Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

bài thuyết trình về chính phủ điện tử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (198.59 KB, 11 trang )

CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ
1. Khái niệm và giới thiệu sơ lược
Chính phủ Điện tử (e-Government) là tên gọi của một chính phủ mà mọi hoạt động của nhà nước
được "điện tử hóa", "mạng hóa". Tuy nhiên, chính phủ điện tử không đơn thuần là máy tính, mạng
Internet; mà là sự đổi mới toàn diện các quan hệ (đặc biệt là quan hệ giữa chính quyền và công dân),
các nguồn lực, các quy trình, phương thức hoạt động và bản thân nội dung các hoạt động của chính
quyền trung ương và địa phương, và ngay cả các quan niệm về các hoạt động đó.
Chính phủ Điện tử là ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông (ICT) để các cơ quan của Chính
quyền từ trung ương và địa phương đổi mới, làm việc có hiệu lực, hiệu quả và minh bạch hơn; cung
cấp thông tin, dịch vụ tốt hơn cho người dân, doanh nghiệp và các tổ chức; và tạo điều kiện thuận lợi
hơn cho người dân thực hiện quyền dân chủ và tham gia quản lý Nhà nước.
Thông tin – Trong giai đoạn đầu, chính phủ điện tử có nghĩa là hiện diện trên trang web và cung cấp
cho công chúng các thông tin (thích hợp). Giá trị mang lại ở chỗ công chúng có thể tiếp cận được
thông tin của chính phủ, các quy trình trở nên minh bạch hơn, qua đó nâng cao chất lượng dịch vụ.
Với G2G, các cơ quan chính phủ cũng có thể trao đổi thông tin với nhau bằng các phương tiện điện tử,
như Internet, hoặc trong mạng nội bộ.
Tương tác – Trong giai đoạn thứ hai, sự tương tác giữa chính phủ và công dân (G2C và G2B) được
thông qua nhiều ứng dụng khác nhau. Người dân có thể hỏi qua thư điện tử, sử dụng các công cụ tra
cứu, tải xuống các biểu mẫu và tài liệu. Các tương tác này giúp tiết kiệm thời gian. Thực tế, việc tiếp
nhận đơn từ có thể thực hiện trực tuyến 24 giờ trong ngày. Thông thường, những động tác này chỉ có
thể được thực hiện tại bàn tiếp dân trong giờ hành chính. Về mặt nội bộ (G2G), các tổ chức của chính
phủ sử dụng mạng LAN, intranet và thư điện tử để liên lạc và trao đổi dữ liệu. Rõ ràng giai đoạn này
chỉ có thể thực hiện được khi đã thực hiện cải cách hành chính (với cơ chế một cửa điện tử, cơ chế
một cửa liên thông điện tử) theo tinh thần Quyết định số 93/2007/QĐ-TTg ngày 22 tháng 6 năm 2007
của Thủ tướng Chính phủ.
Giao dịch – Với giai đoạn thứ ba, tính phức tạp của công nghệ có tăng lên, nhưng giá trị của khách
hàng (trong G2C và G2B) cũng tăng. Các giao dịch hoàn chỉnh có thể thực hiện mà không cần đi đến
cơ quan hành chính. Có thể lấy ví dụ về các dịch vụ trực tuyến như: Đăng ký thuế thu nhập, đăng ký
thuế tài sản, gia hạn/cấp mới giấy phép, thị thực và hộ chiếu, biểu quyết qua mạng. Giai đoạn 3 là
phức tạp bởi các vấn đề an ninh và cá thể hóa, chẳng hạn như chữ ký số (chữ ký điện tử) là cần thiết
để cho phép thực hiện việc chuyển giao các dịch vụ một cách hợp pháp. Về khía cạnh doanh nghiệp,


chính phủ điện tử bắt đầu với các ứng dụng mua bán trực tuyến. Ở giai đoạn này, các quy trình nội bộ
(G2G) phải được thiết kế lại để cung cấp dịch vụ được tốt. Chính phủ cần những luật và quy chế mới
để cho phép thực hiện các giao dịch không sử dụng tài liệu bằng giấy.
Chuyển hóa – Giai đoạn thứ tư là khi mọi hệ thống thông tin được tích hợp lại và công chúng có thể
hưởng các dịch vụ G2C và G2B tại một bàn giao dịch (điểm giao dịch ảo).
Ở giai đoạn này, tiết kiệm chi phí, hiệu quả và đáp ứng nhu cầu khách hàng đã đạt được các mức cao
nhất có thể được.
Không nhất thiết mọi bước phát triển và dịch vụ đều phải nằm cùng một giai đoạn. Quả thực, điều
quan trọng là phải biết lọc ra một số dịch vụ cần đưa sang giai đoạn 2 và giai đoạn 3 và đưa ra những
mô hình về vai trò và động cơ để tiến lên làm tiếp. Về vấn đề trọng tâm của G2C và G2B, với G2C
nên đặt trọng tâm vào các giai đoạn ban đầu là 1 và 2. Tuy nhiên, với G2B thì nên tập trung nỗ lực đạt
được giai đoạn 2 và giai đoạn 3 và đích cuối cùng là giai đoạn 4 (nhưng đây là mục tiêu dài hạn (10
đến 15 năm).
2. Cơ cấu của chính phủ điện tử
CPĐT (e-Government) đã trở thành một từ nổi bật. Các nước đã và đang phát triển đều bắt tay vào
xây dựng CPĐT. Việt Nam cũng dành một sự quan tâm, đồng thuận cao trong việc xây dựng
CPĐT. CP Việt Nam đã khởi xướng một kế hoạch tổng thể về CPĐT và nhiều dự án ở các bộ,
ngành, tỉnh, thành phố. Tuy nhiên, cũng giống như các quốc gia khác, có rất nhiều phê phán về lộ
trình xây dựng CPĐT. Cần lưu ý CPĐT không đơn thuần chỉ là CNTT và truyền thông. TS. Trần


Văn Nam, giảng viên ĐH Kinh Tế Quốc Dân đã chỉ rõ "mọi người chỉ nghĩ đến khía cạnh điện tử
(nghĩa là chỉ nghĩ đến công nghệ) mà không hề quan tâm đến vấn đề quản lý, đặc biệt là quản lý
điện tử".
Thực chất, CPĐT bao gồm 3 thành tố chủ yếu:
-

-

-


Các dịch vụ công: CP tập trung vào việc nâng cao chất lượng và hiệu quả dịch vụ, cung cấp
cho các đối tác liên quan như doanh nghiệp, người dân, các tổ chức phi CP. Điều đó được thực
hiện thông qua các kênh khác nhau. Mục đích là để tạo thuận lợi cho khách hàng có thể sử
dụng các dịch vụ của CP mọi lúc, mọi nơi. Ví dụ, một công dân có thể đăng ký làm hộ chiếu và
gửi ảnh qua Internet.
Tiếp cận thông tin: Mọi người có thể kết nối vào hệ thống thông tin của CP thông qua Internet
và qua các ki-ốt mà không phải tới các cơ quan quản lý nhà nước để lấy thông tin.CPĐT giúp
những người quản lý có trách nhiệm hơn vì tính minh bạch cao hơn; giảm thiểu những gì
không hiệu quả và tệ quan liêu. Một trong những thách thức lớn nhất đối với các CP là tổ chức
lại quy trình hoạt động hiện tại để khai thác các lợi ích của CNTT-TT. Đồng thời, CP phải xem
xét và cải tổ lại chính sách hành chính, đào tạo lại cán bộ nhà nước về CNTT và kỹ năng hành
chính công mới.
Sự tương tác giữa chính phủ và công chúng: CNTT sẽ làm cho CP quản lý cởi mở và dễ tiếp
cận hơn bằng việc cho phép công chúng cùng tham gia vào các công việc của các cơ quan nhà
nước. CPĐT cũng tạo thêm cơ hội phát triển cho các đối tác liên quan, đặc biệt là cộng đồng
người nghèo ở những nước kém phát triển hay những người ở nông thôn. Nhờ hiệu quả của
CNTT-TT, CP có thể vươn tới cả những đối tượng ở khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa.

Các cụm từ liên quan đến CPĐT như G2G, G2B,G2C... là các cụm từ chung để xác định cơ hội về
CNTT-TT trong CPĐT. Tuy nhiên, các cụm từ này cũng có khi gây ra sự hiểu lầm trong người dân
rằng CPĐT đơn thuần chỉ là CNTT-TT.
Ở đây, cần hiểu G2G (Government to Government) nghĩa là nâng cao sự phối hợp và giao dịch
giữa các cơ quan nhà nước với nhau; G2E (Government to Employees) là sử dụng CNTT để xử lý
thông tin và nâng cao hiệu quả làm việc của cán bộ nhà nước; G2B (Governemnt to Business) là
cung cấp những thông tin trực tuyến và các dịch vụ điện tử cho doanh nghiệp; G2C (Government
to Citizens) nghĩa là cung cấp thông tin trực tuyến và dịch vụ cho người dân.
2.1 Sơ đồ tổng thể khung kiến trúc CPĐT Việt Nam
Các thành phần chính của Sơ đồ:
-Người sử dụng:Là những người truy cập, sử dụng dịch vụ CPĐT các cấp, bao gồm

người dân, doanh nghiệp, CBCCVC.
-Kênh giao tiếp: Là môi trường giúp người sử dụng truy cập đến các hệ thống thông tin CPĐT.
Bao gồm các kênh tiêu biểu như: điệnthoại, kiosk, cổng/trang thông tin điện tử, hay trực tiếp.
-Cổng thông tin điệntử Chính phủ: Là đầu mối kết nối người sử dụng tới các ứng dụng, HTTT
của cácBộ/tỉnh. Cổng này một mặt kết nối với kênh giao tiếp, một mặt kết nối với các cổng
thông tin điện tử các Bộ/tỉnh; kết nối với Hệ thống kết nối, liên thông của quốc gia và các
HTTT/CSDL quốc gia. Trong trường hợp, Cổng này chưa kết nối các cổng thông tin điện tử của


các Bộ/tỉnh, thì người sử dụng kết nối trực tiếp với cổng thông tin điện tử của các Bộ/tỉnh.
-Hệ thống kết nối, liên thông các HTTT ở Trung ương và địa phương (NGSP):Để kết nối, liên
thông các hệ thống thông tin ở quy mô quốc gia; Hệ thống này bao gồm các dịchvụ, ứng dụng có
thể chia sẻ, dùng chung cấp quốc gia. Giúp việc đầu tư không trùng lặp, tiết kiệm; đồng thời tạo
điều kiện kết nối liên thông, tích hợp các hệ thống. Chi tiết về thành phần này được trình bày trong
nội dung Kiến trúc kết nối cấp toàn quốc.
2.2 Kiến trúc CPĐT cấp Bộ
Xét trên quy mô cấp Bộ, hình sau đây mô tả Kiến trúc CPĐT tiêu biểu cấp Bộ.
Chức năng chính của các thành phần trong Kiến trúc như sau:
1.Người sử dụng
Người sử dụng là người dân, doanh nghiệp hoặc các cơ quan tương tác với dịch vụ được cung cấp
bởi các CQNN, baogồm:
(1) CácCQNN(G2G):Trong trường hợp này, CQNN sử dụng các dịch vụ từ các
CQNN khác để thực hiện công việc hoặc cung cấp dịch vụ cho CQNN khác.
(2) Doanh nghiệp(G2B):Doanh nghiệp sử dụng các dịch vụ được cung cấp bởi các
CQNN khác nhau.
(3) Công dân(G2C):Công dân sử dụng các dịch vụ được cung cấp bởi các CQNN
Khác nhau.
(4) Cán bộ công chức, viên chức nhà nước(G2E):CBCCVC truy cập đến các dịch vụ nội bộ của
cơ quan để thực hiện công việc của họ.
2.3 Kiến trúc CPĐT cấp tỉnh

Xét trên quy mô cấp Tỉnh, hình sau đây mô tả Kiến trúc CPĐT tiêu biểu cấp tỉnh.


Người sử dụng
Người sử dụng là người dân, doanh nghiệp hoặc các cơ quan tương tác với dịch vụ được cung cấp
bởi các CQNN, bao gồm:
(1) CácCQNN(G2G):Trong trường hợp này, CQNN sử dụng các dịch vụ từ các
CQNN khác để thực hiện công việc hoặc cung cấp dịch vụ cho CQNN khác.
(2) Doanh nghiệp(G2B):Doanh nghiệp sử dụng các dịch vụ được cung cấp bởi các
CQNN khác nhau.
(3) Công dân(G2C):Công dân sử dụng các dịch vụ được cung cấp bởi các CQNN
Khác nhau.
(4) Cán bộ côngchức,viênchứcnhànước(G2E):CBCCVCtruycậpđếncácdịch
vụnộibộcủacơquanđểthựchiệncôngviệccủahọ.
3. Các mục tiêu của CPĐT

Mục tiêu chung là tăng cường năng lực, nâng cao hiệu quả điều hành nhà nước của chính phủ,
mang lại thuận lợi cho dân chúng, tăng cường sự công khai minh bạch (transparency), giảm chi tiêu
chính phủ. Mục tiêu cụ thể là:
4. -Nâng cao năng lực quản lý điều hành của Chính phủ và các cơ quan chính quyền các cấp (trao

đổi văn bản điện tử, thu thập thông tin chính xác và kịp thời ra quyết định, giao ban điện tử …)
5. -Cung cấp cho người dân và doanh nghiệp các dịch vụ công tạo điều kiện cho nguời dân dễ

dàng truy nhập ở khắp mọi nơi
6. -Người dân có thể tham gia xây dựng chính sách, đóng góp vào quá trình xây dựng luật pháp,

quá trình điều hành của chính phủ một cách tích cực.
7. -Giảm được chi phí cho bộ máy chính phủ
8. -Thực hiện một chính phủ hiện đại, hiệu quả và minh bạch

9. Chính phủ điện tử sẽ tạo ra phong cách lãnh dạo mới, phương thức mới, cung cấp dịch vụ cho

người dân và nâng cao được năng lực quản lý điều hành đất nước.
10. Do vậy mà trong thời gian qua, các nước đều cố gắng đầu tư xây dựng CPĐT. Xây dựng CPĐT

ở Việt Nam là một yêu cầu cấp thiết, nó là một phần quan trọng trong tiến trình cải cách nền
hành chính quốc gia.
4 .Lợi ích của chính phủ điện tử:







CPĐT là chính phủ đảm bảo được cung cấp đầy đủ thông tin cần thiết và đúng lúc cho việc ra
quyết định. CPĐT lý tưởng là một chính phủ cung cấp đầy đủ thông tin, đúng thời điểm cho
những người quyết định, đó là lợi thế lớn nhất của CNTT.
CPĐT sử dụng CNTT để tự động hoá các thủ tục hành chính của chính phủ, áp dụng CNTT vào
các quy trình quản lý, hoạt động của chính phủ do vậy tốc độ xử lý các thủ tục hành chính
nhanh hơn rất nhiều lần.
Đối với công chức, CNTT dùng trong CPĐT là một công cụ giúp họ hoạt động hiệu quả hơn,
có khả năng dáp ứng nhu cầu của công chúng về thông tin truy cập và xử lý chúng.
Chính phủ điện tử sẽ giúp giảm chi phí và mang lại giá trị và lợi nhuận gia tăng như hiệu quả,
chất lượng nâng cao, tính minh bạch và trách nhiệm giải trình

Cụ thể:
a) Đối với người dân:





CPĐT cho phép công dân có thể truy cập tới các thủ tục hành chính mà thông qua phương tiện
điện tử, ví dụ như: Internet, điện thoại di động, truyền hình tương tác.
• Giảm thiểu thời gian cho công dân và người lao động khi truy nhập và sử dụng dịch vụ của
chính phủ và do đó giảm thiếu chi phícủa nhân dân.
• Khuyến khích sự tham gia của cộng đồng vào các hoạt động của chính phủ.
b) Đối với doanh nghiệp:
• CPĐT giúp cho các doanh nghiệp làm việc với chính phủ một cách dễ dàng bởi mọi thủ tục đều
được hiểu, hướng dẫn và mỗi bước công việc đều được đảm bảo thực hiện tốt, tin cậy. Mọi
thông tin kinh tế mà chính phủ có đều được cung cấp đầy đủ cho các doanh nghiệp để hoạt
động hiệu quả hơn.
• Giảm thiểu thời gian cho doanh nghiệp khi truy nhập và sử dụng dịch vụ của chính phủ và do
đó giảm thiếu chi phí.
c) Đối với chính phủ:
• Giảm“ nạn giấy tờ ” văn phòng – côngsở, tiết kiệm thời gian.
• Hợp lý hoá việc vận hành công việc, cho phép các cơ quan Chính phủ cung cấp các dịch vụ
chất lượng cao hơn.
• Tăng cường sự minh bạch, giảm tham nhũng.
• Giảm chi phí cho chính phủ.

5Mô hình giao dịch trong Chính phủ điện tử

- Tham gia chính phủ điện tử có 3 thực thể: chính phủ, người dân và doanh nghiệp. Trên cơ sở quan hệ
giữa các chủ thể trên, ta có thể phân loại CPĐT ra thành 4 loại, tương ứng với 4 dạng dịch vụ Chính
phủ bao gồm:

- G2C (Government to Citizens): được hiểu như khả năng giao dịch và cung cấp dịch vụ của chính phủ
trực tiếp cho người dân, ví dụ : Tổ chức bầu cử của công dân, thăm dò dư luận, quản lý quy hoạch xây
dựng đô thị, tư vấn, khiếu nại, giám sát và thanh toán thuế, hoá đơn của các ngành với người thuê bao,

dịch vụ thông tin trực tiếp 24x7, phục vụ công cộng, môi trường giáo dục.
- G2B ( Government to Business ): Dịch vụ và quan hệ chính phủ đối với các doanh nghiệp, các tổ chức
phi chính phủ, nhà sản xuất như: dịch vụ mua sắm, thanh tra, giám sát doanh nghiệp ( về đóng thuế,
tuân thủ luật pháp,…); thông tin về quy hoạch sử dụng đất, phat triển đô thị, đấu thầu, xây dựng; cung
cấp thông tin dạng văn bản, hướng dẫn sử dụng, quy định, thi hành chính sách nhà nước,… cho các
doanh nghiệp. Đây là thành phần quan hệ cơ bản trong mô hình nhà nước là chủ thể quản lý vĩ mô nền
kinh tế, xã hội thông qua chính sách, cơ chế và luật pháp và doanh nghiệp như là khách thể đại diện
cho lực lượng sản xuất trực tiếp của cải vật chất của nền kinh tế.
- G2E ( Government to Employees): chỉ các dịch vụ, giao dịch trong mối quan hệ giữa chính phủ đối
với công chức, viên chức bảo hiểm, dịch vụ việc làm, trợ cấp thất nghiệp, chăm sóc sức khoẻ, nhà ở…
- G2G ( Government to Government): được hiểu như khả năng phối hợp, chuyển giao và cung cấp các
dịch vụ mọtt cách có hiệu quả giữa các cấp, ngành, tổ chức, bộ máy nhà nước trong việc điều hành và
quản lý nhà nước, trong đó chính bản thân bộ máy của chính phủ vừa đóng vai trò là chủ thể và khách
thể trong mối quan hệ này.
 Toàn bộ hệ thống quan hệ, giao dịch của chính phủ như G2C, G2E, G2B, và G2G phải được đặt trên
một hạ tầng vững chắc của hệ thống: độ tin cậy (trust), khả năng đảm bảo tính riêng tư (privacy) và
bảo mật – an toàn (security) và cuối cùng tất cả đều dựa trên hạ tầng công nghệ và truyền thông với
các quy mô khác nhau: mạng máy tính, mạng Intranet, Extranet và Internet. Ngoài 4 mô hình giao
dịch chủ yếu trên bảng dưới đây cho thấy những hình thức giao tiếp khác trong CPĐT.
• Các loại hình giao dịch trong CPĐT
CPĐT
Nhân dân,
Cơ quan hành
Khu vực II
Khu vực III
công dân
chính, nhà nước
(kinh tế)
(NPI/NGO)



Nhân dân, công dân

C2C

C2G

C2B

C2N

Nhà nước, cơ quan
hành chính

G2C

G2G

G2B

G2N

Khu vực II (kinh tế)

B2C

B2G

B2B


B2N

Khu vực III
(NPI/NGO)

N2C

N2G

N2B

N2N

6. Các hình thức hoạt động và các dạng dịch vụ cung cấp qua CPĐT

Các hình thức hoạt động chủ yếu của CPĐT
Thư điện tử ( e-mail)
Thư điện tử giúp tiết kiệm được chi phí và thời gian. Có thể sử dụng e-mail để gửi các bản ghi nhớ,
thông báo, báo cáo, bản tin. CPĐT yêu cầu mỗi cán bộ công chức phải có địa chỉ e-mail để trao đổi
thông tin qua mạng. Việt Nam phấn đấu đến 2010, 70% - 80% tài liệu, công văn được chuyển qua
mạng.
Mua sắm công trong CPĐT
Việc mua sắm công có thể thực hiên được qua mạng đảm bảo tiết kiệm được thời gian, chi phí. Việc
mua sắm công tập trung sẽ đảm bảo tiết kiệm được chi phí, chống tiêu cực.
Trao đổi dữ liệu điện tử
Trao đổi dữ liệu điện tử (Electronic Data Interchange - EDI) là việc trao đổi các dữ liệu dưới dạng “có
cấu trúc” (Structured Form) từ máy tinh này sang máy tính điện tử khác trong nội bộ cơ quan hay giữa
các cơ quan. EDI có tính bảo mật cao.
Tra cứu, cập nhật thông tin qua mạng
Chính phủ thông qua mạng internet có thể cung cấp thông tin cho người dân và doanh nghiệp các loại

thông tin về kinh tế, xã hội, về chủ trương chính sách, và các hướng dẫn các thủ tuc hành chính.
Các dạng dịch vụ mà CPĐT cung cấp
Các dịch vụ công trực tuyến của chính phủ:
Trước đây các cơ quan chính phủ cung cấp dịch vụ công cho người dân tại trụ sở của mình thì nay có
thể cung cấp dịch vụ công qua mạng thông qua cổng thông tin điện tử. Người dân không phải đến trực
tiếp, chờ đợi tại các trụ sở cơ quan trên như trước đây.
Một số dịch vụ công có thể cung cấp qua mạng là: -Cung cấp thông tin văn bản quy phạm pháp luật,
chủ trương chính sách -Cung cấp thông tin kinh tế, xã hội và thị trường; -Cung cấp dịch vụ đăng ký,
cấp phép xuất nhập khẩu trực tuyến; -Cung cấp dịch vụ khai báo thuế trực tuyến; -Cung cấp dịch vụ
đăng ký kinh doanh trực tuyến
GIS và các dịch vụ được cung cấp qua CPĐT
CPĐT có thể sử dụng Internet và GIS để cung cấp được nhiều những dịch vụ mới mà người dân và
doanh nghiệp quan tâm. -Cung cấp dịch vụ ứng dụng của GIS để quản lý đất đai, giấy phép xây dựng.
-Cung cấp dịch vụ thông tin quy hoạch. -Cung cấp dịch vụ ứng dụng GIS để trao đổi thông tin giữa các
cơ quan, chính quyên các cấp phục vụ quản lý tài nguyên.


7. Thực trạng cính phủ điện tử hiện nay:
I.Vấn đề về sự hiểu biết của cán bộ quản lý:
Để triển khai chính phủ điện tử, việc cần thiết nhất là phải có nguồn nhân lực dồi dào. Nguồn nhân lực
ở đây được hiểu là đội ngũ cán bộ công chức làm việc trong lĩnh vực công nghệ thông tin và viễn
thông, đội ngũ cán bộ quản lí có nhận thức đầy đủ về công nghệ thông tin cũng như chính phủ điện tử.
Nguồn nhân lực mạnh mẽ là yếu tố quan trọng đảm bảo cho sự thành công của việc xây dựng chính
phủ điện tử.
Nguồn nhân lực mạnh mẽ là yếu tố quan trọng đảm bảo cho sự thành công của chiến lược xây dựng
chính phủ điện tử.
Cả nước hiện nay có 14 nghìn tiến sĩ và tiến sĩ khoa học, 1.131 giáo sư, 5.253 phó giáo sư, 16 nghìn người có
trình độ thác sĩ, 30 nghìn cán bộ hoạt động khoa học công nghệ. Số lao đông là việc trong ngành công nghệ
thông tin hiện nay là hơn 200 nghìn người. Theo thống kê, tổng số các trường, ngành liên quan công nghệ
thông tin cả nước là 235 trường/tổng số 390 trường trong cả nước, tuy nhiên chất lượng còn chưa cao. Chỉ

tiêu tuyển sinh vào ĐH-CĐ chuyên ngành công nghệ thông tin năm 2009 là 56.406 sinh viên.

Theo dự báo, nhu cầu nhân lực công nghiệp công nghệ thông tin đến năm 2009 sẽ tiếp tục tăng qua
từng năm và nếu không có biện pháp điều chỉnh mạnh thì sự thiếu hụt nguồn nhân lực cho công nghệ
thông tin là hơn 600 nghìn người nhưng khả năng đáp ứng chỉ đạt hơn 400 nghìn người.
Rào cản về nhận thức và tâm lý, thói quen của cán bộ là điều đang được quan tâm. Nhiều cán bộ, công
chức chưa nhận thức rõ tầm quan trọng của triển khai CPĐT trong công cuộc cải cách nền hành chính.
Không ít CBCC nghĩ rằng xây dựng văn phòng điện tử làm "rắc rối thêm công việc, tốn thêm thời gian,
bị bó buộc thời giờ "; không muốn công khai thông tin lên mạng vì sợ nhiều người biết và giám sát, do
đó không quan tâm hoặc không cho đưa thông tin lên WebSite cơ quan; sợ phải học thêm về kiến thức
CNTT ; sợ phải thay đổi phong cách và thói quen làm việc (từ tất cả trên giấy tờ sang làm việc trên
môi trường mạng...). Nhiều CBCC có suy nghĩ rằng "lâu nay làm như vậy (thủ công) công việc vẫn
trôi chảy, việc gì phải thay đổi cho mệt !".
Hơn nữa hiện nay nhiều cán bộ chưa qua đào tạo và không nắm được quy trình thủ tục cũng như cách
thức hướng dẫn cho người dân. Như vậy vấn đề đặt ra là phải thay đổi các mặt như sau
1.Nhận thức và hiểu biết
Tất cả các lãnh đạo và công chức trong các cơ quan CP phải nhận thức đúng và hiểu được tầm quan
trọng của CPĐT. CP nên tổ chức các khóa bồi dưỡng để nâng cao nhận thức về những giá trị mà CPĐT
mang lại và sự cần thiết phải thay đổi ngay từ bên trong nội bộ CP. Bên ngoài tổ chức, các chương
trình này cũng rất cần thiết để giúp công dân và doanh nghiệp (DN) hiểu về CPĐT. Các phương tiện
truyền thông đóng vai trò quan trọng trong việc khuyến khích công dân và DN ở các tỉnh, thành phố hỗ
trợ CP đưa ra các sáng kiến về CPĐT, đặc biệt là các sáng kiến trong cung cấp dịch vụ công, cũng như
đưa ra các phản hồi.
2. Thay đổi nhận thức
Đây là một trong những thách thức lớn nhất đối với các nước đang phát triển. Nhân viên CP thường
quen với trạng thái thoải mái trong công việc và không cho rằng cần phải thay đổi.Cần phải nỗ lực giải
thích cho họ vì sao cần thay đổi, đặc biệt là trong chương trình triển khai CPĐT. Nhất thiết phải có sự
cam kết về việc thay đổi và các lãnh đạo phải làm gương để nhân viên noi theo. Việc đối thoại với
nhân viên CP và đáp ứng các mong muốn của họ cũng là cần thiết.
3. Đào tạo và thay đổi các kỹ năng cho nhân viên CP

Đào tạo là công việc quan trọng để giúp nhân viên làm quen với các kỹ năng mới cần thiết cho CPĐT.
Các khóa học như hành chính công hiện đại, thay đổi quy trình nghiệp vụ, thay đổi cách quản lý ,
CNTT-TT và CPĐT .. rất quan trọng trong việc tiến tới CPĐT. Tuy nhiên, việc đào tạo thường tiêu tốn
một lượng lớn ngân sách và nhiều nguồn lực của CP, vì vậy cần có kế hoạch triển khai tốt.


II,sự phối hợp giữa cơ quan trung ương và cơ quan địa phương:
Chưa có sự đồng bộ giữa các cơ quan này,ví dụ như:
Việc Bộ Kế hoạch & Đầu tư (KH&ĐT) buộc TP.HCM phải dừng hệ thống đăng kí kinh doanh qua
mạng do địa phương xây dựng để dùng hệ thống do bộ này triển khai trên toàn quốc đã khiến số lượng
doanh nghiệp TP.HCM đăng kí kinh doanh qua mạng tụt về con số 0.
TP.HCM là địa phương đầu tiên trong cả nước xây dựng và vận hành hệ thống đăng kí kinh doanh
qua mạng áp dụng cho các doanh nghiệp trên địa bàn từ năm 2001 - 2002.Sau hơn 10 năm triển khai,
đã có tới 50 - 60% doanh nghiệp ở TP.HCM sử dụng phương thức đăng kí kinh doanh qua mạng.
"Thế nhưng hoạt động ứng dụng CNTT của TP.HCM đã tụt lùi một bước khi Bộ KH&ĐT áp từ
trên xuống phải sử dụng hệ thống đăng kí kinh doanh thống nhất toàn quốc, khiến hệ thống do
TP.HCM xây dựng bị “sụp đổ”. Kết quả là không còn doanh nghiệp nào đăng kí kinh doanh qua mạng.
"Việc Bộ Kế hoạch Đầu tư triển khai xây dựng một hệ thống ứng dụng CNTT trên phạm vi toàn
quốc là điều tốt, nhưng cần dựa trên nền tảng các đơn vị đã ứng dụng rồi để phối hợp kết nối hiệu quả,
đảm bảo không gián đoạn công việc, không ảnh hưởng tới quyền lợi của doanh nghiệp và người dân.
Rất tiếc là Bộ Kế hoạch & Đầu tư đã “phá sập” hệ thống đăng kí kinh doanh qua mạng khiến TP.HCM
“trắng tay” sau hơn 10 năm triển khai hệ thống".
khó có thể tính được thiệt hại từ vụ ngừng hoạt động hệ thống đăng kí ăng kí tại Sở KH&ĐT gây
quá tải, khó khăn cho chính Sở và người dân, chưa kể những tiêu cực phát sinh.
“Hệ thống do Bộ KH&ĐT triển khai vẫn chưa làm được việc cấp phép đăng kí kinh doanh qua
mạng cho doanh nghiệp và không biết có làm được không. Bởi vậy, TP.HCM dự kiến sẽ khôi phục lại
hệ thống cũ để phục vụ người dân, doanh nghiệp cũng như phục vụ hoạt động chỉ đạo của Thành
phố.,vẫn đảm bảo cung cấp những thông tin mà Bộ KH&ĐT yêu cầu để thống nhất hoạt động với hệ
thống đăng kí kinh doanh qua mạng triển khai toàn quốc”, TP.HCM không phải là địa phương duy nhất
phải chịu hậu quả của việc Bộ, ngành áp đặt triển khai các hệ thống ứng dụng CNTT dùng chung toàn

quốc, xóa bỏ những thành quả đã gây dựng được trong nhiều năm qua.
Đà Nẵng đã triển khai phần mềm quản lí đăng kí kinh doanh trực tuyến từ năm 2003, nhưng đến năm
2012, Bộ Kế hoạch & Đầu tư đưa vào hoạt động chương trình mới khiến địa phương phải bỏ chương
trình cũ.Giờ hoạt động cấp đăng kí kinh doanh qua mạng cũng giảm hiệu quả.
Để khắc phục những trường hợp tương tự có thể xảy ra, "Các bộ ngành triển khai hệ thống ứng
dụng CNTT nào đó thì nên có sự phối hợp với Bộ TT&TT để đảm bảo hiệu quả, tránh chồng chéo,
đồng thời phải căn cứ vào hiện trạng ứng dụng CNTT tại địa phương để đánh giá các ứng dụng trên
tinh thần kế thừa những kết quả tốt, không nên phá những cái tốt đi để làm cái mới, nói cách khác là
đổi mới bằng cách phá hủy".
“Các Bộ, ngành cần tôn trọng địa phương và phải tôn trọng người dân. Dân đang được hưởng dịch
vụ tốt thì để họ dùng, không nên áp đặt, lấy dân ra làm thí điểm. Người dân phải được hưởng dịch vụ
công với chất lượng ngày một cao hơn”,


các bộ, ngành nên phát huy những ứng dụng tốt của địa phương, triển khai nhân rộng để các địa
phương khác đỡ phải mò mẫm tìm hiểu, không nên áp đặt triển khai các hệ thống mới, không tương
thích, kết nối được với những hệ thống đang hoạt động tốt.
III,cơ sở hạ tầng để thực hiện:
Cơ sở hạ tầng còn nghèo nàn ,lạc hhaaujcacs trang web về việc kê khai thuế hay các dịch vụ khác
còn thiếu niều thong tin,như vậy chúng ta phải: ưu tiên bố trí ngân sách cho CNTT, bảo đảm tỷ lệ tăng
chi ngân sách cho CNTT hàng năm cao hơn tỷ lệ tăng chi ngân sách nhà nước. Cần chú ý theo đúng
định hướng chung của Chính phủ là tập trung xây dựng hạ tầng thông tin, các cơ sở dữ liệu, sử dụng
các phần mềm quản lý, xây dựng trang tin điện tử, đào tạo về CNTT, xây dựng các dịch vụ hành chính
công trực tuyến (toàn bộ các thủ tục hành chính, ít nhất là mức độ 2 và một số ở mức độ 3 hoặc 4), đẩy
mạnh việc công khai thông tin, chia sẻ, trao đổi thông tin qua mạng
IV.Thủ tục trong chính phủ điện tử:
Hiện nay chưa có quy định pháp lý rõ rang cũng như văn bản quy định chi tiết về các thủ tục trong
chính phủ điện tử .Vì vậy cần bổ sung các quan hệ để nâng cao khung pháp lý đảm bảo việc thực hiện.
V,cách tiếp cận của người dân với chính phủ điện tử:


Làm thế nào để ngày càng có nhiều người sử dụng các dịch vụ chính phủ điện tử?

Bất kỳ một chính sách chính phủ điện tử hiệu quả nào cũng phải xem xét phương pháp tiếp cận theo
hướng tập trung vào người dân. Điều đó có nghĩa là chính phủ điện tử phải là một dịch vụ dành cho
người sử dụng cuối cùng và phát triển theo hướng phục vụ nhu cầu.
Tuy nhiên, nhiều người dân có thể không sử dụng chính phủ điện tử vì một vài nguyên nhân, trong đó
có những nguyên nhân chính như không quen sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông, thiếu truy
cập, thiếu đào tạo cũng như lo lắng về sự riêng tư và tính bảo mật của thông tin.
Trong khi chính phủ điện tử có thể giúp cho việc cung cấp các dịnh vụ công được thuận tiện và dễ
dàng, cũng như làm cho các dịch vụ của chính phủ ngày càng được cải tiến, nhưng những tiện ích đó
có thể chưa làm cho người dân sử dụng ngay chính phủ điện tử trừ phi những mối quan tâm, lo lắng
trên của họ được giải quyết. Theo thống kế, hiện nay Cổng công dân điện tử của Xin-ga-po mỗi tháng
có khoảng 3,1 triệu người truy cập. Vậy, làm thế nào mà một đất nước phát triển chỉ có 4 triệu người
có thế phát triển việc sử dụng trực tuyến một cách bùng nổ chỉ trong thời gian chưa đến 3 năm? Để
đảm bảo ở khắp mọi nơi người dân đồng thời có thể truy cập vào các dịch vụ điển tử của chính phủ,
Xin-ga-po đã xây dựng một mạng lưới trung tâm giúp đỡ công dân điện tử từ tháng 11-2001. Các trung
tâm này được trang bị các ki-ốt Internet cung cấp truy cập Internet miễn phí cho người dân. Ở đó có
các nhân viên sẵn sàng giúp đỡ những người chưa thông thạo Internet. Hiện đã có 24 trung tâm giúp đỡ
công dân điện tử được xây dựng một cách chiến lược ở các Ủy ban Phát triển Cộng đồng (với chức
năng như một đơn vị hành chính địa phương của huyện chuyên xử lý các chương trình cộng đồng và
các dịch vụ hỗ trợ về mặt xã hội từ phía các bộ) và các Trung tâm Cộng đồng (các câu lạc bộ của cộng
đồng chuyên tổ chức các hoạt động văn hoá, xã hội và giáo dục, các hoạt động vui chơi giải trí nhằm
tăng cường sự hài hoà về sắc tộc và liên kết xã hội).
Internet là phương tiện duy nhất để triển khai chính phủ điện tử?
Internet thực sự là một công cụ quan trọng để cung cấp chính phủ điển tử. Tuy nhiên, Internet không
phải là phương tiện duy nhất hay phù hợp nhất để triển khai chính phủ điện tử. Các nước đang phát
triển do bị hạn chế về cơ sở hạ tầng, hạn chế về mặt tài chính nên đã nghĩ ra nhiều phương thức khác


nhau để triển khai chính phủ điện tử mà đem lại hiệu quả cao. Tại Philipin, Cục Doanh thu của nước

này đã đưa ra một kế hoạch xác nhận thanh toán điện tử sử dụng SMS (hệ thống bản tin ngắn trên
máy điện thoại di động) nhằm hạn chế hiện tượng “nhận hối lộ”, và sử dụng các hoá đơn giả mạo.
Với tên gọi Quảng bá điện tử, hệ thống này đã cung cấp cho những người nộp thuế với dịch vụ xác
nhận trực tiếp trong 38 giờ sau khi ngân hàng đại lý được ủy quyền nhận được tiền thanh toán của họ.
Hệ thống đã được thử nghiệm thành công vào năm 2002 và dự án này được triển khai trên quy mô
toàn quốc trong năm 2003.




×