Tải bản đầy đủ (.pdf) (67 trang)

Những trận đánh trong lịch sử Việt Nam - Chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 Phần 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.46 MB, 67 trang )

Thư viện tỉnh
Điện Biên

(Chu biên) - Dại tá NGUYÌN MINH Dffc
TRUONGCỒNGHUỲNHKỲ- l ỉ VÂNDẠT


Bạn <

959.7

H

O

N

G

Ĩ

R



N

Ũ

9


NHA

XUÂT

BAN

TRÉ

Ã

N

H


Biên soạn
m

G S . T S P han N g ọ c Liên (C h ủ biên)
P G S . T S Đ ạ i tá N g u y ễ n M in h Đ ứ c
T S Bùi Thị Thu Hà
T S T rư ơ ng C ô n g H u ỳn h K ỳ
T S Lê V ă n Đ ạ t

\_____________________________1___ /

BIỂU GHI BIÊN MỤC
BỞI THƯ VỆN
KHTH TP.HCM
• TRƯỚC XUẤT BẢN ĐƯỢCTHựC


• HỂN
»
I
Chiến thắng Điện Biên Phủ 1954 / Phan Ngọc Liên ch.b. - T.p. Hồ Chí M inh: Trẻ, 2009.
184tr.; 24cm. - (Những trận đánh trong lịch sử Việt Nam).
1. Chiến iranh Đông Dương, 1946-1954. 2. Điện Biên Phủ (Việt Nam), trân đánh, 1954.
3. Việt Nam -- Lịch sử --1945-1975.1. Phan Ngọc Liên ch.b. II. Ts: Những trận đánh trong lịch
sửViêtNam.
959.7041 - dc 22
C533
CT Đ iê n B iê n Phù 1954

8

J lli!!!

934 9 7 4

086239


PHAN NGỌC LIỆN (Chủ biên) - Dại tá NGUỴĨN MINH oữc
BÙI THỊ THU HÀ - TRUÔNG C0NG huỳnh k ỹ - l i VầN DAT


••

t h ư v i Ị n tinh đi | n w ền


KHO O ỊA CMt'

NHÀ

XUẤT

BẢN

TRẺ


NHỮNG TRẬN
ĐÁHH TRONG LỊCH
sử VIỆT
NAM



CHIẾN THẮNG ĐIỆN
BIÊN PHỦ 1954
#
PHAN NGỌC LIÊN (CHỦ BIÊN)
Đại tá NGUYỄN MINH ĐÚC - BÙI THỊ THƯ HÀ TRƯƠNG CÔNG HUỲNH KỲ - LÊ VĂN DAT

Chịu trách nhiệm xuất bản:
TS. QUÁCH THU NGUYỆT
Biên tập:
ANH DŨNG
Bìa:
BỜI NAM

Sứa bản in:
ANH DŨNG
K ĩ thuật vi tính:
XUÂN THẾ

NHÀ XUẤT BẢN TRỀ
161B Lý Chính Thắng - Quận 3 - Thành phốHị ChíMinh
ĐT: 39316289 - 39350973 39316211 - 38465595- 38465596
-

Fứz 84. 8. 38437450 - E-maiỉ: mbừe@ han ưrtn ưn
\Vebsite: http://www. nxbtre. com. vn
CHI NHÁNH NHÀ XUẨT b ầ n trẻ tại h à nội
Số 20 ngõ 91 Nguyễn Chí Thanh, Q. Đống Đa, TP. Hà Nội
ĐT. (04) 37734544 Fax (04) 37734544
-

E-maỉt uanphongnxbtre@ hn. vnn. m

Khổ 16x24cm, Sô 83-2009/CXB/113-12/Tre. Quyết đĩnh xuất bản số 329A/QĐ-Tre, ngày 9 tháng 4
năm 2009. In 2.000 cuốn, tại Công ty cổphần in Thanh Niên, sô'62 Trần Huy Liệu, Quận Phú Nhuận,
TP.HCM. ỉn xong và nộp lưu chiều tháng 4 năm 2009.


Mỗ đầu
Việt Nam ở vị trí chiến lược quan trọng trên con đường từ Bắc xuống Nam,
từ Đông sang Tây, thuận lợi cho việc giao thương và tiếp nhận nhiều nền văn
hoá của thế giới. Đồng thời, Việt Nam cũng trở thành đối tượng xâm lược của
nhiều kẻ thứ tủ nhiều phương kéo đến. Các đội quân xâm lược thường đông, được
vũ trang đầy đủ, mạnh, ảo những tên tướng dày dạn chiến chinh mà vó ngựa

của chúng từng dầy xéo nhiều nước khác.
Vì vậy, trong mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước, nhăn dân Việt Nam
phải đương đầu với hàng chục cuộc chiến tranh xâm lược của phong kiến -phương
Bắc, bọn thực dân, quân phiệt, đế quốc ở châu Ầu, châu Ẵ, châu M ĩ và nhiều nước
đồng minh của chúng. Cuộc chiến đấu rất gay go, ác liệt, hy sinh, tổn thất khơng
ít và nhiều lần chúng ta đã thất bại, ỉ?ằz'đơ hộ hơn nghìn năm Bắc thuộc, gần trăm
năm dưới ách thôhg trị của thực dân Pháp, quân phiệt Nhật và hơn hai thập kỷ
dưới chế độ thực dân mới của đếqnốc Mĩ. Thời gian bị chiếm đóng dài gần bằng
nhũng thế kỷ được độc lập dưới chế độ phong kiến dân tộc và ngay trong những
năm tháng được độc lập, tự do cũng -phải tiến hành những cuộc kháng chiến
chống ngoại xâm , đấu tranh chống những âm mưu, hoạt động phá hoại, lật đổ
của các thế lực phản động trong và ngoài nước.
Thết bại trong kháng chiến chống ngoại xâm là tạm thời (dù có lúc bị đồ hộ hơn
mười thế kỉ), cục bộ, vì nhân dân Việt Nam liên tiếp khởi nghĩa vũ trang, khơng
chịu đồng hố, và cuối cùng đã đánh đuổi kẻ thù phải tháo chạy về nước hay "vẫy
đuôi xỉn hàng". Với lòng nhân đạo cao cả, tổ tiên ta đã "mở rộng lòng hiếu sinh",
"tha tội chết", cấp Ỉươỉĩg thực, thuyền, ngựa xe cho kẻ xâm lược về nước.
Đồng thời trong chế độ phong kiến dân tộc, nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân
cũng nổ ra chống sự áp bức, bóc ỉột của các triều đại ở vào mạt kì hay khi chế
độ này đã suy yếu. M ột số cuộc khởi nghĩa nông dân đã trở thành chiến tranh
nông ảân, rồi chiến tranh giải phóng dân tộc. Tiêu biểu là phong trào nông dân
Tây Sơn. Nguyên nhân thắng lợi cuối cùng của các cuộc đấu tranh giải phóng

5


dân tộc, chống áp bức đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh khái qtẻ*"...Dân ta có
một lịng nồng nàn u nước. Đó là một truyền thơng qụý báu của ta. Từ xưa
đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tỉnh thần ây lại sơi nổi, nó kết thành
một làn sóng vơ cùng mạnh mẽ, to ỉớn, nó lướt CỊiia mọi sự nguy hiểm khó khăn,

nó nhấn chìm, tất cả lũ bán nước và ỉũ cướp nước.
Lịch sử ta đã có nhiều cuộc kháng chiến vĩ đại chứng tỏ tinh thần yêu nước
của dân ta. Chúng ta có quyền tự hào về những trang sử vẻ vang thời đại Hai
Bà Trưng, Bà Triệu , Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung , v.v... Chúng ta phải
ghi nhớ công lao của các vị anh hùng dân tộc, vì các vị ấy là tiêu biểu của một
dân tộc anh hùng... Tinh thần yêu nước cũng như các thứ của quý. Có khi được
trưng bày trong tủ kính, trong bình pha lê, rõ ràng dễ thây. Nhưng cũng có khi
cất giấu kín đáo trong rương, trong hòm. Bổn phận của chúng ta là làm cho
những của quý, kín đáo ấy đều được đưa ra trưng bày. Nghĩa là phải ra sức giải
thích, tuyên truyền, tổ chức, lãnh đạo, làm cho tinh thần yêu nước của tất cả mỗi
người đều được thực hành vào công việc yêu nuớc, công việc kháng chiến.
Tinh thần yêu nước chân chính khác với tinh thần "vị quốc" của bọn đế quốc
phản động. Nó là một bộ phận của tinh thần quốc tế..."1
Ý kiến dẫn trên của Hồ Chí Minh là một cơ sở phương pháp luận để chúng
tôi tổ chức biên soạn bộ sách "Những trận đảnh trong lịch sử Việt Nam",
gồm nhiều tập.
Hiểu biết về những trận đánh trong lịch sử dân tộc để xây dựng lịng tự hào
chính đáng với dân tộc, ni dưỡng lịng yêu nước chân chính kết hợp với tỉnh
thần quốc tếđiíng đắn, củng cố tinh thần đấu tranh chống mọi ách thống trị, bóc
lột. Từ đó, củng cố lịng tin vào dân tộc, cách mạng và Đảng Cộng sản Việt Nam,
nhất định sẽ đưa nhân dân tới thắng lợi trong việc xây dựng đất nước tiến lên
chủ nghĩa xã hội, làm cho dân giàu, nước mạnh , xã hội văn minh. Qua hiểu biết
các cuộc chiến đấu, chúng ta càng biết ơn những anh hùng, chiến sĩ có tên và
khơng tên, toàn thể nhân dân đã hy sinh cho đất nước, dân tộc, cách mạng.
Chúng ta ghi nhớ mãi công lao to lớn của Bác Hồ, các chiến sĩ yêu nước, cộng
sản, đã kế thửa và phát huy tinh thần, ý chí, tài thao lược của tổ tiên đã làm nên

1 Hơ Chí Minh: Tồn tập, tập 6, Nxb CTQG, Hà Nội, 1996, tr.171-172.

6



những chiến thắng huy hoàng trong thời đại ngày nay - thời đại Hồ Chí M inh ,
kế tiếp các thời đại Văn Lang - Ầu Lạc, Đại Việt. Trên cơ sở nhận thức như vậy ,
chúng ta xác định nhiệm vụ, trách nhiệm của mình trong việc hồn thành sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa ngày nay.
Cần nhận thức rằng, trong công cuộc chống ngoại xâm và chống các thế lực
phản động , thống trị trong nước, cuộc đấu tranh của ông cha ta bao giờ cũng
mang tính chất một cuộc chiến tranh nhân dân mà hình tiĩợng tiêu biểu đầu
tiên là cảnh "cả dân làng Phù Đổng theo Gióng đi đánh giặc Ân". Tiếp đó, là
việc huy động lực lượng của hơn sáu mươi thành của Hai Bà Trưng đánh đuổi
Tô Định, giải phóng đất nước khỏi ách đơ hộ tàn khốc cứa phong kiến Hán. Kế
thừa và phát triển đêh đỉnh cao của chiến tranh nhân dân ỉà cuộc kháng chiến
chống Pháp rồi chông M ĩ xâm lược, do Đảng ta lãnh đạo.
Cuộc chiến tranh nhân dân chống xâm lược, chồng áp bức bóc lột khơng chỉ
diễn ra trong các trận thắng lợi mang tính quyết chiến chiến ỉược, mà cịn thể hiện
ở nhiều hình thức khác cũng rất quan trọng, như các trận đánh trong một cuộc
khởi nghĩa, trong một phong trào đấu tranh rộng lớn, những cuộc chiến đấu
thầm lặng song khơng kém phần ác liệt, địi hỏi trí lực, sự khôn ngoan, dũng cảm
của những chiến sĩ, anh hùng trong trận tuyến tình báo, biệt động... giữa lịng

địch. Do đó, các tập sách "N hững trận đảnh trong lịch sử Việt Nam"'khơng
chỉ trình bày những trận đánh lón mà tất cả những trận đánh trên nhiều trận
tuyến khác nhau (trừ lĩnh vực văn hoá, ngoại giao chưa được đề cập ở đây).
Những trận đánh ỉớn hay nhỏ, nhưng có tác dụng, ảnh hưởng đến cuộc đấu tranh
cho mục tiêu chiến đấu, đều là chủ đề của việc biên soạn.


'


*#



Khi trình bày những trận đánh lớn, diễn ra trong một thời gian và không gian
nhất định, chúng tôi cũng đề cập đến những trận đánh tiêu biểu trong một cuộc
khởi nghĩa, như trận thắng Vụ Quang trong cuộc khởi nghĩa Hương Khê (18851895) do Phan Đình Phùng , Cao Thắng lãnh đạo, trận chống càn ở Cao Thương
(tháng 11-1890) trong cuộc khởi nghĩa Yên Thế của Hoàng Hoa Thám , hay những
trận đánh trong một phong trào, như phong trào Đồng Khởi (1959-1960); Trọng
tâm của sách vẫn nói về những trận đánh, chứ khơng phải trình bày cuộc khởi nghĩa
hay phong trào yêu nước, cách mạng, song sự hiểu biết của một hay cấc trận đánh
sẽ góp phần hiểu rõ hơn cuộc khởi nghĩa hay phong trào đấu tranh.

7


Qua tìm hiểu "Những trận đánh trong lịch sử Việt Nam", chúng ta sẽ
nhận thấy rõ rằng, nhân dân ta vì bảo vệ Tổ quốc, giải phóng dân tộc, chống các
thế lực áp bức, thôhg trị trong nước phải cầm vũ khí đấu tranh; kẻ thù buộc ơng
cha ta cầm vũ khí. Điều này thể hiện rỗ trong "Lịi kêu gọi tồn quốc kháng
chiến" (1946) của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Chúng ta muốn hồ bình, chúng ta
phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lân
tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta ỉần nữa!
Khơng! chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất
định không chịu làm nô lệ.

... Ta phải hy sinh ảến giọt máu cuối cùng để giữ gìn đất nước"1.
Nội dung các tập sách sẽ thể hiện tỉnh thần quyết chiến, quyết thắng của nhân
dân Việt Nam vì độc lập, tự do và tiến bộ xã hội, song rất u chuộng hồ bình,
biết tiết kiệm xương máu, giàu lòng nhân đạo, biết nhân nhượng, song nhân

nhượng có ngun tắc, khơng vi phạm mục tiêu chiêh đấu .

Các tập trong bộ sách "Những trận đánh trong lịch sử Việt N am " được
biên soạn trên cơ sở tài liệu khoa học, chính xác, khách quan, khơng "nói một
chiều", song bảo đảm quan đỉểm, đường lối của Đảng, tư tưởng Hồ Chí M inh ,
nhằm mục tiêu giáo dục, chủ yếu cho thế hệ trẻ.
Các tập sách không phải là một chuyên khảo về lịch sứ quân sự mà mang tính
chất một £ổíễliệu phổ biến khoa học, nên không sa vào các chi tiết rườm rà mà
chỉ nêu những kiến thức cơ bản về sự kiện, nhân vật , không gian , thời gian,
những khái quát, nhận định cần thiết. Để sách gây hứng thú cho bạn đọc, các
tác giả sử dụng nhiều loại tài liệu tham khảo, tranh, ảnh , sơ đồ, lược đồ... phù
hợp với nội dung sách. Chúng tôi cô'gắng thể hiện nội dung sách mang tính chất
lịch sử - văn hố - du lịch (về nhận thức và di tích tham quan du lịch các di
tích - thắng cảnh).
Mong bạn đọc góp ý kiến. Trân trọng cảm ơn.
GS.TS -N G N D P h a n Ngọc Liên
(Ngi chỉ đạo biên soạn)
1 Hồ Chí Minh: Toàn tập, sđd, tập 4, tr. 480.

8


Lời nói đầu
Kể tử ngày dựng nước, nhân dân Việt Nam đã trải qua hàng trăm
cuộc khởi nghĩa, kháng chiến chống kẻ thù xâm lược, đô hộ tù nhiều
phiĩơng đến. Cuộc đấu tranh có lúc thắng và khơng ít ỉần thết bại,
nhưng cuối cùng cũng đánh đuổi quân thù ra khỏi bờ cỗi, giữ vững độc
lập dân tộc, chủ quyền quốc gia.
Cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, hay kháng chiên bảo vệ đất
nước bao giờ cũng kết thúc bằng một trận quyết chiêh chiến lược, mở

ra một thời kỳ mới trong lịch sử dân tộc. Đó là chiến thắng Bạch Đằng,
Chi Lăng, Đống Đa... Chiến thắng nối tiếp chiến thắng , tạo nên truyền
thống anh hùng của dân tộc trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước.
Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ 1954 tiếp nối truyền thống vẻ
vang của dân tộc ta, tô thắm trang sử vàng của nhân dân, ghi tiếp
những chiến thắng lẫy lừng trong quá khứ và đặt cơ sở cho những chỉêh
thắng tiếp sau (Ấp Bắc, Vạn Tường, cuộc tổng tấn công và nổi dậy Tết
Mậu Thân 1968 và chiến thắng mùa Xuân 1975) và những thắng lợi
khác trên các lĩnh vực chính trị, kỉnh tế, văn hoá, giáo dục... Như vậy,
chiến thắng Điện Biên Phủ là "cái quả" của truyền thống dân tộc và
"cái nhân" của các chiến thắng tiếp sau. Cho nên, hiểu biết về chiến
thắng Điện Biên Phú là để hiểu sâu sắc hơn truyền thông dân tộc mà
cốt lỗi là truyền thống yêu nước và biến thành sức mạnh trong công
cuộc xây dụng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa ngày nay.
Trong hội nhập quốc tế theo xu hướng tồn cầu hố việc giáo dục cho
thế hệ trẻ hỉểu biết, ý thức về lịch sử dân tộc để vững bước ở hiện tại
và tương ỉaỉ là điều cần thiết và cấp thiết. Bởi vì, như Bác Hồ dạy:
‘V ân ta phải biết sử ta,
Cho tường gốc tích nuớc nhà Việt N am ”1
1 Hồ Chí Minh: Tồn tập, tập 3, Nxb CTQG, Hà Nội, 1996, tr.229.

9


Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, nhân kỉ niệm 55 năm ngày chiến thắng
lịch sử Điện Biên Phủ (1954 - 2009), chúng tôi biên soạn quyển "Chiến
th ắ n g Điện Biên Phủ 1954", trong bộ sách " N h ữ n g trận đánh
trong lịch sử Việt Nam", với mục đích tưởng niệm những người đã
anh dũng hy sinh cho chiến thắng và làm cho "các thế hệ sau Điện Biên
Phủ" luôn ghi nhớ về một chiến cồng "chấn động địa cầu" để lập nên

"nhiều chiến thắng Điện Biên Phủ" trong ngày nay và mai sau.
Việc giáo dục "truyền thống Điện Biên Phủ" được tiến hành trên cơ
sở sự hiểu biết khoa học về lịch sử theo quá trình "nhớ lại" (ký ức),
"hiểu" và "thực hiện" những bài học, kỉnh nghiệm quá khứ được nhận
thức. Điều này thể hiện một phương châm, thái độ đúng đối với việc
nhận thức ỉịch sử, gây hứng thú cho học tập, ý thức về sự cần thiết phải
học tập, khắc phục sự thờ ơ, lãnh cảm với quá khứ, rơi vào tình trạng
"mù lịch sử", hay biết mà không hiểu lịch sử, không rút ra bài học kinh
nghiệm quá khứ cho hiện tại. cần phải ý thức rằng: "truyền lại một ký
ức và làm sông lại một bản sắc không phải chỉ để lại một di sản mà còn
là vạch ra một cách sơng"1.
Biên soạn về Chiến thắng Điện Biên Phủ có nhiều tài liệu có giá trị,
như quyển "Điện Biên Phủ" của Đại tướng Võ Nguyên Giáp (Nxb
CTQG, H N, 1998), "Điện Biên Phủ - Hợp tuyển cơng trình khoa

học" (Nxb CTQG, H N , 2005)... Trong phạm vi và mục đích biên soạn
cho đồng đảo bạn đọc, đặc biệt là bạn đọc trẻ, quyển "Chiến thắng
Điện Biên Phủ 1954" chủ yếu trình bày diễn biến cứa chiến dịch. Tuy
nhiên , đây không phải là tập chuyên khảo lịch sử quần sự về một chiến
dịch lớn, cũng không -phải là một tài liệu giáo khoa mà chỉ là ỉoại sách
phổ biến khoa học lịch SZ/ẼVì vậy, chúng tơi thể hiện, các u cầu chủ
yếu sau đây:
Tài liệu bảo đảm sự chính xác khoa học, dựa trên cơ sở những thành
tựu nghiên cứu về chiến thắng Điện Biên Phủ.

1 Candau J. Mémoire et Identité, Paris, PUF, 1998, tr.114.

10



- Bảo đảm quan điểm mácxít-ỉêninnít, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường
lối của Đảng về lịch sử nói chung, về chiến thắng Điện Biên Phủ nói
riêng, đấu tranh chống sự xuyên tạc, hạ thấp ý nghĩa, vai trò của chiến
thắng mà các thế lực phản động thường rêu rao.
- Cô'gắng trình bày ngắn gọn, hấp dẫn của loại sách lịch sử - văn

hố - du lịchể
Do đó, nội dung sách được cấu tạo như sau:
- Khái quát chung về bối cảnh lịch sử, diễn biến và ý nghĩa lịch sử
của chiến thắng Điện Biên Phủ , với những nét chủ yếu.
- Nhíỉng mẩu chuyện về chiến thắng Điện Biên Phủ.
- Giới thiệu những địa danh, thơ văn, di tích lịch sử, bài hát, tranh,
ảnh liên quan...
Dù cố gắng, song khó tránh được những sai sót trong sách, mong
bạn đọc thứ lỗi và góp ý.
Trân trọng cảm ơn.
Phan Ngọc Liên

(Chủ biên)

11


PHẦN

I


NHỮNG TRẬN ĐÁNH TRONG LỊCH s ử VIỆT NAM


ới chiến thắng “chấn động địa cầu”, Điện Biên Phủ, một địa danh
ở vùng rừng núi xa xăm Tây Bắc Việt Nam trở nên gần gũi vói nhân
dân nhiều nước trên th ế giói. Một sơ" nhà sử học phưong Tây dùng “Điện
Biên Phủ” như một danh từ để chỉ “Một sự th ất bại hoàn toàn”, “Một sự
th ấ t thủ... và phải gọi đứng tên nó: “Một sự đầu hàng” (của chủ nghĩa đế
q"c Pháp.)1. “Điện Biên P hủ” cịn được dùng như một động từ
“dienbieníuer”, có nghĩa ‘‘đánh đến cùng”, “đánh cho tan tác”, quyết
giành thắng lợi”. Cho nên, một nhà nghiên cứu phải thừa nhận: “Điện
Biên Phủ là trận Valmy* của các dân tộc da mầu”2ẳĐúng vậy, “Điện Biên
Phủ” là hồi kèn thúc giục nhân dân bị áp bức vùng lên đấu tranh; bồi vì
họ rút ra từ Điện Biên Phủ bài học: trước khi ngồi vào bàn hội nghị nói
chuyện với bọn thực dân đế quốc phải giáng cho chúng nhũng đồn chí
mạng. Điện Biên Phủ vói chiến thắng lẫy lìmg đã gắn với tên nước, tên
nhà cách mạng yêu nước Hồ Chí Minh: “Việt Nam - Hồ Chí Minh Điên Biên P h ủ ”.

V

Sự biến đổi to lớn của vùng đất này là một hình ảnh thu gọn của Tổ
quốc Việt Nam từ thơi dựng nước, qua nhiều thịi kỳ lịch sử.
Vì vậy, để hiểu rõ hơn chiến thắng lịch sử gắn liền với tên đất, với
những sự kiện xảy ra trên mảnh đất này, chứng ta trở về vói quá khứ
Điện Biên.
#

I

ĐỊA DANH - CƯƠNG vự c ĐỊA LÝ







Đ iện Biên Phủ là một bộ phận của lãnh thổ Việt Nam, có vị trí chiến
lược quan trọng, một trong những địa phưong có con ngi sinh sng t
lõu ũi.
ã

ã



JL



ã

ã

/

ô

1 Bỏo Observateur" (Ngi quan sỏt), số ra ngày 1 3 /5 /1 954ễ
' Valmỵ là trận thắng lớn củạ quận đội>cách mạng Pháp với liên quân phong kiến châu Âu, ngày
20/9/1792, được xem là “Chiến thắng đầu tiên của các dân tộc đối với vua chúa” ễ
2 Philippe Moreau Deíarges: Les relations internationales dans le monde d'aujourd'hui... Edition
STH, 1992, tr.192


14


CHIẾN THẮNG ĐIỆN
BIỀN
PHỦ 1954
»
__________________________

1. ĐỊA D A N H -CƯƠNG vực

Từ thuở trước, tên gọi vùng đất Điện Biên ngày nay là Mường T h a n h ,
xa hon nữa là Mường Then (có nghĩa “Mương Trơi”). Tên gọi đã hàm
nghĩa vùng đất là noi “thiêng liêng”, khác vói cõi trần, gắn với những
thần thoại và truyền thuyết phát sinh ra dân tộc Thái ngày nay. Và cũng
được xem là “đất tổ” của nhiều ngành Thái, cư trứ ở các nước Đông Nam
Á khác, như Lào, Thái Lan.
%

Khi tù trưởng Lạng Chương đưa một sô" ngươi Thái đen ở Mương
Lò (nay là Nghĩa Lộ, thuộc Yên Bái) vào vùng đất Mương Thanh để
khai phá đ ất hoang, lập bản thì vùng đất này đã có tên là “Song
T h a n h ”. Địa danh có ý nghĩa tượng hình về một vùng đất lịng chảo
rộng lớn vơi hai mương, đều khởi đầu là Thanh. Đó là “T h a n h N ư a ”
(Thanh trên) gồm miền đất từ bản Noọng Het trở lên đến đầu nguồn
sông Nậm Rốm và “T hanh T ẩu (Thanh dưới) chạy từ bản Noọng Het
đến cuối sông Nậm Rôm.
Trên vùng đất Song Thanh, vào khoảng th ế kỉ X - XII, tộc ngứòi Thái
đã xây dựng Viềng Xam Mứn (thành Tam Vạn, nghĩa là ba vạn - có lẽ là
ba vạn đinh). Các muờng thuộc Mương Thanh Nưa có Mng Phăng,

Mng Nha, Mường Luân, Muxmg Lào, Muừng Lói (nay thuộc tỉnh Điện
Biên), Muờng Và, Xốp Cộp (nay thuộc tỉnh Son La) và Mường Ư (nay
thuộc tỉnh Phông Sa Lỳ của CHDCND Lào).
Trước đó, khi đất n-uớc Văn Lang roi vào ách đơ hộ của phưong Bắc
thì Tây Bắc cũng thuộc quận Giao Chỉ và cùng các dân tộc anh em chịu
bao nhiêu cảnh khổ đau.
Sau khi nước ta giành đưực độc lập, tự chủ, Điện Biên cũng được giải
phòng. Thơi Lý, Điện Biên nằm trong đất Lâm Tây. Thòi Trần, cả nước
chia làm mứơi hai châu và Mương Thanh thuộc châu Ninh Viễn, sau đổi
là Ninh Biên, thuộc lộ Đà Giang. Năm 1432, Lê Thái Tổ đổi châu Ninh
Biên thành châu Phụ Lễ (gồm cả đất Muừng Thanh thuộc lộ Gia Hung,
một phần lớn lãnh thổ của lộ này thuộc tỉnh Lai Châu ngày nay).

15


NHỮNG TRẬN ĐÁNH TRONG LỊCH s ử VIỆT NAM

Năm 1469, Lê Thánh Tông chia Đại Việt làm mưữi hai thừa tun,
Mưịng Thanh thuộc phủ An Tây, thừa tun Hưng Hố. Năm 1775, sau
khi đàn áp cuộc khởi nghĩa Hồng Cơng Chất, chúa Trịnh đặt châu
Ninh Biên thuộc phủ An Tây, lấy đất Điện Biên làm trung tâm. Thơi
vua Gia Long (1802-1819) nhà Nguyễn, châu Ninh Biên lại thuộc phủ
Gia Hưng. Năm 1831, Minh Mệnh lại đặt phủ Gia Hưng thuộc tỉnh
Hưng Hoá. Năm 1841, vua Thiệu Trị đặt phủ Điện Biên, gồm các châu
Ninh Biên, Tuần Giáo và Châu Lai. Phủ ly đặt tại Chiềng Lề thuộc đất
Điện Biên ngày nay.
Dưới thoi Pháp thuộc, Điện Biên Phủ là một phần đất thuộc đạo quan
binh thứ tư, trong khu vực quân sự Vạn Bé (gồm phần lớn đất đai các
tỉnh Son La, Điện Biên, Lai Châu ngày nay). Năm 1910, tỉnh Lai Châu

được thành lập, Điện Biên trở thành phủ Điện Biên của tỉnh Lai Châu.
Sau khi miền Bắc được hoàn tồn giải phóng, Khu tự trị Thái - Mèo
(sau đổi là Khu tự trị Tây Bắc) được thành lập. T ất cả các châu, huyện
ở vùng Tây Bắc trực thuộc Khu, khơng có cấp tỉnh. Châu Điện Biên
trực thuộc Khu Tây Bắc. Đến tháng 12/1962, ba tỉnh Lai Châu, Son La,
Nghĩa Lộ được th àn h lập. Tỉnh Lai Châu cò bảy huyện và một thị xã
(thị xã Lai Châu). Huyện Điện Biên thuộc tỉnh Lai Châu, cò ba mưoi
xã và hai thị trấn.
Ngày 18/4/1992, thị xã Điện Biên được thanh lập trên cơ sở thị trấn
Điện Biên và xã Thanh Minh. Huyện Điện Biên cũ cồn lại hai mưoi chín
xã và một thị trấ n - thị trấn Nơng trường Điện Biên. Ngày 7/10/1995,
huyện Điện Biên được chia ra hai huyện - Điện Biên và Điện Biên Đông.
Tháng 11-2003, thị xã Điện Biên Phủ có quyết định trở thành thành phố
Điện Biên P hủ1.
1 Theo Nghị quyết kỳ họp thứ tư, Quốc hội khoá XI (tử ngày 20/10 - 26/11/2003), tỉnh Lai Châu
được chia thành hai tỉnh - Điện Biên và Lai Châu. Tỉnh Điện Biên gồm thành phố Điện Biên, các huyện
Điện Biên, Điện Biên Đông, Mường Lay, Mường Nhé, Tủa Chùa, Tuần Giáo và thị xã Lai Châu. Tỉnh Lai
Châu gồm các huyện Mường Tè, Phong Thổ, Sìn Hồ, Tam Đường và Than Uyên.
Thành phố Điện Biên Phủ - nơi diễn ra Chiến thắng lịch sử 1954 - là tỉnh ly tĩnh Điện Biên, gồm bảy
phường: Tân Thanh, Him Lam, Noong Bua, Mường Thanh, Thanh Bình, Nam Thanh, Tân Trường và
xã Thanh Minh.

16


CHIỂN THẮNG ĐIỆN
BIÊN
PHỦ 1954

-


2. Đ ỊA LÝ1

Điện Biên là vùng đất có địa th ế cao, núi rừng trùng điệp mà Điện
Biên Phủ là một thung lũng rộng lớn, có sông Nậm Rốm chảy qua. Thung
lũng rộng lơn này được bao bọc bởi một vùng đồi núi chập chùng, kéo dài
vói hai vùng rõ rệt.
Vồng ngồi là những dãy nứi cao, nối nhau liên tiếp, độ cao trung
bình là một ngàn mét, đỉnh cao nhất là Phu Huổi Luông (hai ngàn một
trăm bảy mưoi tám mét). Tồn vùng có diện tích tự nhiên khoảng hai
trăm ngàn hecta, chiếm 65% diện tích của huyện Điện Biên (tỉnh Lai
Châu cũ). Vồng trong là vùng đồi núi thấp vói độ cao trung bình bảy
trăm mét, độ dốc từ 16-20°, có tổng diện tích là chín mươi mốt ngàn
hecta, chiếm 21% tồn huyện Điện Biên.
Thung lũng Điện Biên Phủ vói diện tích hai mưoi lăm ngàn bảy trăm
hecta, chiếm 8% diện tích của huyện. Vùng này gồm nhiều thung lũng
nhỏ, hẹp nốì nhau, bao vây cánh đồng Mng Thanh vói bốn ngàn hecta
ruộng nướcỂĐây là cánh đồng rộng nhất trong bốn cánh đồng nổi tiếng của
vùng Tây Bắc Việt Nam, được truyền miệng qua câu “Nhất Thanh, nhì Lồ,
tam Than, tứ Tấc”. Trong tác phẩm “Kiến Văn tiểu lục ” của nhà bác học Lê
Quý Đôn, thế kỷ XVIII, Mubĩig Thanh được miêu tả địa thế hiểm trở, song
quang cảnh đẹp, sản vật, tài nguyên phong phú như sau: “Thế núi vồng
quanh, nước sông bao bọc, đồn sở ở giữa, ruộng đất bằng phẳng mầu mỡ,
bôn bên đến chân núi đều phải đi một ngày đưịĩig, cơng việc làm ruộng
bằng cơng việc các châu khác mà sô" hoa lọi thu hoạch lại gấp đôi. Thổ sản
có sa nhân, sáp vàng, diêm tiêu, lưu huỳnh và sắt sống”2.
Điện Biên nằm ở trung tâm thung lũng, từ đây có những con đưịng
toả đi khắp vùng Tây Bắc. Từ trung tâm Mubng Thanh theo quốc lộ 12,
qua Mưồng Pồn, Mường Muôn lên đến Mưcmg Lay (thị xã Lai Châu,
thuộc tỉnh Lai Châu cũ, nay thuộc tỉnh Điện Biên) dài 103km. Từ Điện

1 Dẫn theo Bùi Xuân Đính: Điện Biên Phủ dưới góc nhìn dân tộc học - lịch sử, trong “ Điện Biên Phủ
- Hợp tuyển công trình khoa học", Nxb CTQG, Ha Nội, 2005, tr.58-62, Hồng Đạo Thuý (chủ biên),
Đất nước ta, Nxb KHXH, Hà NỘÍ1989.
2 Lê Quý Đôn: Kiến văn tạp lục, Nxb sử học, Hà Nội, 1962, tr.359-360.

[ thi/
17


I

viên tinh điên BlcN
v' _

/

K M tO IA C H I


NHỮNG TRẬN ĐẢNH TRONG LỊCH s ử VIỆT NAM

BẢN BỐ HÀNH CHÍNH TỈNH BIỆN BIÊN
102*30'

103*00'

103*30*

TRUNG
QUỐC


LAI CHAU

M Ư .Ị N O ^N O ÍẾ

<

UBNDxã
Huyện lỵ
Tỉnh lỵ
Ranh giới xả
Ranh giới huyện
Ranh giới tỉnh
Ranh giới quốc gia
Đường giao thơng
Đường mịn
Sơng suối

102*30ễ

103*00'

TỶ LỆ 1/250000

18

103°30ẽ


CHIẾN THẮNG

ĐIỆN
BĨẼN PHỦ 1954
_________


Biên Phủ qua Mường Phăng đến Tuần Giáo, nối vói quốc lộ 6 xuống
Thuận Châu (Son La), xuống Hồ Bình1và về Hà Nội.
Điện Biên cũng là trung tâm Tây Bắc, nằm trên đuxmg giao thông sang
Lào. Từ trung tâm Muxrng Thanh theo quốc lộ 279 (quốc lộ 42 cũ) đến cửa
khẩu Tây Trang, nằm trên đưbĩig biên giói Điện Biên vói nước bạn Lào,
dài một trăm bảy muoi hai kilơmét. Từ đây có thể đi sầm Nưa - Luông Pha
Băng, thuộc vùng Thuạng Lào, hoặc tới Phông Sa Lỳ ở Trung Lào.
Đubng thuỷ từ Điện Biên đi các noi cũng rất thuận lọi. Từ Muxmg
Thanh theo dồng sông Nậm Rốm rẽ vầo sông Nậm Nứa, cập vào Pắc Ư,
vao sông Nậm ư , dẫn đến sông Mê Kơng rộng 1ĨĨ1, tói Lng Pha Băng.
Từ Nậm Rom lại nguợc dồng đến Bản Lang - Nà Tấu, theo sông Nậm Cô
vào sông Nậm Nứa, rẽ vào Nậm Mạ (sông Mã, tên gọi khi chảy sang Việt
Nam) vồng sang đất Lao để lại chảy về miền núi Thanh Hoá. Từ đất
Mubng Pồn (cách trung tâm Mubng Thanh hai mưoi kilômét) xuôi thuyền
theo sông Nậm Mấc vào sông Đà, xuống Tạ Bú, Tạ Khoa - Chợ Bơ rồi xuôi
về Hà Nội. Hoặc khi vào sơng Đà, lại ngược lên Mng Lay - Phong Thổ
(nay thuộc tỉnh Lai Châu) rồi sang Mường Là thuộc Trung Quốc.
Do vị trí chiến lược quan trọng và sự giàu có về kinh tế như vậy mà
Điện Biên từ sớm đã có ngưịi sinh sơng và noi đây đã trải qua những
cuộc giao tranh giữa các tộc nguôi, nhiều trận chiến giữa những kẻ thù
xâm lược và nhân dân địa phưong.
Một trong những cư dân sớm và đơng ở vùng Điện Biên là ngưịi Thái,
chủ yếu là Thái Đen (Táy Đăm). Tộc danh Thái được dùng chính thức
và phổ biến. Ngưồi Thái tự gọi là Táy, giông như tên gọi Tày của một tộc
ngưồi anh em ở Bắc và Đơng bắc Việt Nam. Người Thái có ngơn ngữ

thuộc hệ Tày - Thái, cùng trong ngữ hệ Nam Á với ngôn ngữ Việt Mương, Môn - Khơme, H’Mông - Dao. Ngưbi Thái thiên di đến Việt Nam
1 Trước năm 1983, Hà Nội đi Điện Biên theo đường sổ 6 và số 41, nay gọi chung là Đường 6. Bây
giờ, vì tránh hơ, đập nước thuỷ điện Hồ Bình, đường ngã ba Chăm không rẽ lên Chợ Bờ (đã bị ngập)
mà qua dốc Cun, cách Hồ Bình 12km, rẽ tay phải theo Đường 12A sang Đường 15 lên Bãi Sang
gặp Đường 6, rẽ hướng Tây Bắc đi Sơn La, Điện Biên. Con đường Hà Nội - Điện Biên, dài gần 500km
sắp hồn thiện. Có đường hàng khơng Hà Nội - Điện Biện Phủ.

19


NHNG TRN
NH__ TRONG
LCH
s VIT
NAM
___ ã
__
________ô
_________________
ã___________

vựng Tõy Bc t rấ t lâu. Đợt thiên di 1ÓĨ1 nhất đến đây là khoảng đầu
thiên niên kỷ thứ II sau CN. Ngoài ngươi Thái, cịn có ngươi tTMơng,
Lào, ngươi Kinh...
Các truyền thuyết, huyền thoại về cội nguồn, sinh hoạt, tổ chức xã
hội của các cư dân vùng Tây Bắc nói chung, Điện Biên nói riêng được
phản ánh trong một số tác phẩm văn học dân gian, nổi tiếng như “Sống
trụ xôn xao ”, “Q uắm tố m ướn”, “Chuyện kế bản m ường”.

II


LỊCH sữ - TRUYỀN THốNG CÁC DÂN TỘC ĐIỆN BIÊN1


»



T rên vùng đất này từ lâu địi đã có con ngưịi sinh sơng, lịch sử cũng
đã bắt đầu và hình thành truyền thông của các tộc người ở Điện Biên
- một bộ phận của lịch sử và truyền thông dân tộc Việt Nam nói chungẳ
Như đã nói trên, vùng đất Điện Biên đã là một bộ phận của quốc gia
đầu tiên trên lãnh thổ Việt Nam - nước Văn Lang. Tuy nhiên, sự gắn bó
này chưa chặt chẽ. Đất Điện Biên trong suốt thơi gian dài từ cuối th.ế
kỉ II TCN đến đầu th ế kỉ XX là noi giao lưu của nhiều nền văn hoá của
các cư dân bản địa và các tộc ngưồi di cư đến, trong đó có những cư dân
du mục miền Trung Á. Vì vậy, noi đây cũng xảy ra nhiều cuộc chiến
tranh giữa các tộc ngưòi, cư dân đầu tiên là những ngươi thuộc ngữ hệ
Môn - Khome (Kháng, Xinh Mun, Khơ Mú).
Đến th ế kỉ X, khi nước ta thốt khỏi ách thơng trị Bắc thuộc, ngươi
Lự đã hưng thịnh ở Mừòng Thanh và có ảnh hưỏĩig lan rộng cả vùng Tây
Bắc, từ Lai Châu đến Son La ngày nay. Các tộc ngươi bản địa trước đó
phải lùi sâu vào nhũng vùng rừng núi, cách xa thung lũng Mưòng Thanh.
Từ th ế kỉ XI - XII, một bộ phận ngưòi Thái từ Vân Nam (Trung Quốc)
di cư xuống Mương Lò (Nghĩa Lộ, Yên Bái), rồi lan rộng đến Son La,
1 Theo Bùi Xuân Đính: “Điện Bịên Phủ dưới góc nhìn dân tộc học - lịch sử”, tài liệu đã dẫn và Đinh
Xuân Lâm: "Từ phủ Điện Biên đến Điện Biên Phủ”, tạp chí Lịch sử quân sự, tháng 1-1994, tr.13-16.

20



CHIẾN______________________
THẮNG ĐIỆN
BIÊN PHỦ 1954
•__ ._____________

chiếm lĩnh cánh đồng Muong Thanh. Tuy nhiên, đến đây, ngưòi Thái
gặp phải sự kháng cự của các tộc người đã sinh sống từ trước, gồm có
ngưịi Lự và các tộc ngưịi Mơn - Khơme. Cuối cùng, người Thái chỉ làm
chủ ở vùng Mường Thanh, cồn phía bắc cánh đồng này vẫn là khu cư trú
của ngưòi Lự.
V

%

Thế kỉ XI là thbi kỳ nhà Lý thành lập, dần dần hưng thịnh. Để tập
hợp lực lượng các tộc ngubi trẽn đất Đại Việt chông nguy cơ xâm lược
của nhà Tống (Trung Quốc), nhà Lý đă thực hiện “chính sách Ki-mi”.
Các tộc người ở miền núi phía Bắc, giáp vói Trung Quốc đã thần phục
nhà Lý, giữ vững biên cưong Tổ quốc. Tuy nhiên, giữa các tộc nguồi Thái
và Lự ở vùng Tây Bắc vẫn nổ ra các cuộc tranh giành đất đai, kéo dài
trong nhiều th ế kỷ. Cuối cùng, ngubd Lự vẫn làm chủ đất Mường Thanh,
cbn nguòỉ Thái mở rộng ảnh hưởng xuống vùng Thuận Châu và vùng đất
dọc sơng Hồng, sơng Đà, sơng Mã.
ầế

Thịi Lê, sau khi đánh bại quân Minh xâm lược và đô hộ, các vua Thái
Tổ, Thái Tông và Thánh Tông đã ra sức thực hiện chính sách đồn kết
các dân tộc trong nươc để giữ vững nền độc lập rnróc nhà. Vùng Tây Bắc
được yên ổn, nhân dân cùng triều đình đánh bại những cuộc tấn cơng,

của nhiều tốn “giặc cỏ” từ tây nam Trung Quốc, Thượng Lào kéo sang
phá rối.
Vào thoi Lê Trung Himg, th ế kỉ XVII - XVIII, chính quyền phong kiến
Đàng Ngồi ngày một suy yếu, đất Điện Biên lại diễn ra bao cảnh loạn
lạc: các toán giặc từ Nam Trung Quốc, Thượng Lào tran sang chiếm cánh
đồng Muững Thanh, kéo xuống vùng Son La. Triều đình Lê - Trịnh đem
quân đánh dẹp cũng chỉ làm cho bọn giặc kéo về Muòng Thanh cố thủ;
chúng gây bao nhiêu tội ác vói nhân dân trong vùng. Các thủ lĩnh ngubi
Thái và các dân tộc khác ở Điện Biên đã tổ chức nhân dân nổi dậy chống
kẻ thù xâm luợc, song trước sau đều th ấ t bại.
»

Trong hoàn cảnh ấy, nhân dân Điện Biên, cả vùng Tây Bắc phải dựa
vào Hồng Cơng Chất - một lãnh tụ khỏi nghĩa nơng dân ở miền xi,
bị triều đình đánh bại, phải lùi về tạm náu trên đất Lào. Năm 1751, ông
chuyên về Ĩ1UỮC hoạt động ở vùng Tây Bắc. Được lục lượng người Thái

21


NHỮNG
TRẬN
ĐÁNH TRONG
LỊCH
s ử VIỆT
NAM
_____________________
•__________________________
_


______________
•__________
___

và các tộc người khác phơi họp chiến đấu, nghĩa qn Hồng Cơng Chất
đã đánh đuổi các tốn qn xâm nhập, giải phóng Mưịng Thanh và cả
Tây Bắc, xây dựng cuộc sơng hồ bình, n vui cho nhân dân vùng này.
Tuy nhiên, sau khi đàn áp cuộc khỏi nghĩa Hồng Cơng Chất, triều dinh
Lê - Trịnh lại không chăm lo xây dựng và bảo vệ vùng Điện Biên và Tây
Bắc. Mubng Thanh lại roi vào vòng ảnh huởng của phong kiến LàoẵMãi
đến năm 1775, vùng Mưừng Thanh mới được trả về cho Đại Việt. Từ năm
1777, phủ Ninh Biên (vùng Điện Biên) tạm yên và trở nên sầm uất.
Những đoàn thương nhân từ Lào, Miến Điện (nay la Mianma), các châu
ngưbi Thái (Xip-xoong Panna - mưbi hai châu Thái), ở Vân Nam, Trung
Quốc kéo đến buôn bán tấp nập. sử chép đây là thơi kỳ phồn thịnh nhất
của vùng Điện Biên - Mưồng Thanh: "Các dân tộc Kinh, Hoa, Xá, Lào,
Thái ở xen kẽ hoà hợp trong vùng; chợ búa, phủ ly đông vui. Ngưồi Ai
Lao, Miến Điện, Trung Quốc đổ về buôn bán sầm u ất”1.
Bước vào th ế kỉ XIX, vương triều Nguyễn được thành lập, thực hiện
sự thông nhất quốc gia về m ặt hành chính - sự thơng nhất được đặt cơ
sở từ thơi Nguyễn Huệ - Quang TrungểVùng Điện Biên, cả Tây Bắc gắn
chặt hơn vào đất nước Việt Nam. Song, nhà Nguyễn ở vào thòi kỳ chế
độ phong kiến Việt Nam đã suy yếu, mâu thuẫn giữa nhân dân các dân
tộc, chủ yếu là nơng dân, vói giai cấp phong kiến, địa chủ ngày một sâu
sắcẵ Trong bối cảnh lịch sử ấy, các cuộc khỏi nghĩa nông dân bùng nổ
trên phạm vi cả nuúc; nhân dân các dân tộc Tây Bắc - trong đó có Điện
Biên cũng liên tiếp nổi dậy đấu tranh. Suốt gần một th ế kỉ miền Điện
Biên, Tây Bắc nói chung khơng lúc nào n, các chúa đất, các tốn giặc
đua nhau hồnh hành cướp đoạt tài sản, giết hại nhân dân địa phương.
Đặc biệt, từ những năm đầu thập kỉ bảy mưoi của th ế kỉ XIX, giặc Cơ

Vàng từ Trung Quốc tràn vào Tây Bắc tiến hành cướp bóc chém giết, gây
bao cảnh đau thưong cho nhân dân các dân tộc. Không chịu cảnh làm tôi
tớ cho giặc cướp xâm lược, nhân dân vùrig Tây Bắc và Điện Biên nói
riêng nổi dậy đấu tranh mạnh mẽ. Tên tuổi của một ngưòi anh hùng,
tiêu biểu cho phong trào đấu tranh của nhân dân Tây Bắc lúc bấy giơ,
1 Theo Bùi Xuân Đính: Điện Biên Phủ dưới góc nhìn dân tộc - lịch sử, sđd, tr.65.

22


CHIẾN THẮNG ĐIỆN BIÊN
PHỦ 1954
_ ______________________


đã đi vào bản anh hùng ca “Chương hán” (tức Chưong gan dạ). Nguôi anh
hùng cứu dân, cứu nước này được coi như là một nhân vật thần thoại:
em ú t của Then (tức là của Trồi), được sai xuống dưới trần để giúp nhân
dân nổi dậy chông lại mọi bạo tàn, bất công, do giặc gây ra.
Sau khi đánh đuổi được giặc Cờ Vàng, nhân dân Tây Bắc - Điện Biên
lại rơi vào ách thống trị tàn khốc của Đềo Văn Trìẳ“Vua Đềo” thiết lập
một chế độ thổ ti kiểu miền Nam Trung Quốc kết hợp vói kiểu phong
kiến cát cứ của vùng Thái Tây Bắc để thi hành một cách cai trị của thơi
trung cổ cực kỳ man rợ. Không thể sông trong khơng khí ngột ngạt như
vậy, nhân dân các dân tộc trong vùng đã liên tiếp nổi dậy đấu tranh. Tuy
nhiên được vua quan nhà Nguyễn dung túng, Đềo Văn Trì vẫn nắm vùng
Tây Bắc. Thêm vào đó quân Cơ Đen của Lưu Vĩnh Phúc cũng giúp họ.
Đèo giữ vững sự thống trị, dìm các cuộc đấu tranh của nhân dân trong
biển máu. Sau khi bình định quân sự và đặt bộ máy cai trị ở miền xuôi,
quân Pháp kéo lên đánh chiếm Tây Bắc. Đềo Văn Trì và gia đình, bộ hạ

nhanh chóng đầu hàng, làm tay sai cho thực dân, tiếp tục sự thơng trị
của mình.
Cùng vód phong trào chông Pháp của nhân dân cả nước, đồng bào các
dân tộc Tây Bắc tiếp tục đấu tranh bảo vệ quê hưong, Tổ quốc. Năm
1883, quân Pháp kéo lên đánh chiếm Hung Hoá - cửa ngõ của vùng rừng
núi Tây Bắc. Tuần phủ Hưng Hố là Nguyễn Quang Bích đã rút quân về
đóng giữ miền rừng núi trong vùng kêu gọi chông Pháp. Cùng với sĩ phu
văn thân và đông đảo nhân dân miền xi, một sơ"tù truỏĩig ngưịi Thái,
như Đềo Văn Toa (Lai Châu), cầm Văn Thanh (Son La)... đã tập hợp
nhân dân hưởng ứng cuộc đấu tranh chống PhápỆPhong trào kháng
chiến bảo vệ làng bản của đồng bào Tây Bắc kéo dài suốt trong những
năm 1883 -1884, ngay cả sau khi triều đình Huế đã ký các hiệp ước Quý
Mùi (25/8/1883) và Giáp Thân (6/6/1884), thừa nhận quyền bảo hộ của
Pháp trong cả nước và trở thành tay sai của chính quyền thực dân.
Trong phong trào c ầ n Vưong phát triển rầm rộ khắp nước, theo loi
kêu gọi của vua Hàm Nghi sau khi kinh thành Huế th ất thủ, cuộc kháng
chiến của nhân dân Tây Bắc không ngừng mở rộng. Nhiều trận chiến

23


NHỮNG TRẬN
ĐÁNH TRONG LỊCH
s ử VIỆT
NAM
____ • ________________________________
•__________________•
_____________

đấu ác liệt đã diễn ra ơ Bình Lư, Phong Thổ, Than Uyên, chặn đánh cuộc

hành quân vào vùng Tây Bắc của quân Pháp; mãi tói ngày 23/1/1888
chúng mói đặt chân được tới Điện Biên (Muxmg Thanh). Nhân dân địa
phưong lại tiến hành “vn khơng nhà trống”, bỏ vào rừng, phối họp vói
các toán nghĩa quân vùng Lai Châu và Điện Biên chặn đánh quyết liệt
quân xâm lược, gây cho chúng nhiều tổn th ất nặng nề về ngurịi và vũ khí.
Trước sức kháng chiến mạnh mẽ của nhân dân Tây Bắc, đến cuối năm
1889, quân Pháp phải huy động cả thuỷ, bộ binh từ các ngả Lào Cai, Yên
Bái, Sơn La và từ các mạn sơng Hồng, sơng Mã, sơng Đà tói tiến hành
nhiều cuộc càn quét trong vùng. Chúng lập các đồn phòng thủ để giữ
vững vùng đánh chiếm và thu hẹp dần địa bàn hoạt động của nghĩa
quân. Chúng cồn thi hành những thủ đoạn mua chuộc, chia rẽ trong
hàng ngũ các thổ ti, lang đạo địa phưtmg, làm cho lực lượng kháng chiến
suy giảm. Đềo Văn Trì đã đầu hàng Pháp, được phong lầm Quản đạo,
cha truyền con nối trên đất Thái, và trơ thành tay sai đắc lực của Pháp
ở Tây Bắc.
Trước sự khủng bố, đàn áp của thực dân Pháp và tay sai, nhân dân
Tây Băc không ngírng đấu tranh, o Mường Bủ (thuộc Muờng La) hai
nguừi tên là Bô và Khụt nổi dậy, nhưng bị giặc Pháp kéo lên bắt giết ở
Dưa Cá (Bản Cá, Mưbĩig La). Cuối năm 1909, các chiến sĩ chông Pháp
bị bắt, giam giữ tại nhà tù Son La, do Cai Khạt chỉ huy, nổi dậy phá nhà
tù, nhưng th ấ t bại. Cai Khạt khơng nản lịng, năm 1911 lại tổ chức một
sô"tù nhân nổi dậy đánh phá nhà lao, chiếm trại lính, dinh Cơng sứ, trại
Giám binh và nhà Kho bạc. Cuộc bạo động lần này kéo dài tới ba tháng
mòi bị dập tắt. Cũng trong thồi gian này, tù nhân ở nhà tù Lai Châu cũng
nổi dậy, nhưng bị đàn áp ngay.
Chiến tranh th ế giói lần thứ nhất bùng nổ (tháng 8 năm 1914), nước
Pháp đang gặp nhiều khó khăn trước cuộc tấn cơng của Đức. Lợi dụng
tình th ế này, nhân dân ta từ Nam chí Bắc, từ miền ngược xuống miền
xuôi đã đứng dậy đấu tranh. Nhiều cuộc khỏi nghĩa chông Pháp đã nổ
ra. Riêng ở vùng Tây Bắc, ngay sau khi chiến tranh nổ ra, nhiều nhóm

cách mạng Việt Nam từ lâu tổ chức, tập hợp lực lượng ở Trung Quốc,

24


CHIẾN THẮNG ĐIỆN BIÊN PHỦ 1954

Xiêm (nay là Thái Lan) đã tìm cách vượt biên giới về nước hoạt động
chống Pháp. Họ theo con đưừng Lào về vùng biên giói gây cơ sở chông
Pháp trong các dân tộc thiểu sô" ở đây. Nhân dân đã nhiệt liệt hưởng
ứng; một cuộc khỏi nghĩa đã bùng nổ vào tốì mồng 10 tháng 11 năm 1914
do Lưong Bảo Định cầm đầu. Nhiều tù trưởng trong vùng Tây Bắc Việt
Nam như Bạc cầm Chân, Lương Văn No, cầm Văn Tứ đã tham gia đấu
tranh. Nghĩa quân đã đánh chiếm đồn sầm Nưa, rồi kéo về bao vây thị
xã Sơn La (ngày 11 tháng 12 năm 1914). Trước sự cầm cự quyết liệt của
Pháp và chính quyền tay sai, nghĩa quân đã rú t lên phía Điện Biên, rồi
lợi dụng núi rừng hiểm trở rú t sâu lên phía bắc. Qn Pháp khơng dám
đuổi theo nghĩa quân mà ra sức cô" thủ ở Điện Biên trong những tháng
đầu năm 1915, định dùng Điện Biên làm bàn đạp tấn công nghĩa quân,
đập tan cuộc khỏi nghĩa. Nhung chứng đã bị bao vây cơ lập, các tốn
qn lẻ của địch bị chặn đánh, các đưồng liên lạc giữa Điện Biên vói các
vị trí khác của chứng bị cắt đút, nhiều đồn địch bị nghĩa quân chiếm
(Phông Tin Ly, Bun Nưa, Mộc Pha).
Thực dân Pháp cấp tốc tăng cương lực lưọng để đàn áp cuộc khởi
nghĩa, chiếm lại vùng Tây Bắc. Nhiều cuộc chiến đấu ác liệt đã diễn ra
xung quanh vùng Điện Biên. Do tương quan lực lượng giữa Pháp và các
chiến sĩ yêu nước, nhiều căn cứ của nghĩa quân bị th ất thủ (Mộc Pha,
Long Nai, Muờng Hun, Xiêng Hun, Phông Sa Lỳ). Nghĩa quân phải n ít
sang bên kia biên giói rồi tan rã dần sau muừi sáu tháng trồi chiến đấu
quyết liệtếThủ lĩnh cầm Văn Tứ bị bắt giam ở nhà lao Thái Nguyên, đến

năm 1917 tham gia cuộc khỏi nghĩa của binh lính Thái Nguyên do Trịnh
Văn Cấn và Lương Ngọc Quyến khòi xưứng; hai thủ lĩnh Bạc cầm Chân
và Lưong Văn No lần lượt bị Pháp sát hại.
Tình hình Tây Bắc tạm trở lại yên tĩnh. Thực dân Pháp cấu kết chặt
chẽ hon với các th ế lực phong kiến phản động trong vùng, tiến hành bóc
lột đàn áp nhân dân tàn tệ hon. Tuy vậy, phong trào yêu nước chống xâm
luợc Pháp và tay sai không bao giơ chấm dứt.
Tháng 7 năm 1918, hưởng ứng loi kêu gọi của Giàng Tả Chay - một
thanh niên dân tộc quê ở Điện Biên, đồng bào ITMông vùng Tả Phin đã

25


NHỮNG TRẬN ĐÁNH TRONG LỊCH s ử VIỆT NAM

_____________________ •___________________________________ •_________________ •___________

nổi dậy chống Pháp. Song do lực lượng cồn non yếu nên cuộc đấu tranh
đã bị thực dân Pháp đàn áp ngay. Ba tháng sau, vào cuối tháng 10 năm
1918, một cuộc khởi nghĩa khác của đồng bào H’Mông vùng Điện Biên
lại nổ ra. Lực lượng nghĩa quân phát triển nhanh, được nhân dân từ
nhiều địa phương hưởng ứng, tập hợp dưới ngọn cơ của ngưòi anh hùng
Giàng Tả Chay. Chính quyền thuộc địa điều quân từ Son La về, từ Yên
Bái tói tiến hành càn đi quét lại nhiều lần trong vùng Điện Biên. Dựa
vào th ế hiểm trở của rừng núi lại được nhân dân ủng hộ, che chở, nên
nghĩa quân đã linh hoạt, chủ động vừa đánh địch, vừa bảo toan lực
lưcmg. Mùa hề năm 1919, phong trào lan tràn khắp một vùng rộng lán
vói trung tâm là phủ Điện Biên. Nhưng rồi trước những đợt tấn công
liên tục và ác liệt của thực dân Pháp, từ ngày 20/12/1920, lực lưạng nghĩa
quân ngày càng suy yếu và tan rã. Đến cuối tháng 3 năm 1921, cuộc khởi

nghĩa Giàng Tả Chay đã th ất bại sau gần ba năm kiên cưừng chiến đấu.
Tuy vậy, hình ảnh ngưbi anh hùng yêu nuức Giàng Tả Chay đã khắc sâu
vào lồng nhân dân các dân tộc Tây Bắc và Việt Nam, làm tô thắm thêm
truyền thông yêu nước của dân tộc. Sau khởi nghĩa, Giàng Tả Chay đã
biến mất, không để lại một dấu tích nhỏ nào, khiến cho giặc Pháp và tay
sai vừa tức giận điên cuồng, vừa lo sợ một cuộc đấu tranh mói lại nổ ra.
Đúng như vậy, tinh thần yêu nước của nhân dân Tây Bắc, Điện Biên
nói riêng vẫn âm ỉ khơng thể bị dập tắt, đến khi Đảng Cộng sản Việt
Nam ra đơi, nhận sứ mệnh lãnh đạo nhân dân các dân tộc đấu tranh,
đồng bào các dân tộc ở đây đã góp phần vo thng li chung ca ng
bo c nc.
7

ã

ã

ã

ô

7

Cỏch mng thỏng Tám thành cơng, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hồ
ra đòi (1945), mở ra kỷ nguyên mới cho dân tộc - kỷ nguyên độc lập gắn
vói chủ nghĩa xã hội. Song thực dân được chính quyền Tưỏng Giói Thạch
(Trung Quốc), Anh tiếp tay bao che đã quay trở lại xâm lược Việt Nam,
chiếm đóng nhiều noi thuộc Tây Bắc, trong đó có Điện Biên (tháng 2
năm 1946). Thế là cùng nhân dân cả nước, các dân tộc Tây Bắc sóm bc
vào cuộc kháng chiến thần thánh chơng bọn thực dân xâm lược Pháp và


26


×