BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC
BÙI THỊ HƯƠNG NHÀI
BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ CHO TRẺ 5 - 6 TUỔI
THÔNG QUA THƠ CỦA TRẦN ĐĂNG KHOA
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
SƠN LA, NĂM 2016
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC
BÙI THỊ HƯƠNG NHÀI
BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ CHO TRẺ 5 - 6 TUỔI
THÔNG QUA THƠ CỦA TRẦN ĐĂNG KHOA
Chuyên ngành: Lý luận và phương pháp phát triển ngôn ngữ
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Người hướng dẫn: ThS. Khổng Cát Sơn
SƠN LA, NĂM 2016
LỜI CẢM ƠN
Em xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc tới Thạc sĩ Khổng Cát Sơn người đã
tận tình hướng dẫn và giúp đỡ em trong quá trình thực hiện và hoàn thành luận
văn này.
Em xin trân trọng cảm ơn Ban chủ nhiệm Khoa Tiểu học Mầm non Trường Đại học Tây Bắc, Thư viện trường ĐH Tây Bắc và các bạn sinh viên lớp
k53 ĐHGD Mầm non đã tạo điều kiện giúp đỡ em nghiên cứu để hoàn thành
luận văn này.
Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của Ban giám hiệu cùng
toàn thể các cô và các cháu mẫu giáo lớn 5 - 6 tuổi Trường Mầm non Tô Hiệu
T.P Sơn La - Tỉnh Sơn La đã tạo điều kiện giúp đỡ để em hoàn thành khóa luận
đúng thời gian.
Sơn La, tháng 5 năm 2016
Người thực hiện
Bùi Thị Hương Nhài
DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT
T.P
: Thành phố
VD
: Ví dụ
SL
: Số lượng
ĐC
: Đối chứng
TN
: Thực nghiệm
TB
: Trung bình
MGL
: Mẫu giáo lớn
ĐHQG
: Đại học quốc gia
NXB
: Nhà xuất bản
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .................................................................................................. 1
1. Lí do chọn đề tài ................................................................................................ 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ................................................................................ 2
3. Mục đích nghiên cứu ......................................................................................... 4
4. Nhiệm vụ nghiên cứu ........................................................................................ 4
5. Phạm vi nghiên cứu ........................................................................................... 4
6. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................... 5
7. Những đóng góp của khóa luận ........................................................................ 5
8. Giả thuyết khoa học........................................................................................... 5
9. Cấu trúc của khóa luận ...................................................................................... 6
PHẦN NỘI DUNG .............................................................................................. 7
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN ............................. 7
1.1. CƠ SỞ LÍ LUẬN ........................................................................................... 7
1.1.1. Thế giới trẻ thơ trong thơ Trần Đăng Khoa ................................................ 7
1.1.2. Thể thơ thấm đẫm hồn thơ người Việt, hấp dẫn lứa tuổi thiếu nhi ........... 10
1.1.3. Thơ Trần Đăng Khoa giáo dục trẻ trên nhiều phương diện: Thẩm mỹ, phát
triển lời nói mạch lạc, lời nói nghệ thuật và phát triển nhân cách ...................... 20
1.2. CƠ SỞ THỰC TIỄN .................................................................................... 24
1.2.1. Khảo sát điều tra ........................................................................................ 24
1.2.2. Đối tượng điều tra ..................................................................................... 24
1.2.3. Thời gian và địa điểm điều tra .................................................................. 24
1.2.4. Phương pháp điều tra ................................................................................ 24
1.2.5. Phân tích kết quả điều tra .......................................................................... 24
1.2.6. Những nhận xét từ khảo sát....................................................................... 26
Tiểu kết chương 1................................................................................................ 27
CHƯƠNG 2: BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ CHO TRẺ 5 - 6
TUỔI QUA THƠ TRẦN ĐĂNG KHOA ....................................................... 28
2.1. Đặc điểm vốn từ và sự phát triển ngôn ngữ của trẻ (5- 6 tuổi) .................... 28
2.1.1. Đặc điểm vốn từ của trẻ ............................................................................ 28
2.1.2. Sự phát triển ngôn ngữ của trẻ .................................................................. 29
2.1.3. Đặc điểm về khả năng tiếp nhận tác phẩm văn học của trẻ MGL (5 - 6
tuổi) ..................................................................................................................... 30
2.3. Biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo lớn (5- 6 tuổi) qua thơ Trần
Đăng Khoa........................................................................................................... 33
2.3.1. Biện pháp đàm thoại giúp trẻ hiểu bài thơ ................................................ 33
2.3.2. Đọc thơ cho trẻ nghe và cho trẻ học thuộc lòng bài thơ ........................... 36
2.3.3. Giảng giải, giải thích từ khó ...................................................................... 38
2.3.4. Sử dụng các phương tiện trực quan trong việc đọc thơ cho trẻ nghe ....... 39
Tiểu kết chương 2................................................................................................ 43
CHƯƠNG 3: THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM ................................................... 44
3.1. Những vấn đề chung .................................................................................... 44
3.1.1. Mục đích thực nghiệm............................................................................... 44
3.1.2. Thời gian, khách thể và địa bàn thực nghiệm ........................................... 44
3.1.3. Điều kiện thực nghiệm .............................................................................. 44
3.1.4. Nội dung thực nghiệm ............................................................................... 45
3.1.5. Kết quả thực nghiệm ................................................................................. 45
3.1.6. Nhận xét quá trình thực nghiệm ................................................................ 47
Tiểu kết chương 3................................................................................................ 49
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ .......................................................................... 50
1. Kết luận ........................................................................................................... 50
2. Kiến nghị ......................................................................................................... 51
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................ 52
PHỤ LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Nghệ thuật bắt nguồn từ cuộc sống, nó thức tỉnh và làm phát triển tâm hồn
con người. Văn học là một loại hình nghệ thuật, là một bộ phận hoạt động tinh
thần cơ bản làm nên sự phong phú của nhân cách, đặc biệt là làm nảy sinh tư
tưởng, tình cảm, trí tưởng tượng, niềm tin và hành động nhân đạocủa con người
trong môi trường xã hội và tự nhiên.
Văn học là nghệ thuật ngôn từ, phản ánh cuộc sống bằng hình tượng, là
nguồn suối quan trọng của tri thức, kinh nghiệm sống của nhân loại mà con
người cần tiếp thu và phát triển. Ngôn ngữ trong văn học là cơ sở của mọi suy
nghĩ, là công cụ của tư duy. Vốn từ tiếp nhận được phản ánh tầm hiểu biết của
con người về mọi khía cạnh của đời sống xã hội. Ngôn ngữ là công cụ để trẻ học
tập vui chơi những hoạt động chủ yếu của trường mầm non. Giống như việc dạy
trẻ tiếng mẹ đẻ ở các cấp học khác nhau, phát triển lời nói cho trẻ ở trường mầm
non thực hiện mục tiêu “kép”. Đó là, trẻ học để biết tiếng mẹ đẻ đồng thời sử
dụng nó như một công cụ để vui chơi, học tập. Ngôn ngữ đưuọc tích hợp trong
tất cả các loại hình hoạt động giáo dục, ở mọi nơi, mọi lúc. Như vậy, ngôn ngữ
cần cho tất cả các hoạt độngtạo cơ hội cho ngôn ngữ trẻ phát triển. Nhờ được
nghe, tiếp xúc với một số lượng văn học đáng kể trẻ sẽ nhận dạng được văn học,
có những hiểu biết sơ đẳng về văn học đó chính là khả năng mô tả cuộc sống
xung quanh phong phú hấp dẫn bằng các dạng thức khác nhau. Trẻ nhỏ tiếp
nhận tác phẩm văn học bằng con đường gián tiếp (vì trẻ chưa tự đọc mà chỉ nghe
người lớn đọc, kể) đó là sức nghe tối đa về nhạc cảm và sự đa thanh, trẻ nghe
được hết những cung bậc âm thanh và nhịp điệu khác nhau của cuộc sống, nghe
ra những âm thanh mới lạ huyền diệu của thiên nhiên như tiếng chim hót, tiếng
mưa rơi, tiếng lá đa rơi ngoài thềm... Nghe ra những âm sắc biểu cảm, những
rung cảm của trái tim cùng nhịp điệu hài hòa giữa vũ trụ và con người
Mỗi tác phẩm đều giới thiệu một góc, một mặt của đời sống có khi là quá
khứ lịch sử hào hùng của dân tộc, có khi là sinh hoạt trong gia đình, hoạt động
của bác nông dân, chú bộ đội, chú công nhân, sinh hoạt ở trường mẫu giáo, có
1
khi là những đồ vật vô tri vô giác...Có rất nhiều tác giả viết những bài viết dành
riêng cho thiếu nhi như Trần Đăng Khoa (Hạt gạo làng ta; Mẹ ốm; Cây dừa...),
Phạm Hổ (Chú bò tìm bạn; Đàn gà con...), Nguyễn Huy Tưởng (Con cóc là cậu
ông trời; An Dương Vương xây thành ốc; Lá cờ thêu sáu chữ vàng...), Võ
Quảng (Ai dậy sớm; Con bê lông vàng; Mời vào...) các tác phẩm của các tác giả
này đều ẩn chứa những nét giản dị, mộc mạc ấy.
Nhu cầu nhận thức của trẻ tăng dần theo lứa tuổi, để đáp ứng nhu cầu
chính đáng đó thì những người trực tiếp quản lí và giáo dục trẻ phải luôn luôn
làm mới kiến thức và mở rộng kho tàng tri thức cho trẻ. Thông qua các tác phẩm
văn học kết hợp với hình ảnh trực quan sinh động.
Trẻ 5 - 6 tuổi có nhu cầu tiếp nhận tác phẩm văn học rất lớn, về cơ bản trẻ
đã phát âm chính xác tất cả các âm vị, thanh điệu của tiềng mẹ đẻ. Trẻ đã nói
năng tương đối lưu loát, biểu cảm. Về mặt ngữ pháp hầu hết các mẫu câu tiềng
Việt trẻ cũng đã sử dụng vào lúc 6 tuổi. Nhu cầu đó vừa phản ánh sự phát triển
ngôn ngữ của trẻ vừa cho thấy khả năng giao tiếp của trẻ cũng phát triển, rèn
cho trẻ năng lực cảm thụ tính nghệ thuật của tiếng Việt thông qua các tác phẩm
thơ truyện. Phát triển tính linh hoạt, tính nghệ thuật trong lời nói của trẻ.
Chính vì những lí do trên, bằng sự tìm hiểu và tâm huyết của mình, đồng
thời dựa trẻ những tiếp thu, học hỏi những thành tựu nghiên cứu thành công, tôi
mạnh dạn nghiên cứu đề tài “Biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ (5 - 6 tuổi)
thông qua thơ của Trần Đăng Khoa”. Hi vọng việc nỗ lực tìm hiểu và điều tra
của tôi sẽ nhận được sự đồng tình góp ý của thấy cô và bạn đọc.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Trải qua quá trình tìm hiểu việc đọc, kể diễn cảm tác phẩm văn học cho trẻ
mẫu giáo lớn 5 - 6 tuổi và việc cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học nhằm xây
dựng một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua thơ của Trần Đăng
Khoa một cách hiệu quả nhất, tôi đã tìm hiểu một số nghiên cứu khoa học có đề
cập đến những vấn đề liên quan đến đề tài nghiên cứu của mình.
Cuốn “Cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học một số vấn đề lí luận và
thực tiễn” của Hà Nguyễn Kim Giang, cũng đã nêu ra những kết quả nghiên cứu
2
cơ bản của các nhà khoa có tên tuổi trên thế giới như: P.M Iacop sơn, E.I
Trikhieva, A.V Zaporoze... về khả năng, năng lực tiếp nhận văn học của trẻ mầm
non: Trẻ mầm non hoàn toàn có thể hiểu sâu sắc (ở mức độ của trẻ) nội dung và
tư tưởng tác phẩm văn học, có thể phân biệt được hình ảnh nghệ thuật với hiện
thực, chỉ ra và nhận xét được những phương tiện biểu đạt hình tượng, ngôn ngữ,
các thủ pháp nghệ thuật, có khả năng nắm bắt được cơ bản cách xây dựng cốt
truyện, cấu trúc và mối quan hệ giữa các nhân vật.
Cuốn “ Phương pháp phát triển lời nói cho trẻ” của tác giả Đinh Hồng
Thái, dựa trên những thành tựu nghiên cứu của các nhà sư phạm Nga, Việt Nam,
cập nhất các thông tin mới nhất về phương pháp phát triển lời nói cho trẻ. Đồng
thời giáo dục chuẩn mực ngữ âm cho trẻ, hình thành và phát triển vốn từ ở trẻ,
dạy trẻ nói đúng ngữ pháp, phát triển lời nói mạch lạc, phát triển lời nói nghệ
thuật cho trẻ qua thơ truyện. Khẳng định tầm quan trọng của tác phẩm văn học
đối với quá trình phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
Gần đây vấn đề giúp trẻ mẫu giáo tiếp nhận tác phẩm văn học cũng đã được
rất nhiều sinh viên quan tâm và tìm hiểu: Nguyễn Thị Kim Anh - K45 Đại học
giáo dục Mầm non, Đại học Tây Bắc (2008) với khóa luận “Nâng cao chất
lượng hoạt động cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học lứa tuổi 5- 6 tuổi”.
Tác giả Nguyễn Thị Phúc - K46 Đại học giáo dục Mầm non, Đại học Tây
Bắc (2009) với khóa luận “Tìm hiểu khả năng hiểu và nhớ truyện của trẻ mẫu
giáo (5- 6 tuổi)”
Các khóa luận này, trên nhiều góc độ khác nhau đã nêu ảnh hưởng to lớn
của văn học đến sự hình thành, phát triển nhân cách của trẻ mầm non cũng như
tầm quan trọng của việc giúp trẻ phát triển ngôn ngữ và khả năng cảm thụ văn
học qua các câu chuyện, bài thơ của lứa tuổi mầm non
Qua nghiên cứu các bài viết, các công trình liên quan đến khóa luận tôi nhận
thấy các công trình này quan tâm sâu sắc đến vai trò của tác phẩm văn học đối
với việc giáo dục trẻ mầm non, khả năng của trẻ mầm non cẩm thụ các tác phẩm
văn học, khẳng định sự cần thiết của việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo.
Tuy nhiên, vấn đề nêu ra ở tài liệu này chưa hướng vào từng độ tuổi cụ thể trong
3
suốt giai đoạn trẻ ở bậc học mầm non, từng đồi tượng trẻ với trình độ khác nhau,
cũng chưa nêu các biện pháp cụ thể để phát triển ngôn ngữ phù hợp với từng đối
tượng như đã nói trên. Nhận thấy đây là một khoảng trống có thể tiến hành khảo
sát, nghiên cứu và đề xuất các biên pháp mang tính ứng dụng, tôi chọn nghiên
cứu vấn đề “Biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo lớn 5 - 6 tuổi qua
thơ của Trần Đăng Khoa”
3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu nhằm tìm hiểu:
Thực trạng nhận thức của giáo viên ở Trường Mầm non Tô Hiệu T.P Sơn La
- Tỉnh Sơn La trong việc cho trẻ làm quen tác phẩm thơ của Trần Đăng Khoa
cho đối tượng trẻ MGL 5 - 6 tuổi nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ một cách
hiệu quả nhất.
Mức độ nhận thức và hừng thú của trẻ MGL tại trường mầm non trên khi
được nghe và đọc thơ những tác phẩm thơ của Trần Đăng Khoa trong chương
trình giáo dục mầm non hiện hành.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu một số đề tài nghiên cứu khoa học và thực tiễn có liên quan đến
vấn đề nghiên cứu.
- Xây dựng một số biện pháp dạy trẻ mẫu giáo lớn (5 - 6 tuổi) phát triển
ngôn ngữ thông qua thơ của Trần Đăng Khoa.
- Tổ chức thực nghiệm để khẳng định tính khả thi của các biện pháp phát
triển ngôn ngữ cho trẻ MGL (5 - 6 tuổi) thông qua thơ của Trần Đăng Khoa.
- Xử lí kết quả thực nghiệm.
5. Phạm vi nghiên cứu
5.1. Địa bàn nghiên cứu
Trường mầm non Tô Hiệu T.P Sơn La - Tỉnh Sơn La.
5.2. Đối tượng nghiên cứu
Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ MGL (5 - 6 tuổi) thông qua
thơ Trần Đăng Khoa.
4
6. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lí luận: thu thập tài liệu, phân tích và xử lí tài liệu
có liên quan đến vấn đề nghiên cứu để xây dựng cơ sở lí luận cho đề tài.
- Phương pháp khảo sát bằng phiếu điều tra: Nhằm tìm hiểu thực trạng về
việc dạy ngôn ngữ cho trẻ MGL (5 - 6 tuổi) thông qua thơ của Trần Đăng Khoa,
thực trạng hiệu quả của việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua các biện
pháp này.
- Phương pháp quan sát: Quan sát và ghi chép việc sử dụng các biện pháp
phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua thơ của Trần Đăng Khoa.
- Phương pháp thống kê toán học.
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm.
7. Những đóng góp của khóa luận
Khóa luận được nghiệm thu sẽ bổ sung thêm phương pháp phát triển ngôn
ngữ cho trẻ MGL (5 - 6 tuổi) thông qua thơ Trần Đăng Khoa.
Khóa luận còn đóng góp cho kho tàng tài liệu về công tác nghiên cứu
khoa học về ngôn ngữ ở lứa tuổi mầm non cho sinh viên khoa Tiểu học - Mầm
nonTrường Đại học Tây Bắc nói riêng và những đọc giả quan tâm đến vấn đề
này nói chung.
8. Giả thuyết khoa học
Trên thực tế, tại các trường mầm non, việc chú trọng phát triển ngôn ngữ
cho trẻ MGL (5 - 6 tuổi) thông qua thơ của Trần Đăng Khoa chưa được quan
tâm đúng mức dẫn đến tình trạng chất lượng của việc tiếp nhận tác phẩm văn
học của trẻ mẫu giáo ở độ tuổi này chưa cao. Nếu biện pháp tôi đề xuất trong đề
tài nghiên cứu này được ứng dụng thì sẽ góp phần phát triển ngôn ngữ hiệu quả
qua các tác phẩm thơ của Trần Đăng Khoa. Đồng thời nâng cao chất lượng hiệu
quả của việc tiếp xúc, làm quen với tác phẩm văn học của trẻ.
5
9. Cấu trúc của khóa luận
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung của đề tài gồm ba chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn.
Chương 2: Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ (5 - 6 tuổi) thông
qua thơ của Trần Đăng Khoa.
Chương 3: Thực nghiệm sư phạm
6
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN
1.1. CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1.1. Thế giới trẻ thơ trong thơ Trần Đăng Khoa
a. Thế giới trẻ thơ từ cuộc sống hàng ngày
Thơ Khoa cho chúng ta biết cuộc sống khá vất vả và nguy hiểm nhưng
không thiếu niềm vui của những cậu bé, cô bé sinh ra và lớn lên ở nông thôn,
trong hoàn cảnh chiến tranh. Đó là những em bé chăm ngoan hiếu thảo, biết lao
động giúp đỡ gia đình, kính yêu cha mẹ, chăm sóc các em nhỏ, yêu quý thầy cô
giáo. Các em thật xứng đáng là con ngoan trò giỏi cháu ngoan Bác Hồ.
Trong bài Khi mẹ vắng nhà, Khoa đã liệt kê hàng loạt các công việc em đã
làm để san sẻ cho mẹ : luộc khoai, giã gạo, thổi cơm, nhổ cỏ vườn và quét ngõ.
Xem ra như thế đã được việc lắm rồi, nhưng mà em thực sự chưa thỏa mãn, em
thấy mình còn làm được ít quá, tuy lúc đó em mới tròn chín tuổi:
“Không mẹ ơi! Con chưa ngoan đâu
Áo mẹ mưa bạc màu
Đầu mẹ nắng cháy tóc
Mẹ ngày đêm khó nhọc
Con chưa ngoan, chưa ngoan!”
Vì vậy, khi Mẹ ốm, em đã làm tất cả cho mẹ vui lòng, giống như Lão Lai
xưa hơn tám mươi tuổi vẫn ra sân múa gươm cho mẹ già xem, vờ ngã như trẻ
con để mẹ cười:
“Cả đời về gió đi sương
Bây giờ mẹ lại lần giường tâp đi
Mẹ vui con có quản gì
Ngâm thơ, kể chuyện rồi thì múa ca
Rồi con diễn kịch giữa nhà
Một mình con đóng cả ba vai chèo”
7
Trong gia đình thì hiếu thảo, ngoài xã hội các em cũng rất có ý thức đóng
góp công sức của mình xây dựng quê hương đất nước, các em tham gia làm kế
hoạch nhỏ, cùng các bác xã viên làm ra Hạt gạo làng ta:
“Hạt gạo làng ta
Có công các bạn
Sớm nào chống hạn
Vục mẻ miệng gàu
Trưa nào bắt sâu
Lúa cao sát mặt
Chiều nào gánh phân
Quang chành quét đất”
Thế rồi các em còn tung tăng đi đánh giậm, đánh được nhiều cua cá thì thật
là thích, thích hơn nữa là được tắm trong không khí trong lành tươi mát của
đồng nội:
“Sáng nay bọn em đánh giậm
Ở ao ven làng
Bên ruộng lúa xanh non
Những chị lúa phất phơ bím tóc
Những cậu tre bá vai nhau thì thầm đứng học
Đàn cò áo trắng
Khiêng nắng
Qua sông...”
b. Thế giới trẻ thơ trong chiến tranh
Thế giới trẻ thơ của Khoa trong chiến tranh và các bạn cùng thời có biết
bao nhiêu niềm vui nhưng cũng thật khốc liệt trong hoàn cảnh chiến tranh với
những suy nghĩ và việc làm đến quá sớm.
Thử tưởng tượng một em nhỏ vừa bi bô nói cười, đã “dạy khôn” người
khác cách làm quen với những giấc ngủ không yên, quen với tiếng gầm rú của
máy bay:
8
“Chú ơi, nếu còn bom Mỹ
Chú phải bịt tai thế này
Cháu bỗng xoay nghiêng trên ghế
Như vừa có tiếng máy bay
Chú này buồn cười lắm nhé
Bom rùng cháu lại ngủ mê
Cứ tưởng tay bà đưa võng
Như ngày ru cháu ở quê”
Nhưng chúng ta đều biết rằng các em đã tìm cho mình những ngày không
sợ hãi. Như bé Thúy Giang em gái của Khoa, tuy mới 6 - 7 tuổi đã có thể tự
chăm sóc mình, cho người lớn yên tâm làm việc. Ở nhà một mình không có ai
chơi cùng, em đã kết thân với chú mèo, và biết nịnh chú ra phết. Em bày trò
Đánh tam cúc với chú ta:
“Quân này mày được
Quân này tao chui
Mèo ta phổng mũi
Ngoao ngoao một hồi
Quân này mày chui
Quân này tao được
Mèo bỗng dỏng tai
Mắt xanh như nước
À thôi mày được
Bé Giang dỗ dành
Mèo thè lưỡi đỏ
Liếm vào răng nanh”
Tuy bé đã biết cách giải khuây trong hoàn cảnh của mình nhưng người đọc
vẫn thấy bé thật tội nghiệp, thật đơn độc, đã phải tự lập từ khi còn rất nhỏ.
Không chỉ tự lập các em còn tự tin, rất cứng cỏi trong cảnh ngộ.
“Chúng tôi đến lớp ngày ngày
Mũ rơm tôi đội túi đầy thuốc men
9
Ao trường vẫn nở hoa sen
Bờ tre vẫn chú dế mèn vuốt râu”.
Đây là lời Khoa thay mặt bạn bè cùng thế hệ mình gửi tới bạn bè thế giới
nói lên thái độ coi thường bom đạn, chết chóc, vượt lên gian khổ để sống và
chiến thắng.
Đọc những dòng thơ này người ta hiểu vì sao chúng ta thắng Mỹ. Dẫu cho
lớp cha anh đi trước có ngã xuống thì lớp con cháu sau này cũng sẽ làm nên lịch
sử, bởi ý chí và nghị lực vững vàng của họ. Ngay từ khi còn cắp sách tới trường,
các em đã nuôi trong mình niềm mơ ước được noi gương người lớn đi trước,
đứng lên cầm súng bảo vệ tự do độc lập. Điều đó như tự chảy trong huyết quản
dân tộc Việt Nam bao đời nay:
“Em lắng nghe thầy giảng từng lời
Rung động bao điều suy nghĩ
Nghe âm vang bàn chân đi đánh Mỹ
Nghe âm vang tiếng gọi của chiến trường
Em đi suốt chiều dài yêu thương
Chiều sâu đất nước
Theo những dấu chân người thầy đi trước”.
Dẫu vậy các em vẫn bộc lộ mình còn rất nhỏ, nhưng nếu như được thả sức
chơi đùa, các em vẫn chơi không thiếu một trò gì, vẫn hồn nhiên với những
niềm vui thơ trẻ. Vì vậy các em rất dễ bị tổn thương tình cảm, khi mà những
niềm vui nhỏ nhoi ấy bị đánh cắp.
Như thế, chiến tranh quả thực đã gây cho các em bao điều thiệt thòi, tổn
thất. Cảnh ngộ đó là một tiềng nói gián tiếp tố cáo tội ác của giặc Mỹ. Những
bài thơ này, phụ họa với nhiều bài thơ khác viết về chiến tranh của trẻ thơ Việt
Nam nói riêng và toàn thế giới nói chung.
1.1.2. Thể thơ thấm đẫm hồn thơ người Việt, hấp dẫn lứa tuổi thiếu nhi
a. Thể thơ lục bát
Thể thơ lục bát trước hết là thơ của dân gian dùng cho các bà mẹ ru con, trẻ
em hát đố, trai gái hát đối đáp, ví von, hò trong lao động, trong các làn điệu dân
10
ca... Thơ lục bát như tiếng nói dùng để giao tiếp hàng ngày giúp chúng ta thể
hiện được tâm hồn người Việt, thơ lục bát mang hương vị ca dao thấm đẫm
trong lời ru của mẹ, của bà qua những trang Kiều đã để lại dấu ấn sâu sắc trong
tâm trí Trần Đăng Khoa.
Tuổi thơ Trần Đăng Khoa hầu như chỉ quanh quẩn trong lũy tre làng, một
vùng quê nông thôn yên ả, thanh bình, tươi mát, trong trẻo. Chính cái hồn quê
đã tạo nên hồn thơ Trần Đăng Khoa từ màu sắc đến tâm hồn. Khoa được sống
trong gia đình có nhiều người ưa thích thơ văn, Khoa có người mẹ thuộc rất
nhiều ca dao và truyện Kiều. Do vậy thể thơ dân gian như ăn sâu vào máu thịt để
Trần Đăng Khoa làm nên cách viết riêng cho mình.
Trong số 168 bài thơ thống kê, có 45 bài thơ viết theo thể lục bát, chiếm
26,7%. Sử dụng nhiều hình ảnh thân quen và thể thơ dân tộc, Trần Đăng Khoa
đã để lại dấu ấn trong lòng bạn đọc.
Cái sân nho nhỏ mới xây
Chiều chiều em đứng nơi này em trông
Thấy trời xanh biếc mênh mông
Cánh cò chớp trắng trên sông Kinh Thầy
(Góc sân và khoảng trời)
Một góc sân nhỏ nhẹ, đứng đó để nhìn ra bên ngoài cảnh vật xung quanh
tạo nên cảm xúc thơ cho Trần Đăng Khoa. Ai cũng có một góc sân và một
khoảng trời nhưng cái đẹp ở đây là từ góc sân Trần Đăng Khoa đã nhìn ra xa
thấy nền trời xanh biếc mênh mông, thấy được con sông quê mình, thấy được
cánh cò chớp trắng...
Thơ Trần Đăng Khoa viết theo lối cổ điển nghĩa là không dàn trải mà gọn
ghẽ, Trần Đăng Khoa biết chọn chữ đúng, chính xác nên không rườm rà, Trần
Đăng Khoa biết dùng những từ khơi gợi sinh động:
Tiếng cây lách đâm chồi
Tiếng người trò chuyện với người yêu thương
11
Trần Đăng Khoa đặc biệt chú ý học tập những tinh hoa văn hóa truyền
thống để sáng tạo ra những hình ảnh đẹp độc đáo trong thơ mình. Từ một câu đố
dân gian về quả dừa:
Chân không tới đất
Cật chẳng tới trời
Lơ lửng nửa vời
Mà đeo bụng nước
Trần Đăng Khoa đã chuyển thành tứ thơ lục bát rất hay về hình ảnh cây dừa:
Ai mang bao giọt nước lành
Ai mang bao hũ rượu quanh cổ dừa
(Cây dừa)
Đọc bài thơ “Đám ma bác giun” ta cũng thấy thấp thoáng những câu ca
dao cổ:
Con cò mắc giò mà chết
Con quạ ở nhà mua nếp làm chay
Con cu đánh trống bằng tay
Chào mào đội mũ làm thầy đọc văn
Chiền chiện vừa khóc vừa lăn
Một bầy se sẻ đội khăn chở cò
(Ca dao)
Còn ở “Đám ma bắc Giun”:
Bác giun đào đất suốt ngày
Trưa nay chết dưới bóng cây sau nhà
Họ hàng nhà kiến kéo ra
Kiến con đi trước kiến già đi sau
Cầm hương Kiến Đất bạc đầu
Khóc than Kiến Cánh khoác màu áo tang
Kiến Lửa đốt đuốc đỏ làng
Kiến Kim chống gậy, Kiến Càng nặng vai
12
Đám ma đưa đến là dài
Qua những vườn chuối, vườn khoai, vườn cà
Kiến Đen uống rượu la đà
Bao nhiêu Kiến Gió bay rà ra chia
(Đám ma Bác Giun)
Trần Đăng Khoa đã tặng thưởng cho Bác Giun đào đất suốt ngày nên khi
chết đám tang rất to. Bài thơ là một cách mô phỏng lại phong tục “hiếu, hỉ” ở
nông thôn viết trong sự giao hòa rất sâu lắng giữa người và vật. Thật ngộ nghĩnh
trong đám ma Bác Giun họ hàng nhà Kiến đi đưa sao nhiều bà con kiến đến thế
“kiến con, kiến già, kiến đất, kiến cánh, kiến lửa, kiến vàng... Bài thơ mang đậm
nét cổ xưa mang đậm nét ca dao.
Một mảnh vườn nho nhỏ, ở đó có cây lựu, cây cà hằng ngày được Trần
Đăng Khoa chăm sóc vun trồng, những công việc hàng ngày được đưa vào thơ
hồn nhiên nhưng sâu sắc:
Sớm nay bướm đến lượn vòng
Thì ra cải đã lên ngồng vàng tươi
Bé Giang trông thấy nhoẻn cười
Nhăn nhăn cái mũi hở mười cái răng
(Vườn cải)
Không những viết về con vật, cây cối Trần Đăng Khoa mới dùng tới thơ lục
bát mà anh còn dùng thể thơ này để viết về mẹ, về thầy, về những anh bộ đội, về
Bác Hồ để các bạn thiếu nhi dễ thuộc và nhớ mãi.
Bài thơ “Mẹ ốm” động đến trái tim người đọc để rồi đưa dòng lệ người ta
tràn ra khóe mắt. Một cậu bé 12 tuổi lại hiểu rõ nỗi đau của người mẹ đến thế:
Cả đời đi gió về sương
Bây giờ mẹ lại lần giường tập đi
Tình cảm đó Khoa còn dánh cho người thầy đã dạy em biết bao điều hay ở
đời. Thầy đi bộ đội, xa thầy, nhớ thương thầy nhiều nhưng các em đã biết
chuyển nỗi nhớ ấy thành tiếng cười, tiếng hát đưa tiễn thầy đi:
13
Chúng em lòng những là buồn
Vẫn cười vẫn hát, thầy còn đi xa
(Thầy giáo đi bộ đội)
Trần Đăng Khoa còn thể hiện tình cảm thắm thiết của các em thiếu nhi đối
với các chú bộ đội:
Đứa nào anh cũng xoa đầu
Đứa nào anh cũng bế lâu trong lòng
Hiểu rõ công lao của Bác Hồ ngày đêm lo lắng cho các em, mong cho các
em được vui tươi hạnh phúc không phải lo nghĩ tới chiến tranh, Trần Đăng khoa
đã thay mặt bạn bè thế giới cùng thế hệ hứa với Bác Hồ:
Cháu thề phấn đấu suốt đời
Như lời Bác dạy nên người Bác mong.
(Cháu thề phấn đấu suốt đời)
Thơ lục bát thường có sự chuẩn mực về câu lục dòng 6 tiền, câu bát dòng 8
tiếng. Tiếng cuối câu lục gieo vần xuống xuồng tiếng thứ 6 câu bát, tiếng cuối
câu bát gieo vần xuống tiếng tiếng cuối câu lục tiếp theo. Trần Đăng khoa đã
tiếp nhận cách gieo vần theo dân gian là nhịp chẵn, mỗi nhịp hai tiếng hoặc bốn
tiếng (ngắt 2/2/2 ở câu lục, ngắt 4/4 ở câu bát). Tuy nhiên có thể gặp lối ngắt
nhịp lẻ mỗi nhịp 3 tiếng cho câu lục (3/3).
Có thể thấy, ở các bài thơ này Khoa vẫn giữ nhịp truyền thống của lục bát:
Tiếng chim / vách núi / nhỏ dần
Rì rầm tiếng suối / khi gần khi xa
( Đêm Côn Sơn)
Nhưng có khi Trần Đăng khoa lại phá cách gieo nhịp 2/4 ở câu lục, có
khi là nhịp 2/6, 3/5 hoặc 5/3 ở câu bát, hoặc có khi câu thơ không còn “kích
thước” thông thường mà có thể thêm hoặc bớt một số tiếng tạo nên nét mới
trong thơ mình:
14
Nhịp 2/4, 2/6:
À uôm / ếch nói ao chuôm
Rào rào / gió nói cái vườn rộng rênh
(Tiếng nói)
Nhịp 3/5:
Chúng em lòng những là buồn
Vẫn cười / hát để thầy còn đi xa
(Thầy giáo đi bộ đội)
Sự phá cách về tiếng trong một câu:
Thầy đi bộ đội chiều qua
Chúng em thơ thẩn vào ra chúc mừng
Nhớ bao tháng năm ròng, thầy dạy
Nhìn thầy vui, càng thấy thương hơn
(Thầy giáo đi bộ đội)
Ảnh hưởng của làng quê, gia đình đã thấm sâu vào thơ Trần Đăng Khoa
cùng với những câu ca dao cổ, thơ lục bát của Trần Đăng Khoa đã tìm được chỗ
đứng trong lòng bạn đọc.
b. Các thể loại thơ khác
Đối với nhận thức của lứa tuổi thiếu nhi, những bài thơ mang tính chất
đồng dao lối viết tự do luôn đi vào tâm trí của các em bởi chúng không gò theo
vần, nhịp mà theo một cách riêng của loại đồng dao giúp các em dễ nhớ, dễ
thuộc.
Theo thống kê từ 168 bài thơ có 123 bài viết theo thể thơ khác: thơ 4 chữ,
có 12 bài, thơ 5 chữ có 25 bài, ngoài ra còn có thơ 7 chữ, 3 chữ...điều đó thể
hiện sự am hiểu về tâm lí trẻ thơ của Trần Đăng Khoa.
Từ một câu hát dân gian Trần Đăng Khoa đã viết lên một bài thơ mới mà
chỉ đọc một lần ta cũng thấy được hương vị đồng dao:
Trẩu trẩu trầu trầu
Mày làm chúa tao
Tao làm chúa mày
15
Tao không hái ngày
Thì tao hái đêm
(Lời đề tựa của bài thơ)
Đã dậy chưa hả trầu?
Ta hái vài lá nhé
Cho bà và cho mẹ
Đừng lụi đi trầu ơi!
(Đánh thức trầu)
Chỉ hái mấy lá trầu thôi nhưng lời thơ sao tha thiết “Tao hái vài lá nhé,
đừng lụi đi trầu ơi” bài thơ bắt nguồn từ một quan niệm dân gian: Khi hái trầu
nhất là hái về đêm thì phải đánh thức trầu dậy nếu không giàn trầu sẽ lụi tàn.
Với tư duy ngộ nghĩnh cùng sự lém lỉnh hồn nhiên theo chiều ý của tuổi
thơ, bài thơ “Kể cho bé nghe” là một chuỗi lời hỏi đáp, cứ một câu hỏi lại có
một câu trả lời cân đối, gọn ghẽ, xúc tích với âm hưởng đồng dao, bài thơ có thể
đọc vòng trở lại gợi hứng thú cho mọi người khi đọc bài thơ:
Hay nói ầm ĩ
Là con vịt bầu
Hay hỏi đâu đâu
Là chú chó vện
Hay chăng dây điện
Là con nhện con
Ăn no quay tròn
Là cối xay lúa
Mồm thổi ra gió
Là cái quạt hòm
Không thèm cỏ non
Là con trâu sắt
Rồng phun nước bạc
Là chiếc máy bơm
16
Dùng miệng nấu cơm
Là cua là cáy
(Kể cho bé nghe)
Bài thơ làm ta chợt nhớ đến những bài đồng dao vê loài rau, loài cá:
Ăn ngày hai bữa
Là con cá cơm
Ăn chẳng kịp đơm
Là con cá hốc
Hay
Nghe vẻ nghe ve
Nghe vè loài rau
Thủ ở hỗn hào
Là rau ngành ngạch
Trong lòng bất chính
Vốn thiệt tâm lang
Đất ruộng bò ngang
Là rau muống biển
(Đồng dao họ nhà rau)
Trần Đăng Khoa cũng là một đứa trẻ, nên Khoa biết rất rõ tâm lí của trẻ thơ
để viết nên những bài thơ thích hợp. Và với cách viết tự do, không gò bó bởi số
tiếng, số câu Trần Đăng Khoa cũng thành công trong việc phản ánh cuộc sống
ngày mùa:
Tiếng những nồi cơm
Chín vội
Liềm hái
Va nhau
Hương cau
Thoang thoảng...
(Tiếng trống làng)
17
Tiếng trống làng phản ánh cuộc sống vui vẻ ở đồng quê. Đây là tiếng trống
tàn canh buổi sáng, trong tiếng gà gáy, chó sủa lẫn vào tiếng gọi nhau ra đồng
làm việc. Lời thơ ngắn gọn dễ đi vào lòng người. Bài thơ có âm thanh rộn rã, có
hương sắc của cỏ cây làm thức dậy những hoạt động của ngày mới với khung
cảnh lao động ồn ào, náo nhiệt của người dân:
Bài thơ “Mưa” cũng thế:
Ông trời
Mặc áo giáp đen
Ra trận
Muôn nghìn cây mía
Múa gươm
Kiến
Hành quân
Đầy đường
Lá khô gió cuốn
Bụi bay
Cuồn cuộn
Vũ trụ giống hệt một đoàn quân ra trận, còn cây cối thì chẳng khác con
người một chút nào qua những nét sinh hoạt rất đặc trưng. Bằng biện pháp nhân
hóa các ngon cỏ bỗng biến thành các cụ già, bụi tre là các thiếu nữ, hàng bưởi
thành những bà mẹ tần tảo, cây dừa ngọn mùng tơi là những đứa bé hiếu động:
Có gà rung tai
Nghe
Bụi tre
Tần ngần
Gỡ tóc
Hàng bưởi
Đu đưa
Bế lũ con
Đầu tròn
18
...Cây dừa
Sải tay
Bơi
Ngọn mùng tơi
Nhảy múa
Đó là việc Khoa luôn hồn nhiên kể lại những việc đã làm để san sẻ giúp mẹ
trong một ngày: luộc khoai,giã gạo, thổi cơm, nhổ cỏ vườn, quét sân...và suy
nghĩ “người lớn” của em khi được mẹ khen:
Không mẹ ơi! Con chưa ngoan đâu
Áo mẹ mưa bạc màu
Đầu mẹ nắng cháy tóc
Mẹ ngày đêm khó nhọc
Con chưa ngoan chưa ngoan
(Khi mẹ vắng nhà)
Thế rồi em tung tăng đi đánh dậm, đánh bắt được nhiều cua cá thì thật là
thích, thích hơn nữa là các em được tắm trong không khí trong lành tươi mát của
đồng nội. Chỉ sử dụng những câu thơ với độ dài ngắn khác nhau mới có thể
chuyển tải hết những ý nghĩa ấy:
Sáng nay bọn em đánh dậm
Ở ao ven làng
Bên ruộng lúa xanh non
Những chị lúa phất phơ bím tóc
Những cậu tre bá vai nhau thì thầm đứng học
Đàn cò áo trắng
Khiêng nắng
Qua sông
(Em kể chuyện này)
Các em còn rủ nhau đi câu cá bên bờ ao. Ở đó có lũ cá rất đông: cá ngào, cá
mương, cá rô, cá diếc... thật là thú vị. Ta biết đây là bài thơ qua trí tưởng tượng
nhưng là sự tái hiện chuyện đi câu cá của các chú nhỏ:
19