Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

VỀ CÁC KHÁI NIỆM TOÀN THỂ CỦA ALEXANDER VÀ PHẨM CHẤT CỦA PIRSIG: Ý NGHĨA CỦA CHÚNG TRONG KIẾN TRÚC VÀ THIẾT KẾ ĐÔ THỊ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (574.42 KB, 7 trang )

HỘI THẢO KHOA HỌC "CÔNG NGHỆ XÂY DỰNG TIÊN TIẾN HƯỚNG ĐẾN PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG - ATCESD 2015"

VỀ CÁC KHÁI NIỆM TOÀN THỂ CỦA ALEXANDER VÀ PHẨM CHẤT CỦA
PIRSIG: Ý NGHĨA CỦA CHÚNG TRONG KIẾN TRÚC VÀ THIẾT KẾ ĐÔ THỊ
ALEXANDER’S WHOLENESS AND PIRSIG’S QUALITY: THEIR IMPLICATION IN
ARCHITECTURE AND URBAN DESIGN
Nguyễn Hồng Ngọc
Khoa Kiến trúc, Trường Đại học Bách Khoa


TÓM TẮT

Khái niệm Toàn thể theo Christopher Alexander có nhiều điểm tương đồng với Phẩm chất
trong quan niệm Siêu hình về Phẩm chất (MOQ) của nhà triết học Robert Pirsig. Bài bào này phân
tích hai khái niệm có liên quan và nêu rõ ý nghĩa và ẩn ý của Phẩm chất trong nghiên cứu kiến
trúc và thiết kế đô thị. Nghiên cứu này chỉ ra rằng quan hệ giữa Toàn thể và hai hệ thống ngôn ngữ
(ngôn ngữ kiểu mẫu và ngôn ngữ hình thức là mối quan hệ biện chứng) tương tự như quan hệ giữa
Phẩm chất động và Phẩm chất tĩnh. Ngôn ngữ hình thức và ngôn ngữ kiểu mẫu là công cụ để xây
dựng và tăng cường Toàn thể trong một cấu trúc. Ngược lại Toàn thể cần phải có sự hỗ trợ của
ngôn ngữ kiểu mẫu và ngôn ngữ hình thức để i) các bên tham gia dễ nhận thức và dễ thực hành
phương pháp tăng cường Toàn thể trong kiến trúc; ii) sử dụng như các ngôn ngữ dùng chung và
kho tài liệu để các bên cùng tham gia vào quá trình xây dựng và quy hoạch.
Từ khóa: toàn thể, phẩm chất, ngôn ngữ kiểu mẫu, ngôn ngữ hình thức, quá trình generative,

Siêu hình về Phẩm chất, MOQ.
ABSTRACT
Alexander’s Wholeness has equivalent and comparable features to the Quality in Pirsig’s view of
Metaphysics of Quality (MOQ). This paper explores those two interrelated concepts and provides meaning
and implication of Quality in research of architecture and urban design. The research shows that the
relationship between the Wholeness and two languages (pattern and form languages) in the generative
process is similar to the relationship between Dynamic Quality and Static Quality. Form and pattern


languages are tools to build and enhance Wholeness in a built structure. At the same time, the Wholeness
needs support from pattern and form languages to: i) ease stakeholders in the recognizing and practicing
Wholeness in architecture and urban design; ii) use as shared languages and a repository for participants
effectively communicate and collaborate in the building and planning process.
.
Key words: wholeness, quality, pattern language, form language, generative process,
Metaphysics of Quality, MOQ.

1. Đặt vấn đề:
Ngôn ngữ kiểu mẫu đã có một vị trí vững chắc
trong lịch sử kiến trúc và thiết kế đô thị. Ra đời từ
năm 1977, tác phẩm Một ngôn ngữ kiểu mẫu do
Christopher Alexander và cộng sự viết đã trở

thành tác phẩm kinh điển. Ngôn ngữ kiểu mẫu sử
dụng các kiểu mẫu, được tổ chức trong một hệ
thống nửa tầng bậc, nhằm đưa ra các giải pháp
không gian và xã hội cho môi trường xây dựng.
Theo Alexander một ngôn ngữ kiểu mẫu có các đặc
1


TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ ……………….

điểm sau: i) khả năng phối hợp vô tận; ii) Khả năng
thích ứng với điều kiện địa phương; iii) mỗi ngôn
ngữ kiểu mẫu phản ảnh kiến thức chung về môi
trường xây dựng mà cộng đồng cùng chia sẻ.
Chính khả năng phối hợp vô tận các kiểu mẫu này
đã cho phép kiến trúc sư thể hiện khả năng sáng tạo

của mình trong khi vẫn duy trì được trật tự của cấu
trúc. Một trong những diễn đàn quy tụ các nhà quy
hoạch và kiến trúc sư hàng đầu thế giới về ngôn
ngữ kiểu mẫu và phương pháp Generative là các
hội thảo được tổ chức hàng năm bởi Phòng nghiên
cứu Kiến trúc và Đô thị Đại học Portland (The
Portland Urban Architecture Research Laboratory)
[12]. Mặc dù đạt được thành công vang dội về mặt
lý thuyết và học thuật việc áp dụng ngôn ngữ kiểu
mẫu trong thực hành kiến trúc đã cho thấy cần phải
có những bổ sung cần thiết.
Trong bộ tập bốn tác phẩm Về bản chất của trật tự
(The Nature of Order) Alexander nhận thấy rằng
để thiết kế kiến trúc và đô thị thành công ngoài
ngôn ngữ kiểu mẫu vốn giải quyết vấn đề xã hội và
không gian của công trình cũng như quần thể đô thị
thì chúng ta cần phải có ngôn ngữ hình thức [2][3].
Ở đây ngôn ngữ hình thức là “khái niệm cụ thể và
thực tế của đặc điểm bề mặt và cấu tạo của công
trình” [10, trang 221]. Hay đơn giản hơn ngôn ngữ
hình thức là tập hợp các quy tắc hình học mà một
công trình xây dựng phải truyền tải trực tiếp những
nội dung thông tin và cảm xúc của nó tới con
người. Mỗi ngôn ngữ kiểu mẫu đặc biệt là sản
phẩm của sự tiến hóa thông qua phép thử-và-sai
trong kiến trúc, và nó phải dựa vào điều kiện địa
phương (ví dụ: vật liệu, nhu cầu thực tế, khí hậu
v.v…) để tạo nên hình thức. Cả hai loại ngôn ngữ
này phải làm việc cùng với nhau và cùng tạo ra
một cái toàn thể (the wholeness) cho cấu trúc đô thị

hoặc công trình. Như vậy khái niệm trung tâm của
quá trình xây dựng phát triển dần dần theo quan
niệm của Alexander—quá trình generative chính là
cái toàn thể.
Cũng trong cuốn Về bản chất của trật tự,
Alexander ghi nhận rằng khái niệm cái toàn thể của
ông có nhiều mức độ tương đồng với Phẩm chất
(Quality) của Robert Pirsig [9] [TRICH DẪN
2

GIÁN TIẾP] Nhưng ông chưa bao giờ đi sâu hơn.
Trong bài báo này tác giả mong muốn sử dụng khái
niệm Phẩm chất để làm sáng tỏ hơn cái Toàn thể
trong kiến trúc và đồng thời cũng tìm hiểu thêm về
ngôn ngữ hình thức nói riêng và phương pháp
generative nói chung. Theo những gì tác giả được
biết thì đến thời điểm này chưa có nhà nghiên cứu
nào tìm hiểu mối liên hệ giữa tư tưởng của
Alexander và Pirsig. Câu hỏi nghiên cứu mà tác giả
mong muốn trả lời là:
Những nét tương đồng giữa Phẩm chất và Cái toàn
thể là gì? Có thể vận dụng Phẩm chất như thế nào
để hiểu rõ hơn Toàn thể?
Phương pháp được sử dụng trong nghiên cứu này
là so sánh đối chiếu tư tưởng của Alexander và
Pirsig. Tác giả đã sử dụng các nguồn tài liệu thứ
cấp là các nghiên cứu của hai ông cũng như các
nhà nghiên cứu khác có nghiên cứu về ngôn ngữ
kiểu mẫu và ngôn ngữ hình thức trong kiến trúc và
thiết kế đô thị.

Kết quả nghiên cứu và khảo sát:
Trong một tác phẩm khác xuất bản trước Một ngôn
ngữ kiểu mẫu là tác phẩm Cách xây dựng vượt thời
gian (Timeless way of building), Alexander [1,
trang xi] cho rằng:
…[C]ó vẻ rằng mặc dù sự sống bên trong công
trình, và đặc điểm vượt thời gian chúng có
được khi chúng sống động, có thể được tạo ra
đơn giản bằng cách sử dụng ngôn ngữ kiểu
mẫu. Nếu con người có một ngôn ngữ kiểu
mẫu sống động, có vẻ như s làm cho nó sống
động. Có vẻ như sự sông của thành phố có thể
được tạo ra đơn giản bằng cách sử dụng các
ngôn ngữ này …[C]ó phải đơn giản như vậy
không? Có hải ất k quá t nh nào đều t o
nên
c
ng
gọ n khuấ đ ng
đến tinh t c a t nhiên? [Tác giả nhấn
mạnh] Có thể có một thứ lý thuyết mạnh m
đến như vậy? Những nghi ngờ này là chính
xác. Có một cái tinh hoa là trung tâm của
phương pháp xây dựng vượt thời gian…

Ở đây Phẩm chất không thể gọi tên (quality
without name) chính là phẩm chất mà Alexander
gọi là Toàn thể trong những tài liệu sau này của
ông. Alexander còn giải thích thêm về đặc tính
vượt thời gian (timeless quality) hay Phẩm chất



HỘI THẢO KHOA HỌC "CÔNG NGHỆ XÂY DỰNG TIÊN TIẾN HƯỚNG ĐẾN PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG - ATCESD 2015"

không thể gọi tên như sau [1, trang xv]:
Thực ra đặc tính vượt thời gian, cuối cùng thì,
ch ng liên quan gì đến các loại ngôn ngữ. Ngôn
ngữ và các quá trình bắt nguồn từ nó, chỉ là sự
phóng chiếu trật tự căn bản nằm bên trong
chúng ta. Chúng không dạy chúng ta, chúng chỉ
nhắc chúng ta những gì chúng ta đã biết, và
những gì mà chúng ta s phát hiện hết lần này
đến lần khác, khi chúng ta buông bỏ ý niệm và
quan điểm, và làm chính những gì xuất hiện
bên trong chúng ta. [TRICH DẪN TRỰC TIẾP
TRÊN 4 DÒNG]

Còn trong qúa trình generative, tức là quá trình
phát triển dần dần nơi mà sự tiến hóa mang tính
quá trình (process-oriented evolution) hay sự “phát
triển hữu cơ” xảy ra trong môi trường đô thị,
Alexander phát hiện sự nổi lên của một phẩm chất
gọi là “toàn thể” [5] . Alexander nhấn mạnh tầm
quan trọng của quá trình trong đó các thành viên
tham gia tăng cường tính toàn thể của môi trường
xây dựng một cách tập thể và tuần tự. Alexander
cũng giống như Pirsig (phân tích trong phần sau),
đều không đưa ra định nghĩa nào về cái toàn thể có
l vì sợ rằng không định nghĩa nào có thể nắm bắt
lấy Toàn thể và dùng lời nói chỉ làm cho chúng ta

đi xa khỏi nhận thức về toàn thể. Tuy nhiên chúng
ta có thể hiểu thô sơ rằng Toàn thể theo kiểu của
Alexander ngầm định một mối liên hệ toàn cục
giữa một cấu trúc và các thực thể khác trong khi
duy trì một tình trạng trật tự cao và gắn bó bản thân
bên trong cấu trúc [2].
Khái niệm Phẩm chất của Robert Pirsig lần đầu
tiên xuất hiện trong tác phẩm triết học viết dưới
dạng tiểu thuyết, Thiền và Nghệ thuật bảo trì xe
máy (Zen and the Art of Motorcycle Maintenance)
đây là tác phẩm triết học thuộc loại best-selling với
hơn 5 triệu bản sách được bán hết và được dịch ra
hơn ba mươi thứ tiếng trên thế giới. Trong tác
phẩm này Pirsig mong muốn thống nhất vật chất và
ý thức, chủ thể và khách thể bằng cách đưa ra một
quan điểm nhất nguyên siêu hình. Ông nói: “Phẩm
chất là cội nguồn và bản thể của mọi vật [9, trang
254] . Trước Pirsig cũng đã có người nhận ra tính
chất ngụy tạo của việc phân chia thế giới thành vật
chất và ý thức. William James nhà triết học thực
dụng Mỹ cũng cho rằng, sự phân biệt thành vật

chất và ý thức chỉ là sự bổ sung sau này về mặt
nhận thức với kinh nghiệm có trước. Theo James
không hề có sự tách biệt chủ thể và khách thể, sự
phân chia người nhận thức và cái được nhận thức
và thời điểm trải nghiệm. James gọi cái thành phần
trung tính này của thực tại là “kinh nghiệm thuần
túy” (pure experience) [7, trang 93]. Tương tự như
vậy Alfred North Whitehead cho rằng cái kiến tạo

nên thế giới không phải là gì khác hơn sự kiện
(event) mà ông gọi là các thực thể thực tế (actual
entities), các sự kiện này góp phần tạo nên cả thế
giới mà ta gọi là bao gồm vật chất và ý thức. Điều
này có vẻ là rất khó hiểu với tri thức thông thường
của chúng ta nhưng nếu chúng ta biết rằng vật lý
lượng tử chỉ ra rằng cái kiến tạo nên thế giới lượng
tự chính là các sự kiện lượng tử. Cái khái niệm
sóng/hạt lượng tử chỉ là khái niệm được đặt ra để
che đậy cho một sơ đồ duy vật của thế giới [8].
Pirsig viết tiếp: “Phẩm chất (hay giá trị, hay cái tốt)
là thực tại”. Cái định nghĩa duy nhất mà Pirsig đề
xuất cho phẩm chất là nó không thể định nghĩa
được bởi vì nó là năng động và nó là “vô định hình,
không hình thức, và không thể mô tả được” [9,
trang 252] . [TRICH DẪN TRỰC TIẾP DƯỚI 4
DÒNG] Thêm vào đó Pirsig giải thích rằng: “bất
kỳ sự giải thích triết học nào về Phẩm chất đều là
vừa đúng hoặc vừa sai bởi vì nó là một cách giải
thích triết học. Quá trình giải thích triết học lại là
một quá trình phân tích, một quá trình bẻ gãy một
thứ gì đó thành chủ ngữ và vị ngữ…Những gì mà
tôi (và mọi người) đều nói đến bằng từ “phẩm
chất” không thể bị chia thành chủ ngữ và vị ngữ.
Đây không phải bởi vì Phẩm chất là quá bí ẩn mà
bởi vì Phẩm chất quá đơn giản, ngày lập tức và
trực tiếp”. Chúng ta thấy ở đây sự tương tự trong
nhận thức của Pirsig và James về thực tại, đó là
“ngay lập tức và trực tiếp”.
Pirsig cho rằng cách hiểu Phẩm chất thô sơ nhất đó

là Phẩm chất là sự phản ứng của một cơ thể với
môi trường của nó. Ông dùng khái niệm con trùng
a mip (amoeba) khi phải tiếp xúc với môi trường
axit loãng [8, trang 244]:
Con amip s lùi ra khỏi vùng có chứa axit. Vốn
không biết gì về axit sulphuric, nếu con amip
3


TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ ……………….

nói được nó s nói rằng “môi trường này có
phẩm chất quá tệ”. Nếu con amip có một hệ
thần kinh phát triển nó s hành động theo một
cách phức tạp hơn để khắc phục tình trạng kém
phẩm chất của môi trường. Nó có thể tìm kiếm
sự tương tự ví dụ như hình ảnh và biểu tượng
từ kinh nghiệm trước đó để xác định bản chất
không thoải mái của môi trường mà nó đã tiếp
xúc và vì thế “hiểu” về môi trường đó. Thế còn
trong thế giới của chúng ta, chúng ta đã tiến
hóa tới mức sáng tạo ra những sự tương tự kỳ
diệu nhất, con người phát minh ra thiên đường,
trái đất, cây cối, tảng đá, đại dương, các thượng
đế, âm nhạc, nghệ thuật, ngôn ngữ, triết học, kỹ
thuật, nền văn mình và khoa học. Chúng ta gọi
những cái tương tự này là thực tại. Đúng là
chúng cũng là thực tại. Nhưng thứ khiến chúng
ta phát mình ra những tương tự này chính là
Phẩm chất. Phẩm chất là sự kích thích liên tục

mà môi trường buộc chúng ta phải tạo nên thế
giới mà chúng ta sống [tác giả nhấn mạnh].
Mọi thứ, mọi chi tiết của nó đều được tạo ra
như vậy.”

Như vậy theo Pirsig, Phẩm chất không thể được
định nghĩa bởi vì nó đi trước về mặt trải nghiệm
bất kỳ sự xây dựng về mặt ý thức nào. Phẩm chất
có trước bất kỳ khái niệm nào (và chính vì thế nó
không thể được định nghĩa, nếu định nghĩa ta s có
một thứ gì ít hơn là Phẩm chất). Tương tự như Đạo
theo quan niệm của Lão tử, Phẩm chất là động lực
cơ bản nhất trong vũ trụ tạo nên mọi thứ từ nguyên
tử tới các loài động vật, khiến cho chúng tiến hóa
và đạt đến một mức độ cao hơn của Phẩm chất.
Quan niệm về một “thứ” gì đó là nguồn gốc của thế
giới được gọi là quan niệm Siêu hình
(Metaphysics) và Pirsig gọi quan niệm coi Phẩm
chất là ngọn nguồn và động lực của vũ trụ là Siêu
hình học về Phẩm chất (Metaphysics of QualityMOQ).
Pirsig [8] giới thiệu một cách bài bản MOQ trong
tác phẩm Lila: Một cuộc khảo cứu về đạo đức,
trong đó ông cho rằng không thể định nghĩa, không
thể xác định Phẩm chất, nhưng để hiểu nó rõ ràng
hơn nó, Pirsig chia Phẩm chất thành hai hình thức:
Phẩm chất động (Dynamic quality) và Phẩm chất
tĩnh (Static quality). Phẩm chất tĩnh có thể được
định dạng (patterned) còn phẩm chất động là không
thể định dạng (unpatterned). Cả phẩm chất động và
4


bốn dạng của phẩm chất tĩnh bao hàm toàn bộ thực
tại. Khi nào phẩm chất động trở thành ổn định nó
biến thành các kiểu thức của phẩm chất tĩnh. Cần
chú ý ở đây là, MOQ không phải là quan điểm nhị
nguyên (tức là quan điểm thế giới bao gồm hai
“thứ” cơ bản: vật chất và ý thức), mà thế giới theo
MOQ chỉ bắt nguồn từ một, đó là Phẩm chất. Phẩm
chất này thể hiện khác nhau trong mỗi sự vật. Sự
thể hiện phẩm chất theo các khía cạnh động và tĩnh
này chính là quan niệm biện chứng nhất nguyên.
Trong sơ đồ của Pirsig, Phẩm chất động chỉ có thể
được hiểu thông qua cách dùng so sánh tương tự.
Phẩm chất động, hay là cái Giá trị (value), hay là
Cái tốt (good) là động lực tạo nên những thay đổi
trong thế giới. Khi một khía cạnh của Phẩm chất ổn
định hoặc trở nên quen thuộc nó trở thành tĩnh.
Phẩm chất động là “cái chiều kích tiền-nhận thức
của thực tại” bởi vì Phẩm chất được nhận thức
trước và được khái niệm hóa sau. Đó là vì sao vẻ
đẹp của một tác phẩm âm nhạc hay hội họa được
nhận thức trước; trước khi lời giải thích về cái hay
cái đẹp của âm nhạc thành hình. Pirsig sử dụng ví
dụ một người nghe một đĩa nhạc hay, sau bao
nhiêu lần nghe, cái tuyệt vời, cái sáng bừng của âm
nhạc phải dành chỗ cho sự mệt mỏi và chán ngán.
Có nghĩa là ở đây Phẩm chất động đã trở thành tĩnh
sau khi đã ổn định, đã được làm cho quen.
Phẩm chất tĩnh đơn giản hơn Phẩm chất động vì nó
có thể được định nghĩa. Phẩm chất tĩnh có tên và

có thể dùng để trao đổi giữa mọi người để xây
dựng nên một nên văn hóa. Pirsig chia Phẩm chất
tĩnh thành bốn kiểu thức theo trật tự đạo đức tăng
dần: vô cơ, sinh học, xã hội, và trí tuệ (hình 1).
Kiểu thức vô cơ bao gồm những vật không có sự
sống, kiểu thức sinh học bao gồm những thứ có sự
sống, kiểu thức xã hội bao gồm hành vi, thói quen,
nghi thức, các thiết chế, kiểu thức trí tuệ bao gồm
các tư tưởng. Pirsig mô tả sự tiến hóa như là sự
tiếp diễn đạo đức của các kiểu thức này. Ch ng
hạn một kiểu mẫu sinh học vượt qua kiểu mẫu vô
cơ (ví dụ chim bay vượt qua trọng lực) là một điều
đạo đức bởi vì kiểu thức sinh học là hình thức tiến
hóa cao hơn. Tương tự như vậy kiểu thức trí tuệ
khi vượt kiểu thức xã hội (ví dụ phong trào quyền


HỘI THẢO KHOA HỌC "CÔNG NGHỆ XÂY DỰNG TIÊN TIẾN HƯỚNG ĐẾN PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG - ATCESD 2015"

dân sự ở Mỹ) là sự phát triển đạo đức bởi vì kiểu
thức trí tuệ cao là hình thức tiến hóa cao hơn xã
hội. Như vậy MOQ có thể trở thành hướng dẫn đạo
đức cho hoạt động hàng ngày của con người.
2. Bàn luận:
Như vậy chúng ta đã thấy nhiều điểm tương đồng
giữa Toàn thể của Alexander và Phẩm chất của
Pirsig. Cả hai đều được nắm bắt trực tiếp, thuần túy
là kinh nghiệm và có trước bất kỳ phân tích nào.
Cả hai đều từ chối bất kỳ định nghĩa nào vì định
nghĩa chỉ cho chúng ta một thứ gì khác ít hơn là

Phẩm chất/Toàn thể vì Phẩm chất là cái có trước
tiên. Nhưng chỉ đến khi Pirsig phân chia Phẩm chất
thành Phẩm chất động và Phẩm chất tĩnh thì khả
năng của nó trong việc soi sáng sơ đồ Toàn thể của
Alexander mới trở nên rõ rệt.
Alexander cho rằng quá trình generative bao gồm
ngôn ngữ hình thức và ngôn ngữ kiểu mẫu [2]. Mà
mục đích chính của hai ngôn ngữ này là tăng
cường tính Toàn thể của cấu trúc. Trong ngôn ngữ
hình thức Alexander cho rằng có một cách để gợi
ý, hướng dẫn chúng ta đạt được tính toàn thể, đó là
thông qua mười lăm thuộc tính của ngôn ngữ hình
thức. Mười lăm thuộc tính đó là: Mức độ quy mô
(bao gồm số lượng các mức độ xác định của kích
thước), Trường trung tâm mạnh (vùng không gian
thống lĩnh và chiếm tư thế chủ đạo), Đường biên
dày (đường biên dày kết nối các trường trung tâm
xung quanh), Lặp xen kẽ (cấu trúc cần phải có sự
lặp xen k ), Không gian tích cực (hình dạng xác
định trong mối quan hệ với vùng không gian xung
quanh), Hình dạng tốt (thường đối xứng và có một
trường trung tâm được định rõ), Đối xứng cục bộ
(đối xứng cục bộ tạo nên sự bố cục cân đối và trật
tự mà không dẫn tới cứng nhắc), Sự xen cài chặt
(các hình thức cài răng lược vào nhau), Tương
phản (mức độ tương phản thường tạo nên một cấu
trúc cân bằng và gắn bó), Gradient (sự chuyển dần
trong cấu trúc), Độ thô (sự bất thường, tập trung
vào các chi tiết chủ chốt trong khi bỏ qua các thành
phần thứ yếu), Tiếng vọng (các thành phần tương

tự nhau bố trí cùng với nhau để hình thành một cấu
trúc thống nhất), Độ rỗng (không gian ngưng nghỉ
trong cấu trúc), Mộc mạc và Tự tại (Loại bỏ những

thành phần không cần thiết và gây mất tập trung),
Không phân ly (Không có thành phần nào bị tách
rời).
Nhưng Alexander cũng cảnh báo rằng mười lăm
thuộc tính trên phải được hiểu như là công cụ hỗ
trợ để đạt đến Toàn thể cao hơn, chứ không phải là
mục đích của ngôn ngữ hình thức nói riêng hay
phương pháp generative nói chung [2]. Tương tự
như vậy ngay cả ngôn ngữ kiểu mẫu dù rất mạnh
m cũng không phải là mục đích cuối cùng của quá
trình xây dựng. Mục đích cuối cùng là tạo nên môi
trường giàu sự sống (living environment)1. Mục
đích cuối cùng là Toàn thể. Tương tự như với
Pirsig mục đích cuối cùng là có được Phẩm chất
cao hơn. Vì vậy ta có sơ đồ như trong hình 2.
Như vậy s khó có một hướng dẫn nào theo kiểu
lên chương trình (ch ng hạn, bước 1 làm việc A,
bước 2 làm việc B v.v…) cho việc đạt được cái
Toàn thể. Tuy nhiên như đã trình bày, các ngôn
ngữ kiểu mẫu và ngôn ngữ hình thức có thể giúp
cho người làm kiến trúc hoặc thiết kế đô thị hiểu
biết và vươn tới cái toàn thể--tương tự như Phẩm
chất tĩnh có thể giúp người ta hiểu hơn và vươn tới
Phẩm chất động.
Như vây quan điểm siêu hình về Phâm chất của
Pirsig đóng góp đáng kể vào việc nhận diện cái

Toàn thể trong sơ đồ lý thuyết của Alexander. Dù
cho có tuân theo ngôn ngữ hình thức và ngôn ngữ
kiểu mẫu đến đâu. Nếu không có phẩm chất động
công trình kiến trúc không thể đạt được cái toàn
thể.
3. Kết luận:
Khái niệm Phẩm chất trong hệ thống Siêu hình về
Phẩm chất của Pirsig cung cấp một cách nhìn mới

1

Ta có thể liên tưởng đến “ngón tay” của Phật khi chỉ
về mặt trăng. Đừng nhầm mặt trăng (cái toàn thể/môi
trường giàu ng) với ngón tay (ngôn ngữ kiểu mẫu và
ngôn ngữ hình thức) của Phật. Chính Pirsig cũng có
quan sát tương tự khi nói về Phẩm chất động và Phẩm
chất tĩnh. Phẩm chất động luôn luôn đi trước và là mục
đích của MOQ. Phẩm chất tĩnh là phương tiện để đạt
đến Phẩm chất động.
5


TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ ……………….

vào quá trình generative với mục đích nâng cao
tính toàn thể trong kiến trúc và thiết kế đô thị. Bài
báo đã chỉ ra rằng quan hệ giữa Toàn thể và hai hệ
thống ngôn ngữ tương tự như quan hệ giữa Phẩm
chất động và Phẩm chất tĩnh. Ngôn ngữ hình thức
và ngôn ngữ kiểu mẫu là công cụ để xây dựng và

tăng cường Toàn thể trong một cấu trúc. Ngược lại
Toàn thể cần phải có sự hỗ trợ của ngôn ngữ kiểu
mẫu và ngôn ngữ hình thức để i) các bên tham gia
dễ nhận thức và thực hành phương pháp tăng
cường Toàn thể trong kiến trúc; ii) sử dụng như các
ngôn ngữ dùng chung và như một cơ sở dữ liệu
(repository) để các bên cùng tham gia vào quá
trình xây dựng và quy hoạch. Việc nghiên cứu và
ứng dụng ngôn ngữ kiểu mẫu và phương pháp
Generative trong kiến trúc và quy hoạch đô thị
đang được phát triển bởi nhiểu tổ chức.

[1]

Alexander, C. 1978. Timeless way of building.
London: Oxford University Press.

[2]

Alexander, C. 2002. The nature of order: The
phenomenon of life, Book 1. Berkeley, CA: Center
for Environmental Structure.

[3]

Alexander, C. 2004. The nature of order:
The Luminous Ground,Book 4. Berkeley, CA:
Center for Environmental Structure.

[4]


Alexander, C., Ishikawa, S., Silverstein, M.,
Jacobson, M., Fiksdahl-King, I., and Angel, S.
1977. A pattern language: towns, buildings,
construction. London: Oxford University Press.

[5]

Alexander, C., Neis, H., Anninou, A. and King, I.,
1987. A New Theory of Urban Design. New York,
NY: Oxford University Press.

[6]

Anthony McWatt, & Eric Priezkalns. 2015. 'The
role of evolution, time and order in Pirsig's
"Metaphysics of Quality," Quantonics.com.
/>oQ_Paper.html.

[7]

James, William., 1947. Essays in Radical
Empiricism and A Pluralistic Universe. Longmans,
Green And Co.

[8]

Pirsig, Robert. 1992. Lila: An Inquiry into
Morals.. Boston: Bantam.


[9]

Pirsig, Robert M. 1974. Zen and the art of
motorcycle maintenance. New York: Morrow.

[10] Salingaros, N A. 2008. A theory of architecture.
Solingen, Germany: Umbau-Verlag.
Hình 1. Sơ đồ tiến hóa của các kiểu thức trong
Phẩm chất tĩnh. Nguồn: McWatt và Priezkalns

Hình 2. Mối quan hệ giữa Toàn thể và quá trình
generative tương tự như quan hệ giữa Phẩm chất động
và Phẩm chất tĩnh. Nguồn: tác giả

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

Thông tin cụ thể:
6

[11] Whitehead, A. N. 1979. Process and Reality. 2nd
ed. Boston, MA: Free Press.
[12] PUARL. 2015. 'University of Portland- Urban
Architecture Laboratory'. />

HỘI THẢO KHOA HỌC "CÔNG NGHỆ XÂY DỰNG TIÊN TIẾN HƯỚNG ĐẾN PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG - ATCESD
2015"

1. Họ và tên: Nguyễn Hồng Ngọc
2. Học hàm, học vị: Tiến sỹ
3. Tên cơ quan: Trường Đại học Bách Khoa, Đại học Đà Nẵng

4. Liên hệ: 0969896543, email:

7



×