định rõ về việc phát hành cổ phần phổ thông
và chào bán cổ phần cho tất cả các cổ đông theo tỉ lệ cổ phần hiện có trong công ty,

theo đó thì việc phát hành cổ phiếu này phải được thông báo bằng văn bản rõ ràng
đến từng cổ đông biết, trong thông báo phải ghi rõ tổng số cổ phần dự kiến phát hành
và số cổ phần cổ đông được quyền mua, giá chào bán, thời hạn đăng kí mua…các quy
đinh tại khoản 2 điều 87 là có sự phát triển hơn so với LDN trước đó. Tuy nhiên trình
tự, thủ tục, điều kiện… chào bán cổ phiếu riêng lẻ không được quy định trực tiếp
trong LDN 2005 mà do Chính Phủ có hướng dẫn cụ thể.
+ Phát hành cổ phiếu ra công chúng:
Là phương thức phát hành cổ phiếu trong đó cổ phiếu được bán rộng rãi ra
công chúng cho một số lượng lớn các nhà đầu tư với khối lượng cổ phiếu phát hành
đạt được một tỉ lệ quy định nhất định và phải giành một tỉ lệ nhất định cho các nhà
đầu tư nhỏ. Điều kiện, phương thức và thủ tục phát hành cổ phiếu được thực hiện
theo quy định của luật chứng khoán. Ngoài ra công ty còn phải thực hiện các chế độ
báo cáo, công bố thông tin và chịu sự giám sát chặt chẽ theo quy định của pháp luật.
Điều đó xuất phát tứ lý do để cổ phiếu hay trái phiếu của công ty phát hành ra không
phải là trò lừa đảo hoặc của chủ thể đầu tư có dự án đầu tư kém hiệu quả, gây lãng
phí cho nền kinh tế, đồng thời bảo vệ lợi ích cho các nhà đầu tư. CTCP muốn phát
hành cổ phiếu ra công chúng phải đảm bảo các yêu cầu về vốn, thời gian hoạt động,
5


đội ngũ quản lý, hiệu quả sản xuất kinh doanh và tính khả thi của các dự án trong
tương lai, được quy định rõ trong khoản 1 điều 12 luật chứng khoán 2006:
“Điều kiện chào bán cổ phần ra công chúng phải đảm bảo các điều kiện sau:
a)

Doanh nghiệp có mức vốn điều lệ tại thời điểm đăng kí chào bán từ

10 tỷ đồng Việt Nam trở lên tính theo giá trị trên sổ kế toán;
b)


Hoạt động kinh doanh của công ty năm liền trước năm chào bán phải

có lãi, đồng thời không có lỗ lũy kế tính đến năm đăng kí chào bán;
c)

Có phương án phát hành và phương án sử dụng vốn thu được từ đợt

chào bán được Đại hội đồng cổ đông thông qua”
Việc quy định như vậy nhằm đảm bảo số lượng và chất lượng cổ phiếu của
CTCP để có thể giao dịch trên thị trường chứng khoán. Sau khi đảm bảo được các
yếu tố trên công ty lập hồ sơ gửi lên Ủy bản chứng khoán nhà nước xin được cấp giấy
phát hành.
Phát hành cổ phần là hình thức huy động vốn hiệu quả và dễ dàng nhất của
công ty cổ phần và chỉ ở loại hình CTCP mới có điều này, hơn nữa việc chuyển
nhượng cổ phần tự do càng tạo ra sức hút lớn đối với các nhà đầu tư.
Không chỉ huy động vốn thông qua hình thức phát hành cổ phiếu, CTCP còn
được quyền huy động vốn thông qua hình thức phát hành trái phiếu, và các hình thức
tín dụng khác.
2. Huy động vốn thông qua các hình thức tín dụng:
a) Huy động vốn thông qua hình thức phát hành trái phiếu.
Theo khoản 3 điều 77 LDN 2005, CTCP có quyền phát hành chứng khoán các
loại để huy động vốn. Cùng với phát hành cổ phiếu là cách huy động vốn chủ sở hữu,
CTCP còn có quyền phát hành trái phiếu để vay vốn dài hạn và trung hạn, đáp ứng
cho nhu cầu về vốn kinh doanh có lúc vượt ngoài khả năng tài chính của các cổ đông.
Nhưng khác với cổ phiếu, trái phiếu chỉ xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của
người sở hữu trái phiếu được trả nợ gốc và lãi suất ấn định trong trái phiếu. Trái
phiếu có đặc điểm là có thời gian đáo hạn, có lãi suất cố định, tiền trả lãi không phụ
thuộc vào việc kinh doanh của công ty thành công hay khó khăn, đem lại cho người
6



sở hữu quyền ưu tiên phân chia lợi nhuận, và có thể tự do chuyển nhượng trên thi
trường chứng khoán nhưng chủ sở hữu trái phiếu không có quyền tham gia biểu quyết
các vấn đề của công ty.
Phát hành trái phiếu là hình thức huy động vốn bằng cách vay vốn, theo đó
CTCP phát hành một loại chứng chỉ trên thị trường với một mức lãi suất nhất định,
đảm bảo thanh toán trong một thời hạn xác định trong tương lai. Người mua trái
phiếu sẽ trở thành chủ nợ của công ty, được hưởng một mức lãi suất cố định và thanh
toán khoản vay khi đáo hạn. Kết quả của việc này sẽ làm tăng vốn vay của công ty.


quy định của pháp luật về việc huy động vốn thông qua phát hành trái

phiếu:
Điều kiện phát hành trái phiếu của CTCP được quy định cụ thể trong khoản 2
điều 12 luật chứng khoán 2006 cũng tương tự như các điều kiện để phát hành cổ
phiếu, ngoài ra công ty còn phải cam kết thực hiện các nghĩa vụ của tổ chức phát
hành đối với nhà đầu tư về điều kiện phát hành, thanh toán và đảm bảo quyền và lợi
ích hợp pháp của các nhà đầu tư và các điều kiện khác. Cũng giống như phát hành cổ
phiếu CTCP cũng phải lập hồ sơ nộp lên Ủy ban chứng khoán nhà nước để được cấp
giấy phép phát hành. Trong hồ sơ, đang chú ý có bản cáo bạch mà CTCP phải đưa ra,
nội dung của bản cáo bạch gồm các thông tin về cơ cấu tổ chức bộ máy của công ty,
hoạt động kinh doanh, tài sản, tình hình tài chính, các báo cáo tài chính của công ty
trong hai năm gần nhất, các thông tin về đợt chào bán…Trong trường hợp CTCP phát
hành trái phiếu có đảm bảo thì phải nêu rõ tỉ lệ đảm bảo và liệt kê chi tiết tài sản đảm
bảo trong hồ sơ xin phép phát hành và có tài liệu hợp lệ để chứng minh tài sản đảm
bảo đó thuộc quyền sở hữu của mình hoặc của người thứ 3 (trong trường hợp bảo
lãnh) và có đủ giá trị thanh toán trái phiếu.
Công ty phát hành trái phiếu chuyển đổi: phải nêu rõ điểu khoản mua hoặc
chuyển đổi trong hồ sơ xin phép phát hành: điều kiện, thời hạn tiến hành mua hoặc

chuyển đổi. tỷ lệ chuyển đổi và phương pháp tính giá mua hoặc giá chuyển đổi.
phương pháp đền bù thiệt hại trong trường hợp công ty phát hành trái phiếu không
7


phát hành được cổ phiếu để đáp ứng quyền mua hoặc chuyển đổi và các điều kiện
khác nếu có. Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ, Ủy ban chứng khoán
nhà nước phải cấp giấy phép phát hành cho công ty, trong trường hợp không cấp phải
nêu rõ lý do bằng văn bản.
Huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu là phương thức huy động vốn ưu
việt cho những CTCP có dự án kinh doanh dài hạn, với mức lãi suất thích hợp nhỏ
hơn lãi suất mà công ty phải đi vay ngân hang, nhưng lại cao hơn mức lãi suất tiền
tiết kiệm gửi ngân hang để thu hút nhà đầu tư. Điều này vừa có lợi cho công ty phát
hành vừa có lợi cho nhà đầu tư do bỏ qua được các chi phí trung gian. Mặt khác, lợi
thế nữa của việc phát hành trái phiếu là các cổ đông của công ty không phải chia sẻ
quyền điều hành công ty cho người khác. Chi phí để có được vốn được giữ ở một
mức độ nhất định do đó tính toán được và so với cổ tức là một khoản không tính được
nên huy động vốn bằng phát hành trái phiếu sẽ rẻ hơn so với việc phát hành cổ phiếu.
Huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu và cổ phiếu là hai hình thức huy
động vốn rất hiệu quả đối với CTCP, đặc biệt là các công ty lớn. Tuy nhiên không
phải CTCP nào cũng có khả năng hoặc đủ điều kiện để huy động vốn bằng hai
phương thức này do vậy CTCP còn có thể huy động vốn thông qua hai hình thức nữa
đó là tín dụng ngân hang, và tín dụng thuê mua.
b.Huy động vốn thông qua tín dụng ngân hàng.
Huy động vốn thông qua hình thức tín dụng ngân hàng là một hình thức huy
động vốn phổ biến được các doanh nghiệp nói chung và CTCP nói riêng áp dụng trên
thực tế. Huy động vốn bằng cách này, CTCP sẽ có những khoản vay ngắn hạn, trung
hạn và dài hạn đáp ứng được yêu cầu sản xuất kinh doanh. Việc huy động vốn thông
qua hình thức tín dụng ngân hàng có nhiều thuận lợi hơn đối với các công ty có uy
tín, có quan hệ lâu dài với ngân hàng. Bên cạnh đó cơ chế cho vay hiện nay đang tạo

cho việc huy động vốn qua ngân hàng có nhiều ưu điểm hơn huy động vốn bằng trái
phiếu đó là nếu huy động vốn bằng phát hành trái phiếu thì công ty phải trả lại nhà
đầu tư cả gốc lẫn lãi khi đáo hạn, nhưng huy động vốn bằng tín dụng ngân hàng công
ty có thể xin gia hạn thêm thời gian nếu chưa có khả năng trả nợ.
8


Để huy động vốn thông qua hình thức này công ty phải đáp ứng được những
điều kiện nhất định như có tình hình tài chính lành mạnh, có phương án sử dụng vốn
khả thi sau khi được vay và quan trọng nhất là phải có tài sản để đảm bảo cho khoản
vay bằng biện pháp cầm cố, thế chấp hoặc được bên thứ ba bảo lãnh bằng tài sản để
đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho ngân hàng trừ trường hợp công ty được ngân
hàng cho vay không có bảo đảm bằng tài sản. Công ty vay vốn của ngân hàng phải
đảm bảo sử dụng vốn đúng mục đích đã thỏa thuận, hoàn trả nợ gốc và lãi vốn vay
đúng thời hạn đã thỏa thuận trong hợp đồng. Có hai hình thức cho vay là vay có đảm
bảo và vay không có đảm bảo. Vay có đảm bảo thì CTCP phải cam kết trả nợ cho
ngân hàng bằng tài sản cầm cố, thế chấp, hoặc được bên thứ ba bảo lãnh bằng tài sản
hoặc bằng chính tài sản được hình thành từ vốn vay. Các biện pháp này được quy
đinh rõ tại khoản 1 điều 3 nghị định 178/1999/NĐ-CP. Khi vay vốn có biện pháp đảm
bảo bằng tài sản thì công ty và ngân hàng lập hợp đồng bảo đảm có chứng nhận của
Công chứng nhà nước hoặc chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền.
Việc kiểm tra tính hợp pháp và điều kiện của tài sản đảm bảo tiền vay do ngân hàng
thực hiện. việc xác định tài sản đảm bảo khoản vay được ngân hàng thực hiện theo
quy định tại điều 8 nghị định 178/1999/NĐ-CP và điều 15 nghị định này đối với tài
sản bảo đảm là tài sản hình thành từ vốn vay. Còn cho vay không có đảm bảo thì
CTCP phải đáp ứng đủ các điều kiện quy định tại điều 20 nghị định 178/1999/NĐCP:
“1. khách hàng vay phải có đủ điều kiện sau:
a)

có tín nhiệm với tổ chức tín dụng cho vay trong việc sử dụng vốn vay và


trả nợ đủ, đúng hạn cả gốc lẫn lãi;
b)

có dự án đầu tư hoặc phương án sản xuất kinh doanh, dịch vụ khả thi, có

khả năng hoàn trả nợ hoặc có dự án, phương án phục vụ đời sống khả thi phù hợp với
quy định của pháp luật;
c)

có khả năng tài chính để thực hiện nghĩa vụ trả nợ;

d)

cam kết thực hiện biện pháp bảo đảm bằng tài sản theo yêu cầu của tổ

chức tín dụng nếu sử dụng vốn vay không đúng cam kết trong hợp đồng tín dụng;
9


cam kết trả nợ trước hạn nếu không thực hiện được các biện pháp bảo đảm bằng tài
sản quy định tại điểm này.
Việc huy động vốn qua tín dụng ngân hàng đòi hỏi công ty phải có tài sản đảm
bảo, có tín nhiệm với ngân hàng hoặc phải có năng lực tài chính đủ mạnh thì mới
được ngân hàng cho vay vốn. Điều này sẽ rất khó khăn đối với các công ty vừa và
nhỏ, năng lực tài chính còn yếu hoặc các công ty không có tài sản để đảm bảo hoặc
nếu có nhưng tài sản của họ không đủ để đảm bảo cho số tiền dự định xin vay. Bên
cạnh đó một số tài sản của công ty không đủ điều kiện thể chấp vay vốn ngân hành
như tài sản đã lạc hậu về công nghệ sản xuất, xuống cấp, quá cũ …nên không thể bán,
chuyển nhượng dễ dàng trên thị trường hoặc công ty chưa được cấp các giấy tờ chứng

minh quyền sở hữu, quyền sử dụng hợp pháp đối với tài sản thế chấp. Hơn nữa đối
với các công ty còn chưa khẳng định được uy tín, tín nhiệm của mình đối với ngân
hàng trong quan hệ tín dụng để vay vốn bằng tín chấp. Do vậy cần có một phương
thức huy động vốn khác khắc phục được những nhược điểm này và hình thức huy
động vốn bằng tín dụng thuê mua là một hình thức nữa giúp CTCP có thể huy động
vốn đầu tư mà không cần quá nhiều điều kiện như các hình thức huy động vốn kia.
c.Huy động vốn thông qua hình thức tín dụng thuê mua.
Thuê tài chính là hình thức được áp dụng phổ biến ở nhiều nước trên thế giới
như Mỹ, Nhật Bản, Đức, Thụy Điển, Úc…loại hình cho thuê tài chính đã được một
số công ty đưa ra thị trường tài chính vào những năm cuối thập niên 60 của thế kỉ XX
với tên gọi là thuê tài chính.
Cho thuê tài chính là phương thức cấp tín dụng mà đối tượng là một tài sản cụ
thể. Khác với các hình thức cấp tín dụng khác mà theo đó, tổ chức tín dụng chuyển
giao một khoản tiền còn cho thuê tài chính thì tổ chức tín dụng lại chuyển giao cho
khách hàng (bên thuê) một tài sản cụ thể như: máy móc, dây chuyền sản xuất, phương
tiện vận tải…để bên thuê sử dụng trong một thời gian nhất định.
Ví dụ như hiện nay Viêtnam Airline đã thuê máy bay của TEAC và AirFrance
hoặc tập đoàn General Motor của Mỹ cho thuê rất nhiều loại tài sản máy móc sản
xuất, họ còn cho thuê cả máy vi tính. Tại Mỹ, ngành cho thuê tài chính chiếm khoản
10


25 – 30% tổng số tiền tài trợ cho các giao dịch mua bán thiết bị hàng năm của các
công ty. Nguyên nhân thúc đẩy các hoạt động cho thuê tài chính phát triển nhanh là
do nó có tính chất an toàn cao, tiện lợi và hiệu quả cho các bên giao dịch. Pháp luật
Việt Nam hiện nay ghi nhận cho thuê tài chính là hình thức cấp tín dụng trung và dài
hạn, nhằm phù hợp với đặc điểm đối tượng cho thuê là những động sản có giá trị, thời
gian cần thiết để khấu hao thường từ một năm trở lên.
Cho thuê tài chính là hình thức cho thuê mà hầu hết các quyền năng của chủ sở
hữu (bên cho thuê) được chuyển giao hết cho bên thuê. Bên thuê có quyền được sử

dụng và hưởng những lợi ích kinh tế mang lại từ các tài sản đó trong một thời gian
nhất định. Bên thuê có nghĩa vụ trả một số tiền cho chủ tài sản tương ứng với quyền
sử dụng và quyền hưởng dụng. Điều này cho thấy là việc cấp tín dụng dưới hình thức
cho thuê tài chính không đòi hỏi sự đảm bảo tài sản trước đó, tạo điều kiện cho công
ty tiếp cận với hình thức huy động vốn mới và giải tỏa được áp lực về tài sản đảm bảo
nếu đi vay ngân hàng. Loại hình thuê tài chính rất thích hợp với các công ty vừa và
nhỏ nhờ ưu điểm là không phải thế chấp tài sản như đi vay ngân hàng.
Các giao dịch cho thuê tài chính phải một trong các dấu hiệu quy định tại
khoản 2 điều 1 Nghị Định 16/2001/ NĐ-CP ngày 02/5/2001 được sửa đổi bổ sung
Nghị định 65/2005/ NĐ-CP ngày 19/5/2005 về tổ chức và hoạt động của công ty cho
thuê tài chính:
-

Khi kết thúc thời hạn cho thuê trong hợp đồng, bên thuê được quyền

sở hữu tài sản thuê hoặc được tiếp tục sử dụng tài sản thuê theo thỏa thuận của các
bên;
-

Khi kết thúc thời hạn thuê trong hợp đồng, bên thuê được quyền ưu

tiên mua lại tài sản thuê theo giá danh nghĩa thấp hơn giá trị thực tế của tài sản thuê
tài thời điểm mua lại;
-

Thời hạn cho thuê một tài sản ít nhất phải bằng 60% thời gian cần

thiết để khấu hao tài sản thuê;
-


Tổng số tiền thuê tài sản thuê theo thỏa thuận, ít nhất phải tương

đương với giá trị tài sản đó tại thời điểm kí hợp đồng.
11


Có nhiều cách phân loại phương thức cho thuê tài chính nhưng để làm nổi bật
bản chất tín dụng, hoạt động cho thuê tài chính được phân loại thành: cho thuê tài
chính không hoàn lại tài sản và có hoàn lại tài sản.
Huy động vốn thông qua tín dụng thuê mua là một hình thức huy động vốn mà
CTCP có thể áp dụng vì trên thực tế không phải công ty nào cũng có đủ điều kiện để
phát hành cổ phiếu, trái phiếu và tiếp cận với nguồn vốn vay từ ngân hàng. Không chỉ
đối với CTCP mà nhiều doanh nghiệp khác nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ thì
huy động vốn thông qua tín dụng thuê mua sẽ là phương thức huy động vốn hiệu quả,
đơn giản và hợp lý nhất. Tuy mỗi hình thức huy động vốn sẽ có những ưu điểm và
nhược điểm khác nhau, nhưng điều quan trọng là nó làm tăng vốn của công ty để có
thể đầu tư sản xuất, mở rộng kinh doanh, thúc đẩy sự phát triển kinh tế.
III.

Đánh giá về các quy định của pháp luật về huy động vốn trong công ty

cổ phần.
1. Huy động vốn bằng cách tăng vốn chủ sở hữu.
Mặc dù các quy định của pháp luật về huy động vốn chủ sở hữu đã có nhiều
tiến bộ, tạo được những điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nhưng bên cạnh đó
vẫn còn có những hạn chế không tránh khỏi là:
Khoản 1 điều 85 LDN 2005 quy định một trong những nội dung chủ yếu mà cổ
phiếu phải có là “mệnh giá cổ phần và tổng mệnh giá số cổ phần ghi trên cổ phiếu”
nghĩa là cổ phiếu bắt buộc phải có mệnh giá. Có thể hiểu mệnh giá là cách thức góp
vốn, cũng là cơ sở để cho chủ nợ nhìn vào để đòi nợ và chỉ có ý nghĩa khi CTCP phát

hành cổ phiếu lần đầu. Cổ phiếu khi được bán trên thị trường có thể có một giá cao
hơn hoặc thấp hơn mệnh giá, như vậy là có sự tách bạch giữa mệnh giá với giá thị
trường nhưng tính chất bình đẳng của việc góp vốn vẫn được duy trì, bởi giữa những
người mua với nhau không có gì khác biệt (họ đều phải trả số tiền như nhau để sở
hữu cổ phiếu). Vì vậy việc định giá cổ phiếu liệu có cần thiết không? ở rất nhiều nước
trên thế giới hiện nay thường các công ty phát hành cổ phiếu có mệnh giá bằng
không, đơn giản là vì việc này là không cần thiết và họ còn bị đánh thuế theo giá cổ
phiếu vì vậy để tránh bị đánh thuê họ phát hành cổ phiếu có mệnh giá bằng không.
12


Ngoài ra, chúng ta nên đa dạng hóa các loại cổ phiếu ưu đãi để tạo sự hấp dẫn
cho các nhà đầu tư bỏ tiền vào. Như ở một số nước khác trong khu vực ASEAN họ
đưa ra rất nhiều loại cổ phiếu ưu đãi như: cổ phiếu ưu đãi dồn lãi, cổ phiếu ưu đãi dự
phần chia cổ tức, cổ phiếu ưu đãi mua lại, cổ phiếu ưu đãi phức hợp, cổ phiếu ữu đãi
để trống…
2. Các quy định về việc huy động vốn bằng các hình thức tín dụng.
a)

phát hành trái phiếu:

Cũng giống như cổ phiếu, chúng ta cũng nên đa dạng hóa các loại trái phiếu
khác nhau để thu hút nhà đầu tư. Có thể đưa thêm một số loại trái phiếu khác như: trái
phiếu không trả lãi, trái phiếu trả lãi theo thu nhập, trái phiếu lãi suất thả nổi…
b)

Tín dụng ngân hàng.

Tín dụng ngân hàng là hình thức huy động vốn phổ biến không chỉ CTCP mà
còn là hình thức huy động vốn của rất nhiều loại hình doanh nghiệp khác, nhưng thủ

tục cho vay rất phức tạp và đòi hỏi quá nhiều điều kiện mà không phải doanh nghiệp
nào cũng có thể đáp ứng được để vay dễ dàng. Hơn nữa khi vay thì khoản vay thường
lớn nên lãi suất cao, đồng nghĩa với việc doanh nghiệp phải chịu áp lực trả lãi và thời
hạn trả. Mặt khác, nguồn vốn của ngân hàng thương mại là nguồn tài trợ ngắn hạn
nên doanh nghiệp chỉ được vay 12 tháng, điều này gây khó khăn rất lớn cho các
doanh nghiệp.
c)

Tín dụng thuê mua.

Mặc dù đây là hình thức huy động vốn khá phổ biến trên thế giới và có nhiều
lợi thế cạnh tranh, nhưng thực tiễn các doanh nghiệp của Việt Nam không mấy quan
tâm đến loại hình dich vụ này, nguyên nhân có thể là do sự hiểu biết về loại hình cấp
vốn qua dịch vụ cho thuê tài chính còn hạn chế, hoạt động quảng bá dịch vụ còn yếu
và giá cho thuê còn cao và nhiều khi nếu tính ra thì có khi lãi suất của thuê tài chính
còn cao hơn cả lãi suất khi đi vay ngân hàng, bởi vì lãi suất khi đi thuê tài chính còn
phải cộng thêm các chi phí về lắp đặt, vận hành, bảo hiểm…của bên cho thuê phải bỏ
ra.
13


Một nguyên nhân nữa là các quy định pháp luật về cho thuê tài chính còn chưa
hoàn thiện đồng bộ, nhiều quy định cần phải được luật hóa. Nhiều quy định còn chưa
phù hợp như luật các tổ chức tín dụng và các văn bản dưới luật khi quy định về cho
thuê tài chính đã không phân định triệt để các khái niệm liên quan đến sở hữu, chiếm
hữu, sử dụng, định đoạt đối với tài sản thuê trong các giai đoạn của quá trình cho thuê
tài chính, giá trị cho thuê tối đa…điều này gây cản trở đối với hoạt động cho thuê tài
chính.
Phần ba: kết luận
Với cấu trúc vốn linh hoạt và khả năng huy động vốn lớn bằng nhiều phương

thức đa dạng, CTCP hiện nay đang ngày càng thu hút được nhiều nhà đầu tư góp vốn
xây dựng sản xuất kinh doanh. Khả năng huy động vốn cũng là một trong những căn
cứ đánh giá thực lực của công ty mạnh hay yếu. Với nhiều ưu thế hơn hẳn các loại
hình công ty khác trong việc huy động vốn đã giúp CTCP có khả năng phát triển đa
dạng các ngành nghề sản xuất kinh doanh, và có khả năng đầu tư vào các dự án lớn
một cách dễ dàng. Hiện nay rất nhiều CTCP nước ta thực hiện phương thức huy động
vốn thông qua việc phát hành trái phiếu, cổ phiếu trên thị trường chứng khoán, hoặc
huy động vốn thông qua tín dụng ngân hàng, hình thức huy động vốn thông qua tín
dụng thuê mua thì hình như ít được để ý đến, các doanh nghiệp cũng như CTCP
không mấy quan tâm đến phương thức huy động vốn này với những lý do như đã nêu
ở trên. Tuy nhiên cần thấy rằng đây là một phương thức huy động vốn rất hiệu quả
mà nhiều nước trên thế giới đã và đang làm không chỉ đối với CTCP mà đối với các
loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ thì đây là một trong những cách thức huy động
vốn rất phù hợp và hiệu quả. Muốn thực hiện kinh doanh bạn phải có vốn, nhưng huy
động vốn bằng cách nào và thực hiện các phương thức huy động vốn đó ra sao là một
điều rất quan trọng.
Ngay từ khi mới thành lập hay trong quá trình sản xuất kinh doanh, không chỉ
CTCP mà bất cứ loại hình doanh nghiệp hay công ty khác đều cần có vốn để sản xuất
kinh doanh. Nếu chỉ dựa vào số vốn tự có thì chắc chắn không thể mở rộng hay duy
trì việc sản xuất kinh doanh một cách lâu dài. Do vậy công ty cần phải xây dựng cho
14


mình các phương thức huy động vốn cho phù hợp với quy mô sản xuất kinh doanh,
cũng như phải phù hợp với từng thời kì sản xuất của công ty. Huy động được vốn đã
là điều khó vì bạn phải xây dựng phương thức, kế hoạch cụ thể xem chọn phương
thức huy động vốn như thế nào, số lượng vốn cần huy động là bao nhiêu, phải có
những kế hoạch sản xuất như thế nào để tạo được lòng tin cho các nhà đầu tư để họ
tin tưởng, và đầu tư vào công ty…nhưng một điều khó hơn là phải có kế hoạch sử
dụng số vốn đó hợp lý, đồng vốn được đưa vào sản xuất kinh doanh phải có khả năng

sinh lời thì khi đó phương thức huy động vốn đã đề ra mới thực sự thể hiện được
những ưu điểm mà nó có.

15


Bài tập cuối kì môn: luật thương mại.
Đề bài: tìm hiểu pháp luật về huy động vốn của công ty cổ phần.
Bài làm:
Công ty cổ phần là loại hình doanh nghiệp phổ biến trong nền kinh tế thị
trường, nó góp phần phát triển nền kinh tế và hoàn thiện thể chế nền kinh tế thị
trường. Công ty cổ phần đầu tiên trên thế giới ra đời khoảng thế kỉ XVII, nó gắn liền
với sự bóc lột của chủ nghĩa đế quốc với các nước thuộc địa, công ty cổ phần đầu tiên
xuất hiện vào năm 1602 đó là công ty Đông Ấn Độ của Anh, sang thế kỉ XIX công ty
cổ phần ngày càng phát triển mạnh mẽ. Mặc dù công ty cổ phần và pháp luật về công
ty cổ phần đã ra đời từ rất lâu, nhưng ở nước ta do hoàn cảnh kinh tế xã hội mà gần
đây công ty cổ phần và pháp luật về công ty cổ phần mới được quan tâm nhiều. Với
nhiều ưu thế so với các loại hình công ty khác như: có tư cách pháp nhân, các cổ
đông công ty chỉ phải chịu trách nhiệm hữu hạn trong phần vốn góp, có cấu trúc vốn
linh hoạt và khả năng chuyển nhượng vốn góp tự do, dễ dàng, có tính ổn định trong
kinh doanh và không hạn chế thời gian tồn tại… Với rất nhiều ưu thế trong đó có ưu
thế lớn nhất cấu trúc vốn linh hoạt và khả năng huy động vốn của công ty cổ phần dễ
dàng, ưu việt hơn hẳn các loại hình công ty khác là một trong những lý do khiến công
ty cổ phần ngày càng được nhiều nhà đầu tư lựa chọn khi muốn đầu tư kinh doanh
hoặc thành lập, chuyền đổi loại hình công ty.
Để hiểu rõ hơn về những ưu thế của công ty cổ phần trong khả năng huy động
vốn, em chọn đề tài “tìm hiểu pháp luật về huy động vốn của công ty cổ phần” để tìm
hiểu.

16




×