Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

bài tập lớn luật thương mại 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (175.32 KB, 16 trang )

MỤC LỤC

1


A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Hành vi vi phạm hợp đồng trong thương mại là một hành vi diễn ra khá phổ biến
trên thực tế. Về nguyên tắc, bên vi phạm hợp đồng sẽ phải chịu những chế tài
như: buộc thực hiện đúng hợp đồng; phạt vi phạm; bồi thường thiệt hại; tạm
ngừng thực hiện hợp đồng; đình chỉ thực hiện hợp đồng; hủy hợp đồng để khôi
phục những thiệt hại vật chất cho bên bị vi phạm. Tuy nhiên, trong một số trường
hợp cho dù có xảy ra hành vi vi phạm hợp đồng trong thương mại thì bên vi phạm
vẫn không phải chịu trách nhiệm và được gọi là các trường hợp miễn trách nhiệm
đối với hành vi vi phạm hợp đồng trong thương mại. Vì vậy, để phân tích sâu hơn
cũng như bình luận các quy định của Luật thương mại về vấn đề này, em xin chọn
đề bài số 7: ‘Phân tích và bình luận các quy định về các trường hợp miễn trách
nhiệm đối với hành vi vi phạm hợp đồng trong thương mại.’’
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Khái quát chung về hợp đồng trong thương mại và trách nhiệm do vi
phạm hợp đồng trong thương mại.
1. Hợp đồng trong thương mại.
Hiện nay, trong Luật thương mại 2005 không đưa ra khái niệm hợp đồng trong
thương mại do đó phải dựa vào quy định tại Điều 388 Bộ luật dân sự năm 2005
thì: “Hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi
hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự.” Hiện nay, quy định này của Bộ luật
dân sự về khái niệm hợp đồng được áp dụng cho hợp đồng nói chung, trong các
lĩnh vực như: dân sự, lao động, thương mại. (1) Vì vậy, hợp đồng trong hoạt động
thương mại là một dạng của hợp đồng dân sự, trong đó khái niệm hoạt động
thương mại được định nghĩa như sau tại khoản 1 Điều 3 Luật thương mại: “Hoạt
1 Xem: Luận văn thạc sỹ luật học, “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng trong hoạt động
thương mại”, Nguyễn Thị Thu Hiền, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội, 2013.



2


động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng
hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động khác nhằm
mục đích sinh lợi khác.” Từ quy định này và quy định trong Bộ luật dân sự đã
nêu ở trên có thể đưa ra khái niệm hợp đồng trong hoạt động thương mại như sau:
Hợp đồng trong hoạt động thương mại là sự thỏa thuận giữa các chủ thể kinh
doanh với nhau và với các bên có liên quan về việc xác lập, thay đổi, hoặc chấm
dứt các quyền và nghĩa vụ trong hoạt động thương mại.(2)
Tuy nhiên, vì là hợp đồng trong hoạt động thương mại nên nó còn có những điểm
riêng biệt, đặc thù cụ thể như sau:
Thứ nhất, về chủ thể hợp đồng. Chủ thể của hợp đồng trong hoạt động thương
mại chủ yếu là thương nhân. Theo quy định của Luật thương mại có những quan
hệ mà một bên trong hợp đồng nhất thiết phải là thương nhân hay nói cách khác ít
nhất một bên trong quan hệ phải là thương nhân, ví dụ như trong hợp đồng ủy
thác mua bán hàng hóa, hợp đồng môi giới thương mại,…Mặt khác, có những hợp
đồng mà pháp luật quy định cả hai bên đều phải là thương nhân như: Hợp đồng
đại diện cho thương nhân, hợp đồng đại lý thương mại,…Vì vậy, chủ thể của hợp
đồng trong hoạt động thương mại chủ yếu là thương nhân.
Thứ hai, về hình thức của hợp đồng. Hình thức của hợp đồng trong hoạt động
thương mại rất đa dạng, nó không chỉ là bằng văn bản mà còn có thể bằng lời nói
hoặc bằng hành vi cụ thể. Ngoài ra, khoản 15 Điều 3 của Luật thương mại còn
quy định các hình thức có giá trị tương đương văn bản bao gồm điện báo, telex,
fax, thông điệp dữ liệu và các hình thức khác theo quy định của pháp luật.
Thứ ba, về mục đích của hợp đồng trong thương mại. Theo quy định tại khoản 1
Điều 3 Luật thương mại thì hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích
sinh lợi. Do đó, hợp đồng trong thương mại cũng nhắm tới mục đích này, đây là
đặc điểm quan trọng để phân biệt hợp đồng trong thương mại với các loại hợp

2 Xem: Luận văn thạc sỹ luật học, “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng trong hoạt động
thương mại”, Nguyễn Thị Thu Hiền, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội, 2013.

3


đồng khác. Các bên trong hợp đồng trong thương mại ký kết cũng như thực hiện
hợp đồng là để phát sinh lợi nhuận cho mình.
Trên đây là ba đặc điểm của hợp đồng trong thương mại bao gồm đặc điểm về chủ
thể, về hình thức và mục đích của hợp đồng.
2. Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng trong thương mại.
Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng trong thương mại là một khái niệm được sử
dụng khá phổ biến, tuy nhiên hiện nay trong luật thương mại cũng như các văn
bản hướng dẫn chưa đưa ra một khái niệm cụ thể nào. Do đó, để có thể hiểu được
khái niệm này chúng ta phải đi từ khái niệm trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa
vụ. Theo quy định tại Điều 302 Bộ luật dân sự thì trách nhiệm dân sự do vi phạm
nghĩa vụ là việc người có nghĩa vụ mà không thực hiện hoặc thực hiện không
đúng nghĩa vụ thì phải chịu trách nhiệm trước người có quyền. Như vậy, trách
nhiệm do vi phạm hợp đồng là một dạng của trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa
vụ và từ đây chúng ta có thể hiểu trách nhiệm do vi phạm hợp đồng trong thương
mại là việc một bên trong hợp đồng trong thương mại phải gánh chịu các hậu quả
pháp lý bất lợi do việc họ đã không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ
của mình trong hợp đồng.
Bởi vì trách nhiệm do vi phạm hợp đồng trong thương mại là một loại trách
nhiệm pháp lý nên nó có những đặc điểm của trách nhiệm pháp lý như: phát sinh
dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định, chủ thể bị áp dụng phải chịu những
hậu quả pháp lý bất lợi ..v.v. Tuy nhiên nó lại là trách nhiệm phát sinh trong hoạt
động thương mại nên còn có những đặc điểm riêng như sau:
Thứ nhất, về lĩnh vực phát sinh trách nhiệm. Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng
trong thương mại chỉ phát sinh trong hoạt động thương mại khi hợp đồng đã ký

kết và có hiệu lực pháp luật. Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích
sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương
mại và các hoạt động khác nhằm mục đích sinh lợi khác (khoản 1 Điều 3 Luật
thương mại). Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng trong thương mại chỉ được đặt ra

4


cũng như phát sinh trong những hoạt động được xem là hoạt động thương mại
theo như quy định trên.
Thứ hai, về thẩm quyền áp dụng: Chủ thể áp dụng các chế tài để buộc bên vi
phạm phải chịu trách nhiệm là bên bị vi phạm của quan hệ hợp đồng trong thương
mại. Bên bị vi phạm của hợp đồng có thể áp dụng hoặc không áp dụng một chế tài
trong thương mại đối với bên có hành vi vi phạm hợp đồng. Vì vậy, việc áp dụng
chế tài trong thương mại thuộc quyền định đoạt của bên bị vi phạm trong quan hệ
hợp đồng. Trong trường hợp, yêu cầu thực hiện chế tài không được bên vi phạm
thực hiện, bên bị vi phạm có quyền yêu cầu Tòa án hay Trọng tài bảo vệ quyền lợi
của mình.
Thứ ba, điều kiện phát sinh trách nhiệm là có hành vi vi phạm nghĩa vụ trong hợp
đồng. Hành vi vi phạm có thể là hành động hoặc không hành động, có thể là
không thực hiện nghĩa vụ hoặc thực hiện không đúng. Trong đó, nghĩa vụ của hợp
đồng không chỉ phát sinh từ sự thỏa thuận của các bên mà còn phát sinh từ quy
định của pháp luật.
Thứ tư, về tính chất của trách nhiệm. Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng trong
thương mại mang tính chất tài sản, bên phải chịu trách nhiệm sẽ phải gánh chịu
những hậu quả bất lợi về mặt tài sản. Cụ thể, bên vi phạm phải dùng tài sản của
mình để bồi thường tổn thất vật chất cho bên bị vi phạm hoặc phải chịu những tổn
thất vật chất để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ hợp đồng.
Thứ năm, về mục đích áp dụng của trách nhiệm do vi phạm hợp đồng là khôi
phục lợi ích vật chất và hạn chế phần nào những thiệt hại vật chất mà bên vi phạm

đã gây ra cho bên bị vi phạm.
Thứ sáu, các chế tài được áp dụng để buộc bên vi phạm hợp đồng phải chịu trách
nhiệm. Dựa vào các quy định trong Luật thương mại, các chế tài đó là: buộc thực
hiện đúng hợp đồng; phạt vi phạm; bồi thường thiệt hại; tạm ngừng thực hiện hợp
đồng; đình chỉ thực hiện hợp đồn; hủy hợp đồng. Với việc áp dụng các chế tài này

5


đối với bên vi phạm sẽ khắc phục được những thiệt hại vật chất của bên bị vi
phạm gây ra bởi hành vi vi phạm hợp đồng của bên vi phạm.
Trên đây là định nghĩa và đặc điểm của trách nhiệm do vi phạm hợp đồng trong
thương mại. Phần tiếp theo dưới đây sẽ đi phân tích cũng như bình luận về các
trường hợp miễn trách nhiệm đối với hành vi vi phạm hợp đồng trong thương
mại.
II. Các trường hợp miễn trách nhiệm đối với hành vi vi phạm hợp đồng
trong thương mại.
Miễn trách nhiệm đối với hành vi vi phạm hợp đồng trong thương mại là trường
hợp có một bên vi phạm nghĩa vụ thực hiện hợp đồng trong thương mại nhưng
không phải chịu trách nhiệm nào do việc không thực hiện đó thuộc một số trường
hợp đặc biệt.
Về nguyên tắc, trong hợp đồng thương mại nếu một bên vi phạm các nghĩa vụ của
hợp đồng thì phải chịu trách nhiệm. Tuy nhiên, trong một số trường hợp đặc biệt
thì mặc dù có hành vi vi phạm nhưng được miễn trách nhiệm, cụ thể:
Theo quy định tại khoản 1 Điều 294 Luật thương mại 2005 đã quy định bên vi
phạm được miễn trách nhiệm khi hành vi vi phạm hợp đồng xảy ra một trong bốn
trường hợp sau: xảy ra trường hợp miễn trách nhiệm mà các bên đã thỏa thuận;
xảy ra sự kiện bất khả kháng; hành vi vi phạm của một bên hoàn toàn do lỗi của
bên kia, hành vi vi phạm của một bên do thực hiện quyết định của cơ quan quản
lý nhà nước có thẩm quyền mà các bên không thể biết được vào thời điểm giao

kết hợp đồng. Ngoài ra, khoản 2 Điều 294 của Luật cũng quy định: “Bên vi phạm
hợp đồng có nghĩa vụ chứng minh các trường hợp miễn trách nhiệm.” Sau đây, là
phần phân tích các trường hợp này.
1. Miễn trách nhiệm theo thỏa thuận của các bên.
Hợp đồng là sự thể hiện ý chí của các bên nên pháp luật luôn đề cao và tôn trọng
sự tự do thỏa thuận của các bên. Do đó, điểm a khoản 1 Điều 294 Luật thương

6


mại đã quy định một trong những trường hợp mà bên vi phạm hợp đồng thương
mại được miễn trách nhiệm là trường hợp miễn trách nhiệm theo thỏa thuận của
các bên.
Như vậy, điều kiện để miễn trách nhiệm trong trường hợp này là có sự thỏa thuận
của các bên về trường hợp miễn trách nhiệm. Thỏa thuận giữa các bên về các
trường hợp được miễn trách nhiệm phải tồn tại trước và có hiệu lực đến thời điểm
bên bị vi phạm áp dụng chế tài. Nếu các điều kiện này không được thỏa mãn thì
bên vi phạm có thể bác bỏ yêu cầu được miễn trách nhiệm của bên vi phạm.
Tùy từng loại hợp đồng mà sự thỏa thuận này có hình thức biểu hiện khác nhau,
cụ thể:
Nếu hợp đồng bằng văn bản thì thỏa thuận như vậy được ghi nhận trong văn bản
hợp đồng hay trong phụ lục hợp đồng – một bộ phận không tách rời của hợp
đồng. Thỏa thuận như vậy cũng có thể ghi trong các văn bản được thiết lập giữa
các bên trong quá trình thực hiện hợp đồng về việc bổ sung, sửa đổi hợp đồng.
Tuy nhiên, trong trường hợp các bên giao kết hợp đồng bằng văn bản nhưng sau
khi ký kết các bên vẫn có thể thỏa thuận bằng lời nói hoặc bằng hành vi cụ thể về
trường hợp miễn trách nhiệm trừ khi trong văn bản hợp đồng có ghi rõ mọi thỏa
thuận sửa đổi, bổ sung hợp đồng chỉ có giá trị nếu được lập thành văn bản có chữ
ký của hai bên.
Nếu hợp đồng được giao kết bằng lời nói thì thỏa thuận về các trường hợp miễn

trách nhiệm cũng được thể hiện bằng lời nói. Tuy nhiên, hình thức này được các
bên trong giao kết hợp đồng thương mại ít khi sử dụng bởi việc chứng minh sự
tồn tại của thỏa thuận là rất khó khăn.
Trong thực tiễn, các bên trong giao kết hợp đồng thương mại ít khi thỏa thuận
trực tiếp và rõ ràng về các trường hợp vi phạm được miễn trách nhiệm bởi lẽ nếu
thỏa thuận như vậy sẽ không khuyến khích các bên thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ
của mình.

7


Từ những phân tích trên ta thấy quy định tại điểm a khoản 1 Điều 294 Luật
thương mại đã có quy định khá là mở và đã thể hiện sự tôn trọng những thỏa
thuận của các bên khi quy định nếu các bên có thỏa thuận thì bên vi phạm sẽ được
miễn trách nhiệm đối với hành vi vi phạm hợp đồng trong thương mại. Tuy nhiên,
điều luật chỉ quy định các bên thỏa thuận thì được miễn trách nhiệm. Như vậy, có
thể hiểu thỏa thuận được nói đến ở đây không vi phạm pháp luật, không trái với
đạo đức xã hội đều có hiệu lực. Nếu trong trường hợp một bên viện lý do là có
điều khoản miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại để cố ý vi phạm hợp đồng gây
thiệt hại cho bên kia dẫn đến sự bất bình đẳng giữa các bên trong hợp đồng
thương mại. Quy định như vậy là không phù hợp với pháp luật các nước trên thế
giới, cụ thể: một số nước đã có quy định rõ ràng như, nếu thỏa thuận miễn trách
nhiệm do vi phạm những điều kiện cơ bản của hợp đồng thì không phát sinh hiệu
lực. Mặt khác, do việc quy định chưa rõ ràng đó mà trong thực tế sẽ xảy ra một
nghịch lý là một bên lợi dụng điều khoản thỏa thuận giữa các bên về trường hợp
được miễn trách nhiệm để vi phạm hợp đồng nhưng không phải chịu trách nhiệm
vì điều khoản đó không vi phạm pháp luật cũng như không trái đạo đức, xã hội?
2. Miễn trách nhiệm trong trường hợp xảy ra sự kiện bất khả kháng.
Theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 294 Luật thương mại thì bên vi phạm hợp
đồng được miễn trách nhiệm trong trường hợp xảy ra sự kiện bất khả kháng.

Không giống như trường hợp thứ nhất là do các bên thỏa thuận, trường hợp thứ
hai này là do pháp luật quy định, các bên không thỏa thuận cũng được miễn trách
nhiệm trong trường hợp này.
Trước hết, chúng ta phải tìm hiểu về khái niệm “ sự kiện bất khả kháng”. Theo
quy định tại Điều 61 Bộ luật dân sự 2005 thì “Sự kiện bất khả kháng là sự kiện
xảy ra một cách khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục
được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép”. Như
vậy, để một sự kiện được xem là sự kiện bất khả khác phải thỏa mãn đầy đủ các
điều kiện sau:

8


Thứ nhất, đó phải là sự kiện xảy ra một cách khách quan. Sự kiện đó xảy ra không
phụ thuộc vào ý chỉ của bất kỳ ai và nằm ngoài phạm vi kiểm soát của bên vi
phạm hợp đồng. Do đó, các sự kiện như lũ lụt, song thần, động đất,.v.v.. được
xem là sự kiện xảy ra khách quan.
Thứ hai, phải là sự kiện xảy ra mà không thể lường trước được. Tính không thể
lường trước được của sự kiện bất khả kháng trong trường hợp vi phạm hợp đồng
được miễn trách nhiệm được xem xét ở thời điểm giao kết hợp đồng hoặc trong
quá trình thực hiện hợp đồng cho đến trước thời điểm xảy ra vi phạm. Rõ ràng là
chúng ta không thể đòi hỏi ở bên vi phạm một năng lực đánh giá quá cao vượt quá
khả năng của một con người bình thường. Đặc biệt, sự không thể lường trước
được phải nhằm vào một sự kiện cụ thể.
Thứ ba, hậu quả của sự kiện đó phải là không thể khắc phục được mặc dù đã áp
dụng mọi biện pháp cần thiết trong khả năng cho phép. Để đánh giá điều kiện này
có được đáp ứng hay không cần phải xem xét bên vi phạm có áp dụng có áp dụng
các biện pháp cần thiết trong phạm vi khả năng của mình để khắc phục hậu quả
hay không? Nếu áp dụng mọi biện pháp trong khả năng thì có khắc phục được
hậu quả không. Chỉ khi nào bên vi phạm đã áp dụng mọi biện pháp nằm trong khả

năng của họ mà vẫn không khắc phục được hậu quả thì mới đáp ứng được điều
kiện thứ ba này.
Khi đáp ứng được 3 điều kiện này, một sự kiện được xem là sự kiện bất khả
kháng và khi đó nếu bên vi phạm hợp đồng trong trường hợp này thì được miễn
trách nhiệm, cụ thể là: được miễn trách nhiệm, kéo dài thời hạn, từ chối thực hiện
hợp đồng.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 296 Luật thương mại quy định thì trong trường
hợp bất khả kháng, các bên có thể kéo dài thời hạn thực hiện nghĩa vụ hợp đồng;
nếu các bên không có thỏa thuận hoặc không thỏa thuận được thì thời hạn thực
hiện nghĩa vụ hợp đồng được tính thêm một thời gian bằng thời gian xảy ra sự
kiện bất khả kháng cộng với thời gian hợp lý để khắc phục hậu quả nhưng không

9


được kéo dài quá các thời hạn sau đây: 5 tháng đối với hàng hóa, dịch vụ mà thời
hạn giao hàng, cung ứng dịch vụ được thỏa thuận trên 12 tháng, kể từ khi giao kết
hợp đồng; 8 tháng đối với hàng hóa, dịch vụ mà thời hạn giao hàng, cung ứng
dịch vụ được thỏa thuận trên 12 tháng, kể từ khi giao kết hợp đồng;
Tuy nhiên, nếu sự kiện bất khả kháng kéo dài quá thời hạn do các bên thỏa thuận
hoặc luật định thì theo quy định tại khoản 2 Điều 296 Luật thương mại, các bên
có quyền từ chối thực hiện hợp đồng và không bên nào có quyền yêu cầu bên kia
bồi thường thiệt hại.
Mặt khác, việc kéo dài thời hạn thực hiện hợp đồng đã phân tích ở trên không
được áp dụng đối với mọi hợp đồng mua bán hàng hóa và cung ứng dịch vụ. Cụ
thể, theo khoản 4 Điều 296, việc kéo dài thời hạn thực hiện hợp đồng không áp
dụng đối với hợp đồng mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ có thời hạn cố định
về giao hàng hoặc hoàn thành dịch vụ. Quy định này cần được hiểu là chỉ áp dụng
đối với các thời hạn thực hiện nghĩa vụ hợp đồng được kéo dài theo luật định
trong trường hợp các bên không thỏa thuận.

Như vậy, quy định tại điểm b khoản 1 Điều 294 Luật thương mại chỉ quy
định “xảy ra sự kiện bất khả kháng” là một căn cứ miễn trách nhiệm mà không
quy định cụ thể sự kiện này được áp dụng chỉ với các bên trong hợp đồng trong
thương mại hay đối với cả bên thứ ba trong quan hệ hợp đồng và sẽ dẫn đến câu
hỏi là liệu bên thứ ba đó có phải thực hiện nghĩa vụ của mình hay không? Vì vậy,
luật thương mại cần quy định rõ vấn đề này. Ví dụ, trong một hợp đồng mua bán
hàng hóa người bán không thực hiện nghĩa vụ giao hàng của mình cho người mua
do bên gia công không thực hiện nghĩa vụ của mình đối với người bán theo hợp
đồng gia công sản phẩm do sự kiện bất khả kháng thì bên bán trong hợp đồng
mua bán hàng hóa có được miễn trách nhiệm không?(3)

3 Xem: Luận văn thạc sỹ luật học, “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng trong hoạt động thương
mại”, Nguyễn Thị Thu Hiền, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội, 2013.

10


Mặ khác, điều luật cũng chỉ quy định điều kiện để bên vi phạm được miễn trách
nhiệm là có sự kiện bất khả kháng xảy ra nhưng lại không nêu mối quan hệ nhân
quả giữa sự kiện bất khả kháng và hành vi vi phạm hợp đồng thì mới được miễn
trách nhiệm trong khi về nguyên tắc thì phải có mối quan hệ nhân quả mới phải
chịu trách nhiệm. Vì vậy, luật cần quy định mối quan hệ nhân quả của hai đối
tượng này tránh trường hợp quy định một cách chung chung như hiện nay.
3. Miễn trách nhiệm đối với hành vi vi phạm hoàn toàn do lỗi của bên bị vi
phạm.
Theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 294 Luật thương mại thì bên vi phạm hợp
đồng được miễn trách nhiệm trong trường hợp vi phạm hoàn toàn do lỗi của bên
bị vi phạm. Như vậy, trường hợp miễn trách nhiệm này đòi hỏi nguyên nhân của
hành vi vi phạm hợp đồng của bên vi phạm phải là do lỗi của bên vị vi phạm. Lỗi
của bên bị vi phạm được thể hiện dưới hình thức hành động hoặc không hành

động, chính do lỗi này mà bên vi phạm đã không thực hiện được nghĩa vụ trong
hợp đồng của mình.
Chẳng hạn, trong hợp đồng mua bán hàng hóa là động sản hình thành trong tương
lai, bên mua (bên bị vi phạm) không thanh toán đúng hạn khoản tiền bằng 30%
giá trị hợp đồng để bên bán (bên vi phạm) mua nguyên vật liệu và dẫn đến việc
đình trệ sản xuất là nguyên nhân của việc giao hàng chậm (hành vi vi phạm).
Trong mối quan hệ này, hành vi của bên bị vi phạm là hành vi có lỗi. Nếu hành vi
của bên bị vi phạm thuộc một trong ba trường hợp miễn trách nhiệm còn lại thì
hành vi đó không bị coi là có lỗi nên bên vi phạm sẽ không được miễn trách
nhiệm cho hành vi của mình.(4)
Có thể nhận thấy rằng, đây là một quy định rất tiến bộ trong Luật thương mại
đồng thời cũng đã đảm bảo sự tương thích với pháp luật thương mại quốc tế trong
việc quy định trường hợp miễn trách nhiệm trong trường hợp hành vi vi phạm
4( ) Xem: Giáo trình pháp luật về thương mại hàng hóa và dịch vụ, Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh,
Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam, Hồ chí Minh, 2012, tr-414.

11


hoàn toàn do lỗi của bên bị vi phạm. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn một số thiếu
sót như sau:
Điều 294 mới dự liệu miễn trách nhiệm đối với bên vi phạm hợp đồng khi
“Hành vi vi phạm của một bên hoàn toàn do lỗi của bên kia” mà chưa tính đến
khả năng hành vi vi phạm của một bên có nguyên nhân xuất phát từ bên thứ ba,
mà bên này rơi vào các trường hợp mà pháp luật quy định được miễn trách nhiệm.
Như vậy, trong trường hợp không được thoả thuận, đương nhiên bên vi phạm sẽ
không được miễn trách nhiệm nếu do lỗi của bên thứ ba, mặc dù bên này rơi vào
các trường hợp miễn trách nhiệm.(5)
4. Miễn trách nhiệm trong trường hợp hành vi vi phạm của một bên do thực
hiện quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Theo quy định tại điểm d Khoản 1 Điều 294 Luật thương mại quy định: Trường
hợp hành vi vi phạm hợp đồng của một bên là do thực hiện quyết định của cơ
quan quản lý nhà nước có thẩm quyền mà các bên không thể biết được vào thời
điểm giao kết hợp đồng là một căn cứ miễn trách nhiệm do vi phạm hợp đồng
thương mại.
Có ý kiến cho rằng, trường hợp miễn trách nhiệm này xét về bản chất thì đây cũng
là trường hợp miễn trách nhiệm do sự kiện bất khả kháng. Nhưng trong trường
hợp miễn trách nhiệm do sự kiện bất khả kháng phải xem xét các yếu tố như: tính
khách quan của việc xảy ra sự kiện, sự không thể lường trước được và không thể
khắc phục được còn trường hợp này thì không nên em không đồng ý với quan
điểm trên.
Quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong trường hợp này phải được
xem là điều kiện miễn trách nhiệm cho hành vi vi phạm hợp đồng phải làm phát
sinh nghĩa vụ của bên vi phạm phải thực hiện hoặc không thực hiện một hành vi
nhất định và việc tuân thủ nghĩa vụ đó là nguyên nhân dẫn tới hành vi vi phạm
hợp đồng. Chỉ khi đáp ứng được điều kiện này mới thược trường hợp miễn trách
5 Xem: haiphong.gov.vn/.../BÌNH%20LUẬN%20VỀ%20MIỄN.%20Bui%20Hu...

12


nhiệm vi phạm hợp đồng do thực hiện quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền. Trong thực tiễn, việc thực hiện quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền dẫn đến hành vi vi phạm hợp đồng xảy ra khá phổ biến, do đó việc quy
định trường hợp này là một điều cần thiết.
Từ những phân tích trên có thể thấy điểm d khoản 1 Điều 294 Luật thương
mại đã quy định trường hợp này, tuy nhiên quy định này là chưa rõ ràng, cụ thể:
Cơ quan quản lý nhà nước mà ra quyết định ở đây là cơ quan nào? Mọi cơ quan
nhà nước hay chỉ là những cơ quan nhất định nào đó. Mục đích của quyết định đó
được ban hành ra là nhằm mục đích gì?


(6)

Quyết định được nói đến ở đây có bắt

buộc là quyết định hợp pháp không hay quyết định trái pháp luật cũng được chấp
nhận.
Mặt khác, theo quy định của Luật thì bên vi phạm và bên bị vi phạm không thể
biết được việc thực hiện quyết định của cơ quan nhà nước sẽ dẫn tới hành vi vi
phạm hợp đồng tại thời điểm giao kết hợp đồng mới được miễn trách nhiệm. Như
vậy, nếu xảy ra trường hợp bên bị vi phạm biết việc thực hiện quyết định của cơ
quan nhà nước sẽ dẫn tới hành vi vi phạm mà vẫn tiếp tục ký kết còn bên vi phạm
lại không hề biết thì trong trường hợp xảy ra vi phạm, theo quy định trên bên vi
phạm sẽ không được miễn trách nhiệm (phải cả hai bên đều biết), điều này là
không hợp lý và gây ra sự bất công cho bên vi phạm trong trường hợp này.
Ngoài ra, trong thực tiễn còn cho thấy khi thực hiện quyết định của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền các bên trong quan hệ hợp đồng vẫn phải chịu những thiệt
hại vật chất nhất định. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có quy định về việc bồi hoàn
hay bù đắp một phần thiệt hại cho các bên vì phải thực hiện quyết định trên. (7)

6 Xem: Đại học quốc gia thành phố Hồ Chí Minh-khoa kinh tế, Giáo trình Luật thương mại quốc tế, Nxb. Đại học
quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
7 Xem: Luận văn thạc sỹ luật học, “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng trong hoạt động
thương mại”, Nguyễn Thị Thu Hiền, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội, 2013.

13


IV. Những kiến nghị hoàn thiện các quy định của pháp luật về các trường
hợp miễn trách nhiệm đối với hành vi vi phạm hợp đồng trong thương

mại.
Sau đây là một số kiến nghị hoàn thiện các quy định của pháp luật về vấn đề bày,
cụ thể như sau:
Thứ nhất, trong trường hợp miễn trách nhiệm theo thỏa thuận của các bên, pháp
luật cần quy định thỏa thuận của các bên trong hợp đồng trong thương mại sẽ
không phát sinh hiệu lực nếu nếu thỏa thuận miễn trách nhiệm đó vi phạm những
điều kiện cơ bản của hợp đồng thì không phát sinh hiệu lực hoặc một bên cố ý vi
phạm. Bởi vì nếu quy định rõ ràng như vậy sẽ tránh được một nghịch lý sẽ xảy ra
trên thực tế là một bên lợi dụng điều khoản thỏa thuận giữa các bên về trường hợp
được miễn trách nhiệm để vi phạm hợp đồng nhưng không phải chịu trách nhiệm.
Thứ hai, pháp luật cần quy định rõ trường hợp bên vi phạm hợp đồng do lỗi của
bên thứ ba mà bên thứ ba không thực hiện nghĩa vụ là ở trong trường hợp bất khả
kháng thì được miễn trách nhiệm. Quy định này đã được pháp luật nhiều nước
quy định, đặc biệt là Công ước Viên 1970 cũng đã quy định rất rõ ràng tại khoản 2
Điều 79, theo đó bên không thực hiện hay thực hiện không đúng sẽ không phải
chịu trách nhiệm mà việc không thực hiện hay thực hiện nghĩa vụ không đúng do
lỗi của người thứ ba, mà người thứ ba không thực hiện nghĩa vụ của mình do
trường hợp bất khả kháng. Việc bên thứ ba đã không hoàn thành nghĩa vụ do sự
kiện bất khả kháng là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến hậu quả là một bên trong hợp
đồng đã vi vi phạm hợp đồng. Như vậy, xét về bản chất thì hành vi vi phạm hợp
đồng này hoàn toàn không có lỗi và cũng có những tính chất như trường hợp bất
khả kháng nên để phù hợp với pháp luật quốc tế, Luật thương mại nên quy định
trường hợp này cũng thuộc trường hợp được miễn trách nhiệm.
Mặt khác, luật cũng nên quy định rõ: sự kiện bất khả kháng và hành vi vi phạm
phải có mối quan hệ nhân quả với nhau tránh tình trạng quy định mập mờ, mang
tính chất chung chung như hiện nay.

14



Thứ tư, Luật cần quy định trường hợp hành vi vi phạm của một bên nhưng có
nguyên nhân xuất phát từ bên thứ ba, mà bên này rơi vào các trường hợp mà pháp
luật quy định được miễn trách nhiệm theo quy định của Luật thì có được miễn
trách nhiệm hay không? Đây là một đòi hỏi từ thực tiễn trong quá trình áp dụng
các quy định của pháp luật về các trường hợp được miễn trách nhiệm cần thể chế
hóa bằng pháp luật ngay.
Thứ năm, đối với trường hợp được miễn trách nhiệm hành vi vi phạm do thực
hiện quyết định của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền pháp luật cần quy
định rõ phạm vi những cơ quan quản lý nhà nước được nói đến ở đây là thuộc
phạm vi nào? Quyết định do những cơ quan này ban hành bắt buộc là quyết định
hợp pháp, bất hợp pháp hay cả hai đều được chấp nhận.
Mặt khác, pháp luật cũng cần phải quy định chỉ cần bên vi phạm không thể biết
được rằng việc thực hiện quyết định của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền
sẽ dẫn tới hành vi vi phạm hợp đồng khi giao kết mà không phải là các bên như
quy định hiện hành. Ngoài ra, pháp luật cũng cần làm rõ nội hàm “không thể biết”
ở đây là như thế nào và cần quy định trường hợp bên bị vi phạm có thiệt hại về
vật chất trong trường hợp này được bồi thường bởi một chủ thể nhất định. Hiện
nay, pháp luật còn bỏ ngõ vấn đề này gây ảnh hưởng đến lợi ích của bên vi phạm,
khiến họ thiệt hại nhưng không được bồi thường một khoản nào.
C. KẾT THÚC VẤN ĐỀ
Trên đây là những phân tích, bình luận của em về các quy định của pháp luật về
các trường hợp được miễn trách nhiệm đối với hành vi vi phạm hợp đồng trong
thương mại. Qua những phân tích này chúng ta nhận thấy pháp luật đã có một số
các quy định tiến bộ, đáp ứng những đòi hỏi của thực tiễn nhưng bên cạnh đó vẫn
còn nhiều hạn chế như: quy định không cụ thể, rõ ràng mà chỉ quy định một cách
chung chung gây khó khăn trong việc áp dụng, nhiều vấn đề cần thiết phải quy
định nhưng vẫn còn bỏ ngõ. Vì vậy, trong thời gian tới em hy vọng rằng sẽ có văn
bản hướng dẫn luật thương mại hướng dẫn cụ thể những trường hợp ở trên và bổ
sung các quy định về các vấn đề mà pháp luật hiện nay vẫn còn bỏ ngõ.


15


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật thương mại năm 2005;
2. Bộ luật dân sự năm 2005;
3. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật thương mại (tập 2), Nguyễn Viết
Tý (chủ biên), Nxb. CAND, Hà Nội, 2006.
4. Bùi Ngọc Cường (chủ biên), Giáo trình luật thương mại (tập 2), Nxb. Giáo
dục, 2008.
5. Nguyễn Thị Dung (chủ biên), Đoàn Trung Kiên, Vũ Phương Đông, Trần Quỳnh
Anh, Nguyễn Như Chính, Hỏi và đáp luật thương mại, Nxb. Chính trị-hành
chính, 2011.
6. Giáo trình pháp luật về thương mại hàng hóa và dịch vụ, Trường Đại học Luật
thành phố Hồ Chí Minh, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam, Hồ chí Minh,
2012, tr-414.
7. Đại học quốc gia thành phố Hồ Chí Minh-khoa kinh tế, Giáo trình Luật thương
mại quốc tế, Nxb. Đại học quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí
Minh.
8. Luận văn thạc sỹ luật học, “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp
đồng trong hoạt động thương mại”, Nguyễn Thị Thu Hiền, Trường Đại học Luật
Hà Nội, Hà Nội, 2013.
9. Luận văn thạc sỹ luật học, “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp
đồng trong hoạt động thương mại”, Nguyễn Thị Thu Hiền, Trường Đại học Luật
Hà Nội, Hà Nội, 2013.
10. haiphong.gov.vn/.../BÌNH%20LUẬN%20VỀ%20MIỄN.%20Bui%20Hu...

16




×