Tải bản đầy đủ (.docx) (96 trang)

Nghiên cứu hiệu quả hoạt động thanh tra thuế đối với việc nâng cao tính tuân thủ của người nộp thuế tại cục thuế thừa thiên huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (413.29 KB, 96 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ

HUỲNH THỊ HƯƠNG THANH

NGHIÊN CỨU HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG THANH TRA
THUẾ ĐỐI VỚI VIỆC NÂNG CAO TÍNH TUÂN THỦ CỦA
NGƯỜI NỘP THUẾ TẠI CỤC THUẾ THỪA THIÊN HUẾ

CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ KINH TẾ
MÃ SỐ: 60 34 04 10

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC KINH TẾ
(BÁO CÁO TIẾN ĐỘ)
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. PHAN KHOA CƯƠNG

HUẾ - 2016


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

NNT

Người nộp Thuế

CQT

Cơ quan thuế

GTGT



Giá trị gia tăng

TNDN

Thu nhập doanh nghiệp

TNCN

Thu nhập cá nhân

NSNN

Ngân sách nhà nước

TKTN

Tự khai tự nộp

FDI

Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài

TMS

Ứng dụng quản lý thuế tập trung- Tax managment system

2



MỤC LỤC

3


PHẦN 1: MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Nền kinh tế Việt Nam những năm gần đây luôn đạt được tốc độ tăng trưởng
cao so với khu vực do chủ trương phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp hóa,
hiện đại hóa và hội nhập kinh tế thế giới. Chính phủ khuyến khích đầu tư, liên kết,
phát triển kinh tế, tự do hóa thương mại không những trong phạm vi lãnh thổ Việt
Nam mà còn ở nước ngoài. Với chủ trương khuyến khích đầu tư, Chính phủ đã nới
lỏng các quy định pháp lý, tạo điều kiện để các doanh nghiệp phát triển trên tất cả
các lĩnh vực kinh doanh.Với sự thông thoáng của Luật Doanh nghiệp, số lượng các
tổ chức, cá nhân kinh doanh ngày càng tăng, nhiều nghiệp vụ kinh tế mới xuất hiện,
phát sinh. Hàng năm có hàng chục ngàn doanh nghiệp và hộ kinh doanh mới ra đời
thuộc diện quản lý thu thuế. Mặt trái của sự phát triển nhanh về số lượng người nộp
thuế (NNT) là một số NNT có ý thức tuân thủ pháp luật thuế không tốt, có hành vi
gian lận ngày càng tinh vi phức tạp, thủ đoạn trốn- tránh thuế khó phát hiện hơn
trước nhiều lần.
Thanh tra, kiểm tra thuế được coi như bộ phận chủ lực của ngành thuế trong
phòng ngừa, răn đe gian lận trong chống trốn-tránh thuế, nâng cao tính tuân thủ của
NNT. Thanh tra, kiểm tra thuế được sử dụng như chức năng đảm bảo pháp chế thuế,
giúp tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong lĩnh vực thuế, nâng cao hiệu quả của quản lý
Nhà nước về thuế, phải được xác định như một nhân tố tất yếu của công tác quản lý thuế.
Thanh tra, kiểm tra thuế đ ược coi như một biện pháp hữu hiệu của cơ quan
thuế (CQT) nhằm răn đe, phát hiện, xử lý, hạn chế những sai phạm của NNT, nâng
cao tính nghiêm minh của pháp luật, làm cho NNT tự giác tuân thủ, đảm bảo sự công
bằng khách quan cho NNT, nhờ vậy mà tác động ngược trở lại thúc đẩy nền kinh tế

phát triển lành mạnh, bền vững. Việc nâng cao hiệu quả thanh tra, kiểm tra thuế trong
giai đoạn hiện nay là hết sức cần thiết, bởi vì một số lý do như: sự mất cân đối giữa
sự gia tăng số lượng NNT và số lượng cán bộ làm công tác thanh tra, kiểm tra thuế;
do tình trạng gian lận, trốn-tránh thuế, không tuân thủ pháp luật thuế ngày càng tinh

4


vi, phức tạp; do yêu cầu đổi mới cơ chế quản lý thuế và sự thay đổi của chính sách
thuế; do yêu cầu quản lý thuế trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
Ngày nay, xu thế hội nhập, liên kết phát triển kinh tế trong khu vực và tiến
tới toàn cầu hoá kinh tế ngày càng ở mức độ cao và là tất yếu khách quan. Theo đó
hội nhập quốc tế về thuế ngày càng rộng và sâu, nhằm khuyến khích đầu tư, tự do
hoá thương mại trong khu vực và trên toàn thế giới.
Tình trạng cấp bách trên đặt ra cho công tác quản lý thuế nói chung và thanh
tra, kiểm tra thuế nói riêng nhiều thách thức và buộc phải điều chỉnh cho phù hợp
với thực tiễn quản lý và phát huy vai trò, tác dụng của mình. Vậy làm thế nào để
CQT với điều kiện khó khăn và nguồn lực hạn chế mà vẫn tổ chức thanh tra thuế
đạt hiệu quả cao nhất trong bối cảnh số lượng NNT ngày càng gia tăng và các thủ
đoạn vi phạm ngày càng tinh vi, phức tạp? Chính vì vậy, chúng tôi chọn đề tài
“Nghiên cứu hiệu quả hoạt động thanh tra thuế đối với việc nâng cao tính tuân
thủ của người nộp thuế tại Cục thuế Thừa Thiên Huế” làm đề tài nghiên cứu cho
luận văn thạc sĩ kinh tế.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
+ Hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về hoạt động thanh tra thuế;
+ Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động thanh tra thuế và tính tuân thủ của
NNT trên địa bàn nghiên cứu;
+ Đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả của hoạt động thanh tra thuế
nhằm nâng cao tính tuân thủ của NNT trên địa bàn nghiên cứu.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài

* Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động thanh tra thuế đối với người nộp thuế.
* Phạm vi nghiên cứu: Do phạm vi của hoạt động thanh tra thuế là rất rộng
nên luận văn chỉ tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn của hoạt động
thanh tra thuế chủ yếu đối với NNT là các doanh nghiệp thành lập theo Luật Doanh
nghiệp trên địa bàn thành phố Huế. Luận văn không nghiên cứu: thanh tra theo đơn
thư khiếu nại, tố cáo và phúc tra kết quả thanh tra, thanh tra sau hoàn thuế.

5


4. Phương pháp nghiên cứu
* Thu thập thông tin, số liệu: Từ các thông tin khai thác trên các phần mềm
Quản lý Thuế, các báo cáo về số liệu, về tiến độ, về chất lượng thanh tra, kiểm tra
thuế theo định kỳ tại Cục thuế Thừa Thiên Huế; Các số liệu đánh giá tổng hợp về
công tác thanh tra, kiểm tra của Tổng Cục Thuế; Các số liệu kê khai Thuế, số liệu
Báo cáo tài chính của NNT giai đoạn 2013-2015.
* Xử lý số liệu: Phần mềm Excel.
* Các phương pháp được sử dụng trong đề tài:

• Phương pháp phân tích tổng hợp;
• Phương pháp phân tổ thống kê;
• Phương pháp so sánh
• Và một số phương pháp phân tích khác
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, Kết cấu của luận văn được chia thành 3
chương như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về hoạt động thanh tra thuế
Chương 2: Thực trạng hoạt động thanh tra thuế và tính tuân thủ của người
nộp thuế trên địa bàn nghiên cứu
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả của hoạt động thanh tra thuế nhằm

nâng cao tính tuân thủ của người nộp thuế trên địa bàn nghiên cứu

6


PHẦN 2: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ HOẠT ĐỘNG THANH
TRA THUẾ

1.1 Khái quát chung về thanh tra thuế
1.1.1 Khái niệm
Có nhiều quan niệm hiểu về thanh tra thuế. Sau đây là một số khái niệm cơ
bản được trích dẫn từ các tài liệu chính thống khi định nghĩa về thanh tra thuế:
Theo giáo trình nghiệp vụ thanh tra (2008) của Trường Cán bộ Thanh tra:
“Thanh tra là một chức năng thiết yếu của quản lý Nhà nước, là hoạt động kiểm tra,
xem xét, đánh giá, xử lý của cơ quan quản lý Nhà nước đối với việc thực hiện chính
sách, pháp luật, nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân; được thực hiện bởi một cơ
quan chuyên trách theo một trình tự, thủ tục do pháp luật quy định nhằm phòng
ngừa, phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật, phát hiện những sơ hở trong
cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật để kiến nghị các biện pháp khắc phục; phát
huy nhân tố tích cực, góp phần nâng cao hiệu quả, hiệu lực của hoạt động quản lý
Nhà nước; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, các quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ
chức, cá nhân. Đây là một khái niệm khá hoàn chỉnh thể hiện bản chất của hoạt
động thanh tra thuế.
Theo Luật thanh tra số 56/2010/QH12 ngày 15/11/2010, thanh tra gồm có
thanh tra Nhà nước, thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành.
“Thanh tra chuyên ngành là hoạt động thanh tra của cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền theo ngành, lĩnh vực đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc chấp
hành pháp luật chuyên ngành, quy định về chuyên môn- kỹ thuật, quy tắc quản lý
thuộc ngành, lĩnh vực đó” (Điều 3). Theo đó, Luật thanh tra xác định thanh tra

chuyên ngành là một loại Thanh tra Nhà nước được thành lập theo ngành, lĩnh vực.
“Cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành là cơ quan
thực hiện nhiệm vụ quản lý Nhà nước theo ngành, lĩnh vực, bao gồm tổng cục, cục
thuôc bộ, chi cục thuộc sở được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành”.

7


Tổng hợp các quan niệm trên có thể hiểu thanh tra thuế là một loại hình
thanh tra chuyên ngành, theo đó Cơ quan thuế (chủ thể quản lý) thực hiện hoạt động
thanh tra đối với các đơn vị, tổ chức và cá nhân chịu sự quản lý trong việc thực hiện
pháp luật về thuế, xử lý các vi phạm pháp luật thuế nhằm nâng cao tính tuân thủ của
NNT, đồng thời đề xuất hoàn thiện cơ chế chính sách pháp luật thuế”.
Thanh tra thuế là hoạt động kiểm tra của cơ quan nhà nước có thẩm quyền
đối với các cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự quản lý trong việc thực hiện pháp luật
về thuế nhằm kết luận đúng, sai, đánh giá ưu khuyết điểm, góp phần hoàn thiện cơ
chế quản lý thuế, phòng ngừa và xử lý các vi phạm pháp luật thuế.
- Công tác thanh tra thuế có những đặc điểm cơ bản như sau:
+ Về đối tượng: Thanh tra áp dụng cho các đối tượng có ngành nghề kinh
doanh đa dạng, phạm vi kinh doanh rộng, cơ cấu tổ chức phức tạp, hoặc khi có dấu
hiệu vi phạm pháp luật về thuế, hoặc để giải quyết khiếu nại tố cáo hoặc theo yêu
cầu của thủ trưởng cơ quan quản lý thuế các cấp hoặc Bộ trưởng Bộ tài chính.
+ Về phạm vi nội dung: Thanh tra thương là nội dung rộng, phức tạp, có thể
liên quan đến nhiều đối tượng, lĩnh vực khác nhau.
+ Về phương pháp: Thanh tra đều phải phân tích xác định rủi ro, truy lần lại
việc xử lý dữ liệu, tính toán lại và xác minh.
+ Về hình thức tổ chức: Đoàn có thể tổ chức thành các Tổ để đi sâu vào từng
nội dung thanh tra.
+ Về thời gian: Thanh tra thường là không quá 30 ngày.
1.1.2 Tổ chức bộ máy thanh tra thuế

Tổ chức bộ máy thanh tra thuế đươc tổ chức theo hệ thống dọc, gắn với chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan thuế các cấp. Tổ chức bộ máy thanh tra
gồm: Vụ thanh tra Tổng cục thuế; Phòng thanh tra thuế thuộc Cục thuế; Đội thanh
tra thuế thuộc Chi cục thuế.
* Vụ thanh tra Tổng cục Thuế:
- Vụ thanh tra Tổng cục Thuế là đơn vị thuộc Tổng cục Thuế, thực hiện chức
năng thanh tra chuyên ngành trong phạm vi quản lý nhà nước của Tổng cục Thuế.

8


Nhiệm vụ chủ yếu là: thực hiện chức năng thanh tra thuế đối với NNT; thanh
tra giải quyết tố cáo về hành vi trốn thuế, gian lận thuế của NNT trong phạm vi
quản lý Nhà nước của Tổng cục Thuế.
- Vụ thanh tra Tổng cục Thuế có Vụ trưởng Vụ thanh tra và một số Vụ phó
Vụ thanh tra; làm việc theo tổ chức phòng kết hợp với chế độ chuyên viên. Thanh
tra viên thuộc thanh tra Thuế là công chức nhà nước, được bổ nhiệm vào ngạch
thanh tra để thực hiện nhiệm vụ thanh tra trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn của Tổng cục Thuế.
* Phòng thanh thuếThuế thuộc Cục Thuế:
- Phòng Thanh tra thuế thuộc hệ thống tổ chức Thanh tra thuế, là đơn vị
thuộc Cục Thuế, thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành thuế trong phạm vi
quản lý Nhà nước địa phương của Cục Thuế.
- Phòng Thanh tra thuế chịu sự quản lý, chỉ đạo trực tiếp của Cục trưởng Cục
Thuế và sự chỉ đạo về công tác nghiệp vụ thanh tra của Thanh tra Tổng cục Thuế.
- Phòng thanh tra Thuế có nhiệm vụ: giúp Cục trưởng Cục Thuế triển khai
thực hiện công tác thanh tra NNT trong việc chấp hành pháp luật Thuế; giải quyết tố
cáo về hành vi trốn lậu thuế, gian lận thuế liên quan đến NNT thuộc phạm vi Cục
thuế quản lý.
- Phòng thanh tra thuế thuộc Cục thuế có Trưởng phòng Thanh tra và các

Phó trưởng phòng thanh tra, cùng với chuyên viên chính hoăc kiểm soát viên chính,
chuyên viên hoặc kiểm soát viên thuộc biên chế của Phòng Thanh tra thuế.
- Phần lớn lực lượng cán bộ của Phòng Thanh tra thuế cũng phải là chuyên
viên chính hoặc kiểm soát viên chính và thanh tra viên thuế.
* Đội thanh tra thuế thuộc Chi cục Thuế:
Đối với Chi cục thuế thực hiện thu thuế hàng năm từ 300 tỷ đồng trở lên trừ
thu từ dầu thô và tiền thu về đất, hoặc quản lý thuế trên 1.000 doanh nghiệp, cơ cấu
bộ máy sẽ có Đội thanh tra thuế.
- Đội thanh tra thuế thuộc hệ thống tổ chức kiểm tra, thanh tra thuế, là đơn vị
thuộc Chi cục Thuế, thực hiện công tác thanh tra NNT trong việc chấp hành pháp

9


luật thuế; giải quyết tố cáo về hành vi trốn lậu thuế, gian lận thuế liên quan đến
NNT thuộc phạm vi Chi cục Thuế quản lý.
- Đội thanh tra thuế chịu sự quản lý, chỉ đạo trực tiếp của Chi cục trưởng Chi
cục thuế và sự chỉ đạo về nghiệp vụ kiểm tra của Phòng thanh tra Cục thuế.
- Đội thanh tra có Đội trưởng, các Phó đội trưởng và cán bộ thanh tra thuế
thuộc biên chế của Chi cục Thuế.

CÁC PHÒNG
KIỂM TRA
CỤC THUẾ
CÁC PHÒNG
THANH TRA
CÁC ĐỘI
KIỂM TRA
CHI CỤC THUẾ
ĐỘI

THANH TRA
TỔNG CỤC THUẾ
THANH TRA TCT

10


Sơ đồ 1.1: Mô hình tổ chức chức năng thanh tra, kiểm tra thuế
1.1.3 Mục đích của hoạt động thanh tra thuế
Hoạt động thanh tra thuế nhằm:
- Bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức và
cá nhân khi thực hiện chính sách pháp luật về thuế.
- Phòng ngừa, phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về thuế.
- Thực hiện cải cách hành chính trong lĩnh vực thuế, phát hiện những hạn chế
chưa đồng bộ về cơ chế quản lý và chính sách thuế để kiến nghị cơ quan có thẩm
quyền kịp thời bổ sung.
- Động viên, khen thưởng để phát huy nhân tố tích cực, đồng thời tăng cường trấn
áp và xử lý nghiêm minh những hành vi tiêu cực trong việc thực hiện pháp luật thuế.
1.1.4 Nguyên tắc hoạt động của hoạt động thanh tra thuế
Nguyên tắc hoạt động thanh tra thuế được quy định rõ tại Điều 75, Luật
Quản lý Thuế số 78/2006/QH11 ngày 29/11/2006.
- Hoạt động thanh tra thuế phải tuân theo pháp luật và chịu trách nhiệm cá
nhân trước pháp luật. Không được làm trái các quy định của pháp luật là nguyên tắc
quan trọng nhất trong hoạt động thanh tra thuế.
Nguyên tắc này đòi hỏi các đơn vị, cá nhân tham gia quá trình thanh tra thuế
chỉ được thực hiện những quyền mà pháp luật cho phép và phải thực hiện đầy đủ
các nghĩa vụ mà pháp luật quy định. Mọi hành vi lạm quyền hoặc không thực hiện
đầy đủ nghĩa vụ đều bị coi là hành vi không tuân thủ quy định của pháp luật và đều
phải bị xử lý. Thực hiện nguyên tắc này, chủ thể thanh tra (cơ quan, đoàn thanh tra
và các thành viên) khi thực hiện nhiệm vụ thanh tra phải căn cứ vào các quy định

của pháp luật để kết luận, kiến nghị những vấn đề thanh tra và chịu trách nhiệm
trước pháp luật về kết luận, kiến nghị của mình. Đối tượng thanh tra phải nghiêm
chỉnh chấp hành các quyết định của chủ thể thanh tra, cung cấp đầy đủ hồ sơ, tài
liệu và giải trình số liệu khi được yêu cầu.
- Hoạt động thanh tra thuế phải bảo đảm tính chính xác, khách quan, trung
thực, công khai, dân củ, kịp thời.

11


Tính chính xác đòi hỏi chủ thể thanh tra phải nhận thức đúng vấn đề, nội
dung thanh tra; Xác định, đánh giá chính xác bản chất của sự việc để kết luận thanh
tra chính xác. Tính chính xác bảo đảm cho hoạt động thanh tra đạt hiệu quả cao.
Muốn đảm bảo tính chính xác, không chỉ đòi hỏi quan điểm đúng đắn mà còn cần
phải có kiến thức, năng lực mới có thể đem lại kết quả chính xác.
Tính khách quan yêu cầu chủ thể thanh tra phải phản ánh đúng sự vật, hiện
tượng như nó vốn có, không được lồng ý kiến chủ quan khi mô tả sự vât, hiện tượng.
Tính khách quan và tính chính xác có mối quan hệ tác động qua lại. Tính khách quan
tạo tiền đề cho việc kết luận chính xác và kết luận thanh tra có tính chính xác mới thể
hiện đươc tính khách quan của hoạt động thanh tra.
Tính trung thực đòi hỏi chủ thể thanh tra phải tuân thủ các quy tắc về đạo
đức nghề nghiệp, phản ánh đúng thực tế sự việc, không thiên lệch, bóp méo sự việc
dẫn đến kết luận không đúng thực tế.
Tính công khai thể hiện ở chỗ chủ thể thanh tra phải thông báo đầy đủ, công
khai từ nội dung, kế hoạch, quyết định thanh tra đến kết luận thanh tra để các tổ
chức, cá nhân có liên quan biết, giám sát và phối hợp thực hiện. Việc công khai hoạt
động thanh tra nhằm nâng cao tính khách quan của hoạt động thanh tra, hạn chế
những tiêu cực phát sinh trong quá trình thanh tra. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý răng,
tùy tính chất trong cuộc thanh tra cụ thể cần có hình thức, mức độ công khai phù
hợp để đảm bảo hiệu quả hoạt động thanh tra.

Tính dân chủ nhằm tạo cơ hội cho đối tượng thanh tra được trình bày ý kiến,
quan điểm về những nội dung thanh tra cũng như về hoạt động của đoàn thanh tra
cụ thể, tránh tình trạng áp đặt của chủ thể thanh tra.
Tính kịp thời: Hoạt động thanh tra thuế nhằm phục vụ các mục tiêu quản lý
thuế trong những thời điểm nhất định. Vì vậy, thanh tra kịp thời ngoài việc giúp cho
đối tượng kịp thời nhận rõ sai phạm để sữa chửa, khắc phục ngay, tránh vi phạm
kéo dài còn giúp cho cơ quan thuế chấn chỉnh và sửa đổi cơ chế, chính sách thuế
phù hợp thực tiễn, nâng cao hiệu quả quản lý thuế. Mặt khác tính kịp thời còn đảm

12


bảo cuộc thanh tra có biên bản, kết luận đúng thời hạn luật định, tránh tình trạng
dây dưa, kéo dài thời gian công bố kết luận thanh tra, kiểm tra.
- Không làm cản trở hoạt động bình thường của đối tượng thanh tra.
Hoạt động thanh tra là “ vấn đề hết sức nhạy cảm” và trong những năm gần
đây, vấn đề quyền và những bảo đảm thực hiện quyền của NNT được đặc biệt quan
tâm. Việc cơ quan chức năng tổ chức tiến hành thanh tra tại cơ sở kinh doanh là cần
thiết nhưng ít nhiều cũng sẽ ảnh hưởng đến hoạt động của đối tượng bị thanh tra.
Tình trạng kéo dài, dây dưa, không công bố kết luận thanh tra có lúc, có nơi vẫn còn
tồn tại. Mặt khác, do việc phân cấp quản lý còn chồng chéo nên một đối tượng có
thể được nhiều ngành quản lý và do đó sẽ có thể phát sinh nhiều đoàn thanh tra đối
tượng cùng thời điểm hoặc trong một thời gian ngắn.
Nguyên tắc ngày nhằm hạn chế tối đa những cuộc thanh tra chồng chéo của
các cơ quan quản lý, đảm bảo quyền hoạt động bình thường của đối tượng thanh tra,
đảm bảo về cùng một nội dung, trong một năm đối tượng chỉ bị thanh tra một lần.
Cùng với việc thực hiện tốt nguyên tắc kịp thời trong hoạt động thanh tra, nguyên
tắc này nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng của đối tượng thanh tra.
1.1.5 Chức năng và nhiệm vụ của công tác thanh tra thuế
- Điểm 18, Điều 2, Quyết định số 115/2009/QĐ-TTg ngày 28/9/2009 của

Thủ tướng Chính phủ về việc quy định chức năng, nhiệm vụ của Tổng Cục thuế
trực thuộc Bộ Tài Chính quy định: “ Thanh tra, kiểm tra giải quyết khiếu nại, tố cáo;
xử lý theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cấp có thẩm quyền xử lý theo quy định của
pháp luật đối với hành vi vi phạm pháp luật thuế; phòng, chống tham nhũng, tiêu
cực và thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong việc sử dụng tài sản, kinh phí được
giao thưo quy định của pháp luật”.
- Điều 76, Luật quản lý thuế quy định:
“ 1. Căn cứ vào kết quả kiểm tra thuế, thanh tra thuế, thủ trưởng CQT ra
quyết định xử lý về thuế, xử phạt vi phạm hành hính theo thẩm quyền hoặc đề nghị
người có thẩm quyền ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế.

13


2. Trường hợp kiểm tra thuế, thanh tra thuế mà phát hiện hành vi trốn thuế có
dấu hiệu tội phạm thì trong thời hạn mười ngày làm việc, kể từ ngày phát hiện, cơ
quan quản lý thuế chuyển hồ sơ cho cơ quan có thẩm quyền để điều tra theo quy
định của pháp luật tố tụng hình sự. Cơ quan quản lý thuế có trách nhiệm phối hợp
với cơ quan điều tra trong việc thực hiện điều tra tội phạm về thuế theo quy định
của pháp luật.”
Từ những quy định trên cho thấy, Ngành thuế có nhiệm vụ thanh tra, kiểm
tra NNT. Nhiệm vụ kiểm tra được tiến hành tại cơ quan thuế hoặc tiến hành tại trụ
sở NNT. Nhiệm vụ thanh tra thuế được tiến hành tại trụ sở NNT.
Theo đó, Bộ Tài Chính và Tổng Cục Thuế quy định chức năng nhiệm vụ cho
Thanh tra Tổng Cục Thuế và Cục thuê địa phương thực hiện cả hai nhiệm vụ Thanh
tra và Kiểm tra NNT; đối với Chi cục thuế (ngoài một số Chi cục quản lý nhiều đối
tượng nộp thuế, có số thu NSNN lớn có tổ chức Đội thanh tra) chỉ thực hiện nhiệm
vụ Kiểm tra NNT.
- Quyết định số 109/2010/QĐ-BTC ngày 14/1/2010 của Bộ trưởng Bộ Tài Chính:
“ Thanh tra Tổng Cục Thuế là tổ chức thuộc Tổng Cục Thuế, thực hiện chức năng thanh

tra thuế, kiểm tra thuế đối với NNT; thanh tra giải quyết tố cáo về hành vi trốn thuế, gian
lận thuế của NNT trong phạm vi quản lý nhà nước của Tổng Cục Thuế.”
- Quyết định số 502/QĐ-TCT ngày 29/3/2010 của Tổng cục trưởng Tổng
Cục Thuế : “ Phòng thanh tra thuế giúp Cục trưởng Cục thuế triển khai thực hiện
công tác thanh tra NNT trong việc chấp hành pháp luật thuế; giải quyết tố cáo về
hành vi trốn lậu thuế, gian lận thuế liên quan đến NNT thuộc phạm vi Cục thuế
quản lý”
- Quyết định số 503/QĐ-TCT ngày 29/3/2010 của Tổng cục trưởng Tổng cục
Thuế: “ Chi cục thuế …có nhiệm vụ thanh tra, kiểm tra, giám sát việc kê khai thuế,
hoàn thuế, miễn thuế, giảm thuế, nộp thuế, quyết toán thuế và chấp hành chính sách,
pháp luật thuế đối với NNT và các tổ chức, cá nhân được ủy nhiệm thu thuế;…”
1.1.6 Nội dung thanh tra thuế

14


Thanh tra thuế là một trong các chức năng cơ bản của cơ quan quản lý thuế
nhằm phát hiện, ngăn ngừa và xử lý kịp thời các trường hợp vi phạm pháp luật thuế,
đảm bảo tính công bằng trong thực thi pháp luật thuế; đồng thời làm cho NNT luôn
ý thức răng có một hệ thống giám sát hiệu quả tồn tại, từ đó thúc đẩy họ tự giác tuân
thủ pháp luật thuế. Vì vậy, nội dung cơ bản của thanh tra thuế là thanh tra việc chấp
hành pháp luật thuế của NNT, bao gồm các nội dung cơ bản như sau:
Thanh tra hồ sơ pháp lý, tính trung thực của các tài liệu của NNT có liên
quan tới pháp luật thuế như: giấy chứng nhận mã số doanh nghiệp, mã số thuế
( ngành nghề kinh doanh, vốn, địa điểm, thời giạn thực tế kinh doanh)… nhằm phát
hiện và xử lý gian lận trong kê khai đăng ký thuế. Cần tiến hành việc kiểm tra nội
dung ghi trong đăng ký kinh doanh, đăng ký thuế vì đây là khâu đầu tiên trong quy
trình quản lý thu thuế để tránh bỏ sót đối tượng nộp thuế, đối tượng chịu thuế, bỏ
sót nguồn thu. Việc kiểm tra tính pháp lý của các tờ khai thuế gốc, các báo cáo tài
chính, các hợp đồng kinh tế gốc, hồ sơ tài liệu đã đủ chữ ký của người có thẩm

quyền hay chưa, sổ sách, chứng từ, hóa đơn có đủ tính chất pháp lý hay không,…
nhằm đảm bảo hồ sơ thanh tra là đủ cơ sở pháp lý để tiến hành kiểm tra, đảm bảo
nguyên tắc an toàn, hợp lý khi thanh tra.
Thanh tra việc chấp hành chế độ kế toán, sổ sách, hóa đơn, chứng từ. Việc thực
hiện chế độ kế toán, sổ sách, hóa đơn, chứng từ có liên quan chặt chẽ đến việc tính
thuế, khai thuế và nộp thuế của NNT. Kiểm tra việc tổ chức thực hiện luật kế toán,
chuẩn mực kế toán của NNT, kiểm tra việc mở sổ sách kế toán, việc quản lý và sử dụng
các loại chứng từ, hóa đơn theo chế độ quy định; hình thức hạch toán, chế độ ghi chép
cập nhật sổ sách… Xác định tính hợp lý, trung thực của từng loại chứng từ, hóa đơn có
liên quan như: hóa đơn bán hàng, phiếu xuất kho, chứng từ thu- chi… nhằm đảm bảo
chính xác các căn cứ tính thuế, ngăn chặc việc hạch toán sai để trốn- tránh thuế. Do đó,
đây là một nội dung quan trọng, đòi hỏi công chức làm công tác thanh tra phải am hiểu
Luật kế toán, chuẩn mực kế toán. Thực hiện tốt nội dung thanh tra này sẽ tạo tiền đề
cho nội dung thanh tra việc thực kê khai thuế, tính thuế và nộp thuế.

15


Thanh tra việc thực hiện kê khai thuế, tính thuế và số nộp thuế là việc kiểm
tra căn cứ tính thuế nhằm mục đích xác định đúng số thuế phải nộp, số thuế đã nộp,
số thuế nợ, số thuế được miễn giảm, số thuế được hoàn trong kỳ của NNT. Đồng
thời, xác định đúng đối tượng chịu thuế, đối tượng nộp thuế đúng với quy định của
từng sắc thuế là bước quan trọng để xác định mức thuế phải nộp, tránh bỏ sót nguồn
thu. Kiểm tra căn cứ tính thuế thực hiện thông qua việc xem xét, đối chiếu các sổ
sách kế toán, chứng từ hóa đơn và các tài liệu có liên quan: tờ khai, bảng kê mua
vào bán ra, tờ khai tự quyết toán,…NNT tự tính so với các quy định hiện hành và
thực tế sản xuất kinh doanh để phát hiện số thuế đơn vị khai thiếu, số thuế ẩn lậu…
Đây là một khâu rất quan trọng trong quy trình thanh tra thuế, đòi hỏi cán bộ thuế
phải nắm vững nội dung quy định của các sắc thuế, các văn bản hướng dẫn thực
hiện, đồng thời cần thông thạo nghiệp vụ kế toán.

Thanh tra việc chấp hành nghĩa vụ kê khai, nộp thuế của NNT là xác định xem
NNT có thực hiện nghiêm túc quy định về thời hạn nộp tờ khai và tiền thuế theo Luật
quản lý thuế hay không, nếu nợ đọng thì xác định nguyên nhân nợ để đôn đốc thu nợ.
Kiểm tra nội dung này cần kiểm tra số thuế phải nộp trên tờ khai và giấy nộp tiền vào
NSNN xem có nộp nhầm, nộp thừa vào các tài khoản không hay chưa nộp?
Xác định chính xác nội dung thanh tra rất quan trọng, làm tiền đề để cơ quan
thuế (CQT) tiến hành thanh tra NNT. Tùy theo tính chất, yêu cầu quản lý thuế theo
từng thời kỳ và tùy thuộc vào nguồn lực mà CQT đặt giới hạn, trọng tâm nội dung
thanh tra cho phù hợp. Xác định đúng nội dung trọng tâm, trọng điểm từng cuộc
thanh tra dựa trên cơ sở phân tích rủi ro là cơ sở để nâng cao hiệu quả công tác
thanh tra thuế, nâng cao hiệu quả công tác quản lý thuế.
1.1.7 Phương pháp thanh tra thuế
Phương pháp thanh tra thuế đươc hiểu là cách thức, biện pháp mà CQT áp
dụng khi tiến hành thanh tra nhằm thực hiện mục tiêu quản lý. Có một số phương
pháp thanh tra chủ yếu sau:
- Phương pháp đối chiếu, so sánh

16


Đây là phương pháp chủ yếu được sử dụng trong quá trình thanh tra thuế.
Nội dung của phương pháp này là thực hiện việc so sánh, đối chiếu nội dung cần
thanh tra với các nguồn thông tin khác nhau để đánh giá, xác định tính hợp lý,
khách quan, trung thực của nội dung thanh tra. Cụ thể là đối chiếu tài liệu, số liệu
của đơn vị được thanh tra với các quy định, chuẩn mực hoặc đối chiếu với các đơn
vị khác cùng ngành nghề, quy mô sản xuất kinh doanh; đối chiếu giữa báo cáo kế
toán, giữa sổ tổng hợp và sổ chi tiết, giữa sổ kế toán với chứng từ kế toán, đối chiếu
giữa số liệu báo cáo thống kê với thực tế về hiện vật ( vật tư, hàng hóa…); đối chiếu
giữa nội dung tài liệu, báo cáo quyết toán, sổ sách chứng từ với các chuẩn mực
chung của ngành ( các định mức kinh tế- kỹ thuật); đối chiếu giữa nội dung thu, chi

thực tế với chính sách, chế độ quy định…
- Phương pháp kiểm tra từ tổng hợp đến chi tiết
Đây là phương pháp tối ưu để kiểm tra số liệu kế toán. Theo phương pháp
này, trước hết cần kiểm tra số liệu tổng hợp sau đó mới kiểm tra số liệu chi tiết. Việc
kiểm tra tổng hợp nhằm rút ra những nhận xét tổng quát để từ đó định hướng những
nội dung cần đi sâu kiểm tra( kiểm tra chi tiết). Trình tự hạch toán kế toán phải theo
nguyên tắc đi từ chi tiết đến tổng hợp. Tuy nhiên, trong công tác thanh tra phương
pháp tối ưu để kiểm tra số liêụ là đi từ tổng hợp đến chi tiết. Trước tiên cán bộ thanh
tra cần xem xét tổng quát về số liệu tổng hợp, sau đó mới kiểm tra số liệu chi tiết
với số tổng hợp. Kiểm tra số liệu chi tiết đi sâu mà kiểm tra số liệu của từng nghiệp
vụ kinh tế phát sinh, thể hiện trên chứng từ gốc hoặc bảng kê chi tiết. Việc kiểm tra
số liệu tổng hợp được tiến hành với các số liệu đã được tổng hợp theo nội dung kinh
tế, phản ánh trên các báo cáo tổng hợp như bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả
kinh doanh, bảng cân đối phát sinh tài khoản… Từ việc phân tích đối chiếu trên tài
liệu tổng hợp nhằm rút ra nhận xét tổng quát để từ đó định hướng những vấn đề cần
đi sâu thanh tra.
Phương pháp này giúp cho công chức làm công tác thanh tra nắm được
những vấn đề chính, tổng quát, phát hiện được những mâu thuẫn và những bất
thường trên những số liệu tổng hợp, sau đó nếu thấy nghi ngờ sẽ đi vào thanh tra

17


sâu số liệu chi tiết để đảm bảo tính khớp đúng của số liệu. Phương pháp này giúp
công chức làm công tác thanh tra tránh bị sa vào những việc vụn vặt hoặc sa lầy,
không đúng trọng tâm, trọng điểm.
- Phương pháp kiểm tra chứng từ gốc
Chứng từ gốc là cơ sở pháp lý cho mọi số liệu, tài liệu về tài chính, kế toán
của NNT, là cơ sở pháp lý cho việc kiểm tra tính chấp hành pháp luật của NNT. Số
liệu, tài liệu kế toán phản ánh các hoạt động kinh tế tài chính của đơn vị đều phải

được ghi chép, tính toán trên cơ sở số liệu của chứng từ gốc. Kiểm tra chứng từ gốc
là việc xem xét tính hợp pháp, hợp lý của hoạt động kinh tế tài chính ghi trong
chứng từ gốc. Kiểm tra chứng từ gốc có ý nghĩa quan trọng trong thanh tra thuế vì
chứng từ gốc là thông tin cơ sở, là căn cứ pháp lý ghi nhận nghiệp vụ kinh tế phát
sinh và thực sự hoàn thành, là cơ sở của mọi số liệu kế toán và kê khai, tính nộp
thuế của NNT.
- Phương pháp phân tích rủi ro
Phân tích rủi ro là phân tích những dấu hiệu có khả năng gây thất thu thuế và
không tuân thủ pháp luật thuế. Phân tích rủi ro cần một khối lượng lớn thông tin
lịch sử và dữ liệu tài chính của NNT nhằm mục đích đối chiếu. Thanh tra trên cơ sở
phân tích rủi ro là phương pháp CQT áp dụng kỹ thuật phân tích tích rủi ro về thuế
của NNT trong thanh tra ở các nội dung tính thuế, khai thuế, nộp thuế nhằm đánh
giá, phát hiện những NNT có rủi ro về thuế, CQT phải thu thập, lưu giữ các thông
tin có hệ thống về NNT, từ những thông tin này CQT tiến hành đánh giá mức độ rủi
ro, xếp hạng rủi ro theo các mức độ từ cao xuống thấp dựa trên các tiêu chí xác định
rủi ro. Với những NNT bị xếp hạng rủi ro cao sẽ phải tiến hành thanh tra trước; nếu
rủi ro rất cao thì phải thanh tra kỹ lưỡng hơn. Với những NNT có độ rủi ro thấy,
thường xuyên chấp hành tốt pháp luật thuế, không nợ thuế quá hạn, số thuế nộp
thường xuyên cao và ổn định… thì ít tiến hành thanh tra.
Phân tích rủi ro được thực hiện qua các phân tích dọc, ngang, phân tích tỷ
suất các báo cáo tài chính, tờ khai thuế, lịch sử tuân thủ của NNT.

18


Tuy nhiên, phương pháp phân tích rủi ro chỉ phát huy hiệu quả cao nhất khi
CQT xây dựng đươc các tiêu chí rủi ro hoặc các tỷ suất bình quân chung theo
ngành, lĩnh vực kinh doanh…tại những thời điểm nhất định để làm căn cứ đánh giá,
so sánh, đưa ra nhận định về đối tượng đang phân tích. Đồng thời, để chuyện nghiệp
hóa công tác thanh tra thuế, khi áp dụng phân tích rui ro cũng cần sự phối hợp cung

cấp thông tin, hỗ trợ của các bộ phận chứng năng khác trong CQT. Cán bộ làm công
tác thanh tra, kiểm tra phải thực sự chuyên sâu, chuyên nghiệp.
- Các phương pháp kiểm tra bổ trợ khác
+ Phương pháp phỏng vấn: Phương pháp này được sử dụng khi cần thu thập
thông tin từ những người có quan hệ trực tiếp, gián tiếp đến nội dung thanh tra.
+ Ngoài ra còn một số phương pháp khác như: Phương pháp thẩm tra và xác
nhận từng phần, phương pháp quan sát…
1.1.8 Phân loại thanh tra thuế
Dựa vào các tiêu thức khác nhau, có thể chia thanh tra thuế thành các loại
khác nhau. Cụ thể như sau:
- Phân loại theo tính kế hoạch:
+ Thanh tra thường xuyên: căn cứ vào nguồn lực hiện có, tình hình chấp
hành pháp luật thuế trên địa bàn và mục tiêu quản lý thuế, CQT xây dựng kế hoạch
thanh tra và trình cấp có thẩm quyền phê duyệt và tổ chức thực hiện theo kế hoạch
thanh tra đã được phê duyệt. Loại hình thanh tra này có ưu điểm là việc thanh tra
được lập kế hoạch từ trước trên cơ sở phân tích rủi ro NNT nên được chuẩn bị chu
đáo từ khâu phân tích thông tin đến khâu thanh tra thực tế.
+ Thanh tra thuế đột xuất: đây là một trong những hình thức chủ yếu của
thanh tra trong lĩnh vực xét và giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo của công dân;
thường được tiến hành theo yêu cầu của cơ quan quản lý cấp trêm, cơ quan có chức
năng thanh tra hay do lãnh đạo đơn vị đặt ra. Khi CQT phát hiện NNT có dấu hiệu
vi phạm pháp luật thuế, theo yêu cầu của cơ quan quản lý cấp trên, cơ quan chức
năng có thẩm quyền giao. Thanh tra đột xuất giúp CQT kịp thời phát hiện ra bằng

19


chứng vi phạm pháp luật của NNT, giúp CƯT nắm được lập tức tình trạng sản xuất
kinh doanh.
- Phân loại theo yếu tố phạm vi:

+ Thanh tra từng phần: thường được áp dụng với một sắc thuế nhất định hoặc
một phần của quy trình thu nộp. Loại hình thanh tra này thường được bắt nguồn từ
đề xuất của bộ phận kiểm soát hồ sơ khai thuế, hoặc do CQT cấp trên chỉ đạo, hoặc
theo yêu cầu của cơ quan chức năng. Thanh tra từng phần tốn ít nguồn lực hơn
thanh tra toàn diện, giúp CQT tìm ra các gian lận, sai sót, chống thất thu theo từng
lĩnh vực chuyên sâu, chuyên ngành… Tuy nhiên kết quả thanh tra sẽ không cho
thấy được bức tranh toàn cảnh về tình hình tuân thủ khai nộp thuế của NNT do
phạm vi thanh tra bị hạn chế, chỉ thanh tra một khía cạnh, lĩnh vực hay một yếu tố.
+ Thanh tra toàn diện: áp dụng trên toàn diện các mặt công tác của một cơ
quan thuế, một cá nhân hay toàn bộ quá trình kê khai nộp thuế với tất cả các sắc
thuế có liên quan của một đối tượng nộp thuế. Thanh tra toàn diện thường chỉ được
thực hiện đối với một hoặc hai kỳ kê khai thuế gần nhất trừ trường hợp phát hiện
NNT có dấu hiệu không tuẩn thủ có giá trị trọng yếu. Các cán bộ thanh tra cần áp
dụng kỹ thuật chọn mẫu và mức độ công việc thanh tra, số các kỳ tài chính cần
thanh tra sẽ được mở rộng khi các phát hiện của đoàn thanh tra yêu cầu phải mở
rộng phạm vi thanh tra. CQT cần dự tính nguồn nhận lực cũng như chi phí để thực
hiện thanh tra toàn diện trong quá trình lập kế hoạch thanh tra hằng năm. Do phạm
vi cuộc thanh tra rộng và việc thanh tra nhiều kỳ tính thuế nên loại hình này thường
áp dụng cho công tác thanh tra thuế là chính.
- Phân loại theo địa điểm tiến hành thanh tra
+ Thanh tra tại bàn ( tại cơ quan thuế): Công tác kiểm tra các hồ sơ liên quan
đến việc xác định nghĩa vụ thuế của cơ sở kinh doanh được thực hiện tại cơ quan
thuế. Theo hình thức thanh tra này, CQT không đến làm việc trực tiếp tại cơ sở
NNT mà tiến hành các bước kiểm tra tình hình tuân thủ pháp luật của NNT ngay tại
trụ sở của CQT dựa trên những dữ liệu, thông tin và hồ sơ hiện có của mình về
NNT trên hệ thống để kiểm tra tính đúng, sai trong việc thực thi luật thuế về các nội

20



dung: sự khớp đúng của hồ sơ khai thuế; tính đầy đủ của hồ sơ; sự sai sót trong tính
toán số thuế phải nộp… Quá trình thanh tra CQT có thể thông báo yêu cầu NNT lên
làm việc tại trụ sở CQT để đối chiếu số liệu, sổ sách và giải trình những chênh lệch,
nghi vấn của CQT. Kết thúc thanh tra, CQT yêu cầu NNT phải chỉnh sửa, hoàn
thiện hồ sơ cho đúng quy định.
+ Thanh tra tại trụ sở NNT: CQT tiến hành kiểm tra, xem xét, rà soát lại toàn
bộ chứng từ, hồ sơ có liên quan đến tình hình tuân thủ pháp luật của NNT tại cơ sở
của NNT mà CQT nghi ngờ có những rủi ro về thuế lớn, có dấu hiệu gian lận, trốn
thuế cần phait thu thập những bằng chứng thực tế, xác đáng để kết luận. Khi thanh
tra tại trụ sở NNT, công chức làm công tác thanh tra kiểm tra các tài liệu không có ở
CQT mà chỉ có ở doanh nghiệp để xác minh, đối chiếu hồ sơ, chứng từ nhằm tìm ra
bằng chứng thanh tra xác đáng. Hình thức này cho phép công chức làm công tác
thanh tra tiếp cận trực tiếp với tài sản, máy móc, tài liệu sổ sách chứng từ, quỹ tiền
măt thực tế… tại doanh nghiệp, có thể quan sát, thẩm định, ra biên bản trực tiếp.
Tuy nhiên, thanh tra tại trụ sở NNT thường tốn kém thời gian, nhân lực và vật lực
cho CQT
1.2 Hoạt động thanh tra thuế trong các cơ chế quản lý thuế
1.2.1 Hoạt động thanh tra thuế trong cơ chế CQT tính và ra thông báo nộp thuế
Đây là cơ chế quản lý thuế theo định kỳ, theo thời gian,căn cứ vào tình hình
hoạt động sản xuất kinh doanh và các quy định của pháp luật thuế, NNT phải kê
khai thuế và nộp tờ khai cho CQT. CQT nhận tờ khai, kiểm tra và tính thuế, sau đó
thông báo số thuế phải nộp cho NNT. NNT có trách nhiệm nộp đầy đủ tiền thuế
theo thông báo vào Kho bạc nhà nước trong thời gian quy định. Cơ quan thuế kiểm
tra, đối chiếu số thuế mà NNT đã nộp vào NSNN với thông báo. Cơ chế này đảm
bảo việc tính toán chính xác số thuế phải nộp vào NSNN của các NNT. Với mô hình
quản lý thuế như trên thì công tác thanh tra việc chấp hành pháp luật thuế được thực
hiện từ khi NNT đăng ký thuế, nhận được thông báo thuế và nộp thuế. Thông báo
thuế do CQT phát hành trên cơ sở các tài liệu do NNT cung cấp nên công tác thanh
tra nhằm đảm bảo tiền thuế nộp vào NSNN đúng thời hạn, từ đó thanh tra thuế đa


21


góp phần quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả quản lý thu thuế, khai thác nguồn
thu, chống thất thu, thất thoát cho NSNN. Điều quan trọng là thông qua hoạt động
thanh tra thì luật thuế và các văn bản hướng dẫn đi kèm được thực hiện nghiêm
chỉnh hơn, nâng cao tính nghiêm minh của pháp luật, đảm bảo công bằng hợp lý
trong nghĩa vụ nộp thuế của NNT.
Tuy nhiên, công tác thanh tra thuế trong mô hình CQT tính thuế và ra thông
báo thuế có một số hạn chế sau:
- Mô hình này chủ yếu thanh tra tại đơn vị nên thường xuyên gây ra những
phiền nhiễu cho NNT và đôi lúc mất thời gian và tăng chi phí.
- Tình trạng gian lận về thuế còn khá phổ biến ở nhiều khoản thu, sắc thuế
nhưng chưa được phát hiện, truy thu kịp thời cho NSNN. Vì vậy vừa làm mất thất
thu NSNN, vừa chưa đươc thực sự đảm bảo công bằng xã hội và tính nghiêm minh
của pháp luât thuế.
- Phương pháp thanh tra còn nhằm vào tất cả các NNT, không dựa trên cơ sở
đánh giá mức độ tuân thủ của NNT để lập kế hoạch và tổ chức thanh tra đúng đối
tượng thanh tra ngay từ đầu. Vì thế NNT không có hành vi gian lận cũng tổ chức thanh
tra vừa gây phiền hà cho NNT, vừa lãng phí nguồn nhân lực, tốn kém cho CQT.
- Công tác thanh tra được tiến hành hoàn toàn bằng thủ công, không tập
trung vào các khâu gian lận, không ứng dụng được tin học vào thanh tra thuế, do đó
các cuộc thanh tra thường kéo dài và kết quả rất hạn chế.
- Tổ chức bộ máy thanh tra thuế chưa tương xứng với khối lượng công việc
và vai trò công tác thanh tra thuế.
- Cơ sở vật chất phục vụ cho công tác thanh tra còn chưa đủ mạnh, chưa xây
dựng được chương trình phần mềm ứng dụng hỗ trợ cho công tác thanh tra.
- Ngoài ra hiệu quả công tác thanh tra chưa đạt kết quả cao là do CQT tính
thuế và ra thông báo thuế cho NNT, đồng thời CQT thực hiện thanh tra, kiểm tra
nên thực sự chưa có kết quả cao.

Nhìn chung, cơ chế này mang tính áp đặt, không nâng cao được tính tự giác,
trách nhiệm công dân của NNT, do vậy công tác thanh tra thuế gặp rất nhiều khó khăn,
hiệu quả thu được không cao. Hoạt động thanh tra trong cơ chế này chủ yếu tập trung

22


vào kiểm tra quyết toán thuế, các hình thức thanh tra theo chuyên đề còn hạn chế; nội
dung thanh tra còn dàn trải. Việc thanh tra chủ yếu dựa vào kinh nghiệm chủ quan của
cán bộ là chủ yếu chứ chưa trên cơ sở thu thập và phân tích thông tin của NNT để xác
định các nội dung trọng yếu trước khi đi thanh tra. Do đó, chất lượng thanh tra còn hạn
chế, chưa phát hiện và có biện pháp ngăn chặn kịp thời hành vi gian lận trong việc tính
thuế, kê khai thuế, gian lận trong hoàn thuế, miễn giảm thuế, nhất là trong hoàn thuế
GTGT. Các trường hợp phức tạp như chuyển giá, giao dịch kinh doanh có yếu tố nước
ngoài… CQT gần như không đủ năng lưc để tiến hành thanh tra.
1.2.2 Hoạt động thanh tra thuế trong cơ chế NNT tự khai, tự nộp (TKTN) thuế
Cơ chế TKTN là cơ chế quản lý, trong đó NNT căn cứ vào kết quả sản xuất
kinh doanh, các quy định của pháp luật về thuế để tự kê khai, tự tính toán số thuế
phải nộp và tự nộp thuế cho nhà nước theo đúng thời hạn quy định của pháp luật.
CQT không can thiệp vào qua trình kê khai, nộp thuế của NNT, trừ khi phát hiện ra
các sai sót, vi phạm hoặc các dấu hiệu không chấp hành luât thuế. Hai chức năng
đóng vai trò qua trọng, quyết định đến sự thành công hay thất bại của cơ chế TKTN
là tuyên truyền, hỗ trợ NNT và kiểm tra, thanh tra thuế. Việc tuyên truyền, hỗ trợ
NNT để NNT hiểu rõ chính sách thuế, các thủ tục về thuế, từ đó tự thực hiện nghĩa
vụ thuế của mình. Việc thanh tra của CQT đối với NNT được thực hiện trên cơ sở
phân tích thông tin, đánh giá những rủi ro để lựa chọn chính xác những trường hợp
cần thanh tra; phát hiện, xử lý kịp thời và đúng đắn những hành vi gian lận, trốn
thuế. Điều này sẽ giúp khắc phục được việc thanh tra tràn lan, gây lãng phí nguồn
lực cho CQT và phiền hà cho NNT.
Thực hiện quản lý thuế theo cơ chế TKTN thuế, bộ máy quản lý thuế ở CQT

được tổ chức tập trung theo các chức năng, bao gồm các chức năng chính: Tuyên
truyền, hỗ trợ NNT; xử lý tờ khai và kế toán thuế; Thu nợ- cưỡng chế nợ thuế và
Kiểm tra- Thanh tra thuế. Trong đó, chức năng thanh tra, kiểm tra thuế là chức
năng trọng tâm của CQT trong cơ chế TKTN. CQT tiến hành thanh tra thuế trên cơ
sở thu thập đủ các thông tin cần thiết về NNT ( từ tờ khai, báo cáo tài chính và các
thông tin từ các nguồn khác) để phân tích, đánh giá xác định theo các tiêu chí đánh
giá rủi ro để lựa chọn NNT cần kiểm tra, thanh tra và nội dung, hình thức kiểm tra,

23


thanh tra phù hợp. Các thông tin về NNT được thanh tra được cập nhật ngay khi có
biến động trên cơ sở dữ liệu chung cho Tổng cục thuế quản lý và được chia sẻ, khai
thác trên phạm vi cả nước.
Chỉ khi NNT nhận thức được rằng CQT đang thực hiện các chương trình
thanh tra thuế hiệu quả và nếu gian lận về thuế, họ sẽ bị CQT phát hiện và bị xử
phạt nghiêm khắc, NNT mới tự giác thực hiện đúng nghĩa vụ thuế. Trong cơ chế
TKTN thuế, công tác thanh tra không phải để nhằm tăng số thu thuế, mà mục tiêu
chính là nhằm ngăn ngừa, phòng chống NNT vi phạm pháp luật thuế.
Cơ chế thanh tra trong mô hình TKTN thuế được chuyển từ cơ chế thanh tra
nhằm vào tất cả NNT hiện hành sang cơ chế thanh tra theo mức độ các vi phạm về
thuế, có gian lận thuế mới thanh tra, không có gian lận thì không thanh tra ( được
gọi là thanh tra theo mức độ rủi ro về thuế) nhằm không gây phiền hà, cản trở công
việc kinh doanh của NNT, đồng thời giảm các chi phí không cần thiết cho CQT,
gồm các loại sau:
- Chuyển đổi từ thanh tra theo diện rộng sang thanh tra theo hệ thống tiêu
thức lựa chọn, đi vào chiều sâu theo mức đọ vi phạm.
- Chuyển từ thanh tra toàn diện sang thanh tra theo chuyên đề và nội dung vi
phạm: loại hình doanh nghiệp ( các Tổng công ty lớn, các doanh nghiệp vừa và
nhỏ); ngành nghề kinh doanh đặc thừ ( điện, xi măng, ô tô, các tổ chức tín dụng, du

lịch…), lĩnh vực và sắc thuế ( chuyển giá, thuế TNCN…)
Từ các đặc điểm trên cho thấy, công tác thanh tra thuế trong cơ chế TKTN đã
được cải tiến đáng kể, hạn chế được những tồn tại của công tác thanh tra theo cơ
chế quản lý thuế trước đây.Từ đó tạo điều kiện để các cơ sở sản xuất kinh doanh tự
giác thực hiện nghĩa vụ thuế, giảm bớt phiền nhiễu cho cơ sở kinh doanh. Công tác
thanh tra đảm bảo được thực hiện tốt hơn và khách quan hơn.Với những nội dung
trên, có thể thấy rằng hoạt động của thanh tra trong cơ chế TKTN có tính khách
quan hơn, hiệu quả hơn, khắc phục được những hạn chế của CQT tính và ra thông
báo nộp thuế; không những có tác động tích cực trong việc ngăn ngừa các hành vi
trốn, tránh thuế mà còn góp phần nâng cao tính tuân thủ của NNT.

24


1.2.3 Tính tuân thủ của người nộp thuế trong các cơ chế quản lý thuế
1.2.3.1 Khái niệm về tính tuân thủ của người nộp thuế
Mục tiêu chính của các CQT là quản lý và thu thuế phù hợp với luật pháp và
thực hiện mục tiêu này theo cách thức vẫn đảm bảo củng cố được niềm tin của NNT
vào hệ thống thuế. Mọi hành vi của NNT dù là sơ ý, không cẩn thận, hay hành vi cố
tình trốn thuế hoặc là sự yếu kém trong công tác quản lý thuế đều cho thấy việc
không tuân thủ pháp luật là khó tránh khỏi. Do đó, CQT cần có chiến lược và
chương trình để đảm bảo rằng việc không tuân thủ pháp luật về thuế được giảm ở
mức tối thiểu. Ngoài ra, để thực hiện được mục tiêu này, đòi hỏi hệ thống chính
sách, thủ tục về thuế phải rõ ràng, công bằng, minh bạch; các biện pháp quản lý,
hành thu của CQT phải đồng bộ, hiệu quả và một yếu tố đặc biệt quan trọng là phải
tạo điều kiện và nâng cao tính tuân thủ tự giác của NNT trong việc thực hiện nghĩa
vụ với Nhà nước. Tuy nhiên, trước khi ra quyết định thực hiện các hành động, biện
pháp nào để nâng cao tính tuân thủ của NNT, cần phải hiểu thế nào là tính tuân thủ,
những yếu tố ảnh hưởng đến tính tuân thủ, phương pháp đo lương và đánh giá mức
độ tuân thủ.

Theo quan niệm quốc tế, tính tuân thủ của NNT là việc NNT tự giác chấp
hành và thực hiện một cách đầy đủ, chính xác và kịp thời các quy định, thủ tục về
thuế theo pháp luật. Tính tuân thủ của NNT được thể hiện bằng mức độ tuân thủ
của NNT, hay mức độ tuân thủ đươc định nghĩa là tỷ lệ số tiền thuế thực thu với số
tiền thuế có thể thu được. Để có thể đo lường và đánh giá mức độ tuân thủ của
NNT, mỗi quốc gia sử dụng các phương pháp, cách thức tiếp cận khác nhau. Do đó,
việc phân loại tính tuân thủ của NNT cũng được thực hiện theo các tiêu chí, định
hướng riêng. Cụ thể:
Tại một số nước, quan điểm về tính tuân thủ của NNT được phân loại theo
nghĩa vụ của NNT: tuân thủ trong việc đăng ký thuế; tuân thủ trong việc nộp tờ khai
thuế và các thông tin cần thiết liên quan đến thuế; tuân thủ trong việc báo cáo các
thông tin đầy đủ và chính xác (kết hợp với việc lưu giữ sổ sách) và tuân thủ trong
việc nộp thuế đúng hạn. Nếu NNT không thực hiện bất kỳ một trong bốn nghĩa vụ

25


×