Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Phân tích quan điểm của C.Mác về lượng giá trị 1 đơn vị hàng hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (121.74 KB, 14 trang )

1

Đề 1:
Câu 1: Phân tích quan điểm của C.Mác về lượng giá trị 1 đơn vị
hàng hóa. Theo quan điểm của C.Mác, cùng với sự phát triển của
sản xuất và trao đổi hàng hóa, thì lượng giá trị 1 đơn vị hàng hóa
sẽ biến đổi theo chiều hướng nào? ( Không thay đổi, tăng lên, giảm
đi?) Giải thích?
Quan điểm trên có ý nghĩa như thế nào đối với doanh nghiệp
trong lĩnh vực sản xuất?
Trả lời:
I.Quan điểm của C.Mác về lượng giá trị hàng hoá:
Lượng giá trị của hàng hóa là số lượng lao động của người sản xuất
kết tinh trong hàng hóa, được đo bằng thời gian lao động hao phí để sản
xuất hàng hóa bao gồm lao động vật hóa (tư liệu sản xuất) và lao động
sống.
Mỗi chủ thể kinh doanh có một lượng hao phí lao động thực tế nhất
định trong quá trình sản xuất hàng hóa, đó là thời gian lao động cá biệt.
Thời gian này xác định giá trị cá biệt của hàng hóa. Trên thị trường,
không thể dựa vào giá trị cá biệt của hàng hóa để tiến hành trao đổi, mà
phải dựa vào giá trị xã hội của hàng hóa. Giá trị xã hội của hàng hóa
được tính bằng thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất hàng hóa.
C.Mác viết : “ Chỉ có lượng lao động xã hội cần thiết, hay thời gian lao
động xã hội cần thiết để sản xuất ra một giá trị sử dụng, mới quyết định
đại lượng giá trị của giá trị sử dụng ấy” ( Trích C.Mác và Ph.Ăngghen :
Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, t.23, tr.68 )
Thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian cần thiết để sản xuất
hàng hóa trong điều kiện trung bình của xã hội với trình độ kỹ thuật
trung bình, trình độ tay nghề trung bình và cường độ lao động trung
bình. Thông thường , thời gian lao động xã hội cần thiết được xác định
theo thời gian lao động cá biệt của những người sản xuất và cung ứng


tuyệt đại bộ phận một loại hàng hóa trên thị trường.
Do thời gian lao động xã hội cần thiết luôn thay đổi , nên lượng giá
trị của hàng hóa cũng là một đại lượng không cố định. Sự thay đổi lượng
giá trị của hàng hóa tùy thuộc vào những nhân tố :
Thứ nhất, năng suất lao động.


2

Năng suất lao động là năng lực sản xuất của lao động được tính
bằng số lượng sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian hoặc số
lượng thời gian cần thiết để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm.
Có hai loại năng suất lao động: năng suất lao động cá biệt và năng
suất lao động xã hội. Trên thị trường , hàng hóa được trao đổi không
phải theo giá trị cá biệt mà là giá trị xã hội. Vì vậy , năng suất lao động
có ảnh hưởng đến giá trị xã hội của hàng hóa chính là năng suất lao
động xã hội.
Lượng giá trị hàng hóa thay đổi tỷ lệ nghịch với năng suất lao động.
Còn năng suất lao động lại phụ thuộc vào trình độ công nghệ của người
lao động, vào mức độ trang bị kĩ thuật cho lao động, phương pháp tổ
chức lao động và các điều kiện tự nhiên. Khi năng suất lao động tăng lên
thì thời gian lao động để sản xuất ra một đơn vị hàng hóa giảm xuống,
do đó giá trị của một đơn vị hàng hóa giảm xuống.
Thứ hai, Cường độ lao động.
Cường độ lao động là mức độ khẩn trương của lao động. Trong cùng
một đơn vị thời gian, khi tăng cường độ lao động thì số lượng sản phẩm
làm ra tăng lên, hao phí sức lao động cũng tăng lên cùng tỷ lệ. Do đó,
tổng giá trị hàng hóa tăng lên, nhưng lượng giá trị của một hàng hóa thì
vẫn không thay đổi.
Thứ ba, Các loại lao động.

Các loại lao động gồm lao động giản đơn và lao động phức tạp. Lao
động phức tạp là lao động có chuyên môn kỹ thuật; ngược lại, lao động
giản đơn bao gồm những người không được đào tạo để có một nghề
chuyên môn nhất định.
C.Mác chỉ rõ: trong một giờ lao động , người thợ sửa chữa đồng hồ
tạo ra nhiều giá trị hơn người rửa bát. Bởi vì, lao động của người rửa
bát là lao dộng giản đơn, có nghĩa là bất kì một người bình thường nào,
không phải trải qua đào tạo, không cần có sự phát triển đặc biệt , cũng
có thể làm được. Còn lao động của người thợ sửa chũa đồng hồ là lao
động phức tạp đòi hỏi phải có sự đào tạo, phải có thời gian huấn luyện
tay nghề. Vì vậy, trong cùng một thời gian, lao động phức tạp tạo ra
nhiều giá trị hơn lao động giản đơn.
Tuy nhiên, để tiến hành trao đổi hàng hóa, mọi lao động phức tạp đều
được quy thành lao động giản đơn trung bình trên cơ sở lao động phức
tạp bằng bội số của lao động giản đơn hay bằng lao động giản đơn nhân
bội lên. Để cho các hàng hóa do lao động giản đơn tạo ra có thể quan hệ
bình đẳng với các hàng hóa do lao động phức tạp tạo ra, trong quá trình


3

trao đổi người ta quy mọi lao động phức tạp thành lao động giản đơn
trung bình.
Vậy,theo quan điểm của C.Mác cùng với sự phát triển của sản xuất và
trao đổi của hàng hóa thì lượng giá trị một đơn vị hàng hoá sẽ giảm đi.
II. Ý nghĩa thực tiễn :
Việc nghiên cứu lượng giá trị hàng hóa đối với các doanh nghiệp
trong lĩnh vực sản xuất là rất cần thiết.
Trước hết, nghiên cứu lượng giá trị hàng hóa đã xác định được giá cả
của hàng hóa đã làm ra. Bởi vì khi nghiên cứu lượng giá trị hàng hóa cho

biết: “ Thời gian lao động xã hội cần thiết giản đơn trung bình để sản
xuất ra một hàng hóa là thước đo lượng giá trị hàng hóa và từ đó xác
định được giá cả của hàng hóa nào cao hơn của hàng hóa nào”.
Thứ hai, nghiên cứu lượng giá trị hàng hóa tìm ra được các nhân tố
tác động đến nó. Từ đó tìm ra cách để giảm giá cả sản xuất như : tăng
năng suất lao động, đầu tư vào khoa học kỹ thuật hiện đại, đầu tư đào
tạo giáo dục chất xám… mà vẫn giữ nguyên hoặc làm tăng them giá trị
để tiến tới cạnh tranh trên thị trường. Đây chính là điều mà các nhà làm
kinh tế luôn hướng tới nhằm đạt được lợi nhuận siêu ngạch.
Thứ ba, bởi vì lao động phức tạp tạo ra được nhiều giá trị hơn so với
lao động giản đơn trong cùng một đơn vị thời gian lao động như nhau.
Vì thế mà các nhà làm kinh tế cần phải chú trọng đầu tư vào những
ngành lao động phức tạp đòi hỏi nhiều chất xám. Muốn làm được điều
này thì phải nâng cao trình độ công nhân, nâng cao tay nghề và áp dụng
những biện pháp tiên tiến.
Câu 2: Trình bày quan điểm về khủng hoảng kinh tế và những
biện pháp chống khủng hoảng kinh tế của Mác. Cho biết khả năng
vận dụng những biện pháp chống khủng hoảng kinh tế của Mác vào
nền kinh tế thị trường hiện nay?
Trả lời:
I.Quan điểm của Mác về khủng hoảng kinh tế.
1. Những lý luận của Mác về khủng hoảng kinh tế và bản chất
của nó.
Ngay từ khi tiền tệ xuất hiện trong sản xuất hàng hóa giản đơn, nó đã
mang trong mình mầm mống của sự khủng hoảng. Đến chủ nghĩa tư bản,


4

khi mà nền sản xuất đã được xã hội hóa cao độ, khủng hoảng kinh tế là điều

không thể tránh khỏi. Sự ra đời của cuộc đại công nghiệp cơ khí đầu thế kỉ
XIX đã làm cho quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa bị gián đoạn bởi những
cuộc khủng hoảng mang tính chu kì. Hình thức đầu tiên và phổ biến trong
nền sản xuất tư bản chủ nghĩa chính là khủng hoảng sản xuất “thừa” với
các biểu hiện chủ yếu sau:


Khủng hoảng sản xuất thừa của tư bản công nghiệp do sự tắc
nghẽn trong quá trình lưu thông hàng hóa của tư bản thương

nghiệp.
• Khủng hoảng tài chính tiền tệ do sự dư thừa của các loại giấy tờ
có giá (tư bản giả). Sự dư thừa của tư bản tiền tệ trong hệ thống
các ngân hàng dẫn đến những cuộc khủng hoảng tiền tệ giữa các
quốc gia do sự di chuyển của các dòng vốn lưu động, gây nên sự
thiếu tiền ở thị trường này nhưng thừa tiền ở thị trường khác.
• Khủng hoảng nợ công do sự dư thừa của trái phiếu chính phủ,
thứ để biến những khoản tiền tiết kiệm cuối cùng của người dân
trở thành tư bản.
Một định nghĩa khác với cách hiểu ngày nay là trong học thuyết Kinh
tế chính trị Mác-Lenin. Theo Mác, khủng hoảng kinh tế đề cập đến quá trình
tái sản xuất đang bị suy sụp tạm thời. Thời gian khủng hoảng làm những
xung đột giữa các giai cấp trong xã hội thêm căng thẳng đồng thời nó tái
khởi động một quá trình tích tụ tư bản mới. Nhiều học giả cho rằng tự bản
thân Karl Mác không đưa ra kết luận cuối cùng về bản chất của khủng
hoảng kinh tế trong chủ nghĩa tư bản. Thực vậy, những nghiên cứu của ông
gợi ý nhiều lý luận khác nhau mà tất cả chúng đều gây tranh cãi. Một đặc
điểm chủ yếu của những lý luận này là khủng hoảng không phải ngẫu nhiên



5

và không tự nhiên mà nó bắt nguồn từ bản chất của chủ nghĩa tư bản với
vai trò là một hình thái xã hội. Mác viết :“cản trở của nền sản xuất tư bản
chính là tư bản”.
Những lý luận này bao gồm:


Xu hướng suy giảm tỷ suất lợi nhuận: Tích tụ tư bản gắn liền xu
hướng chung của mức độ tập trung tư bản. Điều này tự nó làm giảm
tỷ suất lợi nhuận rồi kìm hãm chủ nghĩa tư bản và có thể đưa đến
khủng hoảng.



Tiêu thụ dưới mức: Nếu giai cấp tư sản thắng thế trong cuộc đấu
tranh giai cấp với mục đích cắt giảm tiền lương và bóc lột thêm lao
động, nhờ đó tăng tỷ suất giá trị thặng dư, khi đó nền kinh tế tư bản
đối mặt với vấn đề thường xuyên là nhu cầu tiêu dùng không tương
xứng với quy mô sản xuất và tổng cầu không tương xứng với tổng
cung.



Sức ép lợi nhuận từ lao động: Tích tụ tư bản có thể đẩy nhu cầu
thuê mướn tăng lên và làm tăng tiền lương. Nếu tiền lương tăng cao
sẽ ảnh hưởng đến tỷ suất lợi nhuận và khi đạt đến một mức độ nhất
định sẽ gây ra suy thoái kinh tế.
Theo đó, khi khủng hoảng nổ ra, hang hóa không tiêu thụ được, sản


xuất bị thu hẹp, nhiều doanh nghiệp bị vỡ nợ, phá sản, công nhân thất
nghiệp, thị trường rối loạn. Hàng hóa bị thừa so với sức mua có hạn của
quần chúng lao động phải phá hủy trong khi hàng triệu người lao động lại
lại lâm vào tình trạng đói khổ vì họ không có khả năng thanh toán.


6

Cuộc khủng hoảng kinh tế đầu tiên trong chủ nghĩa tư bản diễn ra ở
Anh năm 1825 và cuộc khủng hoảng đầu tiên diễn ra trên quy mô toàn thế
giới nổ ra năm 1847. Các cuộc khủng hoảng diễn ra mang tính chu kì đã
gây nhiều thiệt hại cho giai cấp tư bản và đẩy người dân lao đông vào bần
cùng hóa. Mác đã nói: “ Khủng hoảng kinh tế là người bạn đồng hành của
chủ nghĩa tư bản.”
2. Những nguyên nhân gây ra khủng hoảng kinh tế dưới cách

nhìn của Mác.
Theo Mác, nguyên nhân của khủng hoảng tư bản chủ nghĩa bắt
nguồn từ chính mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản.
Thứ nhất, đó là những mâu thuẫn nội tại của chính chủ nghĩa tư bản:


Mâu thuẫn giữa nền sản suất đại kế hoạch của tư bản công nghiệp
và giới hạn thị trường với sự gia nhập tự do của tư bản thương

nghiệp làm giảm dần tỉ suất lợi nhuận bình quân.
• Mâu thuẫn giữa tính chuyên môn hóa trong lao động của nền kinh
tế tư bản chủ nghĩa với cơ cấu lao động bất hợp lí.
• Mâu thuẫn từ việc nguồn gốc giá trị thặng dư được tạo ra từ khu
vực sản xuất nhưng bị tước đoạt quá nhiều do sự phát triển ngày

càng phình to của khu vực phi sản xuất (chứng khoán, bất động
sản).
• Mâu thuẫn do mất cân đối giữa tiết kiệm, đầu tư và tiêu dung.
Đầu tư và tiêu dùng thường lớn hơn nhiều so với tiết kiệm khi tiền
tệ được luân chuyển qua hệ thống các ngân hàng đồng thời tạo
nên gánh nặng lạm phát rất cao vào các thời điểm nền kinh tế
đang hưng thịnh, mở đầu cho một sự gia tăng lãi suất đột biến,
dấn đến sự bùng nổ của khủng hoảng.


7

Thứ hai, đó là mâu thuẫn giữa trình độ xã hội hóa cao của lực lượng
sản xuất với chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất chủ
yếu của xã hội:


Mâu thuẫn giữa tính tổ chức, tính kế hoạch trong từng xí nghiệp
rất chặt chẽ và khoa học với khuynh hướng tự phát vô chính phủ

trong xã hội.
• Mâu thuẫn giữa khuynh hướng tích lũy, mở rộng vô giới hạn của
tư bản với sức mua ngày càng eo hẹp của quần chúng do bị bần
cùng hóa.
• Mâu thuẫn đối kháng giữa giai cấp tư bản và giai cấp vô sản lao
và những người lao động làm thuê.
Mác đã mổ xẻ những nguyên nhân cốt lõi gây nên khủng hoảng kinh tế
và điều đó không chỉ chính xác với các cuộc khủng hoảng nửa cuối thế kỉ
XIX, nửa đầu thế kỉ XX mà còn có phần đúng đắn đối với cuộc khủng hoảng
kinh tế toàn cầu hiện nay.

3. Tính chu kì của khủng hoảng kinh tế.

Khủng hoảng kinh tế xuất hiện làm cho quá trình sản xuất tư bản của
chủ nghĩa tư bản mang tính chu kì. Chu kì kinh tế của chủ nghĩa tư bản là
khoảng thời gian nền kinh tế tư bản vận động từ đầu cuộc khủng hoảng
này đến đầu cuộc khủng hoảng sau. Một chu kì kinh tế kéo dài khoảng từ 8
đến 12 năm. Karl Mác chính là người đầu tiên phát hiện ra tính chu kì của
khủng hoảng kinh tế gồm có bốn giai đoạn theo thứ tự : Khủng hoảng, tiêu
điều, phục hồi và hưng thịnh.
Mác đã khẳng định rằng khủng hoảng kinh tế là điều không thể tránh
khỏi trong thế giới tư bản chủ nghĩa. Tuy nhiên, cần có sự can thiệp tích cực


8

của nhà nước tư sản vào quá trình kinh tế. Sự can thiệp này dù không triệt
tiêu được khủng hoảng và tính chu kì của nó trong nền kinh tế nhưng cũng
có thể hạn chế được những tác động xấu của khủng hoảng.
II.

Những biện pháp của Mác để chống khủng hoảng kinh tế.
Theo Mác, để chống khủng hoảng kinh tế và tác động xấu của tính chu

kì trong khủng hoảng, ta cần phải kéo dài thời gian phục hồi, hưng thịnh và
rút ngắn thời gian khủng hoảng, tiêu điều trong một chu kì kinh tế. Trong
luận thuyết đó, Mác đã đề ra những biện pháp chống khủng hoảng kinh tế
chủ yếu sau:


Hạn chế và cố gắng triệt tiêu những mâu thuẫn sẵn có và mâu thuẫn

mới phát sinh trong hệ thống tư bản chủ nghĩa. Việc giải quyết thỏa
đáng được các mâu thuẫn có thể giúp ngăn chặn khủng hoảng kinh
tế và giảm trừ được thiệt hại to lớn một khi khủng hoảng kinh tế xảy

ra.
• Khi xảy ra khủng hoảng, các nhà tư bản phải giảm chi phí sản xuất
bằng cách hạ thấp tiền công, tăng cường độ và thời gian lao động
của công nhân đồng thời đổi mới tư bản cố định (máy móc, thiết bị,..).
Từ đó làm tăng nhu cầu về tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng, tạo
điều kiện cho sự phục hồi chung của nền kinh tế.
• Nhà nước cần có tác động trong việc xây dựng một hệ thống ngân
hàng thống nhất, đảm bảo mức cung ứng tiền tệ ổn định trong nền
kinh tế, đảm bảo mức lãi suất chênh lệch trong các ngành có tỉ suất
lợi nhuận khác nhau.
• Giảm thuế và hạ lãi suất cho vay để kích cầu nền kinh tế từ đó giảm
được khó khăn về tài chính cho các doanh nghiệp và người lao động.
• Các nhà tư bản cần phải kết hợp quá trình đào tạo qua sự phát triển
của lực lượng sản xuất với khoa học kĩ thuật để đảm bảo cho cơ cấu


9

lao động ở mức hợp lí, phù hợp với điều kiện sản xuất của từng quốc
gia nhưng không bị chi phối bởi giới hạn thị trường.
• Cân bằng hợp lí giữa cung và cầu trên thị trường. Qua đó, thúc đẩy
nền kinh tế phát triển ổn định và tránh khỏi những biến động lớn.
• Các tập đoàn, công ti lớn phải được đặt dưới sự bảo trợ của nhà
nước, hay nói cách khác là quốc hữu hóa một phần nền kinh tế tư
nhân tư bản chủ nghĩa. Từ đó nâng cao sự hiệu quả trong tổ chức
quản lý và hạn chế được nhiều rủi ro trong hoạt động.

Các biện pháp chống khủng hoảng và suy giảm kinh tế của Mác là rất
thiết thực và mang tính vận dụng cao. Chúng có thể phát huy hiệu quả cao
nếu được áp dụng hợp lí trong từng điều kiện cụ thể. Những tư tưởng của
Mác mang cả tính thời đại lẫn tính tiên tri, điều đó tạo nên giá trị của học
thuyết của Mác.
III.

Vận dụng các biện pháp chống khủng hoảng của Mác vào
nền kinh tế hiện nay.

1. Tình hình kinh tế thế giới và Việt Nam hiện nay.
a. Tình hình chung nền kinh tế thế giới.

Từ năm 2000 đến nay, nền kinh tế đã trải qua nhiều thăng trầm và
biến động mạnh. Kinh tế toàn thế giới chịu nhiều tác động trực tiếp từ sự
tấn công của các cuộc suy thoái kinh tế, từ những biến động chính trị, từ
các cuộc khủng bố khốc liệt ở các nước phương tây, từ những cuộc chiến
tranh tiêu tốn hàng tỉ USD của Mĩ và các nước tư bản cùng hàng loạt thiên
tai khủng khiếp xảy ra trên toàn cầu. Những vấn đề bất ổn của kinh tế thế
giới đang ngày càng gia tăng, đặc biệt là tài chính, an ninh, lương thực. Tuy
nhiên sự điều chỉnh chính sách kinh tế của các nước ngày càng tích cực và
mạnh mẽ hơn.


10

Xét lại về thực trạng của kinh tế thế giới giai đoạn 2000-2010. Một
cách khái quát, kinh tế thế giới đã trải qua 3 thời kì rõ rệt:




Giai đoạn 1 (2000-2002): Kinh tế thế giới suy thoái nhẹ.
Giai đoạn 2 (2003-2007): 5 năm ổn định và tăng trưởng cao của

kinh tế thế giới.
 Giai đoạn 3 (2008-2010): giai đoạn khủng hoảng và suy thoái của
kinh tế thế giới.
Xu hướng phát triển của kinh tế thế giới trong thập niên đầu thế kỉ XXI
cho thấy, nền kinh tế thế giới đang vận động với tốc độ biến chuyển ngày
càng nhanh, các chu kỳ kinh tế đang được rút ngắn lại với khoảng cách
giữa tăng trưởng và suy thoái trở nên rất mong manh. Các quy luật kinh tế
chịu sự tác động đan xen của nhiều yếu tố, nhiều chủ thể trở nên phức tạp
và khó dự đoán hơn bao giờ hết. Quá trình truyền dẫn giữa các nền kinh tế
ngày càng được rút ngắn. Giai đoạn phục hồi sau cuộc khủng hoảng tài
chính 2008 – 2009 kéo dài hơn dự đoán. Nhiều yếu tố rủi ro còn tiềm ẩn
khiến nền kinh tế thế giới mặc dù tăng trưởng cao hơn mức kỳ vọng trong
năm 2010 nhưng dự báo tốc độ tăng trưởng sẽ chỉ phục hồi trở lại vào năm
2012.
b. Tình hình kinh tế Việt Nam cùng sự tác động của kinh tế thế giới.

Việt Nam là một quốc gia châu Á đang có tốc độ tăng trưởng kinh tế
nhanh, thu nhập bình quân đầu người tăng đáng kể, là nơi thu hút nhiều
vốn đầu tư nước ngoài FDI, kinh tế Việt Nam đang chuyển dịch mạnh mẽ,
các ngân hàng có tốc độ tăng trưởng tín dụng cao. Trong khi các nước phát
triển có xu hướng phát triển kinh tế chậm lại thì Việt Nam cùng các nước
mới nổi khác đang thể hiện vai trò là động lực tăng trưởng của nền kinh tế
thế giới.


11


Tuy nhiên, cùng với khủng hoảng kinh tế thế giới, kinh tế Việt Nam
cũng chịu tác động và suy thoái trong các năm 2008-2009. Thương nghiệp
của Việt Nam gặp nhiều rào cản do chính sách bảo hộ hàng hóa của các
nước. Các dòng vốn nước ngoài đổ vào Việt Nam suy giảm nhiều, nhất và
vốn đầu tư FDI. Thị trường bị thu hẹp cùng nhiều bất cập trong cơ cấu nội
tại đã khiến cho các doanh nghiệp, ngành nghề trong nước gặp nhiều khó
khăn. Lạm phát ở mức khá cao và thâm hụt ngân sách đang là những vấn
đề bất cập nhất . Chính phủ cần có những biện pháp cấp bách để giải quyết
khủng hoảng trước khí nền kinh tế Việt Nam rơi vào vòng xoáy mới.

2. Vận dụng biện pháp của Mác trong nền kinh tế thị trường nói
chung và nền kinh tế Việt Nam nói riêng.
Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới bắt nguồn từ ngành tài chính tín
dụng đã gây nhiều thiệt hại to lớn cho nền kinh tế. Tuy nhiên, trước xu thế
toàn cầu hóa như hiện nay, không chỉ có các nước tư bản phương Tây mới
chịu ảnh hảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế, nhiều nước như Việt Nam
cũng phải chịu tác động lớn từ cuộc khủng hoảng đối với nền kinh tế quốc
dân.
Nền kinh tế thị trường.

a.

Trước cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới lan rộng với quy mô lớn,
nhiều nước phương Tây đã sử dụng nhiều giải pháp để tháo gỡ khó khăn,
nhất là những biện pháp chống khủng hoảng kinh tế của Mác đang được
vận dụng một cách có hiệu quả trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ
nghĩa.
Chính phủ Mĩ đã phải ra tay nới lỏng chính sách tiền tệ hết cỡ với việc
hạ lãi suất cho vay qua đêm liên ngân hàng xuống còn 0-0,25%, tiếp đó là



12

việc triển khai nhiều gói kích thích tài khóa khổng lồ và ban hành nhiều đạo
luật khác nhau nhằm ổn định nền kinh tế.
Chính phủ các nước thành viên khu vực đồng tiền chung châu EURO
cũng đã họp lại và thống nhất bác bỏ cắt giảm thuế VAT của Ủy ban châu
ÂU và ủng hộ gói kích thích kinh tế trị giá 200 tỉ Euro để giúp các nước
Eurozone thoát khỏi suy thoái kinh tế.
Các nước châu Á-Thái Bình Dương cũng đã đưa ra các gói kích thích
kinh tế nhằm khuyến khích cho vay,xây dựng cơ sở hạ tầng, hỗ trợ các hộ
dân và tạo thêm nhiều việc làm.
Các biện pháp của các quốc gia trong việc chống khủng hoảng kinh tế
đã phát huy được tác dụng, trong đó có nhiều biện pháp được dưa trên tư
tưởng của học thuyết Mác. Tuy nhiên cần phải thực hiện một cách nhanh
nhạy và mạnh mẽ hơn nữa thì mới có thể đẩy lùi hiệu quả cuộc khủng
hoảng kinh tế.
b.

Nền kinh tế Việt Nam.
Trước diễn biến bất ổn của nền kinh tế, Chính phủ đã xác định nhiệm

vụ trọng tâm và cấp bách là “phải tập trung mọi nỗ lực để ngăn chặn suy
giảm kinh tế, thúc đẩy sản xuất – kinh doanh, đẩy mạnh xuất khẩu, kích cầu
đầu tư và tiêu dùng, bảo đảm an sinh xã hội.” Chính phủ đưa vào áp dụng
Luật thuế thu nhập cá nhân để hỗ trợ khó khăn cho một số đối tượng nộp
thuế. Bên cạnh đó, nhà nước cũng thực hiên chính sách miễn, giảm thuế và
đầu tư từ ngân sách nhà nước. Đặc biệt là việc thực hiện các gói kích thích
kinh tế qua đó tạo ra những lực đẩy giúp ngăn chặn suy giảm kinh tế, giải

quyết khó khăn cho khu vực doanh nghiệp( đổi mới công nghệ và hạ lãi


13

suất cho vay) và đảm bảo đời sống cho người dân (đảm bảo an sinh xã hội,
tạo việc làm, nâng cao thu nhập...).
Chính phủ cũng cần có sự nhất quán trong chính sách kích cầu, giảm
tỉ lệ lạm phát cùng thâm hụt ngân sách nhằm giữ vững lòng tin của nhân
dân. Việc tìm thị trường cho xuất khẩu cũng cần được chú trọng, đặc biệt là
nên hướng vào thị trường Việt Nam, người Việt Nam dùng hàng Việt Nam.
Các biện pháp trên đã cho thấy tác dụng rõ rệt và khả năng vận dụng
tư tưởng của Mác vào chống khủng hoảng và suy giảm kinh tế. Mặc dù còn
nhiều thách thức nhưng nền kinh tế Việt Nam đã vượt qua được giai đoạn
khủng hoảng và bắt đầu phục hồi. Qua đó, việc tổng kết về mặt lý luận và
thực tiễn từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu vừa qua là một việc làm
có ý nghĩa hết sức thiết thực để rút ra những bài học bổ ích cho Việt Nam.



×