Tải bản đầy đủ (.pdf) (71 trang)

Sự hình thành và phát triển của tầng lớp trí thức nho học trong xã hội đại việt thế kỷ XI XV

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.21 MB, 71 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC

PHÀN THANH HOA

SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA TẦNG LỚP
TRÍ THỨC NHO HỌC TRONG XÃ HỘI ĐẠI VIỆT
THẾ KỶ XI - XV

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

SƠN LA, NĂM 2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC

PHÀN THANH HOA

SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA TẦNG LỚP
TRÍ THỨC NHO HỌC TRONG XÃ HỘI ĐẠI VIỆT
THẾ KỶ XI - XV

Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Người hướng dẫn: ThS. Trần Thị Phượng

SƠN LA, NĂM 2016



LỜI CẢM ƠN
Với lòng biết ơn sâu sắc, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới Th.s
Trần Thị Phượng, người đã tận tình trực tiếp hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong quá
trình nghiên cứu và hoàn thành khóa luận.
Tôi xin gửi tới các thầy giáo, cô giáo trong tổ Lịch sử Việt Nam, khoa Sử
- Địa, Trường Đại Học Tây Bắc lời cảm ơn chân thành vì đã quan tâm, giúp đỡ
tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành khóa luận.
Tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới, Thư viện tỉnh Sơn La, Thư
viện Trường Đại học Tây Bắc đã tạo điều kiện thuận lợi và có những ý kiến
đóng góp quý báu cho tôi trong quá trình thu thập tư liệu, nghiên cứu để hoàn
thành khóa luận này.
Với thời gian nghiên cứu còn hạn chế, chắc chắn khóa luận không thể
tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong nhận sự đóng góp chân thành của quý
thầy giáo, cô giáo và bạn đọc để khóa luận được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn !
Sơn La, tháng 5 năm 2016
Tác giả khóa luận

Phàn Thanh Hoa


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ................................................................................ 2
3. Đối tượng, phạm vi, nhiệm vụ nghiên cứu ....................................................... 4
4. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tài liệu ....................................................... 4
5. Đóng góp của đề tài ........................................................................................... 5
6. Bố cục đề tài ...................................................................................................... 6
CHƯƠNG 1: BỐI CẢNH ĐẠI VIỆT THẾ KỶ XI - XV........................... 7

1.1. Sự hình thành và thay thế của các triều đại trong xã hội Đại Việt thế kỷ
XI - XV ....................................................................................................... 7
1.2. Tình hình chính trị .......................................................................................... 8
1.3. Tình hình kinh tế .......................................................................................... 11
1.4. Tình hình văn hóa - giáo dục........................................................................ 14
Tiểu kết chương 1................................................................................................ 19
CHƯƠNG 2: SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA TẦNG LỚP TRÍ
THỨC NHO HỌC TRONG XÃ HỘI ĐẠI VIỆT THẾ KỶ XI - XV ........... 20
2.1. Sự ra đời và phát triển của tầng lớp trí thức nho học thay thế cho trí thức tôn
giáo (từ thế kỉ XI đến nửa đầu thế kỉ XIV) ......................................................... 20
2.2. Cuộc đấu tranh giữa tầng lớp trí thức Nho học và quan lại quý tộc, quá trình
mở đầu cho xu thế quan liêu hóa (cuối thế kỉ XIV - nửa đầu thế kỉ XV)................. 25
2.3. Sự thắng thế của tầng lớp trí thức Nho học trong xã hội Đại Việt (nửa sau
thế kỉ XV) ............................................................................................................ 31
Tiểu kết chương 2................................................................................................ 39
CHƯƠNG 3: VAI TRÒ CỦA TẦNG LỚP TRÍ THỨC NHO HỌC TRONG
XÃ HỘI ĐẠI VIỆT THẾ KỶ XI - XV ............................................................ 40
3.1. Trong lĩnh vực kinh tế .................................................................................. 40
3.2. Trong lĩnh vực chính trị - xã hội .................................................................. 43
3.3. Trong lĩnh vực văn hóa - giáo dục ............................................................... 51


Tiểu kết chương 3................................................................................................ 57
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 58
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................ 60
PHỤ LỤC


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Trong buổi đầu độc lập Đại Việt đã tồn tại và phát triển dựa trên hệ tư
tưởng của triết lý Phật giáo. Quan lại trong bộ máy nhà nước ngoài các tướng
lĩnh quân sự, các hào trưởng địa phương, nổi lên vai trò của hệ thống sư tăng,
đạo sĩ không qua thi cử mà chủ yếu theo chế độ nhiệm tử, đây là bộ phận duy
nhất trong xã hội biết đọc biết viết. Trong giai đoạn này Phật giáo hay nói cách
khác là giới trí thức Phật giáo đóng vai trò quan trọng trong việc ổn định đời
sống xã hội, cùng vua bàn việc nước, ngoại giao góp phần ổn định phát triển
đất nước.
Tuy nhiên, từ thế kỷ XI trở đi xã hội Đại Việt đặt ra yêu cầu mới trong
việc xây dựng bộ máy quan liêu tập quyền vững mạnh và chống lại các thế lực
ngoại xâm do đó hệ tư tưởng Phật giáo và hệ thống những trí thức nhà Phật, sư
tăng quan lại không qua thi cử đã không còn phù hợp, không đáp ứng được yêu
cầu phát triển của đất nước. Trong khi đó Nho giáo với hệ tư tưởng Khổng giáo
các đạo lí trung quân ái quốc, tam cương ngũ thường… đã được triều đình
phong kiến Đại Việt lựa chọn thành hệ tư tưởng cai trị duy trì trật tự xã hội. Nho
học trở thành nội dung giáo dục thi cử chủ yếu trong tuyển chọn nhân tài
cho đất nước.
Năm 1070, nhà Lý cho xây dựng Văn Miếu, đặt nền móng cho giáo dục
Đại Việt. Với sự kiện này hệ tư tưởng Nho giáo đã chính thức xâm nhập vào xã
hội Đại Việt, đánh dấu sự hình thành của tầng lớp trí thức Nho học thay thế vai
trò của giới trí thức Phật giáo. Phật giáo tuy vẫn còn được duy trì đến các thế kỷ
sau nhưng không còn vị trí độc tôn như trước nữa, song song với nó là sự tồn tại
và phát triển không ngừng của hệ tư tưởng Nho giáo hơn nữa là sự khẳng định
không ngừng của tầng lớp trí thức Nho học trong xã hội Đại Việt. Sau khoảng 4
thế kỉ hình thành, phát triển đến thế kỉ XV đặc biệt sau cải cách Lê Thánh Tông
(1460 - 1497) bộ phận trí thức Nho học đã thay thế hoàn toàn vai trò của tầng

1



lớp trí thức tôn giáo trước kia vươn lên nắm phần hồn của xã hội và có vai trò
quyết định đến sự tồn tại, phát triển của Đại Việt các thế kỉ về sau.
Thế nhưng cho đến nay chưa có công trình khoa học nào đề cập đến vấn
đề này một cách hoàn chỉnh, hệ thống. Vì vậy việc lựa chọn vấn đề “Sự hình
thành và phát triển của tầng lớp trí thức Nho học trong xã hội Đại Việt thế kỷ
XI - XV” làm đề tài nghiên cứu có ý nghĩa khoa học và thực tiễn sau:
Về khoa học
+ Làm sáng tỏ quá trình hình thành, phát triển, vai trò của tầng lớp trí thức
Nho giáo đối với xã hội Đại Việt thế kỉ XI - XV
+ Làm rõ những biến đổi về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của Đại
Việt trong giai đoạn từ thế kỉ XI đến thế kỉ XV.
+ Làm cơ sở lí luận cho việc nghiên cứu cấu trúc xã hội Việt Nam thời
trung đại, đặc biệt dưới các vương triều Lý, Trần, Hồ, Lê sơ.
+ Đặt nền móng cho việc nghiên cứu nền giáo dục nước nhà qua các thời
kì lịch sử.
Về thực tiễn
+ Kết quả nghiên cứu sẽ trở thành nguồn tư liệu để giảng dạy, học tập
trong các trường Đại học, Cao đẳng, Trung học chuyên nghiệp, các trường
Phổ thông.
+ Bổ sung nguồn tài liệu cho việc nghiên cứu làm đề tài, khóa luận
chuyên sâu về Lịch sử Việt Nam cổ trung đại.
+ Trong quá trình học tập sinh viên có thể sử dụng làm tài liệu học tập để
nghiên cứu về giáo dục Việt Nam qua các thời kì.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Sự hình thành, phát triển và vai trò của tầng lớp trí thức Nho học đối với
sự phát triển của xã hội Đại Việt đã thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà
nghiên cứu. Cho tới nay, ở mỗi góc độ, khía cạnh khác nhau đã có nhiều công
trình nghiên cứu về vấn đề này, trong đó có thể kể đến một số công trình quan
trọng sau:


2


Viện sử học Việt Nam đã xuất bản cuốn “Xã hội Việt Nam thời Lý Trần”, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội (1981) đã cung cấp những tư liệu quý báu
để tìm hiểu về bối cảnh Đại Việt Thời Lý - Trần, sự ra đời của tầng lớp trí thức
Nho học cũng như sự phát triển, biến động của tầng lớp này trong suốt 3 thế kỷ.
Tác giả Văn Tạo trong cuốn “Mười cuộc cải cách, đổi mới lớn trong lịch
sử Việt Nam” (2006), Nxb ĐHSP, Hà Nội đã viết về các cuộc cải cách đổi mới
trong xã hội Việt Nam thời trung đại: Công cuộc đổi mới của Lý Công Uẩn,
Trần Thủ Độ, cải cách của Hồ Quý Ly, cải cách của Lê Thánh Tông đã đề cập
đến sự hình thành của tầng lớp Nho sĩ, đặc biệt là sự thay đổi của giới trí thức
Nho học trong xã hội Đại Việt.
Cuốn “Giáo trình lịch sử Việt Nam, tập II, từ thế kỷ X đến đầu thế kỷ
XVI” (2008) Nxb ĐHSP, Hà Nội do PGS.TS Đào Tố Uyên chủ biên đã cung cấp
những kiến thức cơ bản về quá trình xây dựng và phát triển của quốc gia Đại
Việt trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, chống ngoại xâm và sự
phát triển của nền văn minh Đại Việt trong các thế kỷ X - XV. Bộ phận tầng lớp
trí thức Nho học được nhắc đến nhiều thông qua quá trình phân tích về tổ chức
bộ máy nhà nước, phương thức tuyển dụng quan lại cũng như tình hình văn hóa
giáo dục của các triều đại phong kiến Việt Nam từ thế kỷ X - XV.
Thể chế chính trị của các triều đại phong kiến Việt Nam đã được đề cập
trong cuốn “Thể chế chính trị Việt Nam trước cách mạng tháng Tám dưới góc
nhìn hiện đại” của Lưu Văn An, Nxb Chính trị quốc Gia, Hà Nội, xuất bản năm
2008 là tài liệu quan trọng để tìm hiểu về sự hình thành và phát triển của giới trí
thức Nho học Đại Việt qua các thời kì.
Cuốn “Đại cương lịch sử Việt Nam Tập 1, từ thời nguyên thủy đến 1858”
Trương Hữu Quýnh (chủ biên), Nxb Giáo dục Việt Nam xuất bản năm 2011 đã
khái quát về sự hình thành, phát triển của các triều đại phong kiến Việt Nam,
trong đó dĩ nhiên đã đề cập tới sự ra đời và vai trò nhất định của tầng lớp trí thức
Nho học.

Quốc triều hình luật (Luật hình triều Lê) của Nxb Tư Pháp, Hà Nội, 2013
là bộ luật chính thống và quan trọng nhất của nhà Lê đã khái quát tình hình Đại
3


Việt thời Lê sơ, quy định cụ thể về vị trí vai trò của tầng lớp trí thức Nho học
thông qua đó cho chúng ta thấy được sự phát triển cũng như thế lực của bộ phận
này trong xã hội Đại Việt thế kỷ XV cũng như đặc quyền đặc lợi của bộ phận
quan liêu được hưởng.
Tất cả các công trình trên là nguồn tư liệu tham khảo quý báu để tôi thực
hiện việc nghiên cứu của mình.
3. Đối tượng, phạm vi, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Đối tượng
Tầng lớp trí thức Nho học trong xã hội Đại Việt thế kỷ XI - XV.
3.2. Phạm vi đề tài
- Giới hạn thời gian: Với đề tài “Sự hình thành và phát triển của tầng lớp
trí thức Nho giáo trong xã hội Đại Việt thế kỷ XI đến XV” được giới hạn trong
phạm vi thời gian cụ thể, rõ ràng từ thế kỷ XI - XV.
- Giới hạn không gian: Với đề tài “Sự hình thành và phát triển của tầng
lớp trí thức Nho giáo trong xã hội Đại Việt từ thế kỷ XI - XV” được giới hạn
trong phạm vi không gian toàn bộ lãnh thổ Đại Việt bao gồm vùng Bắc Bộ, Bắc
Trung Bộ, giáp đến đèo Hải Vân.
- Giới hạn về nội dung: Đề tài tập trung làm rõ sự hình thành, phát triển
và vai trò của tầng lớp trí thức Nho học trong xã hội Đại Việt thế kỷ XI - XV.
3.3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Làm rõ sự hình thành và phát triển của tầng lớp trí thức Nho học trong thế
kỷ XI - XV đặc biệt là vai trò của tầng lớp trí thức Nho học trong xã hội Đại
Việt thời kỳ này.
4. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tài liệu
4.1. Phương pháp nghiên cứu

Để hoàn thành đề tài tôi đã sử dụng chủ yếu các phương pháp:
- Phương pháp luận:
+ Phương pháp biện chứng
+ Phương pháp lịch sử
+ Phương pháp logic.
4


- Phương pháp cụ thể:
+ Thu thập tư liệu
+ Phân loại hệ thống tư liệu
+ So sánh đối chiếu
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành:
+ Dân tộc học
+ Xã hội học
+ Văn hóa học
4.2. Nguồn tài liệu
Cơ sở tài liệu của đề tài là nguồn tài liệu chính thống bao gồm các hệ
thống giáo trình, sách tham khảo, các tác phẩm công trình nghiên cứu của các
tác giả được công bố ở các nhà xuất bản, tạp chí. Đây là nguồn tài liệu quan
trọng, là cơ sở để xây dựng nghiên cứu đề tài này, cung cấp những kiến thức để
hoàn thành đề tài.
5. Đóng góp của đề tài
Thứ nhất, thông qua việc tìm hiểu về sự hình thành và phát triển của
tầng lớp trí thức Nho học trong xã hội Đại Việt thế kỉ XI - XV góp phần làm
rõ những biến đổi về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội Đại Việt trong giai
đoạn XI - XV.
Thứ hai, làm cơ sở lí luận cho việc nghiên cứu cấu trúc xã hội Việt Nam
thời trung đại, đặc biệt dưới các vương triều Lý, Trần, Hồ, Lê sơ.
Thứ ba, đặt nền móng cho việc nghiên cứu nền giáo dục nước nhà qua các

thời kì lịch sử.
Thứ tư, kết quả nghiên cứu sẽ trở thành nguồn tư liệu để giảng dạy, học
tập trong các trường Đại học, Cao đẳng, Trung học chuyên nghiệp, các trường
Phổ thông.
Thứ năm, bổ sung nguồn tài liệu cho việc nghiên cứu làm đề tài, khóa
luận chuyên sâu về Lịch sử Việt Nam cổ trung đại.
Thứ sáu, trong quá trình học tập sinh viên có thể sử dụng làm tài liệu học
tập để nghiên cứu về giáo dục Việt Nam qua các thời kì.
5


6. Bố cục đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài kiệu tham khảo, phụ lục khóa luận được
kết cấu làm 3 chương:
Chương 1: Bối cảnh Đại Việt thế kỷ XI - XV
Chương 2: Sự hình thành và phát triển của tầng lớp trí thức Nho học
trong xã hội Đại Việt thế kỷ XI - XV
Chương 3: Vai trò của tầng lớp trí thức Nho học trong xã hội Đại Việt thế
kỷ XI - XV

6


CHƯƠNG 1
BỐI CẢNH ĐẠI VIỆT THẾ KỶ XI - XV
1.1. Sự hình thành và thay thế của các triều đại trong xã hội Đại Việt thế kỷ
XI - XV
Thế kỷ XI - XV, Đại Việt trải qua bốn triều đại Lý, Trần, Hồ, Lê sơ. Mỗi
triều đại đều thay nhau ra sức xây dựng một đất nước cường thịnh, nhân dân no
ấm là cơ sở vững chắc để sẵn sàng đấu tranh chống lại sự xâm lược của nước

ngoài. Sự thay thế nhau của mỗi triều đại là một quy luật tất yếu của lịch sử.
Vào cuối triều Tiền Lê xã hội nước ta lâm vào khủng hoảng suy yếu.
Tháng 10 mùa Đông năm Kỷ Dậu, Lê Ngọa Triều mất chấm dứt vai trò của nhà
Tiền Lê. “Nhân lòng người và triều thần đã oán ghét nhà Tiền Lê, sư Vạn Hạnh
cùng quần thần đứng đầu chi hậu Đào Cam Mộc đã vận động suy tôn Lý Công
Uẩn lúc đó đang làm Tả thân vệ điện tiền chỉ huy sứ lên làm vua, lập ra vương
triều nhà Lý”. [16,Tr.40].
Nhà Lý tồn tại trong hơn 200 năm có nhiều đóng góp to lớn cho sự phát
triển của lịch sử dân tộc: Đổi mới triều đại, đổi mới đế đô, đổi mới xã hội. Việc
rời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long thể hiện tầm nhìn chiến lược của một vị vua
anh minh. Đặc biệt ở thời nhà Lý, năm 1070 khoa thi đầu tiên của nước ta đã
được tổ chức, Quốc Tử Giám được thành lập đánh dấu nền giáo dục Nho học
chính thức xuất hiện trong xã hội Đại Việt. Hơn thế nữa, nhà Lý với những vị
tướng lĩnh tài giỏi đã làm nên thắng lợi vang dội của cuộc kháng chiến chống
Tống, mở ra trang sử chói lọi trong sự nghiệp chống ngoại xâm của nhân dân ta.
Trải qua 9 đời vua, nhà Lý đã chấm dứt sự tồn tại của mình nhường chỗ
cho quá trình ra đời của vương triều Trần. Nhà Trần thành lập năm 1226, trải
qua 12 đời vua đã lãnh đạo nhân dân ba lần đánh thắng quân xâm lược Nguyên
Mông - đế quốc của thời đại, giữ vững nền độc lập và chủ quyền của dân tộc.
Đặc biệt Phật hoàng Trần Nhân Tông đã lập nên Thiền phái trúc lâm Yên Tử
đóng góp to lớn cho sự phát triển văn hóa Đại Việt.

7


Vào cuối triều Trần, khi những bước tạo đà trước kia (như chế độ hai vua,
hôn nhân đồng tộc, thái ấp điền trang) nay dần dần bộc lộ những hạn chế và trở
thành rào cản đối với sự phát triển của xã hội Đại Việt thì nhà cải cách Hồ Quý
Ly đã xuất hiện. Hồ Quý Ly đã tiến hành một cuộc cải cách toàn diện trên tất cả
các lĩnh vực với hi vọng có thể giải quyết cuộc khủng hoảng, tập trung sức lực

của toàn dân đối với phó với âm mưu xâm lược của nhà Minh. Tuy nhiên, cuộc
cải cách này không khắc phục được khủng hoảng kinh tế xã hội cuối triều Trần.
Năm 1400, Hồ Quý Ly đã chính thức lên ngôi vua chấm dứt sự tồn tại của nhà
Trần. Trong hoàn cảnh Đại Việt bị nhà Minh xâm lược, nhà Hồ đã không đủ sức
lãnh đạo nhân dân đánh giặc khiến cho nước ta rơi vào thời thuộc Minh đen tối
trong 20 năm.
Trước yêu cầu bức thiết của lịch sử, trước nguyện vọng giành độc lập tha
thiết của toàn thể dân tộc, người anh hùng Lê Lợi và nghĩa quân của cuộc khởi
nghĩa Lam Sơn đã làm nên chiến thắng vang dội quét sạch giặc Minh ra khỏi bờ
cõi. Năm 1428, Lê Lợi đã chính thức lên ngôi vua lập nên vương triều nhà Lê sơ
đóng góp to lớn cho sự phát triển lịch sử Đại Việt. Đặc biệt dưới thời vị vua anh
minh Lê Thánh Tông chế độ phong kiến Đại Việt hoàn chỉnh nhất đạt mức độ
điển hình. Đất nước hòa bình giàu mạnh như câu thơ của nhân dân đã miêu tả:
Thời vua Thái Tổ, Thái Tông
Thóc lúa đầy đồng trâu chẳng buồn ăn.
Lê Thánh Tông là vị vua ở ngôi lâu nhất trong lịch sử với 38 năm trị vì
ông đã tiến hành một cuộc cải cách toàn diện xây dựng nhà nước phong kiến
quan liêu tập quyền cao độ. Cuộc cải cách để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý
báu cho các triều đại sau đó cũng như trong công cuộc đổi mới của nước ta hiện nay.
1.2. Tình hình chính trị
Tất cả các triều đại ở Việt Nam đều mong muốn xây dựng một nhà nước
quân chủ tập quyền. Và để thực hiện mục tiêu đó mỗi vương triều lại thi hành
những chính sách khác nhau.
Ngay sau khi thành lập, năm 1010, Lý Thái Tổ rời đô từ Hoa Lư về
Thăng Long và bắt tay vào xây dựng tổ chức bộ máy nhà nước từ trung ương
8


đến địa phương. Các cơ quan, các chức quan ngày càng được hoàn thiện. Với
mong muốn thiết lập chế độ quân chủ chuyên chế nhà Lý đã sử dụng Nho giáo

làm nguồn tuyển chọn quan lại bên cạnh các hình thức tuyển chọn đã có trước
kia. Hệ thống giáo dục thi cử Nho học dần tăng nhanh số lượng đội ngũ quan lại
đặc biệt là quan văn. Với sự kiện “Năm 1075, Lý Nhân Tông xuống chiếu tuyển
Minh kinh bác học và thi Nho học tam trường. Lê Văn Thịnh trúng tuyển, cho
vào hầu vua học” [21,Tr.48]. Đồng thời vươn lên đến chức Thái sư một chức
quan văn cao cấp nhất trong triều đình. Năm 1076, nhà nước cho xây Quốc tử
Giám để làm nơi dạy học và nghiên cứu Nho giáo. Năm 1086, nhà Lý mở một kì
thi nữa lần này Mạc Hiển Tích đỗ đầu được cất nhắc làm trong viện Hàn lâm.
Điều này cho thấy vai trò ngày càng lớn của tầng lớp trí thức Nho học thời kỳ
này. Đồng thời với sự kiện này Nho giáo ngày càng thâm nhập sâu vào đời sống
chính trị - xã hội và được nhà nước trân trọng trước tiên là việc đào tạo đội ngũ
quan lại, tiến tới hình thành nhà nước quan liêu mang tính chuyên chế cao độ.
Kế thừa nhà Lý, nhà Trần đã giữ vững được nền độc lập đất nước, mở
rộng cương vực về phía Nam, củng cố thể chế chính trị quân chủ trung ương tập
quyền. Giai đoạn đầu nhà Trần tồn tại và phát triển trên cơ sở củng cố mối quan
hệ thân tộc hoàng gia: Hoàng tộc là trụ cột của chính quyền, là tổ chức hậu
thuẫn chính trị cho nhà vua. Chỉ những người dòng họ Trần mới được làm quan,
hôn nhân nội tộc được khuyến khích để củng cố vững chắc ngôi vua và sự cai trị
của dòng họ. Tư tưởng đó được phản ánh qua lời dạy của Trần Thánh Tông:
“Thiên hạ này là của tổ tông, người nối dõi cơ nghiệp nên cùng anh em trong
tôn thất chung hưởng phú quý” [1,Tr.81].
Tuy nhiên, giai đoạn sau do yêu cầu cai trị quốc gia, tuyển lựa nhân tài để
bổ sung cho bộ máy nhà nước, giáo dục Nho học được đẩy mạnh, số người tiến
thân bằng con đường cử nghiệp ngày càng nhiều hơn, giới Nho sĩ đông đảo hơn
trước. Chế độ khoa cử được coi trọng, Nho sĩ trí thức tham gia chính quyền ngày
càng nhiều, dẫn đến hình thành hình thức chính quyền vừa quý tộc vừa quan
liêu. Việc xây dựng, hoàn thiện đội ngũ quan lại giúp việc cho vua là một tiến bộ
lớn trong lịch sử.
9



Nhà Hồ được thành lập đã tiếp tục sự nghiệp của nhà Trần xây dựng một
thể chế chính trị mạnh mẽ, tập trung quyền lực vào chính quyền trung ương,
củng cố nhà nước thống nhất. Hồ Quý Ly đã nâng cao hệ tư tưởng Nho giáo,
thiết lập thể chế quân chủ trung ương tập quyền. Hồ Quý Ly hạn chế Phật giáo:
“Năm 1396, tháng Giêng xuống chiếu sa thải các tăng đạo chưa đến 50 tuổi trở
lên, bắt phải hoàn tục” [18,Tr.93]. Nhà Hồ cũng áp dụng thể chế chính trị lưỡng
đầu chế như nhà Trần song ảnh hưởng của Thái Thượng Hoàng Hồ Quý Ly
mạnh mẽ hơn. Việc tuyển chọn quan lại chủ yếu dựa vào năng lực thực tế chứ
không phải vì nguồn gốc xuất thân như trước đây.
Hồ Quý Ly đã tiến hành một cuộc cải cách tiến bộ nhưng trong hoàn cảnh
bị thế lực nhà Minh xâm lược thì cuộc cải cách đã không thực hiện được. Tuy
nhiên dù chỉ cầm quyền trong một thời gian ngắn (7 năm) nhưng chính Hồ Quý
Ly là người đầu tiên đã vận dụng triệt để những nguyên tắc trị nước cơ bản của
Nho giáo vào Việt Nam.
Với thắng lợi của nghĩa quân Lam Sơn, năm 1427, Lê Lợi lên ngôi, vương
triều Lê sơ được thành lập. Bộ máy nhà nước thời Lê sơ từ Lê Thái Tổ đến Lê
Nghi Dân (1428 - 1459) tương đối hoàn chỉnh, mức độ tập trung quyền lực đã
cao hơn. Tuy nhiên, để đáp ứng cho nhu cầu xây dựng và phát triển đất nước tập
quyền vững mạnh, củng cố quyền lực của mình, năm 1460, Lê Thánh Tông lên
ngôi đã tiến hành một cuộc cải cách hành chính từ trung ương đến địa phương,
từ dân sự đến quân sự, cả quan chế lẫn thể chế; đã thiết lập một thể chế chính trị
quân chủ chuyên chế phong kiến điển hình với quy mô và hoạt động có hiệu quả
của nhà Lê sơ. Lê Thánh Tông đã bãi bỏ một số cơ quan trung gian, nâng cao,
tập trung quyền lực nhà vua, củng cố hoàng triều Lê, xây dựng nên một bộ máy
nhà nước có hiệu lực, hạn chế đến mức thấp nhất sự phân quyền và sự lộng hành
của các công thần.
Trải qua khoảng thời gian dài từ khi thành lập đến khi Lê Thánh Tông tiến
hành cải cách là 32 năm các vị anh hùng có công với nhà nước phong kiến Đại
Việt đã dần mất đi theo thời gian do đó để phục vụ cho công cuộc xây dựng nhà

nước trung ương tập quyền, Lê Thánh Tông đã mở nhiều kì thi tuyển, quan lại
10


chủ yếu là chế độ khoa cử, bảo cử, trong đó quan trọng nhất là khoa cử. Dưới
triều Lê Thánh Tông không có người được bổ làm quan lại mà lại không có trình
độ học vấn tương xứng. Nhờ các chính sách củng cố đội ngũ quan lại, tổ chức
bộ máy nhà nước ngày càng chặt chẽ và hoàn thiện, tăng cường tính hiệu lực,
hiệu quả, góp phần củng cố chế độ chuyên chế của nhà vua.
Nếu thời nhà Lý - Trần người ra làm quan phải là những người có họ với
vua hoàng thân quốc thích hay nói cách khác là quan lại đơn tộc thì dưới thời
nhà Lê sơ đặc biệt là sau cải cách Lê Thánh Tông con đường làm quan mở rộng
với mọi thành phần trong xã hội, không kể nguồn gốc xuất thân có học vấn đều
được tham gia thi cử, đỗ đạt ra làm quan để phụng sự đất nước và nhà vua. Có
thể kể đến như trạng nguyên Lương Thế Vinh, Quách Đình Bảo, Nguyễn Đức
Trinh… “Trong tổng số 5370 quan lại dưới thời vua Lê Thánh Tông, gồm 2755
quan lại ở trung ương và 2615 quan lại ở địa phương, tất cả đều trải qua thi cử
đỗ đạt” [1,Tr.110 - 111].
Như vậy, sau cải cách của Lê Thánh Tông quá trình phong kiến hóa về cơ
bản đã hoàn thành. Đây là thời kỳ hình thành, phát triển của chế độ phong kiến
Đại Việt. Đặc biệt thời kì này đã đánh dấu sự lên ngôi của tầng lớp trí thức Nho
học, tầng lớp quan lại liêu thuộc thay thế cho quan lại quý tộc trước đây. Họ trở
thành bộ phận có vai trò chi phối xã hội Đại Việt cho đến các thế kỷ về sau.
1.3. Tình hình kinh tế
Do nền kinh tế nông nghiệp giữ vai trò chủ đạo trong xã hội Đại Việt nên
ruộng đất được coi là tài sản quý giá, là tư liệu sản xuất quan trọng nhất của nhà
nước và xã hội. Ruộng đất là nguồn tư liệu nuôi sống xã hội, nhà nước dựa vào
việc thu tô thuế ruộng đất để duy trì sự thống trị của mình, làm bổng lộc để ban
cho quan lại, người có công chống giặc ngoại xâm, có công phò tá vua nhằm tập
trung tăng thêm quyền lực cho giai cấp mình cũng như khuyến khích sự trung

thành với vua, đất nước.
Do ruộng đất là tài sản quý giá, nguồn thu chủ yếu để duy trì sự tồn tại
của triều đình, xã hội nên các vua nhà Lý đều cố gắng tập trung ruộng đất vào
tay mình. Tuy nhiên, ở thời kỳ này triều đình chỉ nắm quyền chiếm hữu ruộng
11


đất còn quyền sở hữu thực tế thuộc về công xã. Nhà nước chỉ thu thuế thông qua
các công xã còn việc chia ruộng đất cày cấy lại do công xã thực hiện. Điều này
cho thấy nhà nước chỉ nắm ruộng đất về mặt hình thức, chưa nắm được quyền
quản lý ruộng đất thực sự.
Nhà Lý ban cấp ruộng đất cho quan lại cao cấp, những người có công
không phải họ vua rất ít chỉ có trường hợp của Lê Phụng Hiểu, “Năm 1028, vua
bằng lòng cho Phụng Hiểu lên núi cầm dao quăng một cái xa đến hơn mười
dặm, dao rơi xuống hương Đa Mi, vua lấy ruộng ấy ban cho. Tha thóc thuế cho
ruộng ném đao ấy. Và thể theo nguyện vọng của Lê Phụng Hiểu ruộng đó được
nhà vua ban cho làm thế nghiệp” [9,Tr.27]. Từ đó loại ruộng này được gọi là
ruộng thác đao. Như vậy thời kỳ này, ruộng đất tư nhân chủ yếu trong tay quý
tộc. Do đó tầng lớp trí thúc Nho học chưa có tiềm lực về kinh tế cũng như địa vị
xã hội.
Sang thời kì nhà Trần, Nhà nước cho phép mua bán ruộng đất công, dần
dần đã hình thành tầng lớp phổ biến trong xã hội là địa chủ thường (hay địa chủ
thứ dân) và tầng lớp tiểu nông tư hữu nhỏ. Tuy nhiên, sự bóc lột của tầng lớp địa
chủ không tạo nên địa vị thống trị, họ cũng chỉ được nhà nước coi là dân thường
như những tầng lớp lao động khác. Chỉ khi nào họ có học trở thành quan lại mới
được nhà nước coi trọng.
Để tạo cơ sở vững chắc cho vương triều, nhà Trần đã đưa ra chính sách
ban cấp thái ấp cho các quan văn: “Chế độ nhà Trần các vương hầu đều ở phủ
đệ ở hương của mình, khi chầu thì mới đến kinh sư, xong lại quay về. Như Trần
Quốc Tuấn ở Vạn Kiếp, Thủ Độ ở Quắc Hương, Quốc Chân ở Chí Linh đều thế

cả” [10,Tr.32]. Năm 1266, nhà Trần khuyến khích các vương hầu chiêu tập
những người phiêu tán, lấy làm nô tì khai khẩn đất hoang đập điền trang. Thái
ấp, điền trang là hai loại hình sở hữu ruộng đất đặc trưng của vương triều Trần.
Sau khi nhà Hồ thành lập, nhằm hạn chế chiếm hữu lớn về đất đai của quý
tộc Trần, năm 1397, Hồ Quý Ly đã ban hành chính sách hạn điền. “Nhà nước
quy định trừ đại vương và trưởng công chúa, còn tất cả mọi người không được
sở hữu qúa mười mẫu. Người nào có nhiều ruộng được phép đem ruộng chuộc
12


tội, nếu không cũng phải nộp Nhà nước” [21,Tr.105]. Chính sách “hạn điền”
đánh vào nền tảng kinh tế của phong kiến quý tộc Trần. Tuy nhiên, cải cách này
chỉ là nửa vời vì nhà nước lấy ruộng đất từ tay quý tộc Trần nhưng lại không ban
ruộng đất cho nông dân cày cấy mà ban cho tôn thất họ Hồ. Trong khi xã hội
đang có yêu cầu tư hữu hóa ruộng đất để phát triển kinh tế hàng hóa - tiền tệ và
giải quyết nạn thiếu đói thì số ruộng đất ngoài 10 mẫu được lấy ra lại bị xung
công hiến cho Nhà nước biến thành quan điền. Tuy nhiên, việc đưa ruộng đất rút
ra được từ “hạn điền” vào sở hữu chung của Nhà nước phong kiến quan liêu
như vậy là tiến bộ hơn sở hữu lớn của phong kiến quý tộc, nhưng nó cũng chỉ có
tác dụng củng cố quyền lực Nhà nước chứ không phát triển được kinh tế, cải
thiện được dân sinh, tăng cường được khối đoàn kết dân tộc chống ngoại xâm.
Thông qua chính sách hạn điền nhà Hồ vừa không được lòng quý tộc Trần lại
làm mất lòng dân, ảnh hưởng đến khả năng thu phục nhân tâm do đó đã không
tập hợp được sức mạnh toàn dân để đánh giặc đưa nhân dân ta vào thời kì tăm
tối dưới ách đô hộ nhà Minh.
Sau hơn hai mươi năm dưới ách đô hộ nhà Minh đồng ruộng nhiều nơi bỏ
hoang, kinh tế nông nghiệp đình trệ. Để khắc phục tình trạng đó, Lê Lợi đã
xuống chiếu kêu gọi dân phiêu tán trở về quê cũ làm ăn, đồng thời cho 25 vạn
quân giải ngũ về làm ruộng. Lê Lợi còn sai tịch thu tất cả ruộng đất của quan lại
nhà Minh, của bọn Việt gian, ruộng đất của các quý tộc Trần đã chết, ruộng đất

của nhân dân bỏ hoang, sung làm ruộng đất công. Nhà Lê cũng lệnh cho các địa
phương lập sổ ruộng và ban hành các chính sách về ruộng đất. Đặc biệt là chế độ
lộc điền được ban hành năm 1477 dưới thời vua Lê Thánh Tông. Lộc điền được
ban cấp theo thứ bậc từ các Hoàng Tử, Công chúa cho đến các quan chức từ
chánh nhất phẩm đến tòng tứ phẩm. Ruộng lộc được chia làm hai loại: Loại cấp
vĩnh viễn gọi là ruộng thế nghiệp, chủ yếu dành cho các vương hầu, công chúa;
loại cấp một lần gọi là ruộng ân tứ - ruộng này sau khi chết 3 năm phải trả lại
cho nhà nước. Chế độ lộc điền là một chế độ ban cấp ruộng đất đại quy mô thời
Lê. Với số ruộng được ban cấp cùng với số ruộng tư vốn có, tầng lớp quý tộc,
quan lại cao cấp thời Lê trở thành những đại địa chủ trong xã hội bấy giờ.
13


Nhà Lê sơ không căn cứ vào nguồn gốc xuất thân, đặc biệt là sau cải cách
Lê Thánh Tông những người có học, thi cử đỗ đạt ra làm quan (bộ phận trí thức
Nho học) đều được ban cấp ruộng đất và được phân chia ruộng đất khẩu phần
theo chế độ lộc điền và phép quân điền.
Thời Lê còn tồn tại ruộng đất công làng xã thuộc sở hữu tối cao của nhà
nước. Để thống nhất việc phân chia ruộng công trong phạm vi cả nước, cùng với
việc ban hành chính sách lộc điền, năm 1447, Lê Thánh Tông ban hành chính
sách quân điền. Theo phép quân điền, cứ 6 năm, ruộng công làng xã được chia
lại một lần cho các thành viên trong xã, bao gồm quan chức cấp thấp (từ ngũ
phẩm trở xuống), chức dịch của làng, quân lính, dân đinh, vợ các quan, phụ nữ
góa chồng, trẻ mồ côi. “Bậc cao nhất là quan tam phẩm được 11 phần (nếu
chưa được cấp ruộng lộc), tứ phẩm 10 phần, ngũ phẩm 9,5 phần cho đến hạng
lão được 3.5 phần, trẻ mồ côi, người tàn phế được 3 phần” [21,Tr.159]. Các
quan phủ, huyện có nhiệm vụ phối hợp với các xã trưởng, già làng đo đạc ruộng
đất, tính số người được chia và thực hiện việc quân điền. Phép quân điền vừa
giúp cho người nông dân có mảnh đất cày cấy sinh sống, trên cơ sở đó họ tương
đối yên tâm sản xuất, nền kinh tế tiểu nông được phục hồi và phát triển. Đồng

thời cũng giúp cho Nhà nước thu thuế, lao dịch, lấy lính và nuôi lính. Như vậy
sau cải cách Lê Thánh Tông nhà nước đã quản lý được ruộng đất trong xã hội,
quản lý đến cấp cơ sở thấp nhất là làng xã, giai đoạn này “phép vua thắng lệ
làng” và hình thành nên giai cấp địa chủ vừa có quyền lực về kinh tế vừa có thế
lực về chính trị làm xuất hiện quan hệ bóc lột địa chủ - tá điền. Như vậy tầng lớp
trí thức Nho học có vai trò ngày càng lớn trong đời sống kinh tế xã hội Đại Việt
thay thế hoàn toàn quan lại Phật giáo trước kia.
1.4. Tình hình văn hóa - giáo dục
* Văn hóa
Trong hơn 1000 năm bị phong kiến phương Bắc đô hộ nước ta chịu ảnh
hưởng của văn hóa Hán. Tuy nhiên với ý thức niềm tự hào dân tộc, phong kiến
phương Bắc đã không thể đồng hóa được nhân dân ta. Với sự kiện năm 905
Khúc Thừa Dụ giành quyền tự chủ đã kết thúc thời kỳ đô hộ hơn 1000 năm của
14


phong kiến phương Bắc trên đất nước ta. Từ khi thành lập mỗi triều đại đều cố
gắng xây dựng một nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc.
Bước sang thế kỷ X - thế kỷ độc lập, dòng văn hóa ảnh hưởng chính đến
xã hội Đại Việt là Phật giáo. Phật giáo được đề cao, coi là quốc giáo và tác động
đến đường lối cai trị và thể chế chính trị của các triều đại phong kiến. Thời Lý Trần bên cạnh văn hóa dân gian trong xã hội Đại Việt còn tồn tại ba tôn giáo đó
là Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo được gọi là thời kì “Tam giáo đồng nguyên”.
Nhà nước Lý - Trần chủ trương duy trì một chính sách khoan dung hòa hợp và
chung sống hòa bình giữa các tín ngưỡng tôn giáo. Cũng bởi thấm nhuần tư
tưởng từ bi, thương người của nhà chùa mà tính chất tập quyền, chuyên chế
trong đường lối trị nước của các vua Lý cũng dịu đi. Thời kỳ đầu, nhờ biết kết
hợp và phát huy sức mạnh của Phật giáo, nhà Lý đã duy trì được một xã hội ổn
định, ít loạn lạc, chấm dứt tình trạng cát cứ.
Tuy nhiên với mong muốn xây dựng một nhà nước quân chủ tập quyền từ
trung ương xuống địa phương nhà Lý đã lựa chọn Nho giáo. Với sự kiện năm

1070, vua Lý Thánh Tông cho dựng nhà Khổng miếu tiền thân của Văn Miếu
sau này ở phía Nam kinh thành, đắp tượng Khổng Tử, Chu Công và Tứ Phối đã
đánh dấu dòng văn hóa Nho học chính thức xâm nhập vào Đại Việt. Tuy nhiên
với những nguyên lý cơ bản của phép trị nước Nho giáo chỉ ảnh hưởng đến tầng
lớp trên và rất mờ nhạt ở các làng xã.
Nhà Trần, do đạo Phật chiếm vị trí độc tôn là quốc giáo nên ảnh hưởng,
chi phối đến mọi mặt đời sống xã hội. Thời kỳ đầu nhà Trần thực hiện chế độ
hôn nhân nội tộc, quan lại đều phải là người trong tôn thất. Năm vị vua đầu nhà
Trần chịu ảnh sâu sắc của Phật giáo như: Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông,
Trần Nhân Tông, Trần Anh Tông, Trần Minh Tông. Nhiều công trình kiến trúc
Phật giáo được xây dựng, đặc biệt không thể không nhắc tới vua Trần Nhân
Tông vị vua thứ ba của nhà Trần đã lập ra Thiền phái trúc lâm Yên Tử và trở
thành Phật hoàng Trần Nhân Tông.
Càng về sau do yêu cầu xây dựng phát triển nhà nước phong kiến tập
quyền vững mạnh nhà Trần đã nhận thấy cần phải mở cửa để thu hút nhân tài
15


góp sức xây dựng đất nước do đó Phật giáo tuy vẫn tồn tại nhưng không còn vị
trí độc tôn như trước nữa, nhường chỗ cho sự lên ngôi bước đầu của Nho giáo
với tư cách là một học thuyết trị nước và vai trò ngày càng lớn của giới trí thức
Nho học. Nếu những vị vua đầu triều Trần chịu ảnh hưởng sâu sắc của
Phật giáo, thì 6 vị vua cuối thời Trần lại chịu ảnh hưởng sâu sắc của Nho giáo,
lấy Nho Giáo làm nguồn tuyển chọn quan lại trong cả nước thay thế chế độ đơn
tộc trước kia.
Sau khi lên thay thế nhà Trần, để khắc phục khủng hoảng kinh tế, chính
trị xã hội cuối triều Trần, Hồ Quý Ly đã tiến hành một cuộc cải cách trên mọi
lĩnh vực. Trong lĩnh vực văn hóa Hồ Quý Ly muốn đưa Nho giáo trở thành quốc
giáo bằng nhiều biện pháp: Đưa ra nhiều chính sách hạn chế Phật giáo, không
ưu đãi tăng ni và phát triển chùa triền như thời Trần mà còn có những biện pháp

giảm thiểu: “Năm 1396, Hồ Quý Ly bắt tất cả các nhà sư chưa đến tuổi 50 phải
hoàn tục để lao động” [13,Tr.78]. Ngoài ra, Hồ Quý Ly làm sách Minh Đạo
(con đường sáng), bày tỏ quan điểm của ông về Nho giáo, hạ thấp vai trò của
Khổng Tử, phê phán Nho gia là những người “học rộng nhưng tài kém, không
quan thiết đến sự tình (phục vụ thực tiễn cuộc sống), chỉ chuyên việc lấy cắp văn
chương của người xưa” [13,Tr.78].
Tuy nhiên, cuộc kháng chiến chống Minh đã làm đứt gãy quá trình Nho
giáo vươn lên thống trị xã hội, vương triều sau đã tiếp nối quá trình còn dang dở
đó là nhà Lê sơ. Ngay sau khi lên ngôi vua Lê Thánh Tông đã đưa Nho giáo trở
thành quốc giáo. Mọi thành phần trong xã hội có học đều được tham gia thi cử
đỗ đạt thì đều được ra làm quan phụng sự triều đình, dưới thời Lê Thánh Tông
không có trường hợp quan lại không qua thi cử mà được làm quan. Triều đình
phong kiến áp dụng triệt để quan niệm của Nho giáo trong việc trị nước Tam
cương ngũ thường, quan hệ vua - tôi được đặt lên hàng đầu. Sau cải cách của Lê
Thánh Tông Nho giáo trở thành hệ tư tưởng độc tôn trong xã hội Đại Việt. Đưa
Đại Việt bước vào giai đoạn phát triển đỉnh cao.
* Giáo dục
Đối với các nhà nước phong kiến, ngoài hình thức tuyển chọn quan lại
16


thông qua nhiệm tử (tập ấm), khoa cử là một hình thức để giáo dục đào tạo, cung
cấp đội ngũ quan lại phục vụ cho nhà nước phong kiến. Thế kỷ X tầng lớp giữ
vai trò trí thức chủ yếu trong xã hội đó là các nhà sư, họ là những người duy
nhất trong xã hội biết đọc, biết viết. Nhà sư trở thành người thầy dạy học, nhà
chùa trở thành nơi dạy học cho nhân dân.
Tuy nhiên thế kỷ XI, dưới nhà Lý đã xuất hiện thêm một bộ phận đảm
nhận việc giáo dục trong cả nước là trí thức Nho học. Năm 1070, nhà Lý cho
xây dựng Văn Miếu, năm 1075, vua Lý Nhân Tông lập ra Quốc Tử Giám. Cùng
với việc mở Quốc Tử Giám, nhà Lý quan tâm tới việc tổ chức các kỳ thi Nho

học để lựa chọn nhân tài mà các triều đại trước chưa thực hiện được.“Năm 1075,
Lý Nhân Tông xuống chiếu tuyển Minh kinh bác học và thi Nho học tam trường.
Lê Văn Thịnh trúng tuyển cho vào hầu vua học” [21,Tr.48]. Việc mở khoa thi
Nho học đầu tiên đánh dấu việc nhà Lý chính thức tuyển người theo Nho giáo
làm quan bên cạnh tầng lớp quan lại thiên về kiến thức Phật giáo trước đó.
Tiếp nối nhà Lý, vương triều Trần sau khi thành lập cũng tổ chức rất
nhiều kỳ thi Nho học đặt ra lệ Tam khôi. Tuy nhiên ở thời nhà Lý cũng như nhà
Trần quan lại được tuyển chọn chủ yếu thông qua nhiệm tử, tập ấm là chủ yếu.
Bên cạnh hệ thống trường do nhà nước thành lập còn xuất hiện các trường học
tư, tuy nhiên số lượng chưa nhiều. Thời kỳ này có hai dạng lớp học: Một là
những người biết chữ nhưng đi thi không đỗ đạt, mở lớp dạy học để kiếm sống
hoặc tầng lớp quan lại hoặc những người đã đỗ đạt vì nhiều lý do đã về nhà
(nghỉ hưu, sa thải, từ quan) mở lớp dạy học cho con em mình hoặc những người
thân thích. Có thể kể đến như thầy giáo Chu Văn An. Ông đỗ Thái học sinh (tức
tiến sĩ) nhưng không ra làm quan mà mở trương dạy học ở quê nhà, học trò theo
học rất đông, trong đó có nhiều người thành đạt làm quan to trong triều như
Nhập nội Hành khiển Phạm Sư Mạnh, Trạng nguyên Lê Quát. Chu Văn An là
một nhà giáo tài đức trọn vẹn, có đóng góp to lớn cho đất nước và đạo học.
Dạng trường học thứ hai là các trường học tồn tại trong các chùa do do các nhà
sư giảng dạy truyền đạt cả những kiến thức về Phật giáo và Nho giáo.

17


Vương triều Hồ cũng rất quan tâm đến giáo dục, năm 1400, Hồ Quý Ly tổ
chức kỳ thi đầu tiên, tháng 7 năm 1405, Hồ Hán Thương tổ chức kỳ thi Bộ Lễ.
Nhà Hồ tuy chỉ tồn tại được 7 năm nhưng đã tổ chức được hai kỳ thi lấy gần 200
người trong đó có một trạng nguyên. Bên cạnh đó, để bổ sung đội ngũ quan liêu
cho bộ máy chính quyền, nhà Hồ trọng dụng lấy quan lại đã thi đỗ từ các triều
đại trước, điều này cho thấy nhà Hồ rất coi trọng bộ phận trí thức Nho học. Đặc

biệt nhà Hồ không cho phép quý tộc tôn thất tham gia bộ máy nhà nước. Tuy tồn
tại ngắn ngủi nhưng một số nhân tài đỗ đạt dưới thời Hồ sau này phục vụ cho
nhà Lê sơ như Nguyễn Trãi, Lý Tử Tấn, Vũ Mộng Nguyên, Hoàng Hiến,
Nguyễn Thành.
Nhà Lê sơ là một triều đại hết mực coi trọng giáo dục, vua Lê Thái Tổ
chú trọng đến việc đào tạo nhân tài cho đất nước ngay sau khi lên ngôi. Ông ra
lệnh cho các chấn trong nước đều phải xây dựng trường học, mở mang nền giáo
dục trong nước, con em thường dân đều được đi học trừ con nhà hát xướng và
người đang bị tội đày. Thời kỳ đầu nhà Lê sơ sử dụng quan lại đã thi cử đỗ đạt
của triều đại trước, ban chức tước cho những người có công với triều đại. Tuy
nhiên giai đoạn sau do yêu cầu xây dựng một nhà nước quan liêu nên Lê Thánh
Tông sử dụng hình thức lựa chọn hiền tài qua khoa cử. “Gần 100 năm dưới thời
Lê sơ (1428 - 1527) từ khoa thi Hội đầu tiên năm 1442 đến khoa thi cuối cùng
năm 1526, nhà Lê đã mở được 26 khoa thi, đào tạo được 988 tiến sĩ. Thời Lê
sơ, đặc biệt là thời Lê Thánh Tông là một thời kì thịnh đạt của nền giáo dục khoa cử phong kiến Việt Nam. Riêng 38 năm dưới thời trị của Lê Thánh Tông
(1460 - 1497) có 12 khoa thi Hội, lấy 501 người đỗ tiến sĩ, trong đó 10 người đỗ
trạng nguyên. Trong thời Lê sơ có những kì thi Hội có đến hàng ngàn thí sinh,
như khoa thi năm Ất Tỵ (1475) có đến 3000 người dự thi” [21,Tr165]. Như vậy
đến thời Lê Thánh Tông, với sự thắng thế của Nho giáo, giáo dục Nho học cũng
chính thức vươn lên khẳng định vị trí của mình so với giáo dục dân gian cũng
như giáo dục Phật giáo trong các nhà chùa trước đây.

18


Tiểu kết chương 1
Xã hội Đại Việt từ thế kỷ XI - XV có nhiều biến động mạnh mẽ về kinh
tế, chính trị, văn hóa, giáo dục. Tất cả các triều đại đều mong muốn xây dựng
một thể chế chính trị đỉnh cao, một nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc, một nền
giáo dục đáp ứng nhu cầu xây dựng và phát triển đất nước. Trong những cố gắng

đó Nho giáo chiếm hữu những vị trí ngày càng quan trọng trong xã hội và càng
về sau bộ phận trí thức Nho học càng khẳng định được vị trí, vai trò của mình
trong xã hội Đại Việt.

19


CHƯƠNG 2
SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA TẦNG LỚP TRÍ THỨC NHO
HỌC TRONG XÃ HỘI ĐẠI VIỆT THẾ KỶ XI - XV
2.1. Sự ra đời và phát triển của tầng lớp trí thức nho học thay thế cho trí
thức tôn giáo (từ thế kỉ XI đến nửa đầu thế kỉ XIV)
Trong suốt thế kỉ X với sự lần lượt thay thế của 5 chính quyền: Khúc,
Dương, Ngô, Đinh, Tiền Lê thì Đại Việt đã có những bước phát triển nhất định.
Song trong thời kì này khoa cử vẫn chưa xuất hiện, bộ phận duy nhất trong xã
hội biết đọc, biết viết đó chính là tầng lớp trí thức tôn giáo (trí thức Phật giáo).
Hơn thế nữa, quan lại trong bộ máy nhà nước chủ yếu là các tướng lĩnh quân sự
những người có công trong các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, các hào
trưởng địa phương, rồi hệ thống đạo sĩ, sư tăng: tăng thống, tăng lục… được
tham dự triều chính với tư cách là cố vấn cao cấp không hề thông qua thi cử chủ
yếu theo chế độ nhiệm tử. Hay nói cách khác, thế kỉ X chưa hề có sự xuất hiện
của tầng lớp trí thức Nho học.
Vương triều mở đầu cho quá trình tham chính của tầng lớp quan liêu
trong xã hội Đại Việt thời trung đại đó chính là nhà Lý. Đến nhà Lý (1009 1226) bên cạnh Phật giáo được coi là quốc giáo, bên cạnh Đạo giáo đang rất phổ
biến, nhà Lý đã chính thức thừa nhận và tiếp thu một hệ tư tưởng đã được coi là
chính thống ở Trung Quốc từ nhiều thế kỉ trước chính là Nho giáo.
“Năm 1070, nhà Lý cho dựng Văn Miếu, đúc tượng Chu Công, Khổng Tử,
năm 1076 nhà Lý lập ra Quốc Tử Giám - nơi dạy cho con vua và con em hàng
ngũ quý tộc, quan lại” [21,Tr.110].
Với sự kiện này, Nho giáo chính thức du nhập vào triều đình. Tất nhiên

giai đoạn đầu Quốc Tử Giám chỉ dành cho con em quý tộc thể hiện sự quan tâm
đối với việc học tập của hoàng tộc còn trường học tư được hình thành trước đó.
Song sự ra đời của Văn Miếu, Quốc Tử Giám đã làm xuất hiện nền giáo dục
Nho học, đẻ ra đội ngũ trí thức Nho học, thúc đẩy sự phát triển của giáo dục
Nho học ở kinh đô và các địa phương. Sở dĩ nhà Lý tiếp thu Nho giáo và thừa
20


×