Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

di sản thừa kế trong lý luận và được áp dụng trong thực tiễn cuộc sống

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (126.54 KB, 16 trang )

ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong thời kì thực hiện đường lối đổi mới toàn diện ở
nước ta, nhà nước luôn tạo ra môi trường pháp lý thuận lợi cho việc phát
triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế định hướng XHCN.
Các cơ sơ kinh tế đổi mới này đã đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu vật chất
và tinh thần của nhân dân trên cơ sở giải phóng mọi năng lực sản sản xuất,
phát huy mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế. Những tài sản thuộc
quyền sở hữu của cá nhân trong giai đoạn hiện nay càng được mở rộng phạm
vi, thành phần và giá trị. Theo đó mà di sản thừa kế của cá nhân nhiều hay ít
về giá trị, thành phần, số lượng và tính chất…phụ thuộc vào khả năng chủ
quan của người đó tạo ra, phụ thuộc vào những quy định của pháp luật về căn
cứ xác lập quyền sở hửu cá nhân.
Trong nhiều chế định của Bộ luật Dân sự, thừa kế là một chế
định quan trọng, điều chỉnh một mảng quan hệ xã hội phổ biến và rất gần gũi
với nhân dân. Chế định thừa kế được quy định tại phần thứ tư của Bộ luật
dân sự: từ điều 631 đến điều 687, đã tại cơ sở pháp lý vững chắc để nhân dân
thực hiện một trong những quyền cơ bản của mình đã được Hiến pháp năm
1992 khẳng định tại điều 58: “ Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp và
quyền thừa kế của công dân”.
Trong bài viết này em sẽ đi tìm hiểu về di sản thừa kế trong lý
luận và được áp dụng trong thực tiễn cuộc sống như thế nào?
1
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I/ lý luận
Từ trước đến nay trong khoa học pháp lý của nước ta chưa có một khái
niệm thống nhất, cụ thể về di sản thừa kế. Xuất phát từ tầm quan trọng của di
sản thừa kế là yếu tố đầu tiên trong quan hệ thừa kế đã rút ra được khái niệm
thừa kế trên phương diện pháp lý: “Di sản thừa kế là toàn bộ tài sản thuộc
quyền sở hữu hợp pháp của người chết khi còn sống để lại, là đối tượng của
quan hệ dịch chuyển tài sản đó cho những người thừa kế được Nhà nước thừa
nhận và bảo đảm thực hiện”. Theo quy định tai Điều 634 BLDS năm 2005:


“Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết
với người khác”.
Tuy nhiên về di sản thừa kế có nhiều cách hiểu khác nhau, thậm chí
ngay trong pháp luật qua mỗi thời kì cũng quy định khác nhau. Cùng với sự
phát triển nền kinh tế – xã hội của Việt Nam hơn 60 năm qua. Với những
chính sách đổi mới đất nước, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần…đến
nay thành phần, khối lượng giá trị tài sản thuộc sở hữu tư nhân – nguồn của
di sản thừa kế cũng ngày một phong phú, nhiều hơn và lớn hơn. Di sản thừa
kế là tài sản thuộc quyền sở hữu của người để lại di sản khi còn sống. Theo
quy định tại điều 163 BLDS: “ Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và
các quyền tài sản”. Như vậy, thành phần di sản bao gồm các loại tài sản khác
nhau và không bị hạn chế về số lượng.
Như vậy, di sản thừa kế là toàn bộ tài sản thuộc quyền sở hữu hợp
pháp của người đã chết, quyền về tài sản người đó. Quyền sở hữu tài sản là
một trong những quyền cơ bản của công dân được nhà nước bảo hộ. “ Công
2
dân có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu
sinh hoạt, tư liệu sản xuất, vốn và tài sản khác trong doanh nghiệp hoăc trong
các tổ chức kinh tế khác…nhà nước bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp và quyền
thừa kế của công dân”. (Điều 58 HP năm 1992).
Di sản thừa kế bao gồm:
1. Di sản thừa kế là tài sản riêng của người chết.
Tài sản riêng của người chết được hiểu là phần tài sản về phương diện
pháp lý không bị chối hay chịu một rằng buộc nào với chủ thể khác, được
xác định khi người đó còn sống là tài sản do người đó tạo ra bằng thu nhập
hợp pháp (tiền lương, tiền được trả công lao đông, tiền thưởng, tiền nhuận
bút, tiền trúng xổ số…) tài sản được tặng cho, được thừa kế, tư liệu sinh hoạt
riêng (quần áo, xe máy, ô tô,..), nhà ở, tư liệu sản xuất các loại, vốn dùng để
sản xuất kinh doanh.
- Tiền, vàng, bạc, kim khí quý, đá quý được dùng làm đồ trang sức

hoặc được dùng làm của cải để dành.
- Nhà ỏ; diện tích mà người đó có nhà bị cải tạo XHCN, được nhà
nước để lại cho để ở và xác định là thuộc quyền sở hữu của người đó. Nhà do
được thừa kế, tặng cho, mua, trao đổi hoặc tự xây dựng được các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền cho phép và đã làm thủ tục sang tên, trước bạ.
- Vốn , cổ phần, vật tư, tư liệu sản xuất của những người sản xuất cá
thể hoặc của các tư nhân được sản xuất kinh doanh hợp pháp.
- Tài liệu, dụng cụ máy móc của người làm công tác nghiên cứu.
3
- Cây cối mà người được giao sử dụng đất trồng và hưởng hoa lợi trên
đất đó.
Đó là những tài sản mà khi người đó còn sống có quyền sở hữu tài sản
của mình một cách độc lập và tự mình chiễm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản
theo ý chí của riêng mình mà không bị phụ thuộc vào ý chí của người khác
và chỉ tuân theo pháp luật.
Trong quan hệ vợ chồng, tài sản riêng của vợ hoặc của chồng được xác
định là tài sản có trước thời kỳ hôn nhân hoặc có trong thời hôn nhân nhưng
do được tặng cho riêng, được thừa kế riêng mà người có tài sản riêng đó
không định đoạt ý chí xác nhập vào khối tài sản chung của vợ chồng thì tài
sản đó vẫn thuộc quyền sở hữu riêng của vợ hoặc của chồng. Tài sản riêng
của người vợ hoặc của người chồng còn xác định được, trường hợp vợ,
chồng thỏa thuận bằng văn bản tài sản chung hoặc yêu cầu tòa án chia khi có
lý do chính đáng thì phần tài sản của vợ hoặc của chồng được chia là tài sản
riêng của mỗi người. Những tài sản chung của vợ chồng không chia thì vẫn
thuộc quyền sở hữu chung của vợ chồng. Những tài sản do vợ hoặc chồng tạo
ra trong thời kỳ hôn nhân hợp pháp là tài sản chung của vợ chồng. Tuy nhiên
khi xác định tài sản chung và tài sản riêng của người vợ hoặc của người
chồng, cần thiết phải phân biệt những trường hợp cụ thể sau đây.
- Thứ nhất: Vợ chồng đã chia tài sản chung theo các căn cứ hợp pháp
thì phần tài sản được chia của mỗi người là tài sản riêng, việc khai thác tài

sản đó thuộc sở hữu của riêng chủ sở hữu là vợ hoặc chồng, theo đó các
khoản thu được từ tài sản riêng đó là tài sản riêng.
4
- Thứ hai: trước thời kỳ hôn nhân, vợ hoặc chồng có tài sản riêng là tư
liệu sản xuất, sau khi kết hôn, tài sản đó không được nhập vào tài sản chung
của vợ chồng thì vẫn là tài sản riêng của người chồng hoặc của người vợ có
tài sản đó. Nhưng tài sản riêng của người chồng hoặc của người vợ được khai
thác và thu được những lợi ích nhất định thì các khoản lợi có được từ việc
khai thác tài sản riêng đó là của chung vợ chồng.
2. Di sản là thừa kế là phần tài sản của người chết trong khối tài
sản chung với người khác.
Người chết là đồng sở hữu chung hợp nhất tài sản chung hợp nhất tài
sản chung với vợ hoặc chồng và người chết là sở hữu chung theo phần đối
với tài sản chung với người khác. Trong trường hợp này khi người này chết
thì tài sản là di sản thừa kế được xác định trong khối tài sản chung đó như
sau:
- Đối với sở hữu chung hợp nhất, khi vợ hoặc chồng chết trước, phần
di sản của người chết trước, phần di sản của người chết trước là chồng hoặc
vợ được xác định là 1/2 giá trị trong tổng giá trị tài sản chung hợp nhất của
vợ chồng. Theo điều 219 BLDS quy định sở hữu chung của vợ chồng là sở
hữu chung hợp nhất. Vợ, chồng cùng nhau tạo lập, phát triển khối tài sản
chung bằng công sức của mỗi người; có quyền ngang nhau trong việc chiếm
hửu, sử dụng, định đoạt tài sản chung. Điều 17 Luật HN & GĐ quy định: “
khi một bên chết trước, nếu cần chia tài sản chung của vợ chồng thì chia đôi.
Phần tài sản của người chết được chia theo quy định của pháp luật về thừa
kế”. Vì vậy, khi một bên chết trước một nửa khối tài sản chung đó là tài sản
của người chết và được chuyển cho người thừa kế theo di chúc hoặc theo
quy định của pháp luật về thừa kế.
5
- Đối với trường hợp thứ hai, đó là trường hợp do nhiều người cùng

góp vốn để sản xuất kinh doanh, nếu có khối tài sản thuộc quyền sở hữu
chung của nhiều người (đồng sở hữu chủ với một khối tài sản nhất định) gọi
là đồng sở hữu chung theo phần đối với tài sản. Trường hợp này khi người
này chết phần quyền tài sản của người này trong khối tài sản chung là di sản
thừa kế.
VD: Anh H và B cùng C góp mỗi người góp 300 triệu đồng để mua
một căn nhà giá trị 900 triệu đồng. Anh H không may bị tai nạn chết. Thì 1/3
giá trị ngôi nhà đó là di sản thừa kế của anh H.
3. Di sản thừa kế là quyền tài sản do người chết để lại.
Quyền tài sản theo quy định của BLDS cũng được coi là tài sản.
Quyền tài sản là quyền giá trị được bằng tiền và có thể chuyển giao trong
quan hệ dân sự như quyền đòi nợ, đòi tài sản cho thuê, cho mượn, đòi bồi
thường thiệt hại…
Quyền sử dụng đất cũng thuộc di sản thừ kế.Điều 17 HP năm 1992
quy định: Đất đai, rừng núi, sông hồ, nguồn nước…là của nhà nước, đều
thuộc sở hửu toàn dân.ở nước ta, đất đai thuộc sở hữu toàn dân. Nhà nước
giao đất cho tổ chức, cá nhân sử dụng lâu dài, tổ chức cá nhân có quyền
chuyển quyền sử dụng đất được nhà nước giao theo quy định của pháp luật.
Như vậy bản thân đất đai không trở thành di sản thừa kế, vì cá nhân không
có quyền sở hữu mà chỉ có quyền sử dụng. Khi không có nhu cầu sử dụng cá
nhân đựơc phép chuyển nhượng quyền sử dụng đó cho người khác, nếu có
giấy tờ hợp pháp. Quyền sử dụng đất là một quyền tài sản đặc biệt của cá
nhân, do vậy cá nhân có thể để lại cho người khác theo di chúc hoặc theo
pháp luật quy định. Nhưng vì đây là một loại tài sản đặc biệt nên theo quy
6

×