Tải bản đầy đủ (.pdf) (64 trang)

Giáo dục ý thức bảo vệ văn hóa vật chất tinh thần trong dạy học lịch sử ở trường trung học phổ thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (689.59 KB, 64 trang )

LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành khóa luận, em đã
nhận được sự quan tâm giúp đỡ tận tình của các thầy cô giáo khoa Sử - Địa,
trường Đại học Tây Bắc.
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Ths. Lê Thị Dung người đã tận
tình hướng dẫn, chỉ bảo, đóng góp ý kiến quý báu và tạo mọi điều kiện giúp đỡ
em hoàn thành khóa luận này.
Lời cuối cùng, em xin gửi lời tri ân sâu sắc đến gia đình, bạn bè đã luôn
động viên, khích lệ, giúp đỡ em hoàn thành tốt khóa luận này.
Sơn La, tháng 5 năm 2016
Tác giả
Vũ Thị Nhung


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

DHLS

Dạy học lịch sử

HS

Học sinh

GV

Giáo viên

Nxb

Nhà xuất bản



PPDH

Phương pháp dạy học

SGK

Sách giáo khoa

THPT

Trung học phổ thông


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1
1. Lí do chọn đề tài ................................................................................................ 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ................................................................................ 2
3. Mục đích, đối tượng, phạm vi nghiên cứu ........................................................ 6
4. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu ..................................... 7
5. Đóng góp của đề tài ........................................................................................... 7
6. Bố cục của đề tài ............................................................................................... 7
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC GIÁO DỤC
Ý THỨC BẢO VỆ VĂN HÓA VẬT CHẤT - TINH THẦN TRONG DẠY
HỌC LỊCH SỬ Ở TRƯỜNG PHỔ THÔNG ................................................... 8
1.1. Cơ sở lý luận .................................................................................................. 8
1.1.1. Các khái niệm .............................................................................................. 8
1.1.2. Xuất phát điểm .......................................................................................... 10
1.1.3. Vai trò, ý nghĩa của việc giáo dục ý thức bảo vệ văn hóa vật chất - tinh
thần cho học sinh trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông .............................. 17

1.1.4. Một số yêu cầu khi giáo dục cho học sinh ý thức bảo vệ văn hóa vật chất tinh thần trong môn lịch sử ở trường phổ thông ................................................. 19
1.2. Cơ sở thực tiễn ............................................................................................. 20
CHƯƠNG 2: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÁO DỤC Ý THỨC BẢO VỆ VĂN
HÓA VẬT CHẤT - TINH THẦN CHO HỌC SINH TRONG DẠY HỌC
LỊCH SỬ VIỆT NAM THẾ KỈ X - XIX, SÁCH GIÁO KHOA LỊCH SỬ
LỚP 10 THPT - CHƯƠNG TRÌNH CHUẨN ................................................ 23
2.1. Vị trí, mục tiêu, nội dung kiến thức cơ bản để giáo dục học sinh ý thức bảo
vệ văn hóa vật chất - tinh thần trong lịch sử lớp 10 ............................................ 23
2.1.1. Vị trí. ......................................................................................................... 23
2.1.3. Nội dung kiến thức cơ bản để giáo dục học sinh ý thức thức bảo vệ văn
hóa vật chất - tinh thần ........................................................................................ 23


2.2. Những yêu cầu khi xác định hình thức và biện pháp để giáo dục học sinh ý
thức bảo vệ văn hóa vật chất - tinh thần trong dạy học lịch sử ........................... 24
2.3. Một số hình thức và biện pháp để giáo dục học sinh ý thức bảo vệ văn hóa
vật chất - tinh thần ............................................................................................... 25
2.3.1. Vận dụng dạy học nêu vấn đề ................................................................... 25
2.3.2. Sử dụng tranh ảnh để tạo biểu tượng văn hoá vật chất cho học sinh ........ 28
2.3.3. Vận dụng kiến thức liên môn .................................................................... 31
2.3.4. Dạy học theo dự án.................................................................................... 32
2.3.5. Một số hoạt động ngoại khóa .................................................................... 39
2.4. Thực nghiệm sư phạm ................................................................................. 45
2.4.1. Mục đích thực nghiệm............................................................................... 45
2.4.2. Đối tượng và địa bàn thực nghiệm ............................................................ 45
2.4.3. Nội dung và phương pháp thực nghiệm .................................................... 45
2.4.4. Kết quả thực nghiệm ................................................................................. 46
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 49
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................ 50
PHỤ LỤC



MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Dân tộc Việt Nam đã trải qua hàng nghìn năm đấu tranh xây dựng, bảo vệ
đất nước đầy khó khăn gian khổ. Trong quá trình ấy, dân tộc ta đã tích tụ và
mang trong mình những truyền thống tốt đẹp.
Các bạn nước ngoài khi đến Việt Nam không khỏi ngạc nhiên khi khám
phá ra rằng: “Trên đất nước Việt Nam này không thể nào kể hết những truyền
thống. Những sự kiện lịch sử ở đây biến thành những huyền thoại và những
huyền thoại lại biến thành lịch sử. Chưa từng ở đâu tôi lại thấy được sự hài hoà
tuyệt vời như vậy giữa quá khứ và hiện tại. Thời gian như tích tụ, ngưng đọng
lại thành một sức mạnh. Ngày hôm nay không rứt bỏ ngày hôm qua. Và ngày
hôm qua không làm quá khứ chết thêm mà làm sống lại quá khứ” [1; 83-84].
Một trong những truyền thống ấy là văn hoá.
Văn hóa Việt Nam - cội nguồn sức mạnh của dân tộc, là sức mạnh nội
tại, nề n tảng tinh thầ n của xã hô ̣i, vừa là mu ̣c tiêu, vừa là đô ̣ng lực thúc đẩ y sự
phát triể n của đấ t nước. Bảo tồ n và phát huy giá trị di sản văn hóa dân tô ̣c là một
nhiệm vụ then chốt trong chiến lược phát triể n văn hóa của dân tộc ta.
Bộ môn Lịch sử ở trường THPT là một môn học có “sở trường và ưu thế”
về giáo dục tư tưởng, tình cảm, đạo đức, truyền thống văn hoá dân tộc và tinh
hoa thế giới cho HS. Bởi vì, lịch sử là cụ thể, gắn với con người thật, việc thật;
là sự phản ánh hợp quy luật khách quan. Chương trình lịch sử ở trường phổ
thông đã nêu rõ yêu cầu, mục tiêu của bộ môn là: “…góp phần hình thành ở học
sinh thế giới quan khoa học, giáo dục lòng yêu quê hương, đất nước, truyền
thống dân tộc, cách mạng, bồi dưỡng các năng lực tư duy, hành động, thái độ
ứng xử đúng đắn trong đời sống xã hội” [7, 206]. Vì vậy, cùng với nội dung
quân sự, kinh tế, chính trị, xã hội, GV cần tổ chức HS lĩnh hội kiến thức về
thành tựu văn hoá. Nếu GV thực hiện có hiệu quả điều này thì sẽ có tác dụng
giáo dục nhiều mặt với người học.

Tuy vậy, làm thế nào để giáo dục ý thức bảo vệ nền văn hóa vật chất và
văn hóa tinh thần cho HS một cách hiệu quả trong các trường THPT hiện nay
1


còn nhiều điều đáng bàn. Phần lớn GV chưa tìm ra cách thức tổ chức HS lĩnh
hội kiến thức hấp dẫn, mới lạ. Tình trạng dạy học theo kiểu tóm tắt SGK rồi
thông báo còn tồn tại khá phổ biến. Người học bị động và phụ thuộc nhiều vào
GV trong tiếp nhận kiến thức. Vì vậy, việc dạy học nội dung văn hoá chưa thực
sự phát huy tác dụng giáo dục như ý nghĩa vốn có.
Chương trình lịch sử lớp 10 THPT là một khóa trình thể hiện khá rõ nét
các thành tựu văn hoá của nhân loại, đặc biệt là những thành tựu của nền văn
hóa Việt Nam. Mặc dù thời kì này đời sống con người gặp nhiều khó khăn, trình
độ nhận thức còn hạn chế… nhưng họ đã tạo ra các thành tựu văn hoá phong
phú, là nền tảng quan trọng cho bước tiến về khoa học kỹ thuật, đời sống vật
chất và tinh thần của con người ngày nay.
Vì những lí do trên, để góp phần nâng cao chất lượng dạy học nội dung
văn hoá trong chương trình môn học ở trường THPT, chúng tôi đã chọn đề tài
“Giáo dục ý thức bảo vệ văn hóa vật chất - tinh thần trong dạy học lịch sử ở
trường trung học phổ thông” để nghiên cứu.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
2.1. Tài liệu nước ngoài
Trong tác phẩm “Phương pháp dạy học lịch sử ở trường phổ thông” (Nxb
Giáo dục, Mátxcơva, năm 1972), A.A.Vaghin đã dành chương 8: “Những vấn đề
văn hoá trong khoá trình lịch sử trường phổ thông” để trình bày vị trí, vai trò
các tài liệu văn hoá - lịch sử trong các khoá trình lịch sử ở trường phổ thông
Liên Xô và những vấn đề chung về phương pháp dạy học loại tài liệu này. Trong
đó, ông đặc biệt nhấn mạnh các biện pháp nâng cao chất lượng dạy học lịch sử
thông qua sử dụng đồ dùng trực quan, SGK và các tài liệu lịch sử dùng cho nhà
trường. Cuối cùng, tác giả khẳng định, việc dạy học nội dung văn hoá sẽ đảm

bảo tính toàn diện cho người học.
Đairi trong cuốn “Chuẩn bị giờ học lịch sử như thế nào” (Nxb Giáo dục,
Hà Nội, năm 1973) đề cập tới tính đa dạng của nguồn tri thức và khẳng định:
Việc nghiên cứu nội dung văn hoá trong môn Lịch sử qua các tác phẩm hội hoạ ,
kiến trúc, điêu khắc… là cần thiết, không những tăng cường hứng thú của HS
2


đối với bộ môn mà còn góp phần nâng cao hiểu biết của các em. Ông đưa ra
những cách thức để tổ chức dạy học có hiệu quả, trong đó điểm mấu chốt là phải
xác định chất lượng sự kiện, ý nghĩa của nó với sự phát triển toàn diện của HS.
Đồng thời, tác giả chú trọng đến việc tổ chức giờ học nêu vấn đề và cho rằng đó
là giờ học có ý nghĩa đặc biệt đối với sự lĩnh hội kiến thức của HS, trên cơ sở
hoạt động tư duy độc lập của các em.
Với tác phẩm “Phát triển tư duy học sinh trong dạy học lịch sử” (bản dịch
viết tay của thư viện trường Đại học Sư phạm Hà Nội, 1986), tác giả I.Ia.Lecne
đưa ra một số biện pháp sư phạm nhằm phát triển tư duy và tăng cường khả
năng lĩnh hội kiến thức của HS trong quá trình học tập bộ môn. Qua đó, ông
khẳng định: Việc phát triển tư duy, kích thích năng lực sáng tạo, tính tích cực
nhận thức của HS là biện pháp quan trọng để tổ chức dạy học lịch sử hiệu quả.
Các tác giả J.Marc Dennommes và Madeleine Roy trong cuốn “Tiến tới
một phương pháp sư phạm tương tác” (Nxb Giáo dục, năm 2000) đã xác định
vai trò của GV và HS trong quá trình dạy học, sự tác động qua lại giữa hai yếu
tố này. Từ đó, các tác giả khẳng định việc đảm bảo mối quan hệ tương tác giữa
người dạy và người học sẽ làm quá trình tổ chức dạy học và việc lĩnh hội kiến
thức của HS hiệu quả hơn. Trên cơ sở đó, họ đề xuất một số phương hướng dạy
học để giải quyết tốt mối quan hệ này.
Mới đây nhất, trong cuốn “Các phương pháp dạy học hiệu quả” (2011),
nhóm tác giả Robert J.Marano, Debra J.Pickering, Janne E.Pollock đưa ra hệ
thống các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng cho quá trình tổ chức dạy học

như: việc khích lệ học tập, học theo nhóm, lập mục tiêu, gợi ý câu hỏi… Các tác
giả khẳng định, dù áp dụng biện pháp nào đi chăng nữa thì việc quan trọng nhất
là GV phải nuôi dưỡng hoạt động học tập đích thực cho người học, kích thích
HS tích cực, chủ động tham gia vào quá trình lĩnh hội tri thức. Bởi vì “GV khó
có thể nuôi dưỡng hoạt động học tập đích thực cho người học nếu như bản thân
họ lại không tham gia vào quá trình học tập”. Học tập đích thực bao giờ cũng
là một quá trình gian nan và bổn phận của người thầy là làm thế nào để quá

3


trình đó ít gian nan đối với người học” [2; 5]. Trong quá trình này, vai trò tổ
chức, hỗ trợ, hướng dẫn của GV rất quan trọng.
Như vậy, điểm qua các công trình nước ngoài chúng tôi thấy các tác giả
đều nhấn mạnh tầm quan trọng của việc giảng dạy nội dung học tập toàn diện
cho HS. Trong môn Lịch sử, bên cạnh kiến thức kinh tế, chính trị, quân sự…văn
hoá cũng là lĩnh vực quan trọng. Nếu dạy và học tốt nội dung này sẽ góp phần
phát triển toàn diện HS, đặc biệt là về nhận thức và thái độ. Các tác giả đã đề
xuất một số biện pháp, cách thức tổ chức dạy và học để nâng cao hiệu quả cho
bài học. Đây là một trong những nguồn tham khảo quý báu giúp chúng tôi hoàn
thiện khóa luận của mình.
2.2. Tài liệu trong nước
Vấn đề dạy và học nói chung, môn Lịch sử nói riêng được đề cập ở nhiều
khía cạnh khác nhau trong các sách tâm lý học, giáo dục học, giáo trình phương
pháp dạy học lịch sử, các tài liệu chuyên khảo, trên các tạp chí, luận án, luận văn
cao học, khóa luận tốt nghiệp…
Theo tác giả Phan Ngọc Liên, Trần Văn Trị trong cuốn “Phương pháp
dạy học lịch sử” (Nxb Giáo dục, Hà Nội, năm 1980) cho rằng cần trang bị tri
thức toàn diện cho HS. Từ đó, các em hiểu đầy đủ và sâu sắc về lịch sử, thấy sự
ảnh hưởng lẫn nhau giữa các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội trong

quá trình phát triển của lịch sử nhân loại.
Đến giáo trình “Phương pháp dạy học lịch sử” do Phan Ngọc Liên (chủ
biên), Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội, năm 2002 (được tái bản, bổ sung, sửa
chữa vào năm 2009), vấn đề trên được trình bày sâu sắc và toàn diện hơn. Ngoài
ra, tác phẩm còn đề cập đến vị trí, vai trò của việc dạy học nội dung văn hoá
trong môn Lịch sử ở nhà trường phổ thông. Dạy học nội dung văn hoá có tác
dụng giáo dục ý thức tôn trọng, bảo vệ, phát huy nền văn hoá dân tộc và tiếp
nhận tinh hoa văn hoá nhân loại cho người học. Từ đó, các tác giả khẳng định
“học tập lịch sử không thể không tìm hiểu các vấn đề về văn hoá” [7; 221].
Trong khi dạy các nội dung văn hoá, GV nên tổ chức HS khai thác kiến thức
liên môn để các em hiểu nội dung văn hoá sâu sắc và sinh động hơn.
4


Cuốn “Almanach những nền văn minh thế giới” (Nxb Văn hoá - Thông
tin, Hà Nội, năm 1996), cuốn “Lịch sử văn minh thế giới” (Nxb Giáo dục, Hà
Nội, năm 2007) do Vũ Dương Ninh (chủ biên) đã cung cấp cho người đọc hiểu
biết nhiều mặt về nền văn hoá của các quốc gia phương Đông và phương Tây
thời kì Cổ - Trung đại.
Trong tác phẩm “Lịch sử văn hoá thế giới Cổ - Trung đại” (Nxb Giáo
dục, Hà Nội, năm 2007), tác giả Lương Ninh đã đi nghiên cứu một cách khái
quát các thành tựu văn hoá thế giới trong giai đoạn Cổ - Trung đại.
Nhóm tác giả Nguyễn Thị Côi, Trịnh Đình Tùng, Nguyễn Mạnh Hưởng
trong cuốn “Hướng dẫn sử dụng kênh hình sách giáo khoa Lịch sử lớp 10 trung
học phổ thông” (Nxb Giáo dục, Hà Nội, năm 2009) đã cung cấp nội dung một số
thành tựu văn hoá trong khoá trình lịch sử và gợi ý phương pháp khai thác các
kênh hình trong SGK để tổ chức HS lĩnh hội kiến thức.
Ngoài ra, nội dung văn hoá cũng được đề cập trong các tạp chí, các luận
văn, khóa luận tốt nghiệp. Cụ thể:
Trần Viết Thụ trong bài “Vận dụng nguyên tắc liên môn khi dạy học

các vấn đề văn hoá trong sách giáo khoa lịch sử THPT” đăng trên Tạp chí
Nghiên cứu giáo dục (số 12) đã chỉ ra cách thức vận dụng kiến thức liên môn
vào dạy học nội dung văn hoá. Theo tác giả, để thực hiện biện pháp này có hiệu
quả, GV cần xác định nội dung và mức độ vận dụng kiến thức các môn học
khác; đồng thời phải tổ chức HS vận dụng chúng để làm rõ nội dung văn hoá
đang tìm hiểu.
Tác giả Nguyễn Thị Thơ trong luận văn “Dạy học nội dung văn hoá theo
hướng phát huy tính tích cực của học sinh trong môn lịch sử ở trường phổ
thông” (Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, 2011), trên cơ sở xác định ý nghĩa
của việc dạy học nội dung văn hoá, tác giả đã đề xuất một số giải pháp để phát
huy tính tích cực của HS khi dạy học nội dung này.
Như vậy, vấn đề tổ chức dạy học lịch sử nói chung, giáo dục ý thức bảo
vệ nền văn hóa, tinh hoa của nhân loại nói riêng được các nhà nghiên cứu trong
và ngoài nước quan tâm, đề cập ở nhiều khía cạnh khác nhau. Điểm qua các
5


công trình nghiên cứu nói trên, chúng tôi thấy các tác giả đều khẳng định tầm
quan trọng của việc dạy học nội dung văn hoá. Ngoài ra, các tài liệu còn đưa ra
những cơ sở lý luận, một số biện pháp, cách thức tổ chức dạy học nói chung, dạy
học lịch sử nói riêng. Đây là nguồn tham khảo quý báu giúp chúng tôi định
hướng, đi sâu và hoàn thiện khóa luận luận. Tuy vậy, các nhà nghiên cứu chưa
đi sâu tìm hiểu vị trí, vai trò, ý nghĩa của việc dạy học nội dung kiến thức về
thành tựu văn hoá nói chung, chưa đề xuất các biện pháp sư phạm đặc trưng để
việc giáo dục ý thức bảo vệ văn hóa nhân loại thức đạt hiệu quả; cơ sở lý luận và
thực tiễn của việc đưa ra các biện pháp ấy… Đây là những vấn đề chúng tôi sẽ
tập trung giải quyết trong khóa luận của mình.
3. Mục đích, đối tượng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở khẳng định vai trò, ý nghĩa của việc giáo dục cho HS ý thức

bảo vệ văn hóa vật chất - tinh thần trong DHLS ở trường phổ thông, đề tài đã
xác định nội dung và đề xuất một số biện pháp giáo dục ý thức bảo vệ văn hóa
vật chất - tinh thần trong dạy học lịch sử lớp 10 THPT - chương trình chuẩn,
nhằm nâng cao hiệu quả bài học.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là việc giáo dục cho HS ý thức bảo vệ
văn hóa vật chất - tinh thần trong dạy học môn lịch sử ở trường THPT.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
- Tập trung nghiên cứu quan điểm của các nhà giáo dục học, giáo dục lịch
sử ở trong nước và trên thế giới về những vấn đề có liên quan tới việc giáo dục
cho HS ý thức bảo vệ văn hóa vật chất - tinh thần trong DHLS.
- Đề tài chỉ vận dụng vào khóa trình lịch sử Việt Nam trong chương trình
SGK Lịch sử lớp 10 THPT (chương trình chuẩn).
- Đề tài tập trung nghiên cứu và đề xuất các biện pháp nhằm giáo dục cho
HS ý thức bảo vệ văn hóa vật chất - tinh thần trong DHLS.
- Chúng tôi tiến hành điều tra, khảo sát tại một số trường THPT ở Sơn La;
thực nghiệm sư phạm chỉ tiến hành trong một bài tại trường THPT Cò Nòi - Mai
sơn - Sơn La.
6


4. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở phương pháp luận
Cơ sở phương pháp luận của đề tài là lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh về nhận thức, giáo dục và quan điểm, đường lối của Đảng ta
về giáo dục nói chung, dạy học lịch sử nói riêng.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lí thuyết: Đọc, phân tích, tổng hợp các tài liệu
trong và ngoài nước có liên quan đến đề tài như tài liệu giáo dục học, tâm lý
học, giáo dục lịch sử, SGK lịch sử lớp 10 và các tài liệu tham khảo có liên quan

đến vấn đề nghiên cứu.
- Phương pháp tiếp cận thực tiễn: Điều tra về thực tiễn dạy học lịch sử nói
chung, việc giáo dục ý thức bảo vệ văn hóa vật chất - tinh thần trong DHLS ở một
số trường THPT thông qua phỏng vấn, phiếu điều tra, dự giờ thăm lớp, quan sát.
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm: Tiến hành thực nghiệm một bài trong
chương trình SGK lịch sử lớp 10 theo các biện pháp đã đề xuất trong khóa luận.
5. Đóng góp của đề tài
- Kết quả nghiên cứu góp phần khẳng định vai trò, ý nghĩa của việc giáo
dục ý thức bảo vệ văn hóa vật chất - tinh thần trong DHLS ở trường THPT.
- Phác hoạ được bức tranh thực trạng về việc giáo dục ý thức bảo vệ văn
hóa vật chất - tinh thần trong DHLS ở một số trường THPT.
- Đề xuất một số biện pháp trong việc giáo dục ý thức bảo vệ văn hóa vật
chất - tinh thần trong DHLS lớp 10 THPT - chương trình chuẩn.
6. Bố cục của đề tài
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, đề tài được
chia làm hai chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc giáo dục ý thức bảo vệ văn
hóa vật chất - tinh thần trong dạy học lịch sử ở trường trung học phổ thông.
Chương 2: Một số biện pháp giáo dục ý thức bảo vệ văn hóa vật chất tinh thần cho học sinh trong dạy học lịch sử Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XIX,
SGK Lịch sử lớp 10 - chương trình chuẩn.
7


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC GIÁO DỤC Ý THỨC
BẢO VỆ VĂN HÓA VẬT CHẤT - TINH THẦN TRONG DẠY HỌC
LỊCH SỬ Ở TRƯỜNG PHỔ THÔNG
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Các khái niệm
Để đưa ra được các biện pháp đúng đắn trong việc giáo dục học sinh ý

thức bảo vệ văn hóa vật chất - tinh thần trước hết, người giáo viên cần hiểu được
các khái niệm - nội hàm của vấn đề. Điều này có vai trò rất quan trọng, bởi nếu
không hiểu vấn đề thì người dạy sẽ không thể xác định đúng nội dung, biện
pháp tổ chức và hiệu quả giáo dục mang lại sẽ không cao.
Theo từ điển từ và ngữ Việt Nam: Giáo dục là quá trình hoạt động có ý
thức, có mục đích, có kế hoạch nhằm bồi dưỡng cho người ta những phẩm chất
đạo đức, những tri thức cần thiết về tự nhiên, xã hội, cũng như những kĩ năng, kĩ
xảo cần thiết trong đời sống [4,749]. Hay “Giáo dục là một hiện tượng xã hội
đặc biệt, bản chất của nó là sự truyền đạt và lĩnh hội kinh nghiệm lịch sử - xã
hội của các thế hệ loài người, nhờ có giáo dục mà các thế hệ nối tiếp nhau phát
triển, tinh hoa văn hoá dân tộc và nhân loại được kế thừa, bổ sung và trên cơ sở
đó mà xã hội loài người không ngừng tiến lên” [1; 15].
Ý thức: Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, ý thức là hình ảnh
chủ quan của thế giới khách quan. Đó là hình ảnh về thế giới khách quan, hình
ảnh ấy bị thế giới khách quan quy định cả về nội dung, hình thức biểu hiện
nhưng nó không còn y nguyên như thế giới khách quan mà đã được cải biến
thông qua lăng kính chủ quan (tâm tư, tình cảm…) của con người. Mác khẳng
định rằng: “Ý thức chẳng qua chỉ là vật chất được đem chuyển vào trong đầu óc
con người và được cải biến đi trong đó” [3; 25]. Ý thức là sự nhận thức về trách
nhiệm của mình đối với một việc nào đó [4; 104]. Như vậy, ý thức thuộc về mặt
chủ quan của con người. Đó chính là sự nhận thức của con người về một sự vật,
hiện tượng nào đó và nó có tác động chỉ đạo hoạt động thực tiễn của mỗi cá
nhân. Vì vậy, muốn thay đổi hành động của con người nói chung, học sinh nói
8


riêng, chúng ta cần có những biện pháp tác động vào ý thức của họ, cụ thể là
thông qua giáo dục.
Văn hoá: Có rất nhiều cách tiếp cận khác nhau về văn hoá. Sinh thời, chủ
tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài

người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, kho
học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về
mặc, ăn, ở, các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó
tức là văn hoá” [10]. Theo từ điển thuật ngữ lịch sử phổ thông, văn hoá là toàn
bộ những giá trị vật chất và tinh thần mà loài người, dân tộc sáng tạo ra nhằm
phục vụ nhu cầu của mình trong quá trình phát triển lịch sử. Trong từ điển từ và
ngữ Việt Nam, tác giả Nguyễn Lân cũng cho rằng văn hoà là “toàn bộ những giá
trị vật chất và tinh thần do loài người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử và tiêu
biểu cho trình độ mà xã hội đã đạt được trong từng giai đoạn về các mặt học
vấn, khoa học kĩ thuật, văn học, nghệ thuật, triết học, đạo đức, sản xuất” [4;
2002, 2003].
Mặc dù còn có những định nghĩa khác nhau, song dựa trên sự phát triển
của lý luận văn hoá hiện nay, chúng ta có thể rút ra những điểm chung trong
định nghĩa về văn hoá.
Văn hoá là sản phẩm của hoạt động con người, là kết quả sáng tạo của
nhiều thế hệ nhằm thoả mãn nhu cầu vật chất và tinh thần không ngừng tăng lên
của con người. Nói đến văn hoá không thể không nói đến những giá trị mà nó
tạo ra và hoạt động sáng tạo ra giá trị đó. Không chỉ tạo ra thế giới với các đối
tượng phong phú và đa dạng, con người không chỉ làm biến đổi các điều kiện
khách quan mà còn biến đổi chính bản thân mình, tự phát triển và hoàn thiện
mình. Con người có thể tự nhìn nhận bản thân mình, tự đánh giá khả năng,
trình độ phát triển của mình qua các sản phẩm mình làm ra. Mỗi giá trị văn hoá
đều hàm chứa trong bản thân nó năng lực trí tuệ, tinh thần và cảm xúc… Sự
phong phú của hệ thống giá trị trong hiện thực chỉ là hình thức bên ngoài của
sự tồn tại văn hoá, còn nội dung bản chất của văn hoá là sự phát triển của bản
thân con người.
9


Như vậy, văn hoá được hiểu là hệ thống những giá trị phong phú trong

hiện thực, được tạo nên bởi hoạt động sáng tạo cả về vật chất và tinh thần của
nhiều thế hệ trong lịch sử. Các giá trị này biểu hiện trình độ phát triển và những
đặc trưng riêng của mỗi dân tộc.
Văn hóa vật chất là toàn bộ những gì do con người sản xuất, nhằm đáp
ứng nhu cầu vật chất ăn, mặc, ở, đi lại, công cụ sản xuất, phương tiện sản xuất…
nói lên trình độ phát triển của con người trong lĩnh vực sản xuất vật chất, thể
hiện trình độ chiếm lĩnh và khai thác những vật thể trong tự nhiên.
Văn hoá tinh thần bao gồm toàn bộ những sản phẩm do hoạt động sản
xuất tinh thần của con người tạo ra như tư tưởng, tín ngưỡng - tôn giáo, nghệ
thuật, lễ hội, phong tục, đạo đức, ngôn ngữ, văn chương… Lĩnh vực văn hóa
tinh thần gồm các thành tố: Văn hóa tư tưởng, văn hóa giáo dục, văn hóa nghệ
thuật, văn hóa lối sống, văn hóa lễ hội… Những thành tố này có quan hệ chặt
chẽ với nhau tạo thành nền tảng tinh thần xã hội.
Giáo dục ý thức bảo vệ văn hóa vật chất - tinh thần trong DHLS ở
trường THPT là quá trình người giáo viên sử dụng các biện pháp sư phạm hay
phương pháp dạy học để truyền đạt kiến thức về các thành tựu văn hóa cho học
sinh, giúp người học hiểu sâu sắc hơn các giá trị văn hoá do con người tạo nên
không chỉ đáp ứng nhu cầu vật chất hay tinh thần của cuộc sống hiện tại mà
chúng còn tạo ra cơ sở, động lực giúp nhân loại phát triển theo hướng văn minh,
hiện đại hơn, từ đó hình thành cho học sinh ý thức bảo vệ những hoa văn hóa
của dân tộc Việt Nam nói riêng và của toàn nhân loại nói chung.
1.1.2. Xuất phát điểm
Thứ nhất, xuất phát từ tình hình nhiệm vụ và chiến lược phát triển văn
hoá của đất nước
Bên cạnh kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá là một lĩnh vực vô cùng quan
trọng trong đời sống con người. Nó góp phần hình thành nên bản chất của mỗi
con người và tạo nên bản sắc riêng của mỗi quốc gia, dân tộc. Xuất phát từ tầm
quan trọng của vấn đề, Bác Hồ lúc sinh thời và Đảng ta luôn quan tâm đến việc
giữ gìn bản sắc dân tộc của nền văn hoá Việt Nam. Người khẳng định: “Trong
10



công cuộc kiến thiết nước nhà có bốn vấn đề cùng phải chú ý đến và phải coi là
quan trọng ngang nhau: chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá” [10].
Tiếp tục tư tưởng của Bác, trong thời kì đổi mới hiện nay, Đảng ta khẳng
định nền văn hoá mà chúng ta xây dựng là nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc. Nghị quyết “Xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc” mà Hội nghị trung ương 5 khoá VIII (1998) đưa ra đến
nay vẫn là Nghị quyết có ý nghĩa chiến lược, chỉ đạo quá trình xây dựng và phát
triển sự nghiệp văn hoá ở nước ta. Trên cơ sở kế thừa và phát triển Nghị quyết
trung ương 5 khoá VIII, văn hiện Đại hội X (2006) đã nhấn mạnh: “Tiếp tục
phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc, gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát triển kinh tế - xã hội, làm
cho văn hoá thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội” [10].
Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kì quá độ lên Chủ nghĩa xã hội (bổ
sung, phát triển năm 2011) được Đại hội XI của Đảng thông qua đã xác định:
“Xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển
toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn,
dân chủ, tiến bộ; làm cho nền văn hoá gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ
đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan
trọng của phát triển” [10].
Như vậy, vấn đề văn hoá nói chung, giữ gìn, phát triển bản sắc văn hoá
dân tộc nói riêng luôn luôn được Đảng ta coi trọng. Hiện nay, nước ta đang đẩy
mạnh công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá để đến năm 2020 hoàn thành
mục tiêu về cơ bản nước ta trở thành một nước công nghiệp. Trước sự phát triển
như vũ bão của các ngành kinh tế, trước xu thế hội nhập, vấn đề văn hoá và bảo
tồn bản sắc dân tộc và tiếp thu tinh hoa nhân loại càng được coi trọng. Mặt khác,
công cuộc này cũng tạo ra quá trình đấu tranh phức tạp giữa cái lạc hậu và tiến
bộ, giữa cái tốt và cái xấu, giữa tư duy trì trệ, bảo thủ và đổi mới… Vấn đề đặt
ra là chúng ta phải giữ gìn cái gì, xoá bỏ cài gì.

Cơ chế thị trường làm cho tính tích cực xã hội được phát huy. Con người
trở nên tích cực, năng động. Bên cạnh lĩnh vực kinh tế, các hoạt động văn hoá và
11


dịch vụ văn hoá trở nên năng động, đa dạng và phong phú hơn, nhưng cũng tiềm
ẩn những rủi ro, phức tạp. Mặt trái của cơ chế thị trường tác động đến từng gia
đình, các quan hệ xã hội, quan hệ cộng đồng. Bên cạnh sợi dây tình cảm, đồng
tiền đang trở thành sự chi phối chủ yếu trong các mối quan hệ xã hội, dần làm
mất đi những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
Con người vừa là đối tượng vừa là chủ thể của văn hoá. Đảng ta xác định:
“Hướng mọi hoạt động văn hoá vào việc xây dựng con người Việt Nam phát
triển toàn diện về chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng
tạo; tuân thủ pháp luật; có ý thức cộng đồng, lòng nhân ái khoan dung, trọng
nghĩa tình, lối sống văn hoá, quan hệ hài hoà trong gia đình, cộng đồng và xã
hội, làm cho văn hoá trở thành nhân tố thúc đẩy con người tự hoàn thiện nhân
cách, thấm sâu vào toàn bộ đời sống và hoạt động xã hội, vào mọi lĩnh vực sinh
hoạt và quan hệ con người trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
và hội nhập quốc tế; gắn kết mối quan hệ giữa văn hoá và xây dựng môi trường
văn hoá với vấn đề hình thành nhân cách.” [10]
Căn cứ vào tình hình, nhiệm vụ của đất nước, Đảng ta đã đề ra mục tiêu
phát triển văn hoá đến năm 2020: “…Tiếp tục đẩy mạnh công tác bảo tồn, kế
thừa và phát huy các giá trị tốt đẹp của văn hoá dân tộc, vừa phát huy mạnh mẽ
tính đa dạng, bản sắc độc đáo của văn hoá các dân tộc anh em, vừa kiên trì
củng cố và nâng cao tính thống nhất trong đa dạng của văn hoá Việt Nam, tập
trung xây dựng những giá trị văn hoá mới, đi đôi với việc mở rộng và chủ động
trong giao lưu quốc tế, tiếp nhận có chọn lọc tinh hoa văn hoá thế giới, làm
phong phú thêm nền văn hoá dân tộc, bắt kịp sự phát triển của thời đại…” [10]
Thư hai, xuất phát từ truyền thống giáo dục của cha ông
Từ xa xưa, cha ông ta đã có ý thức giáo dục cho con cái những truyền

thống văn hoá tốt đẹp. Đó là những giá trị rất gần gũi với mỗi con người và nó
tồn tại ngay trong mỗi gia đình: nếp sống, cách ăn, cách nói… Các thế hệ đi
trước đã đúc kết lại thành những câu tục ngữ để truyền lại cho con cháu:
Giấy rách phải giữ lấy lề.
Học ăn, học nói, học gói, học mở.
Ăn trông nồi, ngồi trông hướng….
12


Đó là những bài học tưởng chừng đơn giản nhưng lại mang một giá tri
truyền thống văn hoá to lớn của dân tộc, dạy cho con người ta lối sống, cách
sống, cách làm người có văn hoá…
Từ khi có trường lớp, giáo dục cũng góp phần quan trọng vào giáo dục
truyền thống của dân tộc nói chung, truyền thống văn hoá nói riêng. Các bậc cha
mẹ thường có câu: “Cho con đi học dăm ba chữ để làm người”. Họ mong muốn
con em mình đi học không chỉ lĩnh hội được kiến thức mà còn rèn luyện cả nhân
cách, đạo đức, lối sống và những giá trị tốt đẹp mà thế hệ trước để lại.
Tư tưởng cốt lõi trong việc giáo dục truyền thống của cha ông ta là “ôn cố nhi
tri tân”, học cũ để biết mới, kế thừa có chọn lọc để phát triển nhanh và cao hơn.
Xuất phát từ truyền thống giáo dục của cha ông, Đảng ta chỉ ra phương
châm trong giáo dục truyền thống: “học xưa là vì nay, học cũ để làm mới”[9;
17]. Học người xưa không phải chỉ để cho biết, thoả tính tò mò mà phải vận
dụng vào cuộc sống hiện tại. Mỗi hoàn cảnh, mỗi thời đại mỗi khác, vì vậy, khi
tiếp thu giá trị văn hoá của cha ông, chúng ta phải làm mới và phát triển dựa trên
cốt lõi bản sắc vốn có của nó. Một minh chứng rõ nhất cho sợi dây truyền thống
văn hoá của dân tộc được kế thừa và phát triển trong thời đại mới đó chính là tà
áo dài Việt Nam. Xưa kia, các bà, các mẹ, các chị mặc áo dài truyền thống.
Ngày nay, trong tình hình phát triển kinh tế, với xu thế hội nhập, tiếp thu có
chọn lọc, những chiếc áo ấy đã được cải tiến nhiều cho phù hợp với xã hội hiện
đại (bó sát hơn, thay đổi về màu sắc, kiểu dáng…). Song, tà áo dài vẫn không

bị mất đi giá trị vốn có mà lại càng tôn thêm vẻ duyên dáng, dịu dàng, nữ tính
của người con gái Việt Nam. Hình ảnh những chiếc áo dài Việt Nam được bạn
bè khắp năm châu biết đến và coi như một nét văn hoá độc đáo riêng có của dân
tộc ta.
Thứ ba, xuất phát từ mục tiêu đào tạo của nước ta
Mục tiêu giáo dục của nước ta được cụ thể hoá trong Luật Giáo dục năm
2005, được sửa đổi và bổ sung năm 2009 như sau: “Mục tiêu giáo dục là đào tạo
con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm
mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
13


hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực công dân, đáp
ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [10]. Theo đó, con
người được đào tạo không chỉ có kiến thức, kĩ năng mà còn phải mang trong
mình những giá trị văn hoá tốt đẹp.
Thứ tư, xuất phát từ ưu thế và sở trường của bộ môn lịch sử. Bộ môn lịch
sử ở trường trung học phổ thông là một trong những môn học có “sở trường và
ưu thế” [6; 204] trong việc giáo dục tư tưởng, tình cảm, đạo đức, truyền thống
văn hoá của dân tộc và thế giới cho học sinh. Ngay từ thời cổ đại, người ta đã
xem “lịch sử là cô giáo của cuộc sống”, “lịch sử là bó đuốc soi đường đi đến
tương lai” [6, tr.204], “Lịch sử là triết học của noi gương” [7; 31]. Lịch sử là
những cái đã qua với những con người cụ thể và những việc làm cụ thể. Nó đã
được chứng minh và thử thách qua thời gian, qua đấu tranh dựng nước và giữ
nước của biết bao thế hệ. Lịch sử là bằng chứng sống, xác thực, không thể chối
cãi của quá khứ. Do vậy, thông qua lịch sử để giáo dục cho thế hệ trẻ về truyền
thống dân tộc sẽ mang lại tác động rất lớn.
Thông qua việc giảng dạy nội dung văn hoá trong môn lịch sử, học sinh
không chỉ có cái nhìn toàn diện về sự phát triển của lịch sử nhân loại, nắm được
các truyền thống văn hoá dân tộc, thành tựu văn hoá thế giới, mà còn hình thành

ở các em tư tưởng nhân văn, biết quý trọng và giữ gìn những sản phẩm vật chất
và tinh thần của nhân loại, góp phần hoàn thiện nhân cách của người học.
Mặt khác, qua quá trình này, các em sẽ hình thành được những cảm xúc
thẩm mỹ tốt đẹp, đặc biệt là lòng khâm phục với người xưa, từ đó các em có
mong muốn đóng góp công sức của mình vào sự phát triển của đất nước. Học
và hiểu các nội dung văn hoá, học sinh sẽ biết kế thừa và phát huy những giá
trị truyền thống của dân tộc, đồng thời biết tiếp thu tinh hoa của các dân tộc
trên thế giới, làm giàu có hơn nền văn hoá Việt Nam. Qua đó, giáo viên góp
phần hình thành cho học sinh ý thức giữ gìn, bảo vệ và phát huy nền văn hoá
của dân tộc.
Vì ưu thế đó, chương trình lịch sử ở trường phổ thông, ban hành năm
2006, đã nêu rõ một yêu cầu, mục tiêu của bộ môn, đó là: “…góp phần hình
14


thành ở học sinh thế giới quan khoa học, giáo dục lòng yêu quê hương, đất
nước, truyền thống dân tộc, cách mạng, bồi dưỡng các năng lực tư duy, hành
động, thái độ ứng xử đúng đắn trong đời sống xã hội” [6; 206].
Thư năm, xuất phát từ xu thế toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế. Đây là thời
kì mở cửa, các quốc gia đẩy mạnh sự hợp tác toàn diện về mọi mặt, trong đó chủ
yếu là kinh tế. Quá trình toàn cầu hoá về kinh tế có nguy cơ dẫn đến xung đột
với việc bảo tồn bản sắc và đa dạng văn hoá trên phạm vi toàn thế giới, đồng
thời cũng xuất hiện khả năng gắn chặt quá trình kinh tế với quá trình văn hoá.
Kinh tế không thể phát triển bền vững nếu không đặt rõ vấn đề văn hoá trong
mỗi hoạt động kinh tế. Trong bối cảnh ấy, các quốc gia ngày càng đề cao tính
đặc thù, bản sắc văn hoá dân tộc, coi trọng việc giữ gìn và phát huy giá trị di sản
văn hoá, đấu tranh chống khuynh hướng đồng hoá về văn hoá; đồng thời chọn
lọc tiếp thu các giá trị tinh hoa văn hoá của nhân loại. Như vậy, hội nhập, toàn
cầu hoá là xu thế tất yếu, khách quan, vừa là quá trình hợp tác để phát triển, vừa
là quá trình đấu tranh bảo vệ lợi ích quốc gia. Bối cảnh này tạo ra cả thời cơ và

thách thức đối với văn hoá nước ta
+ Thời cơ:
Với xu thế hoà bình, hợp tác, phát triển, toàn cầu hoá và sự phát triển
mạnh mẽ của khoa học công nghệ thông tin tạo điều kiện cho giao lưu, hội nhập
và tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại. Công nghệ thông tin phát triển tạo điều
kiện cho mọi người tổ chức sự liên lạc với xã hội; internet giúp mọi người tiếp
cận lượng thông tin đồ sộ của nhân loại và mỗi quốc gia.
Trong bối cảnh toàn cầu hoá về kinh tế, với đường lối đa phương hoá,
đa dạng hoá quan hệ quốc tế, văn hoá nước ta có cơ hội thuận lợi để tiếp thu tri
thức, các nguồn lực và kinh nghiệm quản lý tiên tiến, tiếp thu tinh hoa văn hoá
nhân loại và sáng tạo những giá trị văn hoá mới. Đồng thời, các giá trị văn hoá
của dân tộc có điều kiện lan toả trên phạm vi toàn cầu. Việt Nam có điều kiện
quảng bá văn hoá dân tộc tới bạn bè quốc tế.
Cơ chế thị trường đã huy động được sự tham gia của các thành phần kinh tế
vào sản xuất, phổ biến các sản phẩm văn hoá, kích thích một số ngành sản xuất
15


kinh doanh trong lĩnh vực văn hoá xuất hiện, mở ra khả năng giải quyết việc làm,
nâng cao thu nhập, tạo tiền đề cho việc phát triển “công nghiệp văn hoá” ở nước ta
Các điều kiện kinh tế, xã hội phát triển tạo thuận lợi cho văn hoá phát
triển. Nhu cầu hưởng thụ văn hoá của nhân dân tiếp tục được nâng cao, tạo động
lực cho phát triển văn hoá. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, trình độ nhận thức,
văn hoá của nhân dân có điều kiện được nâng cao hơn.
+ Thách thức:
Sự du nhập ào ạt của các nền văn hoá trên thế giới sẽ tác động sâu rộng
đến đời sống văn hoá của nhân. Trong bối cảnh ấy, văn hoá là một lĩnh vực dễ bị
tổn thương, đặc biệt bản sắc văn hoá, văn hoá truyền thống dễ bị tổn thương hơn
cả. Chúng ta phải đấu tranh gay gắt để bảo tồn bản sắc văn hoá dân tộc. Đồng
thời, xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa bảo vệ bản sắc văn hoá dân tộc với tiếp

thu có chọn lọc tinh hoa văn hoá nhân loại sẽ làm phong phú cho văn hoá đất
nước, thúc đẩy văn hoá phát triển.
Sự tiếp thu thiếu chọn lọc văn hoá ngoại lai sẽ làm cho nền văn hoá dân
tộc bị “lai căng”, những truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc đứng trước
nguy cơ bị tha hoá.
Tác động tiêu cực của kinh tế thị trường, chạy theo lối sống, văn hoá nước
ngoài làm cho văn hoá nước ta bị biến dạng, nhiều mặt xuống cấp, kéo theo sự
suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống. Cơ chế thị trường làm nảy sinh khuynh
hướng thương mại hoá các hoạt động văn hoá. Sản phẩm văn hoá độc hại không
những có chiều hướng gia tăng do nhập lậu từ nước ngoài, mà còn được sản xuất
ngay trong nước; lối sống chạy theo đồng tiền… ảnh hưởng đến sự phát triển nhân
cách của con người, đặc biệt là lớp trẻ, tác động xấu đến truyền thống văn hoá của
dân tộc.
Do ý đồ của một số cường quốc muốn áp đặt những giá trị văn hoá cho
các dân tộc khác dựa trên sức mạnh của công nghệ thông tin, nên nguy cơ về sự
đồng nhất hoá các hệ giá trị văn hoá đang đe doạ, làm hạn chế khả năng sáng
tạo, sự đa dạng của các nền văn hoá; việc truyền bá lối sống bạo lực, phi luân,

16


vô chính phủ, đề cao dục vọng và chủ nghĩa cá nhân… đặt chúng ta trước những
thách thức không thể xem thường.
Mặt khác, các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh âm mưu và thủ đoạn
“diễn biến hoà bình” nhằm tạo ra những diễn biến phức tạp trên lĩnh vực tư
tưởng, văn hoá, đạo đức, lối sống trong nội bộ ta.
1.1.3. Vai trò, ý nghĩa của việc giáo dục ý thức bảo vệ văn hóa vật chất - tinh
thần cho học sinh trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông
* Vai trò: Trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông, việc giáo dục cho
học sinh ý thức bảo vệ văn hóa vật chất - tinh thần đóng vai trò vô cùng quan

trọng. Lịch sử là những cái đã qua, là kết tinh những truyền thống tốt đẹp của
cha ông ta từ bao đời để lại. Đó là kết quả của quá trình lao động, đấu tranh gian
khổ, phải trả bằng xương máu và nước mắt của biết bao thế hệ ông cha và là sự
chắt lọc của thời gian.
Lịch sử được thể hiện thông qua những truyền thống chính là sợi dây liên
kết giữa quá khứ - hiện tại - tương lai, tạo nên mạch phát triển bền vững của mỗi
quốc gia, dân tộc. Nếu đánh mất truyền thống là chúng ta đánh mất đi nguồn cội
và làm mất đi sức sống của chính mình. Lênin từng cảnh báo: “Quên quá khứ là
phản bội”. Cây có gốc mới nẩy cành xanh ngọn, nước có nguồn mới có biển
rộng sông sâu” [9; 16]. Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng chỉ rõ: “Quá khứ,
hiện tại và tương lai dính liền với nhau. Quá khứ cắt nghĩa hiện tại, hiện tại
chuẩn bị tương lai” [9; 17]. Do vậy, “từ trong cái bếp lò tinh thần của cha ông,
chúng ta cần lấy ra không phải nắm tro tàn nguội lạnh mà là ngọn lửa đang bốc
cháy” [7; 31]. Nhiệm vụ của người giáo viên lịch sử là phải chuyển tới cho học
sinh “ngọn lửa đang bốc cháy” đó. Hay nói cách khác, từ trong lịch sử, người
giáo viên sẽ tìm thấy giá trị, bản sắc, sức sống của dân tộc và điều này có tác
dụng giáo dục rất lớn đối với học sinh.
* Ý nghĩa:
Về kiến thức: Giúp cho học sinh biết và hiểu những truyền thống văn hoá
tốt đẹp của dân tộc như cách ăn, mặc, ở, đi lại, đạo đức, lối sống, những thành
tựu vật chất và giá trị tinh thần mà cha ông để lại. Thông qua môn học, các em
17


sẽ nhận thức được rằng, truyền thống văn hoá dân tộc là những giá trị chuẩn
mực, ăn sâu vào tư tưởng, tình cảm và tính cách của mỗi người. Tuy nhiên nó
không phải là cái gì bất biến mà được kế thừa, phát triển và loại bỏ những yếu tố
lạc hậu. Bên cạnh kiến thức lịch sử dân tộc, phần lịch sử thế giới cung cấp cho
học sinh những tinh hoa của nhân loại. Học sinh hiểu và sẽ biết lựa chọn, tránh
việc đua đòi, chạy theo văn hoá nước ngoài một cách mù quáng, làm mất đi bản

sắc dân tộc.
Ví dụ: Khi tìm hiểu về nhà nước Văn Lang - Âu Lạc, giáo viên tổ chức
cho học sinh tìm hiểu những nét cơ bản về đời sống vật chất, tinh thần của cha
ông ta thời kì này. Dưới sự hướng dẫn, tổ chức của giáo viên, học sinh sẽ dần
hiểu rằng những giá trị văn hoá của cư dân thời Văn Lang - Âu Lạc rất đơn giản:
tục ăn trầu, ở nhà sàn, nhuộm răng đen… Nhưng đây lại chính là những yếu tố
tạo nên bản sắc riêng của dân tộc và đặt nền móng cho sự phát triển của truyền
thống văn hoá dân tộc trong những thời kì tiếp theo. Nó tạo ra sức mạnh cho sự
cố kết cộng đồng, chống lại âm mưu đồng hoá của kẻ thù trong thời kì nghìn
năm Bắc thuộc.
Về thái độ: Thông qua môn học, giáo viên làm nảy sinh ở các em lòng tự
hào về truyền thống văn hoá dân tộc; lòng khâm phục người xưa; giáo dục cho
các em ý thức giữ gìn và phát triển văn hoá dân tộc, tiếp thu tinh hoa nhân loại;
từ đó góp phần hoàn thiện nhân cách người học; hình thành ở học sinh tư tưởng
nhân văn…Từ đó, thế hệ trẻ nói chung, học sinh nói riêng sẽ nhận thức được
trách nhiệm của mình trong thời đại mới. Tuổi trẻ chỉ có thể đảm đương nổi
trách nhiệm của “người thay phiên gác” cho các thế hệ trước khi biết trân trọng
và làm giàu thêm những di sản của quá khứ như Mác đã dạy: “Ta làm sống lại
những người đã mất là để ca ngợi cuộc đấu tranh mới, là để tìm thấy trở lại cái
tinh thần cách mạng” [9, tr.19]. Tìm về với quá khứ chính là tìm về với sức
mạnh, là để tiếp sức thêm cho hiện tại và tương lai.
Ví dụ: Khi dạy về phần văn hoá nước ta dưới thời Bắc thuộc, giáo viên tổ
chức cho học sinh nắm được phong kiến phương Bắc cố gắng tìm mọi cách
đồng hoá về văn hoá đối với nước ta (bắt nhân dân ta thay đổi phong tục tập
18


quán, cho người Hán ở lẫn với người Việt, bắt học chữ nho, truyền bá nho
giáo…). Nhân dân ta vẫn giữ được những truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân
tộc (tục ăn trầu, nhuộm răng đen…), đồng thời biết tiếp nhận và “Việt hoá”

những yếu tố tích cực của nền văn hoá Hán và tạo thành bản săc của dân tộc. Từ
đó, học sinh không chỉ biết và hiểu được truyền thống văn hoá của cha ông mà
còn thấy khâm phục, tự hào về tinh thần đấu tranh giữ gìn bản sắc văn hoá, biết
tiếp thu một cách sáng tạo yếu tố văn hoá bên ngoài của cha ông ta. Từ đó, các
em nhận thức được trách nhiệm của mình trong thời đại ngày nay.
Về kĩ năng: Rèn cho các em kĩ năng phân tích, nhận xét, đánh giá về các
hiện tượng, thành tựu văn hoá của dân tộc và nhân loại. Từ đó, học sinh sẽ biết
chắt lọc cái gì nên bảo tồn, phát triển, tiếp thu, cái gì là lỗi thời, lạc hậu…
Ví dụ: Giáo viên tổ chức cho học sinh tìm hiểu về văn hoá địa phương,
các em đóng vai trò là một nhà sử học nhỏ tuổi. Qua hoạt động này, học sinh
không chỉ trau dồi thêm kiến thức về lịch sử dân tộc mà còn hình thành ở các
em những kĩ năng: sưu tầm, xử lý tài liệu; phân tích, nhận xét, đánh giá vấn
đề; hình thành ở các em tính năng động, tích cực, có trách nhiệm với công
việc. Các em sẽ ý thức được trách nhiệm của mình trong việc giữ gìn và phát
triển các giá trị văn hoá, các công trình văn hoá của địa phương và ngay trong
chính gia đình mình.
1.1.4. Một số yêu cầu khi giáo dục cho học sinh ý thức bảo vệ văn hóa vật
chất - tinh thần trong môn lịch sử ở trường phổ thông
Thứ nhất, kế thừa luôn luôn đi đôi với đổi mới. Chúng ta chắt lọc, kế
thừa từ quá khứ những gì tinh tuý nhất, tốt đẹp nhất. Nhưng nếu cứ giữ nguyên
thì những gì tốt đẹp ấy sẽ không phát huy hết sức mạnh của mình, rồi cũng sẽ
bị lạc hậu theo năm tháng, hoàn cảnh. Vấn đề đặt ra là khi kế thừa, chúng ta
phải tránh rập khuôn máy móc, nguyên si mà phải biết chọn lọc, chắt chiu;
phải làm cho những giá trị ấy nhân lên gấp mười, gấp trăm lần, phục vụ đắc lực
cho công cuộc xây dựng nền văn hoá và con người mới. Đổi mới không phải là
thay đổi, xoá bỏ mọi truyền thống, mà là kế thừa có chọn lọc để phát triển nhanh
và cao hơn.
19



Thứ hai, tiếp thu là để sáng tạo. Nếu chúng ta chỉ thừa nhận, ca ngợi
truyền thống tốt đẹp thôi thì chưa đủ. Trên cơ sở tiếp thu những giá trị văn hoá
truyền thống cũng như tinh hoa nhân loại, chúng ta phải có sự sáng tạo cho phù
hợp với hoàn cảnh mới, tạo ra truyền thống mới. Có như vậy, sức sống của
những gì mà chúng ta tiếp thu được mới phát huy hết giá trị và bền lâu.
Thứ ba, giáo dục cho học sinh ý thức bảo tồn gắn liền với phát triển. Cách
tốt nhất để gìn giữ những giá trị văn hoá của ông cha đó là trên cơ sở giữ lại
những gì là tốt đẹp nhất, chúng ta phải tìm cách phát triển, làm cho chúng tăng
thêm sức mạnh trong thời đại mới, phục vụ đắc lực cho công cuộc xây dựng chế
độ mới.
Thứ tư, giáo dục cho các em ý thức học xưa là vì nay, hiểu cũ để làm mới.
Lịch sử chính là gốc, rễ, cội nguồn của quốc gia, dân tộc và mỗi cá nhân. Nó
được biểu hiện cụ thể qua truyền thống và tạo nên động lực, sức mạnh, sức sống
bền lâu cho quốc gia dân tộc. Truyền thống chính là “gạch nối”, là “mạch sống”
giữa quá khứ và tương lai. Học để biết và noi gương người xưa, làm theo và
phải nỗ lực vươn tới làm hơn cả người xưa nữa. Học người xưa là để tạo nên sức
mạnh cho cuộc sống hôm nay và mai sau.
1.2. Cơ sở thực tiễn
- Trong thực tế quá trình dạy học lịch sử ở các trường phổ thông hiện nay,
việc dạy học nội dung văn hoá vẫn chưa được đặt đúng vị trí,ý nghĩa của nó.
Giáo viên thiên về giảng dạy các nội dung chính trị, quân sự. Do đó, việc giáo
dục truyền thống văn hoá cho học sinh thông qua môn lịch sử còn gặp nhiều hạn
chế.
- Hiện nay, trong xã hội ta có nhiều tấm gương thanh niên, học sinh sống
có lí tưởng tốt đẹp, sẵn sàng hi sinh bản thân để mang lại cuộc sống cho bao
người, là biểu hiện của truyền thống dân tộc và là tấm gương sáng cho thế hệ trẻ
hôm nay.
Trong vụ chìm tàu tại Cần Thơ vào đầu tháng 8/2013, anh Trần Hữu Hiệp
(1988)- chàng thanh niên 25 tuổi đã không quản ngại nguy hiểm, trong lúc đối
mặt với sự sống còn, với sóng dữ nguy hiểm đã vật lộn sóng gió cứu sống được

20


5 người, cảm động và kính phục hơn nữa là anh đã cởi chiếc áo phao đang mặc
để nhường cho một phụ nữ đang kiệt sức giữa dòng nước xoáy để rồi sau đó
chính anh đuối sức, bị sóng dữ cuốn chìm. Trong ranh giới giữa sự sống và cái
chết, những giây phút nguy nan anh đã dũng cảm, không ngần ngại để nhường
sự sống cho người khác. Hành động của anh đã làm rung động trái tim hàng
triệu người với nghĩa cử cao đẹp, là tấm gương sáng về lòng nhân ái, đức hy
sinh, tình người trong lúc hoạn nạn, tấm gương của anh đã trở thành bất tử của
nét sống đẹp, sống có ích, biểu tượng cao đẹp về lòng dũng cảm và trách nhiệm
công dân trước xã hội… điều đó đã nối tiếp những truyền thống tốt đẹp của dân
tộc ta về lòng dũng cảm, về lối sống đẹp, truyền thống nhân ái cao thượng để thế
hệ trẻ hôm nay học tập và có nhiều việc làm thiết thực trong cuộc sống.
Trong giới học sinh, sinh viên, các phong trào tình nguyện diễn ra rầm rộ.
Các tầm gương nghèo vượt khó học giỏi ngày càng nhiều…Trong các kì thi đại
học, thủ khoa đa số là con em nông thôn. Điều này đã tạo ra lòng khâm phục
trong giới trẻ.
Tuy vậy, trong xã hội vẫn còn những điều đáng buồn và gây trăn trở cho
xã hội. Một bộ phận giới trẻ nói chung, học sinh nói riêng đang có sự xói mòn
về tư tưởng, đạo đức, lối sống, quan niệm về giá trị văn hoá. Đó là tình trạng bộ
phận thanh niên, học sinh sống thiếu lý tưởng, hoài bão, xa dời các giá trị truyền
thống, chạy theo văn hoá nước ngoài một cách mù quáng, chạy theo lối sống
thực dụng, ích kỷ, thiếu trách nhiệm với cộng đồng, gia đình và ngay cả chính
bản thân mình; ứng xử kém văn hoá…Hiện tượng học sinh đánh hội đồng, đặc
biệt là nữ sinh có chiều hướng gia tăng. Tình trạng nói tục, chửi bậy, đua đòi
diễn ra khá phổ biến trong các nhà trường. Mới đây báo mạng có đưa hình ảnh
nữ sinh ở một trường phổ thông mặc áo dài ngồi hút thuốc lá; tình trạng học sinh
phổ thông đi xe máy, không đội mũ bảo hiểm, đèo năm, đèo ba, đèo năm đến
trường khá phổ biến… Một vài năm gần đây, trong xã hội ta rộ lên hiện tượng

một bộ phận giới trẻ nói chung, học sinh nói riêng thích thể hiện cái tôi bản thân
theo hướng xa dời những giá trị truyền thống văn hoá, những chuẩn mực đạo
đức, bất chấp sự trà đạp lên thuần phong mĩ tục của dân tộc. Mới đây nhất là
21


×