Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

tìm hiểu về di sản thừa kế trong lý luận và được áp dụng trong thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (126.98 KB, 17 trang )

ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong thời kì thực hiện đường lối đổi mới toàn diện ở
nước ta, nhà nước luôn tạo ra môi trường pháp lý thuận lợi cho việc phát
triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế định hướng XHCN.
Các cơ sơ kinh tế đổi mới này đã đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu vật chất
và tinh thần của nhân dân trên cơ sở giải phóng mọi năng lực sản sản xuất,
phát huy mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế. Những tài sản thuộc
quyền sở hữu của cá nhân trong giai đoạn hiện nay càng được mở rộng phạm
vi, thành phần và giá trị. Theo đó mà di sản thừa kế của cá nhân nhiều hay ít
về giá trị, thành phần, số lượng và tính chất…phụ thuộc vào khả năng chủ
quan của người đó tạo ra, phụ thuộc vào những quy định của pháp luật về căn
cứ xác lập quyền sở hửu cá nhân.
Trong nhiều chế định của Bộ luật Dân sự, thừa kế là một chế
định quan trọng, điều chỉnh một mảng quan hệ xã hội phổ biến và rất gần gũi
với nhân dân. Chế định thừa kế được quy định tại phần thứ tư của Bộ luật
dân sự: từ điều 631 đến điều 687, đã tại cơ sở pháp lý vững chắc để nhân dân
thực hiện một trong những quyền cơ bản của mình đã được Hiến pháp năm
1992 khẳng định tại điều 58: “ Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp và
quyền thừa kế của công dân”.
Trong bài viết này em sẽ đi tìm hiểu về di sản thừa kế trong lý
luận và được áp dụng trong thực tiễn cuộc sống như thế nào?

1


GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I/ lý luận
Từ trước đến nay trong khoa học pháp lý của nước ta chưa có một khái
niệm thống nhất, cụ thể về di sản thừa kế. Xuất phát từ tầm quan trọng của di
sản thừa kế là yếu tố đầu tiên trong quan hệ thừa kế đã rút ra được khái niệm
thừa kế trên phương diện pháp lý: “Di sản thừa kế là toàn bộ tài sản thuộc


quyền sở hữu hợp pháp của người chết khi còn sống để lại, là đối tượng của
quan hệ dịch chuyển tài sản đó cho những người thừa kế được Nhà nước
thừa nhận và bảo đảm thực hiện”. Theo quy định tai Điều 634 BLDS năm
2005: “Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người
chết với người khác”.
Tuy nhiên về di sản thừa kế có nhiều cách hiểu khác nhau, thậm chí
ngay trong pháp luật qua mỗi thời kì cũng quy định khác nhau. Cùng với sự
phát triển nền kinh tế – xã hội của Việt Nam hơn 60 năm qua. Với những
chính sách đổi mới đất nước, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần…đến
nay thành phần, khối lượng giá trị tài sản thuộc sở hữu tư nhân – nguồn của
di sản thừa kế cũng ngày một phong phú, nhiều hơn và lớn hơn. Di sản thừa
kế là tài sản thuộc quyền sở hữu của người để lại di sản khi còn sống. Theo
quy định tại điều 163 BLDS: “ Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và
các quyền tài sản”. Như vậy, thành phần di sản bao gồm các loại tài sản khác
nhau và không bị hạn chế về số lượng.
Như vậy, di sản thừa kế là toàn bộ tài sản thuộc quyền sở hữu hợp
pháp của người đã chết, quyền về tài sản người đó. Quyền sở hữu tài sản là
một trong những quyền cơ bản của công dân được nhà nước bảo hộ. “ Công

2


dân có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu
sinh hoạt, tư liệu sản xuất, vốn và tài sản khác trong doanh nghiệp hoăc trong
các tổ chức kinh tế khác…nhà nước bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp và quyền
thừa kế của công dân”. (Điều 58 HP năm 1992).
Di sản thừa kế bao gồm:
1.

Di sản thừa kế là tài sản riêng của người chết.


Tài sản riêng của người chết được hiểu là phần tài sản về phương diện
pháp lý không bị chối hay chịu một rằng buộc nào với chủ thể khác, được
xác định khi người đó còn sống là tài sản do người đó tạo ra bằng thu nhập
hợp pháp (tiền lương, tiền được trả công lao đông, tiền thưởng, tiền nhuận
bút, tiền trúng xổ số…) tài sản được tặng cho, được thừa kế, tư liệu sinh hoạt
riêng (quần áo, xe máy, ô tô,..), nhà ở, tư liệu sản xuất các loại, vốn dùng để
sản xuất kinh doanh.
- Tiền, vàng, bạc, kim khí quý, đá quý được dùng làm đồ trang sức
hoặc được dùng làm của cải để dành.
- Nhà ỏ; diện tích mà người đó có nhà bị cải tạo XHCN, được nhà
nước để lại cho để ở và xác định là thuộc quyền sở hữu của người đó. Nhà do
được thừa kế, tặng cho, mua, trao đổi hoặc tự xây dựng được các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền cho phép và đã làm thủ tục sang tên, trước bạ.
- Vốn , cổ phần, vật tư, tư liệu sản xuất của những người sản xuất cá
thể hoặc của các tư nhân được sản xuất kinh doanh hợp pháp.
- Tài liệu, dụng cụ máy móc của người làm công tác nghiên cứu.

3


- Cây cối mà người được giao sử dụng đất trồng và hưởng hoa lợi trên
đất đó.
Đó là những tài sản mà khi người đó còn sống có quyền sở hữu tài sản
của mình một cách độc lập và tự mình chiễm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản
theo ý chí của riêng mình mà không bị phụ thuộc vào ý chí của người khác
và chỉ tuân theo pháp luật.
Trong quan hệ vợ chồng, tài sản riêng của vợ hoặc của chồng được xác
định là tài sản có trước thời kỳ hôn nhân hoặc có trong thời hôn nhân nhưng
do được tặng cho riêng, được thừa kế riêng mà người có tài sản riêng đó

không định đoạt ý chí xác nhập vào khối tài sản chung của vợ chồng thì tài
sản đó vẫn thuộc quyền sở hữu riêng của vợ hoặc của chồng. Tài sản riêng
của người vợ hoặc của người chồng còn xác định được, trường hợp vợ,
chồng thỏa thuận bằng văn bản tài sản chung hoặc yêu cầu tòa án chia khi có
lý do chính đáng thì phần tài sản của vợ hoặc của chồng được chia là tài sản
riêng của mỗi người. Những tài sản chung của vợ chồng không chia thì vẫn
thuộc quyền sở hữu chung của vợ chồng. Những tài sản do vợ hoặc chồng tạo
ra trong thời kỳ hôn nhân hợp pháp là tài sản chung của vợ chồng. Tuy nhiên
khi xác định tài sản chung và tài sản riêng của người vợ hoặc của người
chồng, cần thiết phải phân biệt những trường hợp cụ thể sau đây.
- Thứ nhất: Vợ chồng đã chia tài sản chung theo các căn cứ hợp pháp
thì phần tài sản được chia của mỗi người là tài sản riêng, việc khai thác tài
sản đó thuộc sở hữu của riêng chủ sở hữu là vợ hoặc chồng, theo đó các
khoản thu được từ tài sản riêng đó là tài sản riêng.

4


- Thứ hai: trước thời kỳ hôn nhân, vợ hoặc chồng có tài sản riêng là tư
liệu sản xuất, sau khi kết hôn, tài sản đó không được nhập vào tài sản chung
của vợ chồng thì vẫn là tài sản riêng của người chồng hoặc của người vợ có
tài sản đó. Nhưng tài sản riêng của người chồng hoặc của người vợ được khai
thác và thu được những lợi ích nhất định thì các khoản lợi có được từ việc
khai thác tài sản riêng đó là của chung vợ chồng.
2.

Di sản là thừa kế là phần tài sản của người chết trong khối tài

sản chung với người khác.
Người chết là đồng sở hữu chung hợp nhất tài sản chung hợp nhất tài

sản chung với vợ hoặc chồng và người chết là sở hữu chung theo phần đối
với tài sản chung với người khác. Trong trường hợp này khi người này chết
thì tài sản là di sản thừa kế được xác định trong khối tài sản chung đó như
sau:
- Đối với sở hữu chung hợp nhất, khi vợ hoặc chồng chết trước, phần
di sản của người chết trước, phần di sản của người chết trước là chồng hoặc
vợ được xác định là 1/2 giá trị trong tổng giá trị tài sản chung hợp nhất của
vợ chồng. Theo điều 219 BLDS quy định sở hữu chung của vợ chồng là sở
hữu chung hợp nhất. Vợ, chồng cùng nhau tạo lập, phát triển khối tài sản
chung bằng công sức của mỗi người; có quyền ngang nhau trong việc chiếm
hửu, sử dụng, định đoạt tài sản chung. Điều 17 Luật HN & GĐ quy định: “
khi một bên chết trước, nếu cần chia tài sản chung của vợ chồng thì chia đôi.
Phần tài sản của người chết được chia theo quy định của pháp luật về thừa
kế”. Vì vậy, khi một bên chết trước một nửa khối tài sản chung đó là tài sản
của người chết và được chuyển cho người thừa kế theo di chúc hoặc theo
quy định của pháp luật về thừa kế.
5


- Đối với trường hợp thứ hai, đó là trường hợp do nhiều người cùng
góp vốn để sản xuất kinh doanh, nếu có khối tài sản thuộc quyền sở hữu
chung của nhiều người (đồng sở hữu chủ với một khối tài sản nhất định) gọi
là đồng sở hữu chung theo phần đối với tài sản. Trường hợp này khi người
này chết phần quyền tài sản của người này trong khối tài sản chung là di sản
thừa kế.
VD: Anh H và B cùng C góp mỗi người góp 300 triệu đồng để mua
một căn nhà giá trị 900 triệu đồng. Anh H không may bị tai nạn chết. Thì 1/3
giá trị ngôi nhà đó là di sản thừa kế của anh H.
3. Di sản thừa kế là quyền tài sản do người chết để lại.
Quyền tài sản theo quy định của BLDS cũng được coi là tài sản.

Quyền tài sản là quyền giá trị được bằng tiền và có thể chuyển giao trong
quan hệ dân sự như quyền đòi nợ, đòi tài sản cho thuê, cho mượn, đòi bồi
thường thiệt hại…
Quyền sử dụng đất cũng thuộc di sản thừ kế.Điều 17 HP năm 1992
quy định: Đất đai, rừng núi, sông hồ, nguồn nước…là của nhà nước, đều
thuộc sở hửu toàn dân.ở nước ta, đất đai thuộc sở hữu toàn dân. Nhà nước
giao đất cho tổ chức, cá nhân sử dụng lâu dài, tổ chức cá nhân có quyền
chuyển quyền sử dụng đất được nhà nước giao theo quy định của pháp luật.
Như vậy bản thân đất đai không trở thành di sản thừa kế, vì cá nhân không
có quyền sở hữu mà chỉ có quyền sử dụng. Khi không có nhu cầu sử dụng cá
nhân đựơc phép chuyển nhượng quyền sử dụng đó cho người khác, nếu có
giấy tờ hợp pháp. Quyền sử dụng đất là một quyền tài sản đặc biệt của cá
nhân, do vậy cá nhân có thể để lại cho người khác theo di chúc hoặc theo
pháp luật quy định. Nhưng vì đây là một loại tài sản đặc biệt nên theo quy
6


định của luật đất đai thì người sử dụng đất chỉ được thực hiện quyền thừa kế
khi có những điều kiện như: có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, đất
không có tranh chấp, quyền sử dụng đất không bị kê biên để đảm bảo cho thi
hành án và trong thời hạn sử dụng đất. Theo BLDS 2005 chỉ quy định về di
sản thừa kế nói chung còn di sản là quyền sử dụng đất được quy định cụ thể
trong Luật đất đai 2003.
Theo quy định tại nghi quyết số 02/2004/NQ/HĐ của hội đồng thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành ngay 10/08/2004 thì quyền sử dụng
đất được xác định là di sản thừa kế trong những trường hợp sau:
- Đối với đất do người chết để lại (không phân biệt có tài sản hay
không có tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất) mà người đó có giấy chứng
nhân quyền sử dụng đất theo Luật đất đai năm 1987, Luật đất đai năm 1993,
Luật đất đai năm 2003 thì quyền sử dụng đất đó là di sản.

- Đối với trường hợp đất đai do người chết để lại mà người đó một
trong các loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 Luật đất đai
2003 thì kể từ ngày 01/07/2004 thì quyền sử dụng đất cũng là di sản không
phụ thuộc vào thời điểm thừa kế.

II/ Thực tiễn.
1/ Thuận lợi.
Hơn hai mươi năm qua, nước ta đã và đang từng bước tiến hành
“công nghiệp hóa, hiện đại hóa” đất nước. Quá trình hội nhập khu vực và
quốc tế cùng với việc định hình nền kinh tế thi trường định hướng XHCN đã
tạo ra những tiền đề và thuận lợi quan trọng trong phát triển kinh tế, xã hội ở

7


nước ta. Thực tế này đã đem đến sự chuyển biến tích cực trên tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội nói chung và đời sống “dân cư” nói riêng.
Để đáp ứng được những nhu cầu điều chỉnh các quan hệ kinh tế, quan
hệ dân sự, quan hệ đất đai, quan hệ HN&GĐ trong điều kiện kinh tế, xã hội
có những phát triển mới, đồng thời tạo căn cứ đầy đủ và vững chắc về mặt
pháp lý cho các cơ quan xét xử khi giải quyết các tranh chấp về lĩnh vực
này, Nhà nước ta đã rất chú trọng và quan tâm xây dụng một hệ thống văn
bản quy phạm pháp luật về các lĩnh di sản thừa kế.
Đồng thời, bên cạnh chú trọng ban hành các văn bản quy phạm pháp
luật, Nhà nước cũng quan tâm thích đáng đối với công tác tuyên truyền, phổ
biến và giáo dục ý thức pháp luật. Các động thái đó đã nâng cao trình độ dân
trí về pháp luật nói chung và về pháp luật dân sự nói riêng. Từ đó, mỗi người
dân được trang bị kiến thức căn bản, nhận thức được quyền và lợi ích hợp
pháp của mình, biết được giới hạn của quyền lợi được thừa nhận và bảo vệ,
biết được mình có nghĩa vụ và phải thực hiện nghĩa vụ vì lợi ích của chủ thể

mang quyền… Đây là điều kiện để giảm thiểu tranh chấp, giảm thiểu độ
phức tạp của các vụ việc liên quan đến di sản thừa kế.
Nhiều năm qua, nghành Tòa án đã có nhiều nỗ lực nhằm nâng cao xét
xử các vụ án dân sự. TAND TC đã tổ chức nhiều lớp tập huấn nghiệp vụ cho
các thẩm phán, đồng thời triển khai tổ chức tập huấn kịp thời các văn bản
pháp luật mới được ban hành. Đặc biệt, TAND tối cao luôn chú trọng công
tác hưỡng dẫn áp dụng pháp luật nhằm thống nhất nhận thức và áp dụng
đúng đắn trong công tác xét xử. Các hoạt động đó của TAND TC đã giúp
cho đội ngũ thẩm phán ngày càng vững vàng trong công tác chuyên môn và
đạo đức nghề ghiệp. Đây là thuận lợi về con người và chuyên môn để chất
lượng xét xử của TA các cấp ngày một tốt hơn.
2/ Hạn chế
8


Thực tế xác định di sản thừa kế gặp rất nhiều khó khăn và không ít
vướng mắc. Trong quá trình giải quyết tranh chấp về di sản thừa kế tại Tòa
án nhân dân, các đương sự đều tìm cách chứng minh có lợi nhất cho mình về
kỉ phần, đồng thời phủ nhận hoặc làm giảm bớt quyền lợi của những người
thừa kế khác. Trong quá trình giải quyết tranh chấp về thừa kế bên cạnh
những thuận lợi, còn có nhiều những khó khăn do nhiều nguyên nhân tác
động đến. Đó là:
Về kinh tế xã hội: Khó khăn đáng kể nhất là sự tác động mặt trái của
nền kinh tế thị trường làm cho các tranh chấp không ngừng phát sinh. Trong
những năm vừa qua, do có sự biến đổi về giá trị tài sản, nhất là giá trị về nhà
ở và quyền sử dụng đất không ngừng tăng lên là một trong những nguyên
nhân làm phát sinh những tranh chấp về thừa kế.
Do sự tác động của nền kinh tế thị trường và do tình hình kinh tế phát
triển không đều nên có sự chênh lệch lớn giữa các khu vực, thu nhập quốc
dân còn thấp, trình độ dân trí chưa cao kéo theo các tranh chấp dân sự ngày

càng phổ biến hơn. Ngoài ra, những năm gần đây, do ảnh hưởng của quá
trình đô thị hóa, xây dựng mới các khu kinh tế, khu du lịch và các công trình
xây dựng hạ tầng cơ sở ngày càng nhiều đã sử dụng một số lớn diện tích
đất… Trong quá trình thực hiện thu hồi đất, do sự đền bù thiếu thống nhất
nên việc xác định di sản của một người liên quan đến việc đền bù giải tỏa
không ít trường hợp gặp không ít khó khăn. Những lí do trên có thể được
cho là một trong những khó khăn khách quan có ảnh hưởng đến việc giải
quyết các tranh chấp khi xác định di sản thừa kế.
Cơ sở pháp luật: Khi giải quyết các tranh chấp về thừa kế, các Tòa án
phải căn cứ vào các quy định của pháp luật. Trong những năm qua, trước
yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế và nền kinh tế thị trường nhà nước đã
tiến hành sửa đổi nhiều đạo luật quan trọng, trong đó có những luật liên
9


quan trực tiếp đến luật dân sự như: Luật hôn nhân và gia đình năm 2000,
Luật đất đai năm 2003, Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004, Bộ luật dân sự năm
2005…
Luật đất đai trong hơn chục năm trở lại đây có tính ổn định không cao.
Mặt khác, do sự phát triển sống động và khắc nghiệt của nền kinh rế thị
trường đã đem lại nhu cầu sử dụng đất của xã hội ngày càng tăng mà diện
tích đất hầu như không thay đổi; vì thế quyền sử dụng đất với giá trị sử dụng
và giá trị thực tế ngày càng cao đã làm cho tranh chấp về quyền sử dụng đất
ngày càng trở nên phức tạp và gay gắt hơn.
Xác định di sản thừa kế quyền sử dụng đất là một vấn đề phức tạp cả
về mặt lý luận và thực tiễn xét xử. Khi nào quyền sử dụng đất được coi là di
sản thừa kế, khi nào quyền sử dụng đất không được coi là di sản thừa kế để
từ đó công nhận quyền sử dụng đất hợp pháp cho những người đang quản lí,
sử dụng đất mà trước đây đất đó thuộc quyền sở hữu của người chết? Đối
với các loại đất khác nhau thì điều kiện để lại thừa kế khác nhau hoặc ở

những thời điểm khác nhau lại có những quy định không giống nhau…
Ví dụ: Các quy định về điều kiện thừa kế quyền sử dụng đất nông
nghiệp để trồng cây hàng năm và nuôi trồng thủy sản trong BLDS năm 1995
so với những quy định về những điều kiện này trong BLDS năm 2005 và các
văn bản pháp luật đất đai là hoàn toàn khác nhau; các loại đất được để lại
thừa kế cũng được quy định khác nhau…; các căn cứ xác lập quyền sử dụng
đất được Luật đất đai năm 2003 mở rộng thêm nhiều căn cứ, đồng thời vớ
việc mở rộng quyền của người sử dụng đất; quy định lại việc phân loại đất…
Các loại vụ án tranh chấp về di sản thừa kế ngày càng phức tạp và
từng lúc, từng nơi nảy sinh những vấn đề mới đòi hỏi phải có các quy định
điều chỉnh cho phù hợp. Song thực tế cho thấy, những quy định mang tính
chuẩn mực của Nhà nước ta thường ban hành chậm, một số chính sách, pháp
10


luật tuy đã được sửa đổi, bổ sung nhưng lại có những quy định chưa sát với
thực tế, những văn bản quan trọng như BLDS, Luật đất đai, Luật HN& GĐ
… liên quan rất nhiều đến quyền và nghĩa vụ của công dân nhưng một thời
gian dài chưa được nhà nước giải thích một cách cơ bản và thống nhất nên
nhân dân nắm vấn đề không tường tận, không chắc chắn.
Vấn đề ý thức pháp luật của công dân: Đây là một yếu tố ảnh hưởng
không nhỏ và là một trong những nguyên nhân làm cho việc phân chia di sản
gặp nhiều khó khăn. Như ta biết hệ thống pháp luật còn có những văn bản
mâu thuẫn, chồng chéo, thậm chí còn phủ định nhau dẫn đến nhận thức của
người dân rất hạn chế nên việc thực hiện pháp luật, hiểu biết pháp luật có
nơi có lúc thực sự yếu kém. Trong nhiều trường hợp điều này làm ảnh
hưởng trực tiếp tới việc bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ
thể trong quan hệ thừa kế.
Trên thực tế biểu hiện của thực trạng này rất đa dạng. Chẳng hạn hiện
nay, còn nhiều trường hợp khi còn sống, cha mẹ cho các con đất đai nhà

cửa… nhưng do ảnh hưởng bởi các yếu tố tâm lý gia dình, xã hội nên không
lập văn bản và không thực hiện các thủ tục theo quy định của pháp luật. Vì
thế, khi tranh chấp xảy ra, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền không có
căn cứ và cơ sở để xem xét và đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp và chính
đáng của các chủ thể hoặc có thể được xét giải quyết nhưng thiếu thuyết
phục vì căn cứ không rõ ràng. Hoặc có những trường hợp khác, khi những
người thừa kế tiến hành phân chia di sản chỉ thỏa thuận miệng mà không lập
thành văn bản hoặc thực hiện các thủ tục pháp lý cần thiết. Về sau, do sự
biến động về giá trị của các tài sản, một trong số những người thừa kế yêu
cầu phân chia lại và phát sinh tranh chấp.
Một vấn đề liên quan đến ý thức pháp luật đó là yếu tố long tham:
Đương sự không biết giới hạn quyền lợi của mình trước những người thừa
11


kế khác hoặc chỉ quan tâm đến lợi ích của mình. Chính do yếu tố này nên
trong thực tiễn giải quyết tranh chấp thừa kế có những vụ để lại hậu quả
nghiêm trọng từ việc tranh giành nhau, thậm chí thanh toán nhau bằng đâm
chém nhau giữa những người thừa kế. Đối với những trường hợp này việc
xác định đúng, đủ di sản thừa kế là vấn đề rất phức tạp. Do ý thức pháp luật
còn thấp, do hiểu biết pháp luật còn hạn chế và do lòng tham nên việc khai
thiếu, không đầy đủ hoặc khai gian dối để trục lợi còn khá phổ biến.
Nhiều trường hợp bản án có hiệu lực đã được tuyên nhưng các đương
sự do tranh giành nhau vẫn tiếp tục khiếu nại theo trình tự giám đốc thẩm
làm cho vụ án thêm phức tạp, kéo dài, tốn kém, đồng thời còn kéo theo
nhiều ảnh hưởng không tốt khác về mặt xã hội.
Công tác xét xử của Tòa án trong các vụ án giải quyết các tranh chấp
về thừa kế, ngoài các yêu cầu riêng của án theo thừa kế theo di chúc hoặc
thừa kế theo pháp luật thì việc xác định đúng toàn bộ di sản thừa kế để quyết
định cách phân chia có ý nghĩa rất quan trọng. Có thể thấy rằng, đây là điều

kiện tiên quyết liên quan đến việc bản án đó xét xử có khách quan, công
bằng và đúng pháp luật hay không. Chỉ cần có việc xác định không đúng,
không đầy đủ khối lượng di sản thừa kế thì bản án có thể bị hủy hoặc sửa
theo quy định của pháp luật tố tụng.
Tranh chấp về thừa kế là một trong những loại tranh chấp phức tạp
nhất. Bởi vậy, đòi hỏi Tòa án các cấp phải điều tra thu thập những tình tiết
liên quan đến vụ án, xem xét mọi yếu tố đánh giá, kết luận một cách khách
quan, sát với thực tế… Nhưng thực tế cho thấy khi điều tra, giải quyết các
vụ án ở cấp sơ thẩm có nhiều trường hợp các cấp tòa án đã không điều tra,
thu thập kĩ lưỡng những tình tiết, vấn đề liên quan đến vụ án; chưa nghiên
cứu một cách nghiêm túc đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, các
văn bản pháp luật có lien quan, cũng như truyền thống, phong tục, tập quán
12


của nhân dân dẫn đến những phán quyết thiếu chính xác, làm cho vụ án xét
xử nhiều lần mà vẫn không đảm bảo quyền lợi ích chính đáng của các đương
sự. Bên cạnh đó do trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của một số thẩm phán
còn non kém nên việc điều tra, giải quyết các tranh chấp tại cấp sơ thẩm
cũng còn nhiều thiếu sót nên nhiều vụ việc không được giải quyết một cách
thấu tình đạt lý.
Sai lầm phổ biến trong việc giải quyết các loại tranh chấp này là việc
xác định di sản không đúng , bỏ sót di sản hoặc nhập những tài sản mà khi
còn sống người đó đã tặng cho người khác vào khối di sản của người để lại
di sản, hoặc không đánh giá đúng công sức của người đã có công trong việc
quản lý và duy trì khối di sản…
Một nguyên nhân không kém phần quan trọng dẫn đến tranh chấp về
di sản thừa kế là việc định giá tài sản. Hiện nay, chúng ta vẫn chưa có một
cơ chế phù hợp cho công tác định giá, điều này có thể dẫn đến giá trị tài sản
không được xác định theo đúng với giá trị thị trường tại thời điểm giải quyết

tranh chấp làm cho các đương sự không thỏa mãn với các quyết định của
Tòa án và vẫn tiếp tục khiếu kiện.
III/ Phương hướng và giải pháp hoàn thiện quy định của pháp
luật về di sản thừa kế.
Để xây dựng quy định về di sản thừa kế có tính khái quát cao, thể
hiện đầy đủ các loại tài sản, quyền tài sản của người chết để lại cho người
thừa kế hưởng. Khoản 1 Điều 634 BLDS có thể được điều chỉnh lại như sau:
Di sản bao gồm tài sản thuộc quyền sỡ hữu của người chết, hoa
lợi, lợi tức từ di sản và các tài sản khác do pháp luật quy định.
Trong điều luật trên, tài sản thuộc quyền sở hữu của người chết
gồm các vật, giấy tờ có giá trị và các quyền tài sản khác như quyền sử dụng
đất (tài sản đặc biệt) thuộc quyền sở hữu của người chết. Các quyền tài sản
13


khác chưa yêu cầu như quyền đòi nợ, quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại,
thậm chí quyền yêu cầu trả cấp dưỡng, lương hưu mà cá nhân , tổ chức chưa
thực hiện khi người để lại di sản còn sống. Ngoài ra, còn một số tài sản khác
do pháp luật quy định như tiền bảo hiểm tính mạng của người để lại thừa kế
khi họ tham gia vào hợp đồng bảo hiểm nhân thọ.

KẾT THÚC VẤN ĐỀ

Trên đây là một số vấn đề lý luận và thực tiễn về di sản
thừa kế. Từ sự phân tích trên ta thấy được những mặt thuận lợi và khó khăn
14


trong việc xác định di sản thừ kế như thế nào? Và thấy đựơc những chính
sách của Đảng và nhà nước ta trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp

của người dân.Như Điều 58 HP năm 1992 quy định “ công dân có quyền sở
hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành. Nhà ở, tư liệu sản xuất, vốn và
tài sản khác…Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế
của công dân”.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Trường đại học Luật Hà Nội. Giáo trình Luật dân sự Việt Nam.

Nxb Công an nhân dân. Hà Nội 2006

15


2.

Luật gia, Nguyễn Thị Mai, Phạm Đình Khánh. Hỏi-Đáp về thừa

kế trong BLDS Việt Nam Nxb, Thành Phố Hồ Chí Minh, 1996
3.

Trường đại học Luật Hà Nội, Ts. Nguyền Minh Tuấn. pháp luật

thừa kế của Việt Nam những vấn đề lí luận và thực tiến. Nxb Lao động xã
hội 2009
4.

Ts, Phùng Trung Tập, Luật thừa kế Việt Nam, Nxb Hà Nội 2008


5.

Ls-Ts, Phan Thị Hương Thủy, 99 tình huống và tư vấn về thừa kế

nhà và quyền sử dụng đất. Nxb Tư Pháp, Hà Nội 2005
6.

Trần Thị Huệ. Di sản Thừa kế, luận án tiến sĩ luật học, Trường

đại học luật Hà Nội 2007

16


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
7.

Trường đại học Luật Hà Nội. Giáo trình Luật dân sự Việt Nam.

Nxb Công an nhân dân. Hà Nội 2006
8.

Luật gia, Nguyễn Thị Mai, Phạm Đình Khánh. Hỏi-Đáp về thừa

kế trong BLDS Việt Nam Nxb, Thành Phố Hồ Chí Minh, 1996
9.

Trường đại học Luật Hà Nội, Ts. Nguyền Minh Tuấn. pháp luật

thừa kế của Việt Nam những vấn đề lí luận và thực tiến. Nxb Lao động xã

hội 2009
10. Ts, Phùng Trung Tập, Luật thừa kế Việt Nam, Nxb Hà Nội 2008
11. Ls-Ts, Phan Thị Hương Thủy, 99 tình huống và tư vấn về thừa kế
nhà và quyền sử dụng đất. Nxb Tư Pháp, Hà Nội 2005
12. Trần Thị Huệ. Di sản Thừa kế, luận án tiến sĩ luật học, Trường
đại học luật Hà Nội 2007

17



×