Tải bản đầy đủ (.doc) (79 trang)

Kỹ năng giao tiếp của Kiểm sát viên khi tham gia phiên toà hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (360.74 KB, 79 trang )

1

Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Giao tiếp tiếp là một phương thức tồn tại xã hội của loài người. Con
người không thể sống, hoạt động và thể hiện các giá trị vật chất, tinh thần
của mình nếu không được giao tiếp, giao tiếp vừa là con đường để mỗi
người hoàn thiện nhân cách, vừa là điều kiện thiết yếu để con người hoạt
động.
Cho đến nay tuy đã có nhiều công trình nghiên cứu về giao tiếp
nhưng vẫn còn nhiều vấn đề lí luận về thực tiễn đang bỏ ngỏ như: Vấn đề
giao tiếp trong hoạt động nghề nghiệp, kỹ năng, kỹ xảo trong giao tiếp…
Hiện nay chúng ta đang xây dựng một Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa. Đó là Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Để đáp ứng yêu
cầu đổi mới nhất là đổi mới các cơ quan tư pháp, trong đó đổi mới Viện
kiểm sát nhân dân là vấn đề rất quan trọng, vì nó giữ vai trò đặc biệt trong
hệ thống các cơ quan tư pháp. Viện kiểm sát vừa thực hành quyền công
tố, vừa giám sát hoạt động của các cơ quan tư pháp khác để bảo vệ trật tự
xã hội, trật tự pháp luật.
Kiểm sát viên là người đại diện cho Viện kiểm sát, nhân danh Viện
kiểm sát để thực hành quyền công tố và giám sát hoạt động tư pháp. Để
hoàn thành trọng trách này, Kiểm sát viên phải giao tiếp với rất nhiều đối
tượng: Với những người tiến hành tố tụng khác, với những người tham
gia tố tụng và với những người tham dự phiên toà. Đây là quan hệ giao
tiếp rất phức tạp. Để đạt hiệu quả cao trong hoạt động nghề nghiệp của
mình, Kiểm sát viên phải có trình độ chuyên môn nghiệp vụ vững vàng,


2

có kiến thức sâu rộng về các lĩnh vực xã hội và phải có kỹ năng giao tiếp


tốt...
Xuất phát từ những lý do trên đây, chúng tôi lựa chọn nghiên cứu
đề tài: “Kỹ năng giao tiếp của Kiểm sát viên khi tham gia phiên toà
hình sự”.
2. Mục đích nghiên cứu
Làm rõ một số kỹ năng giao tiếp của Kiểm sát viên trong hoạt động
thực hành quyền công tố và giám sát việc xét xử tại phiên toà hình sự, chỉ
ra thực trạng của vấn đề, trên cơ sở đó đề xuất một số kiến nghị góp phần
nâng cao khả năng giao tiếp của Kiểm sát viên.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Hệ thống hoá một số vấn đề lý luận về kỹ năng giao tiếp của
Kiểm sát viên.
3.2. Khảo sát thực trạng một số kỹ năng giao tiếp của Kiểm sát
viên.
3.2. Đề xuất một số kiến nghị góp phần nâng cao khả năng
giao tiếp của Kiểm sát viên.
4. đối tượng và Khách thể nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Một số kỹ năng giao tiếp của Kiểm sát viên khi tham gia phiên toà
hình sự.
4.2. Khách thể nghiên cứu
Để tiến hành nghiên cứu đề tài, chúng tôi điều tra trên 46 khách thể
là các Kiểm sát viên. Trong đó có 25 Kiểm sát viên cấp huyện và 21


3

Kiểm sát viên cấp tỉnh và tối cao; 34 Kiểm sát viên và 12 Viện trưởng,
Viện phó viện kiểm sát.
5. Phạm vi nghiên cứu

Kỹ năng giao tiếp của con người là một vấn đề rất rộng lớn. Do đó,
chúng tôi chỉ nghiên cứu, tìm hiểu một số kỹ năng giao tiếp có ảnh hưởng
nhiều nhất đến hoạt động nghề nghiệp của Kiểm sát viên khi tham gia tại
phiên toà hình sự.
6. Phương pháp nghiên cứu (Được trình bày chi tiết ở chương 2)
Để thực hiện đề tài này chúng tôi sử dụng các phương pháp sau
đây:
- Phương pháp nghiên cứu văn bản, tài liệu;
- Phương pháp trắc nghiệm: Sử dụng trắc nghiệm giao tiếp V.D.
Zakharov;
- Phương pháp quan sát;
- Phương pháp thống kê toán học.

Chương 1
Cơ sở lí luận của vấn đề nghiên cứu
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Khái niệm kĩ năng
Cho đến nay, xung quanh khái niệm kỹ năng còn có nhiều
quan điểm khác nhau. Ngay từ thời cổ đại Aristote (384 – 322


4

TCN) đã xem kỹ năng như một yếu tố của phẩm hạnh con người
nó giúp người ta biết định hướng, biết làm việc và biết tìm tòi [6].
Các tác giả A.V.Petrovxki và V.A.Gruchetxki cho rằng, kỹ
năng là phương thức thực hiện hành động được con người nắm
vững dựa trên cơ sở của tri thức và những kỹ năng được hình thành
trước đó [18].
Theo tác giả N.D.Levitov thì kỹ năng cần gắn liền với kết quả

hành động, đòi hỏi cá nhân nắm vững và vận dụng một cách thích
hợp những tri thức để tạo ra hành động có hiệu quả [9].
Từ điển Tiếng Việt đưa ra định nghĩa: “Kỹ năng là khả năng
vận dụng những kiến thức thu nhận được trong một lĩnh vực nào
đó vào thực tế” [28].
Trong những năm gần đây khái niệm kỹ năng được mở rộng
nội hàm khi nó không chỉ dừng ở tiêu chí nhiệm vụ chính xác mà
còn bao hàm cả yếu tố thái độ, khả năng linh hoạt thậm chí cả yếu
tố động cơ của cá nhân trong thực hiện nhiệm vụ đó, đặc biệt với
kỹ năng nghề nghiệp. Điều này có thể thấy được trong bài viết “Sự
thay đổi ý nghĩa của kỹ năng và ứng dụng trong chính sách giáo dục và
đào tạo tại Anh quốc [33].
Trong Từ điển Tâm lý học, kỹ năng được hiểu là: “Năng lực
vận dụng có kết quả những tri thức về phương thức hành động đã
được chủ thể lĩnh hội để thực hiện những nhiệm vụ tương ứng. ở
mức độ kỹ năng công việc hoàn thành trong điều kiện hoàn cảnh
không thay đổi, chất lượng chưa cao, thao tác còn chưa thuần thục


5

và còn phải tập trung chú ý căng thẳng. Kỹ năng được hình thành
qua luyện tập” [4].
Dưới góc độ tâm lý học, kỹ năng được hiểu là khả năng của
con người thực hiện có kết quả một hành động nào đó bằng cách
lựa chọn và vận dụng những tri thức, những kinh nghiệm, kỹ năng,
kỹ xảo đã có để hành động phù hợp với mục tiêu, điều kiện thực tế.
Hay nói cách khác, một người được coi là có kỹ năng về hành động
nào đó thì phải có tri thức về hành động, thực hiện hành động theo
đúng yêu cầu, đạt được kết quả phù hợp với mục tiêu đề ra, và có

thể hành động có kết quả trong các tình huống tương tự khác. [27].
1.1.2. Khái niệm giao tiếp
Giao tiếp là một trong những hiện tượng tâm lý phức tạp.
Xung quanh khái niệm giao tiếp có rất nhiều quan điểm khác nhau,
bởi mỗi tác giả khi đưa ra khái niệm giao tiếp đã nhìn nhận, nghiên
cứu nó ở những góc độ khác nhau.
Qua nghiên cứu các công trình ở trong và ngoài nước về giao
tiếp cho thấy các nhà tâm lý học đã và đang tiếp cận bản chất của
hiện tượng giao tiếp theo 5 khuynh hướng chủ yếu sau:
1. Khuynh hướng thứ nhất: Xem xét thông qua việc xác định
những khía cạnh tâm lí khác nhau chứa đựng trong nội hàm khái
niệm giao tiếp.
2. Khuynh hướng thứ hai: Xác định giao tiếp qua lăng kính
các chuyên ngành khác nhau của tâm lý học.
3. Khuynh hướng thứ ba: Xem xét giao tiếp từ góc độ các
ngành ứng dụng của tâm lý học.


6

4. Khuynh hướng thứ tư: Xác định vị trí của giao tiếp trong
hệ thống các khái niệm, phạm trù của tâm lý học.
5. Khuynh hướng thứ năm: Hiểu bản chất giao tiếp qua sự
phân biệt giữa khái niệm giao tiếp với các khái niệm liên quan
khác như: Mối quan hệ xã hội, mối quan hệ thông tin, sự ứng xử
(hay xử sự)… [5].
Tuy nhiên ở phạm vi khoá luận này, chúng tôi chỉ đi sâu nghiên
cứu khái niệm giao tiếp theo khuynh hướng thứ nhất đó là xem xét
khái niệm giao tiếp thông qua việc xác định những khía cạnh tâm lý
khác nhau chứa đựng trong nội hàm khái niệm giao tiếp. Đó là:

a) Nhóm các tác giả chỉ nhấn mạnh một khía cạnh trong nội hàm
khái niệm
Các

tác

giả

E.E.Acquyt,

M.A.Acgain,

K.K.Platonov,

A.L.Kolominxki, G.Thines, J.P.Grueve… nhấn mạnh khía cạnh
thông tin. Chẳng hạn, tác giả G.Thines cho rằng, giao tiếp là sự
truyền đạt thông tin, trong đó trạng thái của hệ thống phát thông tin
ảnh hưởng tới trạng thái của hệ nhận tin [10, tr.7]. Các tác giả
E.E.Acquyt, M.A.Acgain cho rằng, giao tiếp là sự tác động sự truyền
và tiếp nhận thông báo, sự trao đổi thông tin của con người [23].
Tác giả L.O.Retnhicov nhấn mạnh khía cạnh tri giác trong giao
tiếp và cho rằng: “Giao tiếp là sự tri giác hiểu biết lẫn nhau”.
Tác giả I.Stecxon nhấn mạnh khía cạnh cảm xúc của sự giao
tiếp, ông xem giao tiếp là sự trao đổi ý nghĩ, tình cảm và cảm xúc
giữa con người với nhau [26, tr.21].


7

Các tác giả J.Chuccon (Mỹ), P.Oathanit, G.Bvanh, D.Giacson

(Pháp) nhấn mạnh khía cạnh hoạt động, hành vi của giao tiếp. Họ đã
coi giao tiếp là một tổ hợp nhiều hành vi khác nhau: Hành vi ngôn
ngữ, hành vi điệu bộ, hành vi cử chỉ [2, tr.11].
Tác giả Nguyễn Khắc Viện đã nhấn mạnh: “Giao tiếp phi ngôn
ngữ và coi giao tiếp là những biểu diễn thông qua cơ thể, như những
cử động, tư thế” [10, tr.10].
Tuy các tác giả nêu trên đã chính xác hoá được từng mặt trong
nội hàm của khái niệm giao tiếp nhưng giao tiếp là một hiện tượng
tâm lí phức tạp bao hàm cả 3 mặt: Nhận thức (thông tin), xúc cảm và
hoạt động. Nếu chỉ phân tích như các tác giả này thì mới chỉ dừng lại
ở việc mô tả bề ngoài, chưa nêu rõ được bản chất bên trong của quá
trình giao tiếp .
b) Nhóm các tác giả mở rộng khái niệm giao tiếp
Các tác giả B.V.Xocolov, L.V.Beva, J.Bremont, M.Bertrand,
R.Chakin và các nhà tập tính động vật học khác thì quá mở rộng khái
niệm giao tiếp, đến mức xem giao tiếp như là một hiện tượng tâm lý
có chung ở cả người và động vật.
Tác giả B.V.Xocolov cho rằng: “Giao tiếp là sự tác động giữa
những con người với nhau và giữa những động vật có tâm lí với
nhau. Nếu thu hẹp hơn thì có thể coi giao tiếp là mối quan hệ giữa
con người với những động vật có tâm lí giống nhau. Nếu thu hẹp hơn
nữa thì có thể coi giao tiếp là mối quan hệ giữa con người với những
động vật nuôi trong nhà” [20, tr.103] .


8

Hạn chế của nhóm này là đã đồng nhất giao tiếp của người và
động vật đánh mất bản chất xã hội của giao tiếp con người, không
thấy được sự khác nhau về chất giữa giao tiếp của người với sự thông

báo, truyền tín hiệu ở động vật.
c) Nhóm các tác giả đề cập tới nhiều khía cạnh khác nhau của
giao tiếp
Tác giả A.G.Spirkin cho rằng, giao tiếp là quá trình trao đổi
những ý nghĩa, tình cảm kiến thức, ý chí với mục đích người này
điều khiển người kia [22, tr.209]. đồng thời
Tác giả V.N. Papherov thì cho rằng, giao tiếp là sự tác động
qua lại của con người. Nội dung của nó là sự nhận thức qua lại và
trao đổi thông tin nhờ sự giúp đỡ của những phương tiện khác nhau,
của sự thông báo với mục đích xây dựng mối quan hệ qua lại có lợi
đối với quá trình hoạt động nói chung [17]. Và ông chia giao tiếp ra
làm bốn thời điểm: Tiếp xúc hoặc liên hệ, tác động lẫn nhau, nhận
thức và quan hệ lẫn nhau.
Gần đây, tác giả G.M.Andreva đã cho rằng, giao tiếp bao gồm
ba mặt có quan hệ hữu cơ với nhau: Sự thông tin qua lại, sự tác động
qua lại và sự tự giác giữa con người với nhau [1, tr.137].
ở Việt Nam, các nhà tâm lý học cũng có một số quan điểm
khác nhau về khái niệm giao tiếp. Chẳng hạn:
Tác giả Nguyễn Ngọc Bích cho rằng, giao tiếp là sự tiếp xúc
giữa hai hay nhiều người thông qua phương tiện ngôn ngữ nhằm trao
đổi thông tin, tình cảm, hiểu biết, tác động qua lại và điều chỉnh lẫn
nhau [8, tr.53].


9

Tác giả Trần Tuấn Lộ thì cho rằng, giao tiếp là một loại nhu
cầu và là một loại hoạt động của mỗi người nhằm tiếp xúc, đối tác và
giao lưu với người khác, để trao đổi sức lực, thông tin, kinh nghiệm,
trí tuệ, tình cảm và thể xác với người khác [12, tr.8].

Còn theo tác giả Nguyễn Quang uẩn thì giao tiếp là sự tiếp xúc
tâm lý giữa người với người, thông qua đó con người trao đổi với
nhau về thông tin, về cảm xúc, tri giác lẫn nhau, ảnh hưởng tác động
qua lại với nhau. Hay nói khác đi giao tiếp xác lập và vận hành các
quan hệ người – người, hiện thực hoá các quan hệ xã hội giữa chủ
thể này với chủ thể khác [24, tr.48]
Như vậy, khác với xu hướng chỉ nhấn mạnh một khía cạnh nhất
định của giao tiếp, nhóm các tác giả này đã thực sự đi sâu vào nghiên
cứu bản chất giao tiếp và đã chỉ ra được nhiều khía cạnh khác nhau
chứa đựng trong nội hàm khái niệm. Điều này giúp các nhà nghiên
cứu có điều kiện đi vào nghiên cứu hiện tượng giao tiếp một cách sâu
sắc và toàn diện hơn.
Giao tiếp thường tham gia vào hoạt động thực tiễn của con
người (lao động, học tập, trò chơi tập thể…) bảo đảm việc định
hướng cho sự tác động, tham gia vào quá trình thực hiện và kiểm tra
hoạt động của con người. Giao tiếp là nhu cầu của con người muốn
tiếp xúc với con người.
Tiếp xúc tâm lí giữa con người – con người mang lại sự thông
cảm lẫn nhau, hiểu biết lẫn nhau, giúp đỡ lẫn nhau, thậm chí cứu vớt
lẫn nhau để từng con người, từng nhóm người và cộng đồng người
tồn tại và phát triển. Cơ sở của sự tiếp xúc tâm lí đó là sự hiểu biết


10

lẫn nhau và thông cảm lẫn nhau, nảy sinh và phát triển hội tụ ở đỉnh
cao của sự tiếp xúc tâm lí và sự đồng nhất.
Đồng cảm là khả năng nhạy cảm đối với trải nghiệm của người
thân, là sự đồng nhất của nhân cách này với nhân cách khác và người
này thâm nhập vào tình cảm của người kia, đã là trạng thái tâm lí mà

người này có thể đặt mình vào vị trí người kia.
Từ các quan điểm nêu trên có thể thấy giao tiếp có những dấu
hiệu cơ bản như sau:
- Giao tiếp là một hiện tượng đặc thù của con người, nghĩa là
chỉ riêng con người mới có giao tiếp thật sự khi sử dụng phương tiện
ngôn ngữ và phi ngôn ngữ, đồng thời được thực hiện chỉ trong xã
hội loài người.
- Giao tiếp được thể hiện ở sự trao đổi thông tin, sự hiểu biết
lẫn nhau, sự rung cảm và ảnh hưởng lẫn nhau.
- Giao tiếp dựa trên cơ sở hiểu biết lẫn nhau giữa con người với
con người.
Khái niệm về giao tiếp mà chúng tôi thấy phù hợp nhất để làm
căn cứ nghiên cứu đó là: Khái niệm giao tiếp được đưa ra trong tác
phẩm “Giao tiếp sư phạm” – Nxb Giáo dục 1998 của các tác giả Ngô
Công Hoàn, Hoàng Anh: “Giao tiếp là hình thức đặc trưng cho mối
quan hệ giữa con người với con người mà qua đó nảy sinh sự giao
tiếp tâm lí và được biểu hiện ở các quá trình thông tin, hiểu biết,
rung cảm, ảnh hưởng và tác động qua lại lẫn nhau” [7].


11

1.1.3. Khái niệm kỹ năng giao tiếp
Hiện nay qua nghiên cứu các tài liệu chúng tôi thấy rằng các
tác giả khi nghiên cứu về kỹ năng giao tiếp thường quan tâm tới bản
chất, đặc điểm của giao tiếp, các kỹ năng, kỹ xảo giao tiếp cụ thể,
hiệu quả và những yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả của quá trình giao
tiếp… mà đưa ra một định nghĩa về kỹ năng giao tiếp làm cơ sở
nghiên cứu.
Trong phạm vi khoá luận này chúng tôi sử dụng định nghĩa kỹ

năng giao tiếp do tác giả Ngô Công Hoàn đã đưa ra, làm khái niệm
công cụ để nghiên cứu đề tài này. Theo tác giả thì kỹ năng giao tiếp
là hệ thống những thao tác, cử chỉ, điệu bộ hành vi (kể cả hành vi
ngôn ngữ) phối hợp hài hoà hợp lí của con người, nhằm đảm bảo
cho sự tiếp xúc với đối tượng giao tiếp đạt kết quả cao nhất, với sự
tiêu hao năng lượng tinh thần và cơ bắp ít nhất, trong những điều
kiện thay đổi [7].
1.1.4. Khái niệm Kiểm sát viên
Theo Điều 1 Pháp lệnh Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân
năm 2002 thì Kiểm sát viên là người được bổ nhiệm theo quy định
của pháp luật để làm nhiệm vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát
các hoạt động tư pháp.
Kiểm sát viên phải là công dân Việt Nam, trung thành với Tổ
quốc và Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có
phẩm chất đạo đức tốt, liêm khiết và trung thực, có trình độ cử nhân
luật, đã được đào tạo về nghiệp vụ kiểm sát có tinh thần kiên quyết
bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa có thời gian làm công tác thực tiễn


12

theo quy định của pháp luật, có sức khoẻ bảo đảm hoàn thành nhiệm
vụ được giao, và phải được tuyển chọn và bổ nhiệm làm kiểm sát
viên [30].
1.1.5. Khái niệm kỹ năng giao tiếp của Kiểm sát viên
Giao tiếp của Kiểm sát viên trong phiên toà phải tuân theo quy
định của pháp luật thông qua giao tiếp ngôn ngữ và các phương tiện
biểu cảm khác như nét mặt, cử chỉ, ánh mắt… nhằm làm sáng tỏ sự
thật khách quan của vụ án. Để hoạt động này đạt được hiệu quả,
Kiểm sát viên ngoài việc nắm vững chuyên môn nghiệp vụ, có đạo

đức nghề nghiệp, có kiến thức sâu rộng về các lĩnh vực xã hội… thì
họ còn cần phải có kỹ năng giao tiếp và sử dụng kỹ năng đó một cách
thuần thục.
Từ khái niệm về kỹ năng giao tiếp đã nêu ra ở phần trên chúng
tôi tạm thời xây dựng khái niệm kỹ năng giao tiếp của Kiểm sát viên
như sau:
Kỹ năng giao tiếp của Kiểm sát viên là hệ thống những thao
tác, cử chỉ, điệu bộ, hành vi (kể cả hành vi ngôn ngữ) phối hợp hài
hoà hợp lí của Kiểm sát viên, nhằm đảm bảo cho sự tiếp xúc với
những người tiến hành tố tụng khác và những người tham gia tố
tụng để đạt được mục đích đề ra.


13

1.2. Đặc thù nghề nghiệp của Kiểm sát viên
1.2.1. Lao động của Kiểm sát viên là lao động trí não, đầy khó
khăn, phức tạp đặt dưới sự giám sát nghiêm ngặt của xã hội, của
công dân
Lao động của Kiểm sát viên là lao động đặc thù. Đối với một
vụ án hình sự, Kiểm sát viên có nhiệm vụ xem xét các tình tiết của
vụ án, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, vấn đề định khung hình phạt…
và áp dụng với từng bị cáo. Tuy nhiên, sự áp dụng ở đây không phải
là cứng nhắc mà là một quá trình tư duy căng thẳng và phải huy động
tổng thể của những hiểu biết không chỉ về pháp luật mà còn về các
lĩnh vực xã hội. Trên cơ sở quy định của pháp luật, Kiểm sát viên
còn có nhiệm vụ kiểm sát việc thực hiện pháp luật trong hoạt động tố
tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Như
vậy, Kiểm sát viên phải theo sát quá trình giải quyết vụ án từ khi có
quyết định khởi tố vụ án.

Hoạt động (lao động) của Kiểm sát viên phải chịu những áp
lực, không chỉ từ phía những người phạm tội, mà còn từ phía xã hội,
công luận. Nguyên tắc Toà án xét xử công khai đã tạo điều kiện cho
nhân dân tham dự phiên toà, giám sát hoạt động của những người
tiến hành tố tụng nói chung và hoạt động của Kiểm sát viên nói
riêng. Nếu việc làm của Kiểm sát viên là đúng đắn thì được xã hội,
công luận ủng hộ, nhưng nếu là việc làm sai trái sẽ bị công luận phê
phán. Điều này ảnh hưởng to lớn đến nền công lí quốc gia, uy tín của
Viện kiểm sát.


14

1.2.2. Hoạt động của Kiểm sát viên là hoạt động mang tính quyền lực
Nhà nước
Nói đến chức năng của Nhà nước là đề cập đến phương diện
hoạt động chủ yếu của bộ máy Nhà nước mà mỗi cơ quan Nhà nước
đều phải tham gia thực hiện ở những mức độ khác nhau. Còn chức
năng của các cơ quan Nhà nước là những phương diện hoạt động chủ
yếu của các cơ quan đó nhằm góp phần thực hiện chức năng chung
của Nhà nước. Đối với Viện kiểm sát có nhiều hoạt động khác nhau,
nhưng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp là
chức năng chính, chủ yếu của Viện kiểm sát.
Điều 137 Hiến pháp 1992 và Điều 1 Luật Tổ chức Viện kiểm
sát nhân dân năm 2002, đã quy định: “Viện kiểm sát nhân dân tối cao
thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, góp
phần bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống
nhất. Các Viện kiểm sát nhân dân địa phương, các Viện kiểm sát
quân sự thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp
trong phạm vi trách nhiệm do luật định” [29], [31].

Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp là
hoạt động thực hiện quyền lực Nhà nước, thể hiện ý chí của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động nói chung.
1.2.3. Hoạt động của Kiểm sát viên tại phiên toà phải tuân theo
một trật tự pháp lí chặt chẽ được qui định trong pháp luật tố
tụng


15

Kiểm sát viên tại phiên toà phải tuân theo một trình tự pháp lí
chặt chẽ được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm
2003.
Hoạt động xét xử có tính tổ chức rất chặt chẽ. Khi xét xử một
vụ việc cụ thể, Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên, thư ký toà án và
những người tham gia tố tụng phải tuân theo một trình tự thủ tục do
pháp luật quy định, không được tuỳ tiện bỏ qua bất cứ giai đoạn nào:
Đầu tiên là giai đoạn bắt đầu phiên toà, xét hỏi tại phiên toà, tranh
luận tại phiên toà cuối cùng là nghị án và tuyên án. Không chỉ có
toàn bộ quá trình xét xử mà mỗi giai đoạn trong quá trình xét xử
cũng phải diễn ra tuần tự theo các bước mà luật tố tụng hình sự quy
định. Ví dụ: Trong giai đoạn xét hỏi, đối với từng đối tượng thì Chủ
toạ phiên toà hỏi trước rồi đến các Hội thẩm, sau đó đến Kiểm sát
viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự. Quy
định như vậy nhằm tránh sự tuỳ tiện, lạm quyền của cơ quan tiến
hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng bảo đảm quyền, lợi
ích hợp pháp của công dân, tổ chức.
Tại phiên toà Kiểm sát viên phải tuân theo sự điều hành của
Thẩm phán chủ toạ phiên toà, không được xử sự và phát ngôn tuỳ
hứng.

Tham gia phiên toà hình sự, Kiểm sát viên đại diện cho Viện
kiểm sát đọc bản cáo trạng truy tố bị cáo trước toà. Cáo trạng là một
bản luận tội bị cáo với đầy đủ chứng cứ và căn cứ pháp luật. Trên
cơ sở bản cáo trạng hội đồng xét xử sẽ xem xét lại các chứng cứ một
cách công khai và ra bản án đối với bị cáo.Bản cáo trạng không phải


16

là quyết định cuối cùng giải quyết vụ án nhưng nếu không nêu đầy
đủ, chi tiết các chứng cứ đã được xác minh liên quan đến vụ án, truy
tố không đúng người, đúng tội, hoặc truy tố không hết các đối tượng
liên quan đến vụ án sẽ dẫn đến những hậu quả rất phức tạp, không
những công lí không được thực hiện mà còn ảnh hưởng đến uy tín
danh dự của những người bị truy tố oan. Do đó, Kiểm sát viên phải
nghiên cứu kỹ càng, tỉ mỉ hồ sơ vụ án, luật nội dung có liên quan để
ra bản cáo trạng hoặc ra quyết định đúng đắn, hợp tình, hợp lí.
1.3. đặc điểm Giao tiếp của Kiểm sát viên tại phiên toà hình sự
Kiểm sát viên khi thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử
các vụ án hình sự sẽ tham gia phiên toà với tư cách là đại diện của cơ
quan Nhà nước. Vì thế quan hệ giao tiếp của Kiểm sát viên tại phiên
toà hình sự là quan hệ giao tiếp chính thức chịu sự điều chỉnh của
pháp luật. Tại phiên toà hình sự, Kiểm sát viên phải giao tiếp với rất
nhiều đối tượng, với từng nhóm đối tượng Kiểm sát viên lại có vị thế
và mục đích khác nhau.
Trước hết, đối với nhóm đối tượng là người tiến hành tố tụng
bao gồm: Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân thì một mặt, Kiểm sát viên
phải đáp ứng những yêu cầu hợp pháp và chịu sự điều khiển của
Thẩm phán Chủ toạ phiên toà, nhưng mặt khác họ lại thực hiện chức
năng kiểm sát việc xét xử. Tuy nhiên, Thẩm phán Chủ toạ phiên toà

luôn giữ vai trò chủ động điều khiển phiên xét xử.
Đối với nhóm đối tượng là người tham gia tố tụng bao gồm: Bị
cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người làm chứng, người bào chữa,


17

người bảo vệ quyền lợi cho đương sự, người giám định, người phiên
dịch thì vị thế của họ với Kiểm sát viên là ngang bằng nhau, hai bên
phải tôn trọng quyền và nghĩa vụ của nhau, không bên nào được
phép sử dụng thủ đoạn ép buộc bên kia hành động theo ý mình. Tuy
nhiên, trong giao tiếp với những đối tượng này (trừ người bào chữa,
người bảo vệ quyền lợi của đương sự) Kiểm sát viên giữ vai trò chủ
động, phối hợp điều chỉnh các tác động, có quyền tổ chức và điều
chỉnh cuộc tiếp xúc để nhằm làm sáng tỏ sự thật của vụ án.
Từ những phân tích trên, chúng tôi cho rằng, giao tiếp của
Kiểm sát viên khi tham gia phiên toà hình sự khác với các loại giao
tiếp khác bởi một số đặc điểm đặc thù sau đây:
- Về mặt pháp lý, nội dung giao tiếp phải tuân thủ các quy định
của Bộ luật tố tụng hình sự. Phương pháp giao tiếp phải kết hợp tác
động xã hội với tác động bằng pháp luật.
- Về chủ thể, trong giao tiếp Kiểm sát viên phải có khả năng
thuyết phục, chủ động, sáng tạo, có thái độ khách quan, tính quyết
đoán, tính độc lập.
- Về mục đích, giao tiếp để xác minh, kiểm tra tính đúng đắn,
khách quan của các chứng cứ trong vụ án.
- Về mặt khoa học, nội dung giao tiếp được xây dựng trên cơ sở
của nhiều ngành khoa học, đặc biệt là khoa học giao tiếp, khoa học
pháp lý, khoa học nghiệp vụ kiểm sát và ngôn ngữ học…

1.4. Nội dung kỹ năng giao tiếp của kiểm sát viên
Kỹ năng giao tiếp của Kiểm sát viên tại phiên toà hình sự bao
gồm 3 nhóm kỹ năng: Kỹ năng định hướng giao tiếp (hiểu rõ đối


18

tượng để vạch kế hoạch chuẩn bị giao tiếp); Kỹ năng định vị (đặt
mình vào tâm lí, hoàn cảnh cụ thể của đối tượng giao tiếp để tạo ra
sự đồng cảm); Kỹ năng điều khiển quá trình giao tiếp (luôn giữ được
sự bình tĩnh, tự chủ, sử dụng ngôn ngữ và phi ngôn ngữ để tác động
đến đối tượng giao tiếp).
1.4.1. Kỹ năng định hướng giao tiếp
Đây là một trong những kỹ năng quan trọng của Kiểm sát viên
trong hoạt động xét hỏi và tranh luận tại phiên toà. Nó bao gồm kỹ
năng định hướng trước khi giao tiếp và kỹ năng định hướng trong quá
trình giao tiếp với các đối tượng giao tiếp.
Kỹ năng định hướng trước khi giao tiếp thể hiện khi Kiểm sát
viên được phân công thực hành quyền công tố và kiểm sát việc xét xử
với một vụ án hình sự cụ thể, đã nghiên cứu kỹ những tài liệu, chứng
cứ đã thu thập được từ giai đoạn khởi tố vụ án. Trên cơ sở đó, Kiểm
sát viên định hướng được những vấn đề cần làm sáng tỏ trong quá
trình xét hỏi và tranh luận tại phiên toà, những tài liệu, chứng cứ đã
thu thập được, những câu hỏi được đưa ra để đối tượng trả lời, dự kiến
chiến thuật lấy lời khai của bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị
đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người
làm chứng, người giám định. Kỹ năng định hướng trước khi tiếp xúc
với các đương sự còn thể hiện khi Kiểm sát viên nghiên cứu những
đặc điểm cá nhân của những đối tượng nói trên như: Giới tính, tuổi,
trình độ học vấn, nghề nghiệp, sự hiểu biết, tính cách, khí chất, trạng

thái tâm lí của họ… Trên cơ sở đó, Kiểm sát viên cần dự đoán xem
những đối tượng giao tiếp đó (đặc biệt là bị cáo) sẽ có những phản


19

ứng như thế nào với nội dung sẽ được đưa ra khi tiếp xúc với họ. Điều
này, giúp cho Kiểm sát viên chủ động, linh hoạt, sáng tạo, lựa chọn và
áp dụng các phương pháp lấy lời khai của những đối tượng đó sao cho
phù hợp, tránh những tình huống bất ngờ bị động, lúng túng trước
những phản ứng tiêu cực của họ. Sau khi đã dự kiến được các phản
ứng có thể xảy ra, Kiểm sát viên cần phải dự kiến cách mở đầu, diễn
biến và kết thúc giao tiếp với họ.
Kỹ năng định hướng trong quá trình giao tiếp với đối tượng giao
tiếp thể hiện khi tiếp xúc với họ, Kiểm sát viên phải quan sát nét mặt,
cử chỉ, hành vi, lời nói của họ để nhanh chóng nắm bắt và phán đoán
được trạng thái tâm lí, suy nghĩ, tình cảm của họ. Ví dụ: Nếu quan sát
thấy họ nhoài người về phía Kiểm sát viên chứng tỏ họ đang ở trong
trạng thái tâm lí tích cực, họ đồng ý với Kiểm sát viên hoặc ít nhất là
họ đang quan tâm đến những gì Kiểm sát viên đang nói. Ngược lại,
nếu họ khoanh tay cho thấy họ đang bảo vệ chính họ và có thể không
tin vào những điều Kiểm sát viên đang nói. Trên cơ sở định hướng
đúng được đối tượng qua quá trình giao tiếp, Kiểm sát viên cũng có
thể điều chỉnh hành vi giao tiếp của bản thân thông qua nét mặt, cử
chỉ, lời nói, hành vi. Ví dụ: Nếu họ đang phân vân chưa muốn thổ lộ,
Kiểm sát viên đoán được suy nghĩ đó có thể thể hiện sự khuyến khích,
đồng tình thông qua những biểu hiện bên ngoài để đương sự đặt niềm
tin vào Kiểm sát viên, từ đó họ mạnh dạn trình bày những suy nghĩ
của mình một cách trung thực, cung cấp các tài liệu có ý nghĩa quan
trọng cho việc giải quyết vụ án.



20

1.4.2. Kỹ năng định vị khi giao tiếp
Đây là khả năng của Kiểm sát viên biết xác định vị trí trong giao
tiếp, biết đặt vị trí của mình vào vị trí của những người tiến hành tố
tụng khác và những người tham gia tố tụng để tạo mối quan hệ bình
đẳng và sự đồng cảm, giúp họ có điều kiện tích cực, chủ động khi giao
tiếp với mình. Ví dụ: Khi hỏi bị cáo là người chưa thành niên, đây là
lứa tuổi hết sức nhạy cảm vì thế Kiểm sát viên phải tìm hiểu đặc điểm
tâm lí của trẻ chưa thành niên, phải có thái độ tôn trọng tình cảm và
suy nghĩ của bị cáo, phải hiểu được sự mặc cảm của trẻ khi thực hiện
hành vi sai trái và bị lên án.
Kiểm sát viên cần phải chú ý phát hiện và xoá bỏ các chướng
ngại tâm lí ảnh hưởng tới quá trình xây dựng mối quan hệ tích cực của
đối tượng giao tiếp với mình như thái độ thách thức, tâm thế cảnh giác
đề phòng, đối phó. Cùng với việc khắc phục các chướng ngại tâm lí và
tạo điều kiện để các đối tượng bộc lộ đầy đủ các phẩm chất tâm lí, các
khả năng cũng như các đặc điểm khác nhau trong nhân cách của họ,
Kiểm sát viên phải tìm hiểu những vướng mắc trong nhận thức và tư
tưởng của họ, giúp họ giải quyết kịp thời những vướng mắc đó. Như
ví dụ nêu trên: Kiểm sát viên phải giải thích cho bị cáo (là người chưa
thành niên) hiểu được hành vi của mình là sai trái, đồng thời giải thích
về sự khoan hồng của pháp luật nếu bị cáo thành thật khai báo. Mặt
khác, chính Kiểm sát viên cũng phải đẩy lùi chương ngại tâm lí của
mình với đối tượng giao tiếp như tâm thế định kiến, áp đặt, hoặc xúc
phạm danh dự nhân phẩm của họ mà luôn phải thể hiện thái độ chân



21

tình, có tình, có lí, dùng lời lẽ đúng mực để khơi dậy các động cơ thôi
thúc sự tích cực chủ động cung cấp các tình tiết của vụ án ở họ.
1.4.3. Kỹ năng điều khiển quá trình giao tiếp
Kỹ năng này thể hiện ở chỗ Kiểm sát viên biết lôi cuốn đối
tượng giao tiếp tham gia tích cực vào giao tiếp, biết duy trì giao tiếp
theo đúng hướng để đạt mục đích, nhiệm vụ đặt ra, biết làm chủ trạng
thái cảm xúc của mình, biết sử dụng phương tiện giao tiếp.
Kỹ năng làm chủ trạng thái cảm xúc của bản thân thể hiện ở chỗ
biết tự chủ hành vi, biết kiềm chế xúc cảm và tình cảm của mình khi
cần thiết, biết hướng phản ứng, hành vi của mình theo mục đích, nội
dung nhiệm vụ giao tiếp. Để khích lệ, động viên, thuyết phục đối
tượng theo mục đích của cuộc giao tiếp thì Kiểm sát viên phải hiểu
được những đặc điểm tâm sinh lí, hoàn cảnh sống, nhu cầu hứng
thú… của họ.
Khi tiếp xúc với những đối tượng giao tiếp, Kiểm sát viên tránh
các biểu hiện thái quá như nóng nảy, cục cằn, có lời lẽ nhạo báng, nạt
nộ, hay khuyên nhủ không cần thiết mà phải có tác phong đàng hoàng,
có thái độ đúng mực, tỉ mỉ, chu đáo, nhã nhặn, bình tĩnh trong mọi
hoàn cảnh, phải biết biểu lộ thái độ chú ý lắng nghe.
Kỹ năng điều khiển quá trình giao tiếp của Kiểm sát viên còn
thể hiện qua kỹ năng sử dụng phương tiện giao tiếp bằng ngôn ngữ và
phi ngôn ngữ, đó là:
- Kỹ năng nói: Để việc nói được thực hiện có hiệu quả, Kiểm sát
viên cần chú ý tốc độ, nhịp độ nói, cách nhấn giọng. Nếu nói nhanh


22


quá sẽ làm người nghe khó theo dõi, còn nói chậm quá dễ làm cho
người nghe buồn chán, nói chậm vừa đủ nghe nhưng nhịp nói cần phải
liên tục, lúc trầm, lúc bổng và có điểm nhấn mạnh thì mới hấp dẫn
người nghe. Khi nói Kiểm sát viên có thể sử dụng các động tác (cử chỉ
bằng đầu, tay) một cách hợp lí để làm cho vấn đề đang nói trở nên
sinh động, hấp dẫn, lôi cuốn hơn. Khi nói vấn đề nào đó cần biết giới
hạn nó trong những điểm chính. Nên sử dụng những thuật ngữ thông
dụng khi nói, không nên sử dụng những thuật ngữ quá chuyên môn.
Khi nói phải chú ý đến những cử chỉ, điệu bộ của đối tượng giao tiếp
vì nó cho ta biết được rất nhiều thông tin có liên quan đến phần trình
bày của mình.
- Kỹ năng nghe: Trong vụ án hình sự, Kiểm sát viên thu thập
thông tin từ nhiều đối tượng khác nhau: Bị cáo, người bị hại, người
làm chứng. Những thông tin này có thể mâu thuẫn nhau, vì vậy Kiểm
sát viên cần phải chú ý lắng nghe để thu được những thông tin có giá
trị. Tuy nhiên, trong thực tế, không phải lúc nào Kiểm sát viên cũng
có thể làm được điều này vì khi nghe họ dễ rơi vào trạng thái xao
nhãng, khó tập trung tư tưởng, không gắn kết được các thông tin mà
họ đã nghe được.
Để lắng nghe có hiệu quả, Kiểm sát viên phải đạt đến mức độ
nghe chăm chú và đặc biệt nghe thấu cảm. Muốn làm được điều đó,
Kiểm sát viên cần chú ý rèn luyện một số thủ thuật sau để khuyến
khích đối tượng giao tiếp trút bầu tâm sự :


23

+ Tỏ ra am hiểu vấn đề, hiểu và thông cảm với đối tượng giao
tiếp (ánh mắt, nét mặt, nụ cười, gật đầu…)
+ Chú ý lắng nghe và phản hồi một cách thích hợp bằng lời và

cả điệu bộ, cử chỉ.
+ Giữ sự im lặng đầy vẻ quan tâm để thể hiện rằng Kiểm sát
viên luôn chờ nghe tiếp vấn đề mà đối tượng giao tiếp đang trình bày,
do vậy họ phải lấp đầy khoảng trống bằng những lời giải thích, bổ
sung.
- Kỹ năng đặt câu hỏi: Thông tin là yếu tố vô cùng quan trọng
trong việc làm sáng tỏ sự thật của vụ án nhưng nó không tự đến với
Kiểm sát viên. Muốn có thông tin Kiểm sát viên phải biết đặt câu hỏi
cho đối tượng giao tiếp để khai thác thông tin từ phía họ. Tuỳ từng
tình huống giao tiếp và đối tượng giao tiếp mà Kiểm sát viên phải lựa
chọn những câu hỏi cho phù hợp
Như vây để có kỹ năng giao tiếp tốt Kiểm sát viên phải rèn
luyện thường xuyên, liên tục, phải biết kết hợp nhuần nhuyễn ba kỹ
năng: kỹ năng định hướng, kỹ năng định vị, kỹ năng điều khiển quá
trình giao tiếp.

CHƯƠNG 2
PHƯƠNG PHáP Và Tổ CHứC NGHIÊN CứU
2.1. KHáCH THể NGHIÊN CứU


24

Khách thể nghiên cứu là các Kiểm sát viên đương nhiệm tại
một số Viện Kiểm sát nhân dân.
Số phiếu điều tra được phát ra là 50 phiếu, sau khi kiểm tra mức độ
hoàn thành thông tin thì có 4 phiếu không đủ thông tin cần thiết nên đã
loại bỏ không đưa vào phân tích số liệu để đảm bảo tính chính xác của
thông tin. Do đó, số phiếu được sử dụng để xử lý và phân tích số liệu là
46 phiếu. Tức mẫu nghiên cứu gồm 46 khách thể. Sự phân bố khách thể

nghiên cứu là các Kiểm sát viên đang công tác tại các Viện Kiểm sát nhân
dân trong khảo sát thực tiễn được trình bày tóm tắt ở bảng 2.1
Bảng 2.1: Một số đặc điểm của khách thể nghiên cứu
Cỏc tiờu chớ
Tuổi

Thõm niờn
cụng tỏc

Từ 30 đến 45 tuổi

Số
lượng
21

Từ 45 đến 50 tuổi trở lờn

25

Từ 5 đến 10 năm

19

Từ 11 đến 20 năm
Từ 21 năm đến 30 năm trở
lờn
Từ 5 đến 10 năm

2
25


Thõm niờn
cụng tỏc kiểm
Từ 11 đến 20 năm
sỏt
Từ 21 năm đến 30 năm trở
lờn
Nam
Giới
Nữ

20
2
24
29
17

Tỷ lệ
%
45,7
%
54,3
%
41,3
%
4,3%
54,4
%
43,5
%

4,3%
52,2
%
63%
37%


25

Khu vực

Chức vụ

Viện Kiểm sỏt huyện

25

Viện Kiểm sỏt tỉnh, tối cao

21

Kiểm sỏt viờn

34

Viện trưởng, Viện phú

12

54,3

%
45,7
%
73,9
%
26,1
%

2.2. PHƯƠNG PHáP NGHIÊN CứU
2.2.1. Phương pháp nghiên cứu văn bản, tài liệu
Để nghiên cứu đề tài, chúng tôi sử dụng phương pháp này để
hệ thống hoá một số vấn đề lý luận cơ bản có liên quan đến vấn đề
kỹ năng giao tiếp của Kiểm sát viên. Cũng như xây dựng khung lý
thuyết cho vấn đề nghiên cứu, từ đó xác lập quan điểm chỉ đạo trong
việc nghiên cứu vấn đề kỹ năng giao tiếp của Kiểm sát viên trên
thực tiễn.
Phương pháp này bao gồm các giai đoạn như phân tích, tổng
hợp, so sánh, hệ thống hoá và khái quát các nghiên cứu lý luận, các
nghiên cứu thực tiễn của các tác giả trong và ngoài nước trên cơ sở
những công trình đã được đăng tải trên các sách báo, tạp chí về các
vấn đề liên quan đến kỹ năng giao tiếp của Kiểm sát viên.
2.2.2. Phương pháp trắc nghiệm
Đây là một trong những phương pháp chính để thu thập phần
lớn thông tin cho các nội dung nghiên cứu.
Để lý giải các kỹ năng giao tiếp nghề nghiệp của Kiểm sát
viên, chúng tôi sử dụng trắc nghiệm giao tiếp của V.P.Zakharov
[16].



×