Tải bản đầy đủ (.pdf) (119 trang)

BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY DI SẢN VĂN HÓA Ở HUYỆN HẬU LỘC, TỈNH THANH HÓA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.67 MB, 119 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

TRƯƠNG QUỐC HUY

BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY DI SẢN VĂN HÓA
Ở HUYỆN HẬU LỘC, TỈNH THANH HÓA HIỆN NAY
Chuyên ngành : Văn hóa học
Mã số

: 60 31 06 04

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HÓA HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN TOÀN THẮNG

HÀ NỘI - 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu
trong luận văn này là hoàn toàn trung thực, chưa từng được
ai sử dụng để công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các
thông tin, tài liệu trích dẫn trong luận văn đã được ghi rõ
nguồn gốc.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Trương Quốc Huy

MỤC LỤC



Trang
1

MỞ ĐẦU

Chương 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO TỒN, PHÁT HUY DI SẢN VĂN
HÓA VÀ TỔNG QUAN VỀ HUYỆN HẬU LỘC, TỈNH
THANH HÓA

1.1. Quan niệm về di sản văn hóa
1.2. Phân loại di sản văn hóa
1.3. Vấn đề bảo tồn và phát huy di sản văn hóa
1.4. Vai trò của hoạt động bảo tồn và phát huy di sản văn hóa trong
xã hội hiện đại
1.5. Khái quát về huyện Hậu Lộc - tỉnh Thanh Hóa

9
9
13
16
26
30

Chương 2: THỰC TRẠNG BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY DI SẢN VĂN
HÓA Ở HUYỆN HẬU LỘC, TỈNH THANH HÓA

2.1. Tổng quan về hệ thống di sản văn hóa huyện Hậu Lộc
2.2. Quá trình triển khai quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách
của Nhà nước về bảo tồn và phát huy di sản văn hóa ở huyện
Hậu Lộc

2.3. Kết quả bảo tồn và phát huy di sản văn hóa vật thể ở huyện Hậu Lộc
2.4. Kết quả bảo tồn và phát huy di sản văn hóa phi vật thể tại huyện
Hậu Lộc
2.5. Những vấn đề đặt ra trong công tác bảo tồn và phát huy di sản
văn hóa tại huyện Hậu Lộc

43
43

66
69
76
80

Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG BẢO TỒN VÀ
PHÁT HUY DI SẢN VĂN HÓA Ở HUYỆN HẬU LỘC, TỈNH
THANH HÓA GIAI ĐOẠN 2013 - 2020

3.1. Dự báo về hoạt động bảo tồn và phát huy di sản văn hóa ở huyện
Hậu Lộc giai đoạn 2013 - 2020
3.2. Phương hướng bảo tồn và phát huy di sản văn hóa ở huyện Hậu Lộc
3.3. Nhiệm vụ và hệ thống giải pháp tăng cường hoạt động bảo tồn và
phát huy di sản văn hóa
3.4. Kiến nghị, đề xuất
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

88

88
94
95
104
109
111


DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ TRONG LUẬN VĂN
Trang
Biểu đồ 2.1: Tổng hợp kinh phí tu bổ, xây mới di tích

72

Biểu đồ 2.2: Tổng hợp số du khách tham dự lễ hội

73


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất nước Việt Nam đã trải qua hàng ngàn năm lịch sử dựng nước và
giữ nước với bao thăng trầm, biến cố. Trong khoảng thời gian dài của lịch sử,
văn hóa Việt Nam được hình thành và khẳng định với bản lĩnh, bản sắc riêng.
Nối tiếp các thế hệ, nền văn hóa ấy dần được hình thành, tôi luyện nhào nặn
qua bao thử thách, được bồi đắp tô điểm thêm nhiều sắc màu và ngày nay trở
thành “Nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc”. Thế hệ sau
nối tiếp thế hệ trước trong dòng chảy di sản văn hóa, chính là một dấu gạch
nối quan trọng trong sự kế thừa và phát triển của văn hóa dân tộc.

Di sản văn hóa chính là một trong những cội nguồn sức sống tiềm tàng
to lớn của dân tộc được tạo ra trong quá khứ, cần phải được bảo vệ, duy trì và
phát huy trong các giai đoạn phát triển xã hội sau này. Văn hoá là tiềm lực
tinh thần to lớn của mỗi dân tộc, thể hiện ra ở những giá trị hàm chứa trong
vốn di sản văn hóa dân tộc được tích lũy theo thời gian lịch sử. Di sản văn hóa
dân tộc bao gồm nguồn lực vật thể (hữu hình) và nguồn lực phi vật thể (vô
hình). Trong xu thế giao lưu hội nhập và toàn cầu hoá hết sức sôi động hiện
nay, vấn đề bảo tồn và phát huy di sản văn hóa lại càng có ý nghĩa vô cùng
quan trọng nhằm gìn giữ và phát triển bản sắc văn hoá dân tộc, để hội nhập
mà không bị hoà tan. Di sản văn hóa trở thành điểm tựa quan trọng, tạo thế đi
vững chắc cho hiện tại và tương lai của mỗi quốc gia, dân tộc.
Nghị quyết Trung ương 5 - Khóa VIII nêu rõ:
Di sản văn hóa là tài sản vô giá, gắn kết cộng đồng dân tộc, là cốt
lõi của bản sắc dân tộc, cơ sở để tạo ra những giá trị mới và giao lưu
văn hóa. Hết sức coi trọng và bảo tồn, kết thừa, phát huy những giá
trị văn hóa truyền thống (bác học và dân gian), văn hóa cách mạng,
bao gồm văn hóa vật thể và phi vật thể [16, tr.371].
Để tiến hành xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến
đậm đà bản sắc dân tộc ta cần phải kế thừa một cách khoa học, tích cực, có


2
chọn lọc đúng đắn kho tàng di sản văn hóa của quá khứ. Văn kiện Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã khẳng định:
Mọi hoạt động văn hoá, văn nghệ phải nhằm xây dựng nền văn hoá
tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người Việt Nam về
tư tưởng, đạo đức, tâm hồn, tình cảm lối sống, xây dựng môi trường
văn hoá lành mạnh cho sự phát triển xã hội. Kế thừa và phát huy các
giá trị tinh thần, đạo đức và thẩm mỹ, các di sản văn hoá, nghệ thuật
của dân tộc. Bảo tồn và tôn tạo các di tích lịch sử, văn hoá danh thắng

của đất nước. Trong điều kiện kinh tế thị trường và mở rộng giao lưu
quốc tế, phải đặc biệt quan tâm giữ gìn và nâng cao bản sắc văn hoá
dân tộc, kế thừa và phát huy truyền thống đạo đức, tập quán tốt đẹp và
lòng tự hào dân tộc. Tiếp thu tinh hoa của các dân tộc trên thế giới,
làm giàu đẹp cho nền văn hoá Việt Nam [16, tr.82].
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh
vấn đề bảo tồn phát huy di sản văn hóa dân tộc trong sự nghiệp phát triển văn
hoá, nền tảng tinh thần của xã hội:
Tiếp tục đầu tư cho việc bảo tồn, tôn tạo các di tích lịch sử cách
mạng, kháng chiến, các di sản văn hoá vật thể và phi vật thể của dân
tộc, các giá trị văn hoá nghệ thuật, ngôn ngữ, thuần phong mỹ tục
của cộng đồng các dân tộc. Bảo tồn và phát huy văn hoá, văn nghệ
dân gian. Kết hợp hài hoà việc bảo vệ, phát huy các di sản văn hoá
với các hoạt động phát triển kinh tế du lịch [72].
Trong nhiều năm qua, Đảng, Nhà nước, nhân dân hết sức quan tâm tới
vấn đề giữ gìn các di sản văn hóa dân tộc, tạo điều kiện để làm sống dậy mọi
tiềm năng văn hóa như là một nguồn lực nội sinh mạnh mẽ thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế và tiến bộ xã hội. Chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu trong công tác bảo
tồn và phát huy di sản văn hóa dân tộc ở những quy mô khác nhau. Hàng loạt di
tích lịch sử, văn hóa, cách mạng đã được công nhận, tu bổ, tôn tạo; rất nhiều cổ vật,
di vật đã được bảo vệ... Các lễ hội truyền thống, liên hoan nghệ thuật dân tộc, diễn


3
xướng, trò chơi dân gian, phong tục, nếp sống đẹp... đã được phục hồi và phát triển.
Phong trào “Toàn dân xây dựng đời sống văn hóa”, toàn dân bảo vệ và phát triển
văn hóa đã tạo môi trường lành mạnh, thuận lợi cho công tác giữ gìn, bảo tồn, phát
huy giá trị của di sản văn hóa cũng như nền văn hóa dân tộc. Những thành tựu
này thật sự lớn và đã khẳng định tính đúng đắn trong đường lối phát triển văn hóa
của Đảng cũng như sức mạnh của Nhà nước, của toàn dân trong bảo tồn, phát

huy di sản văn hóa để xây dựng nền văn hóa mới.
Tuy nhiên, trong công tác bảo tồn, phát huy di sản văn hóa dân tộc còn bộc
lộ một số vấn đề như: tình trạng xâm hại, phá hoại di tích; trùng tu, tu bổ di tích
tràn lan không theo tinh thần bảo tồn, nạn lấy cắp cổ vật và đồ thờ tự trong đền,
chùa; hiện tượng mê tín dị đoan gia tăng; lễ hội truyền thống còn nhiều lộn xộn...
Hiện trạng này khiến cho môi trường văn hóa xã hội nói chung, môi trường bảo
tồn di sản văn hóa nói riêng kém lành mạnh, bền vững, đây vẫn là những thách
thức đặt ra cho toàn xã hội trong việc bảo tồn, phát huy di sản văn hóa, xây dựng
nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Huyện Hậu Lộc là một địa phương tiêu biểu của tỉnh Thanh Hóa có đặc
điểm văn hóa đồng bằng ven biển, hội tụ đầy đủ địa hình: đồi núi, đồng bằng
chiêm chũng, sông biển và hải đảo, có vị trí là cửa ngõ trên con đường Bắc
Nam. Là một huyện có di chỉ khảo cổ của người Việt cổ, Huyện Hậu Lộc có
nhiều địa danh, di tích lịch sử gắn bó với quá trình hình thành và phát triển
của dân tộc như: Di chỉ khảo cổ Hoa Lộc, Đền Bà Triệu, Chùa Sùng Nghiêm
Diên Thánh, Chùa Vích, Chùa Liên Hoa, Diêm Phố, Đền Đức Ông và Lễ Hội
Cầu ngư… Tuy nhiên chưa có một công trình nghiên cứu tổng thể để khảo
cứu, đánh giá ý nghĩa cũng như đề ra các giải pháp nhằm bảo tồn và phát huy
giá trị của các di sản, kiến nghị và đề xuất những phương hướng và giải pháp
có tính khả thi, nhằm bảo tồn và phát huy tốt hơn. Với những lý do đó tôi
chọn đề tài: “Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa ở huyện Hậu Lộc, tỉnh
Thanh Hóa hiện nay” làm đề tài cho luận văn tốt nghiệp Thạc sỹ chuyên
ngành Văn hóa học.


4
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vào thời gian nửa sau thế kỷ XX, các tổ chức quốc tế như tổ chức Giáo
dục, Khoa học và Văn hóa Liên hiệp quốc (UNESCO), chương trình phát
triển của Liên hiệp quốc (UNDP) đều nỗ lực nghiên cứu đánh giá tiềm năng

quá khứ của nhân loại, đặc biệt là về di sản văn hoá. UNESCO chia di sản văn
hoá thành hai loại: di sản “văn hóa vật thể” và di sản “văn hoá phi vật thể”.
Feredico Mayor (nguyên tổng giám đốc tổ chức UNESCO) hình dung
di sản văn hóa như “hệ thống các giá trị”, những nhân tố hình thành nên bản
sắc văn hoá dân tộc.
Người Nhật quan niệm giá trị văn hoá như một thứ tài sản “tài sản văn
hoá” và họ chia di sản văn hoá thành hai loại: tài sản văn hoá “hữu hình” và
tài sản văn hoá “vô hình”. Các thuật ngữ vật thể, phi vật thể, vô hình, hữu
hình giờ đây được sử dụng rộng rãi trên thế giới khi nói về di sản văn hoá.
Trong Hội nghị quốc tế “Bảo vệ di sản văn hoá vật thể và phi vật thể:
Hướng đến Phương pháp tiếp cận tổng thể” tổ chức tại Nara, Nhật Bản từ 19
đến 23/10/2004, đã ra tuyên bố Yamato về phương pháp tiếp cận tổng thể
trong bảo vệ di sản văn hoá vật thể và phi vật thể đã được thông qua. Với bản
Tuyên bố này, các quan niệm về di sản văn hóa đã được nhân loại định nghĩa
cụ thể trên phương diện lý luận theo Công ước và Quy chế của UNESCO.
Đây là những quan niệm cụ thể nhằm giúp nhận diện một cách đúng đắn khoa
học về di sản văn hóa vật thể và phi vật thể trên thế giới.
Ở nước ta, nghiên cứu về di sản văn hóa trước tiên phải kể đến công
trình Việt Nam Văn hoá sử cương của học giả Đào Duy Anh từ năm 1938 với
quan điểm: “Ta muốn trở thành một nước cường thịnh về vật chất, vừa về tinh
thần thì phải giữ văn hoá cũ (di sản) làm thể (gốc, nền tảng); mà lấy văn hoá
mới làm dụng nghĩa là phải khéo điều hòa tinh tuý của văn hoá phương Đông
với những điều sở trường về khoa học của văn hoá phương Tây [1, tr.371].
Năm 1997, GS,TS. Hoàng Vinh hoàn thành cuốn sách “Một số vấn đề
về bảo tồn và phát triển di sản văn hoá dân tộc”. Trên cơ sở những quan niệm


5
di sản văn hóa của quốc tế và Việt Nam, tác giả đã đưa ra một hệ thống lý
luận về di sản văn hóa, đồng thời bước đầu vận dụng nghiên cứu di sản văn

hóa nước ta. Từ cơ sở lý luận và thực tiễn, tác giả đã đưa ra các nhóm giải
pháp nhằm bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa dân tộc.
Năm 2002, Luật Di sản văn hoá và văn bản hướng dẫn thi hành được
coi là văn bản pháp quy về di sản văn hóa. Trong sách Bảo vệ di sản văn hóa
phi vật thể do Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch phát hành năm 2007, GS,TS.
Ngô Đức Thịnh (nguyên Viện trưởng viện Văn hoá dân gian) đã bàn đến Văn
hóa phi vật thể: Bảo tồn và phát huy. Trưởng Ban Di sản phi vật thể Văn
phòng UNESCO Pari - Ông Rieks Smeets đã nghiên cứu về: Bối cảnh, nhận
thức và quá trình xây dựng Công ước về bảo vệ Di sản văn hóa phi vật thể.
Công trình “Một con đường tiếp cận di sản văn hóa” do Bộ Văn hóa Thông tin ấn hành, Hà Nội năm 2006, đã tập hợp nhiều bài nghiên cứu về lý
luận di sản văn hóa cũng như thực tiễn, có thể làm tư liệu nghiên cứu tốt cho
đề tài. Trong đó tiêu biểu nhất là các bài: Khảo cổ học với công tác bảo vệ và
phát huy di sản văn hóa (Vũ Quốc Hiền), Bảo tồn di tích, nhân tố quan trọng
của phát triển bền vững (Lê Thành Vinh); Di tích lịch sử và văn hóa đồng
bằng sông Hồng (Đặng văn Bài).
Năm 2007, trong tư cách một nhà nghiên cứu có nhiều năm quan tâm
đến di sản văn hóa, PGS,TS. Nguyễn Chí Bền viết bài nghiên cứu “Bảo tồn di
sản văn hóa phi vật thể ở nước ta hiện nay” đăng trên báo Văn hóa. Bài báo
bàn sâu về cách thức bảo tồn văn hóa phi vật thể hiện nay.
Trên cơ sở kế thừa một số bài viết của các nhà nghiên cứu trên website
của trường Đại học văn hóa Hà Nội, Cục di sản văn hóa, Luận văn tốt nghiệp
của tác giả: Nguyễn Thị Nữ Y, Học viện chính trị hành chính quốc gia Hồ Chí
Minh - “Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa ở Tỉnh Hà Tĩnh trong thời
kỳ đổi mới hiện nay”…Các công trình nghiên cứu này đã viết khá kỹ về lý
luận văn hóa về di sản văn hóa và thực tiễn khảo cứu tại một số địa phương.
Hậu Lộc mang đậm nét nền văn hóa đồng bằng ven biển, trong quá
trình lịch sử lâu dài, nền văn hóa ấy được in sâu trong không gian sinh hoạt lễ


6

hội truyền thống và nét kiến trúc của đình chùa miếu mạo và ngày nay đã
trở thành di sản văn hóa cần được bảo tồn và phát huy đúng hướng. Qua
những giai đoạn khác nhau vùng đất Hậu Lộc được mang những tên gọi
khác nhau, nhưng nhìn chung nó vẫn mang những nét đặc trưng chung
nhất. Những ghi chép đầu tiên về vùng đất Hậu Lộc là cuốn “Đại Việt sử
ký toàn thư” của Ngô Sỹ Liên, sau này là cuốn “Dư địa chí” của Nguyễn
Trãi (thế kỷ XV), "Đại Nam nhất thống chí" của Sử quân triều Nguyễn (thế
kỷ XIX), "Các tổng trấn xã danh bị lâm" Biên soạn thời Gia Long (đầu thế
kỷ XIX). Sách "Sĩ hoạn tu tri lục" của Nguyễn Công Tiệp, Sách "Thiên
Nam dư hạ tập" thời Lê Hồng Đức (1470 - 1497)... Giai đoạn sau này là
các tác phẩm “Lịch triều hiến chương loại chí” của Phan Huy Chú và “Lê
Thanh Hoa” của Ch.Robequain - một tác giả người Pháp… Tất cả các tác
phẩm nêu trên đều khảo cứu và đề cập đến những điều kiện kinh tế, xã hội
truyền thống, nguồn gốc thành lập làng, xã, quan hệ dòng họ huyết tộc, lịch
sử hình thành huyện Hậu Lộc.
Việc nghiên cứu về Hậu Lộc được chú ý hơn với nhiều công trình nghiên
cứu và nhiều phát hiện mới về nền văn hóa cổ đại được hình thành trên mảnh đất
này. Với việc phát hiện ra di chỉ khảo cổ Hoa Lộc có công trình “Văn hóa Hoa
Lộc” của tác giả Phạm Văn Kỉnh và Quang Văn Cậy. Cuốn “Địa chí Hậu Lộc”
và “Địa chí Diêm Phố - Ngư Lộc” của Đào Phụng, “Lịch sử Đảng bộ Huyện Hậu
Lộc, tỉnh Thanh Hóa” tập 1 - 2; “Lễ tục, lễ hội truyền thống xứ Thanh” của Lê
Huy Trâm và Hoàng Anh Nhân đặc tả về đời sống con người Hậu Lộc và lễ hội
Cầu ngư, “Cuộc khởi nghĩa của Bà Triệu” - Kỷ yếu Ty Văn hóa thông tin năm
1972, “Lệ Hải Bà Vương và đền thờ Bà Triệu” của Mai Thị Hoan… viết về diễn
biến cuộc khởi nghĩa và lịch sử hình thành Lễ hội Đền Bà Triệu…
Ngoài ra còn có rất nhiều tạp chí, báo chí và các cổng thông tin điện tử
viết về văn hóa và con người Hậu Lộc với nhiều hình thức đa dạng.
Các tác phẩm đều đề cập đến vấn đề văn hóa của cư dân Hậu Lộc, tuy
vậy vẫn chưa có một công trình nghiên cứu khảo sát về di sản nói chung của



7
Huyện Hậu Lộc. Việc nghiên cứu về các di sản văn hóa, phương án bảo tồn
phát huy giá trị di sản văn hóa ở Huyện Hậu Lộc là vấn đề mới và cần thiết.
Song với số lượng địa chỉ văn hóa nhiều tôi chỉ nghiên cứu trên phạm vi một
số kiến trúc, lễ hội truyền thống tiêu biểu trong toàn huyện và sự kế thừa có
chọn lọc các công trình nghiên cứu, tài liệu quý từ trước đến nay sẽ tạo điều
kiện cho luận văn được hoàn chỉnh và khả thi.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Trên cơ sở vận dụng những thành tựu về lý luận di sản văn hóa, luận
văn nghiên cứu, trình bày một cách có hệ thống về di sản văn hóa vật thể và
phi vật thể tiêu biểu của huyện Hậu Lộc thể hiện nét đặc trưng truyền thống
của văn hóa miền đồng bằng ven biển.
Nghiên cứu thực trạng bảo tồn và phát huy di sản văn hóa tại huyện
Hậu Lộc, phân tích những mặt tích cực, hạn chế, tìm hiểu nguyên nhân từ đó
đề xuất một số ý kiến, kiến nghị cho công tác bảo tồn và phát huy giá trị di
sản văn hóa tại huyện Hậu Lộc trong giai đoạn 2013 - 2020.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về bảo tồn và
phát huy hệ thống di sản văn hóa ở huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu hoạt động bảo tồn và phát huy di sản văn hóa ở
Hậu Lộc từ năm 1998 - 2014.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Trên cơ sở quan điểm khoa học của chủ nghĩa Mác - Lê nin, Tư tưởng
Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam về văn hoá,
luận văn tiếp cận một cách có hệ thống những tiền đề lý luận về di sản văn
hóa, về bảo tồn di sản văn hoá và phát huy di sản văn hóa.

5.2. Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng các phương pháp
nghiên cứu sau:


8
- Phương pháp nghiên cứu trường hợp: Nghiên cứu về các vấn đề trong
thực tiễn và giải quyết các tình hướng xảy ra, từ đó kết đọng nội dung chủ yếu
cần nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành, điều tra xã hội học, quan sát,
tham dự: Tiến hành đi cơ sở khảo sát thực tế các lễ hội và công trình kiến
trúc, kết hợp với việc tiếp xúc phỏng vấn những người cao tuổi, những người
đang trực tiếp quản lý và làm công tác tổ chức để thu thập thông tin.
- Phương pháp logic và lịch sử: Trên cơ sở những thông tin thu thập
được, bằng phương pháp logic học, những thông tin ấy sẽ được kết nối chặt
chẽ với nhau giúp cho kết quả nghiên cứu của luận văn có tính thuyết phục.
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Trên cơ sở lý thuyết những bộ môn
đã học kết hợp với việc tìm đọc và chọn lọc nội dung những tác phẩm, ấn
phẩm có liên quan đến đề tài.
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
Luận văn công trình khoa học tổng hợp cơ bản về số lượng cũng như
chất lượng hiện trạng bảo tồn và phát huy di sản văn hóa tại địa phương. Đây
cũng sẽ là một tài liệu tham khảo cho dự án khảo sát trên diện rộng của
UBND Huyện về các di sản văn hóa của địa phương trong thời gian sắp tới.
Luận văn sẽ đưa ra một số giải pháp để khắc phục sự hạn chế trong
công tác bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa của huyện Hậu Lộc, tỉnh
Thanh Hóa.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung luận văn gồm 03 chương, 14 tiết.



9
Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO TỒN, PHÁT HUY DI SẢN VĂN HÓA
VÀ TỔNG QUAN VỀ HUYỆN HẬU LỘC, TỈNH THANH HÓA
1.1. QUAN NIỆM VỀ DI SẢN VĂN HÓA

Văn hóa hình thành trong hoạt động sống của con người và mối quan
hệ tương tác giữa con người với tự nhiên. Trong quá trình hình thành và phát
triển, văn hóa hàm chứa một hệ giá trị được xã hội, cộng đồng thừa nhận. Các
giá trị văn hóa là cốt lõi của văn hóa. Giá trị văn hóa chứa đựng, kết tinh trong
di sản văn hóa và thông qua di sản văn hóa để thực hiện các chức năng xã hội.
GS, TS Ngô Đức Thịnh khi nghiên cứu về văn hóa truyền thống Việt
Nam đã định nghĩa: “Văn hóa là hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh
thần do con người sáng tạo và tích lũy trình quá trình hoạt động thực tiễn,
trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và môi trường xã
hội nhằm thỏa mãn những nhu cầu vật chất và tinh thần của mình” [56, tr.19].
Di sản văn hóa là hình thức tồn tại của giá trị văn hóa, hệ giá trị văn
hóa có nguồn gốc từ nhu cầu của con người, nó thể hiện một chuẩn mực xã
hội mà con người muốn hướng tới, nói cách khác nó là tiêu chí để đánh giá,
điều chỉnh hành vi, suy nghĩ… của một cá nhân trong một cộng đồng xã hội
nhất định.
Các giá trị văn hóa là yếu tố cốt lõi của văn hóa, nó được sáng tạo
và kết tinh trong quá trình lịch sử của mỗi cộng đồng, tương ứng
với môi trường tự nhiên và xã hội nhất định. Giá trị văn hóa hướng
tới thỏa mãn những nhu cầu và khát vọng của cộng đồng về những
điều tốt đẹp, bồi đắp và nâng cao bản chất người [56, tr.22].
Như vậy giá trị văn hóa đóng vai trò là thành tố để phân biệt di sản văn
hóa với các hiện tượng văn hóa nói chung hình thành trong quá trình lịch sử
của một cộng đồng, xã hội nhất định. Di sản văn hóa được xem như là những

yếu tố đặc biệt, nổi bật, là tinh hoa của văn hóa.


10
“Từ điển Tiếng Việt” định nghĩa: “Di sản là cái của thời trước để lại;
văn hóa là tổng thể nói chung những giá trị vật chất và tinh thần do con người
sáng tạo ra trong quá trình lịch sử” [67, tr.254].
Khái niệm Di sản văn hóa là tập hợp những cặp phạm trù vừa mang
tính tương phản, vừa mang tính thống nhất (Truyền thống - hiện đại; Kế thừa
- phát triển…). Trong mối quan hệ truyền thống - hiện đại, di sản văn hóa
chính là cái hiện đại được truyền lại trong quá khứ. Với ý nghĩa này, di sản
văn hóa đóng vai trò như một “mã di truyền xã hội”, một thứ ký ức tập thể cho
phép sự tái sinh, sự nhớ lại về quá khứ trên trục thời gian, làm nên tính liền mạch
của nền văn hóa dân tộc. Di sản ở đây được hình dung như một bảng thang giá
trị hay hệ thống các giá trị, những nhân tố hình thành nên bản sắc văn hóa của
một dân tộc. Trong mối quan hệ kế thừa - phát triển di sản văn hóa có tính khả
biến. Chủ thể nhận thức tiếp thu các di sản văn hóa trên cơ sở kế thừa, đưa chúng
vào hiện tại trong những phức hợp loại hình quan hệ với những giá trị mới nảy
sinh, làm phong phú cho kho tàng di sản văn hóa của mình.
Trải qua một quá trình lịch sử lâu dài, di sản văn hóa được xem là một
thuật ngữ khoa học xuất phát điểm hình thành từ cuộc cách mạng Tư sản Pháp
năm 1789. Sau thành công của cuộc cách mạng, Nhà nước Pháp lúc bấy giờ
đã tiến hành kiểm kê, mô tả sắp xếp, phân loại các công trình lịch sử để xác
định thứ tự ưu tiên nhằm khôi phục và bảo tồn di sản quốc gia. Cách hiểu sơ
khai ban đầu của di sản đó là “ý niệm về một tài sản chung, tài sản của mọi
công dân, chứ không phải của riêng một ai, đó là ý niệm đó tạo thành cái ý
thức về di sản quốc gia” [76, tr.7].
Ngày 18 tháng 6 năm 1964, tại Philippines, Luật về giữ gìn và bảo vệ
các di tích lịch sử văn hóa được công bố, khi đó các di tích lịch sử văn hóa
được gọi chung là di sản văn hóa.

Tại Ảrập - xêút, Pháp lệnh của nhà vua quy định về quản lý di tích lịch
sử được công bố ngày 3 tháng 8 năm 1972 đã có định nghĩa chung về cổ vật
động sản và cổ vật bất động sản.


11
Năm 1897 Nhật Bản đã ban hành Luật bảo vệ di tích chùa chiền cổ, đến
năm 1950 tiếp tục ban hành Luật bảo vệ tài sản văn hóa, đây là bộ luật được
đánh giá là hoàn thiện nhất về di sản văn hóa vào thời gian bấy giờ. Đến năm
1975, Nhật Bản ban hành Luật số 214 về Bảo vệ di sản văn hóa, các di tích
lịch sử văn hóa, chúng được gọi chung là di sản văn hóa vật chất, di sản văn
hóa phi vật chất, di sản văn hóa dân gian và những công trình kỷ niệm.
Tiếp theo đó Hội nghị Di sản toàn quốc của Vương quốc Anh năm
1983 đó định nghĩa “di sản là những gì thuộc về thế hệ trước giữ gìn và
chuyển giao cho thế hệ hiện nay và những gì mà một nhóm người quan trọng
trong xã hội hiện nay mong muốn chuyển giao cho thế hệ tương lai” [76, tr.7].
UNESCO đã ra công ước bảo vệ di sản văn hóa và tự nhiên của thế giới
vào năm 1972, công ước đã đưa ra các quan niệm di sản văn hóa bao gồm các
di tích, quần thể, thắng cảnh. Công ước nhấn mạnh đến các đối tượng miêu tả
là các công trình kiến trúc, điêu khắc, hội họa, các di chỉ khảo cổ, các công
trình của con người tạo ra hoặc những công trình có sự kết hợp của con người
với thiên nhiên…có ý nghĩa, giá trị quốc tế về phương diện lịch sử, nghệ thuật,
thẩm mỹ, khoa học. Từ đó ta nhận thấy rằng điểm nổi bật thấy rõ rằng quan
niệm này của UNESCO đã nghiêng về yếu tố vật chất của di sản văn hóa. Đến
năm 1992 UNESCO đã đưa ra khái niệm mới đối với di sản hỗn hợp hay cảnh
quan văn hóa để miêu tả mối quan hệ giữa văn hóa và thiên nhiên. UNESCO
họp phiên thứ 32 tại Paris từ 29/9 đến 17/10/2003 đã bàn thảo và ra Công ước về
Bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể. Công ước đó ghi nhận: Các quá trình toàn cầu
hóa và chuyển đổi cơ cấu xã hội cộng với các điều kiện khác đó tạo nhiều cơ hội
đối thoại mới giữa các cộng đồng, đồng thời cũng làm nảy sinh những mối đe

dọa về sự suy thoái biến mất và hủy hoại các di sản văn hóa phi vật thể.
Năm 1938 học giả Đào Duy Anh đã đề cập đến quan niệm di sản trong
nhận định về vai trò của nhân tố nội sinh trong sự giao lưu tiếp biến văn hóa
bản địa: “Ta muốn trở nên một nước cường thịnh vừa về vật chất, vừa về tinh
thần thì phải giữ văn hóa cũ (di sản) làm thể; mà lấy văn hóa mới làm dụng,


12
nghĩa là phải khéo điều hòa tinh túy của văn hóa Phương Đông với những
điều sở trường về khoa học và kỹ thuật của văn hóa Phương Tây” [1, tr.71].
GS Hoàng Vinh nhận định:
Những thành tựu của những hoạt động sáng tạo (những hoạt động
sáng tạo này sinh ra hiểu biết, kinh nghiệm sống, đúc kết thành
truyền thống, thị hiếu, giá trị…), bất kể là vật thể hay phi vật thể,
hữu hình hay vô hình, qua thời gian sàng lọc, thử thách, kết tinh lại
thành di sản văn hóa [70, tr.99].
Nhà nghiên cứu Lưu Trần Tiêu cho rằng:
Di sản văn hóa là toàn bộ những sản phẩm vật chất (hay còn gọi là
vật thể) và tinh thần (hay còn gọi là phi vật thể), có giá trị lịch sử,
văn hóa, khoa học, do con người sáng tạo và tiếp nhận trong điều
kiện lịch sử, văn hóa, kinh tế - xã hội của mình, được lưu truyền từ
thế hệ này sang thế hệ khác [57, tr.2]
Năm 2001 Việt Nam ban hành Luật Di sản văn hóa (sửa đổi năm 2009)
trong đó khẳng định: Di sản văn hóa là tài sản quý giá của cộng đồng các dân
tộc Việt Nam và là bộ phận của di sản văn hóa nhân loại có vai trò to lớn
trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của nhân dân ta. Tại điều 1: “Di sản
văn hóa bao gồm di sản văn hóa phi vật thể và di sản văn hóa vật thể, là sản
phẩm tinh thần, vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, được lưu truyền
từ thế hệ này sang thế hệ khác” [48, tr.12]. Cùng với đó Việt Nam đã phê
chuẩn Công ước bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể của UNESCO.

Đảng Cộng Sản Việt Nam đã ban hành Nghị quyết Trung ương 5 khóa
VIII nêu rõ: “Di sản văn hóa là tài sản vô giá, gắn kết cộng đồng dân tộc, là
cốt lõi của bản sắc dân tộc, cơ sở sáng tạo giá trị mới và giao lưu văn hóa”
[16, tr.63]. Nghị quyết Đại hội Đảng khóa IX, khóa X và khóa XI của Đảng
tiếp tục đưa nhiệm vụ xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc
là nhiệm vụ then chốt trong nâng cao đời sống văn hóa của nhân dân và củng
cố, thúc đẩy kinh tế phát triển. Đảng và Nhà nước ta xác định việc bảo tồn và
phát huy di sản văn hóa là nhiệm vụ quan trọng trong việc xây dựng nền văn


13
hóa, bản sắc văn hóa dân tộc, đưa văn hóa trở thành động lực tinh thần thúc
đẩy kinh tế phát triển, các lĩnh vực của đời sống được nâng cao và từng bước
xây dựng đất nước hiện đại văn minh, bắt kịp với các quốc gia trong thời kỳ
hội nhập toàn cầu hóa.
1.2. PHÂN LOẠI DI SẢN VĂN HÓA

Trước khi tổ chức UNESCO ra đời, ở mỗi quốc gia có một cách phân loại
di sản theo quan niệm khác nhau, có thể là hữu hình - vô hình, tĩnh - động, vật
thể - phi vật thể… Trong công ước về bảo vệ di sản văn hóa và tự nhiên trên thế
giới vào năm 1972, UNESCO cũng chỉ nghiêng về yếu tố vật thể của di sản văn
hóa khi quan niệm di sản văn hóa là những công trình kiến trúc, những kết cấu
hay cảnh quan. Trải qua một quá trình lâu dài, khi xác định yếu tố phi vật chất
đang tồn tại song song cùng với yếu tố vật thể và có vai trò quan trọng không
kém trong việc phát triển văn hóa, năm 2003, UNESCO công bố Công ước về
bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể. Ngày nay người ta đều chấp thuận nghiên cứu
theo quan niệm của UNESCO, di sản văn hóa bao gồm hai loại:
Di sản văn hóa vật thể được hiểu là những sản phẩm văn hóa có thế “sờ
thấy được”. Văn hóa vật thể là một dạng thức tồn tại của văn hóa chủ yếu
dưới dạng vật thể có hình khối, có chiều cao, chiều rộng, trọng lượng, đường

nét, màu sắc, kiểu dáng tồn tại trong không gian và thời gian xác định. Di sản
văn hóa vật thể được tạo tác từ bàn tay khéo léo của con người, để lại dấu ấn
lịch sử. Văn hóa vật thể được khách thể hóa và tồn tại như một thực thể ngoài
bản thân con người. Di sản văn hóa vật thể luôn chịu sự thách thức của quy
luật bào mòn của thời gian, trong sự tác động của con người thời đại sau. Di
sản văn hóa vật thể luôn đứng trước nguy cơ biến dạng hoặc thay đổi rất
nhiều so với nguyên gốc. Hiện nay, vấn đề bảo tồn những di sản văn hóa vật
thể lâu đời đòi hỏi công nghệ kỹ thuật cao mới có thể phục nguyên lại như cũ.
Di sản văn hóa phi vật thể là dạng thức tồn tại của văn hóa không phải
chủ yếu dưới dạng vật thể có hình khối trong không gian và thời gian, mà nó
tiềm ẩn trong trí nhớ, ký ức cộng đồng, tập tính, hành vi ứng xử của con
người và thông qua các hoạt động sống của con người trong sản xuất, giao


14
tiếp xã hội mà thể hiện ra. Từ đó người ta có thế nhận biết được sự tồn tại của
văn hóa phi vật thể.
Đặc trưng rõ nhất của văn hóa phi vật thể là nó luôn tiềm ẩn trong tâm
thức của cộng đồng xã hội và chỉ bộc lộ ra qua hành vi và hoạt động của con
người. Văn hóa phi vật thể được lưu giữ trong thế giới tinh thần của con
người và thông qua các hình thức diễn xướng, nó được bộc lộ sinh động trong
tư cách một hiện tượng văn hóa.
Di sản văn hóa phi vật thể được hiểu là các tập quán, các hình thức thể
hiện, biểu đạt tri thức, kỹ năng và kèm theo đó là các công cụ, đồ vật,
đồ tạo tác và các không gian văn hóa có liên quan mà các cộng đồng,
các nhóm và một số trường hợp là các cá nhân, công nhận là một phần
di sản văn hóa của họ. Được chuyển giao từ thế hệ này sang thế hệ
khác, di sản văn hóa phi vật thể được các cộng đồng và nhóm không
ngừng tái tạo để thích nghi với môi trường và mối quan hệ qua lại giữa
cộng đồng với tự nhiên và lịch sử của họ, đồng thời hình thành trong họ

một ý thức về bản sắc và sự kế tục, qua đó khích lệ thêm sự tôn trọng
đối với sự đa dạng văn hóa và tính sáng tạo của con người [63, tr.2].
Văn hóa phi vật thể cũng có thế bị mai một, biến dạng, hoặc mất đi
vĩnh viễn bởi thử thách của thời gian, bởi sự vô ý thức của con người. Di sản
văn hóa phi vật thể không chỉ gắn bó với các chủ thể văn hóa mà cũng hòa
quyện vào không gian sinh thái - nhân văn, nơi chúng được sáng tạo ra và
đang hiện diện, tiến diễn trong đời sống đương đại của cộng đồng. Điều đó có
nghĩa là, di sản văn hóa phi vật thể không “nhất thành bất biến”, chúng nhất
định phải hàm chứa những nhân tố mang tính lịch sử, đồng thời lại phải mang
hơi thở của thời đại mà chủ thể văn hóa cũng như chủ sở hữu di sản văn hóa
phi vật thể đang sống, làm việc và sáng tạo. Điều đó cũng có nghĩa là, di sản
văn hóa phi vật thể được sáng tạo ra, được bảo lưu và chuyển giao qua nhiều
thế hệ là cả một quá trình sàng lọc và sáng tạo không ngừng nghỉ. Các thế hệ
kế tiếp nhau có quyền bình đẳng trong việc thừa hưởng các giá trị di sản văn
hóa do cha ông để lại, đồng thời phải có trách nhiệm chọn lựa những gì là tinh


15
hoa nhất để bảo lưu, chuyển giao và trên cơ sở kế thừa có chọn lọc. Trong
thực tế, người ta thường có xu hướng thêm bớt trong quá trình lưu giữ những
giá trị phi vật thể. Cho nên, văn hóa phi vật thể vừa có tính bền vững (trong
ký ức của cộng đồng) lại vừa mang tính mong manh, dễ bị tổn thương (phụ
thuộc vào cuộc sống của một cá nhân - nghệ nhân với những may rủi bất
ngờ). Hơn nữa, văn hóa phi vật thể cũng có nguy cơ biến dạng rất cao bởi tính
dị bản của nó do sự can thiệp của các nhóm xã hội qua các thời đại.
Trên cơ sở đồng thuận với quan niệm của UNESCO, Luật Di sản văn
hoá của Việt Nam (2001) phân loại di sản văn hóa như sau:
“Di sản văn hóa phi vật thể là sản phẩm tinh thần có giá trị lịch sử, văn
hóa, khoa học, được lưu giữ bằng trí nhớ, chữ viết, được lưu truyền bằng truyền
miệng, truyền nghề, trình diễn và các hình thức lưu giữ, lưu truyền khác, bao

gồm tiếng nói, chữ viết, tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học, ngữ văn truyền
miệng, diễn xướng dân gian, lối sống, nếp sống, lễ hội, bí quyết về nghề thủ
công truyền thống, tri thức về y, dược học cổ truyền, về văn hóa âm thực, về
trang phục truyền thống dân tộc và các tri thức dân gian khác. Di sản văn hóa vật
thể là sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, bao gồm các di tích
lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia ... Giá trị
đặc biệt quý hiếm của bảo vật quốc gia được thể hiện bằng các tiêu chí sau đây:
a. Hiện vật nguyên gốc, độc bản;
b. Hình thức độc đáo;
c. Có giá trị tiêu biểu về lịch sử, văn hóa, khoa học thể hiện:
- Là vật chứng của một sự kiện lớn hoặc gắn bó với cuộc sống, sự
nghiệp của anh hùng dân tộc, danh nhân kiệt xuất.
- Là tác phẩm nghệ thuật nổi tiếng về giá trị tư tưởng - nhân văn,
giá trị thẩm mỹ và hình thức thể hiện tiêu biểu cho một khuynh
hướng, một phong cách, một thời đại;
- Là sản phẩm được phát minh, sáng chế tiêu biểu có giá trị thực
tiễn cao, có tác dụng thúc đẩy xã hội phát triển ở một giai đoạn lịch
sử nhất định;


16
d. Được Thủ tướng Chính phủ quyết định công nhận sau khi có ý kiến
của thẩm định của Hội đồng Di sản văn hóa Quốc gia [48, tr.13-14].
Di sản văn hóa phi vật thể không chỉ mang đậm tính chất dân gian mà
cũng gắn bó mật thiết với các hoạt động mang tính chất tâm linh tại các thiết
chế tôn giáo, tín ngưỡng.
Chúng ta cần quan tâm và chủ động giải quyết thật thận trọng và thỏa
đáng vấn đề bảo tồn và phát huy những giá trị di sản văn hóa phi vật thể gắn
với không gian văn hóa truyền thống tại các thiết chế tôn giáo và các hoạt
động mang tính tâm linh, cũng như tính đa dạng văn hóa, nhằm tạo lập sự ổn

định xã hội, làm tiền đề cho phát triển bền vững.
1.3. VẤN ĐỀ BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY DI SẢN VĂN HÓA

1.3.1. Quan điểm của UNESCO
Đời sống di sản văn hóa đang chịu nhiều tác động bởi nhiều xu hướng.
Thứ nhất là xu hướng "du lịch hóa di sản", với những hoạt động du lịch
chỉ chú trọng những di tích có tiềm năng thu hút du khách, dẫn đến tình trạng
nhiều di sản văn hóa bị lạm dụng, khai thác quá mức.
Thứ hai là xu hướng "thương mại hóa di sản", là nguyên nhân dẫn đến
việc trùng tu và phục dựng tùy tiện, thiếu khoa học, hoặc làm biến dạng, đánh
mất tính nguyên gốc của di sản. Dưới tác động của xu hướng này, công tác
bảo tồn di sản mang nặng tính thực dụng.
Thứ ba là xu hướng "xã hội hóa di sản" tuy nhiên việc thực hiện giao
khoán công tác bảo tồn di sản ở các địa phương cho các hội quần chúng cơ sở,
thiếu sự giám sát, không có sự hỗ trợ của chuyên gia văn hóa, đó đưa đến
những hệ quả ngoài ý muốn.
Di sản là những giá trị được hình thành qua quá trình lịch sử, phản ánh
đời sống của cộng đồng; bao gồm những giá trị vật thể và phi vật thể. Bảo tồn
di sản văn hóa là hoạt động bảo vệ, gìn giữ các giá trị đó, tránh sự mai một,
xuống cấp và biến mất. Phát triển, bảo tồn di sản có mục tiêu chủ yếu là: tôn
vinh các giá trị truyền thống, phát huy nó trong điều kiện xã hội mới. Sự tách
biệt giữa bảo tồn và phát huy chỉ có ý nghĩa về nhận thức, bởi nó là hai mặt


17
của một vấn đề. Sự quá đề cao mặt này hay xem nhẹ yếu tố kia đều không tốt
cho công tác bảo tồn và phát huy di sản.
Quan điểm của UNESCO về bảo tồn di sản văn hóa
Trong nghiên cứu, cũng như trong hoạt động thực tiễn về di sản văn
hóa, ta thường hay dùng các thuật ngữ: bảo quản, bảo vệ và bảo tồn.

Bảo quản mang nghĩa sử dụng những biện pháp kỹ thuật để gìn giữ,
chăm sóc đối tượng được nguyên vẹn, tồn tại lâu dài. Bảo vệ chứa đựng nội
dung thực hành các hoạt động mang tính chất pháp lý hay nó́i cách khác là
giữ không để cho bị xâm phạm. Bảo tồn mang nghĩa rộng hơn, là hoạt động
giữ gìn một cách an toàn khỏi sự tổn hại, sự xuống cấp hoặc phá hoại, bảo
quản kết cấu một địa điểm ở hiện trạng và tránh sự xuống cấp của kết cấu đó.
Như vậy, bảo tồn là tất cả những nỗ lực nhằm hiểu biết về lịch sử hình thành,
ý nghĩa của di sản văn hóa nhằm bảo đảm sự an toàn, phát triển lâu dài cho di
sản văn hóa và khi cần đến phải đảm bảo việc giới thiệu, trưng bày, khôi phục
và tôn tạo lại để khai thác khả năng phục vụ cho hoạt động tiến bộ của xã hội.
Công tác bảo tồn di sản văn hóa có nhiều cấp độ khác nhau, bao gồm
các hoạt động: bảo tồn nguyên trạng, trùng tu, gia cố, tái định vị, phục hồi, tái
tạo - làm lại, qui hoạch bảo tồn.
Vấn đề đặt ra là khi bảo tồn một di sản văn hóa cụ thể cần nghiên cứu,
chọn lựa phương án thích hợp với từng địa phương, từng đặc thù riêng để đảm
bảo rằng cái chúng ta đang trưng bày là xác thực chứ không phải đồ giả, là
lịch sử chứ không phải tuyên truyền, là sự uyên bác chứ không phải định kiến,
là thông tin chứ không phải sự kích động và là cảm hứng chứ không phải
những lời sáo rỗng.
Bảo tồn di sản văn hóa trở thành mối quan tâm của toàn xã hội và giới
nghiên cứu khoa học trong vài thập niên gần đây. Hiện nay ở nhiều quốc gia,
bảo tồn di sản văn hóa trở thành một ngành học có tính chuyên môn cao và
các quy ước chung về bảo tồn di sản văn hóa của cộng đồng quốc tế được các
quốc gia tôn trọng thực hiện.


18
Từ những năm 1964, các nguyên tắc bảo tồn đã được giới nghiên cứu
khoa học toàn cầu quan tâm bằng việc tổ chức Hội đồng Quốc tế các di tích và di
chỉ (ICOMOS) công bố Hiến chương Venice về bảo tồn và trùng tu di tích, di

chỉ. Hiến chương này nhấn mạnh việc bảo tồn đòi hỏi phải giữ gìn tính nguyên
gốc, không được phép thêm vào hay bớt đi mà phải bảo tồn nguyên vẹn.
Trên cơ sở tôn trọng các điều khoản của Hiến chương Venice,
UNESCO đã ban hành Công ước về việc bảo tồn các di sản văn hóa và thiên
nhiên thế giới vào năm 1972. Tiếp đến năm 2003, UNESCO ban hành Công
ước bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể, được sự đồng thuận của trên 120 quốc
gia thành viên mà Việt Nam là một trong số những thành viên đó. Với mục
tiêu tăng cường nhận thức về tầm quan trọng và thống nhất hoạt động bảo vệ
di sản văn hóa phi vật thể, Công ước yêu cầu các nước cam kết có những biện
pháp bảo đảm việc bảo vệ và duy trì sự tồn tại của di sản văn hóa phi vật thể,
cùng với sự phối hợp chặt chẽ ở cấp vùng và cấp quốc tế cho mục tiêu này.
Có thể thấy, các biện pháp bảo vệ do Công ước đề ra, nhất là biện pháp kiểm
kê (xác định giá trị di sản), tư liệu hóa cho thấy quan điểm tôn trọng yếu tố
gốc của loại hình di sản này.
Về quan điểm bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hoá cũng có
nhiều quan điểm khác nhau. Nhưng trên thế giới vẫn tựu trung 2 quan điểm
như sau: Bảo tồn nguyên vẹn và bảo tồn trên cơ sở kế thừa. Như vậy quan
điểm của UNESCO những năm 1972 nghiêng về dạng bảo tồn nguyên vẹn,
di sản văn hóa bị “đóng gói” và bảo vệ trong môi trường khép kín để tránh
mọi tác động bên ngoài làm phương hại đến chúng. Khuynh hướng này
mang lại một số kết quả rất đáng quan tâm, như các công trình kiến trúc
vẫn tồn tại dù trải qua một giai đoạn thời gian rất dài... Tuy nhiên, văn hóa
nói chung trong đó có di sản văn hóa luôn gắn bó tồn tại song song với đời
sống, con người, với môi trường xã hội. Do đó, nó luôn trong tình trạng
giao lưu, tiếp biến, biến đổi để phù hợp với mọi thay đổi của cuộc sống.
Bởi vậy, bảo tồn theo khuynh hướng này bộc lộ hạn chế, làm cho di sản
văn hóa không phát huy hết giá trị.


19

Với quan điểm bảo tồn trên cơ sở kế thừa cũng bộc lộ những nhận định
sai. Di sản văn hóa có sức sống mãnh liệt, có giá trị, có nền tảng vững chắc do
được chắt lọc, chưng cất, được thử thách qua nhiều bước thăng trầm của lịch
sử. Theo quy luật kế thừa thì những di sản văn hóa nào tồn tại trong đời sống
xã hội, nếu không phù hợp với hệ giá trị xã hội tại thời điểm lịch sử hiện tại
thì sẽ bị triệt tiêu và vĩnh viễn biến mất. Nếu lấy quan điểm này làm quan
điểm bảo tồn độc lập thì chúng ta sử dụng hệ giá trị hôm nay làm thước đo sự
thay đổi các sản phẩm văn hóa truyền thống, khuynh hướng thả nổi sẽ đẩy
nhanh quá trình làm biến dạng các tiêu chí và chuẩn mực vốn đó được định
hình trong di sản văn hóa.
Nguyên tắc quan trọng của bảo tồn di sản văn hóa là bảo vệ và giữ gìn
sự tồn tại của di sản văn hóa theo dạng thức vốn có. Bảo tồn đồng nghĩa với
không để di sản văn hóa mai một, bị thay đổi, biến hóa. Xuất phát từ sự duy
trì ý nghĩa văn hóa của di sản văn hóa mà trong hoạt động bảo tồn không chấp
nhận việc cải biến, nâng cao hay phát triển. Di sản văn hóa cần được xem là
tinh hoa văn hóa, do vậy việc khẳng định giá trị đích thực dưới những thể
trạng và hình thức khác nhau cũng như khả năng tồn tại theo thời gian của nó
là điều quan trọng.
Quan điểm lựa chọn bảo tồn di sản văn hóa hợp lý là việc lựa chọn, bảo
vệ, giữ gìn những giá trị từ quá khứ đến hiện tại, cái được bảo tồn tất yếu phải
phù hợp với thời đại, chứa đựng những khả năng có thể được làm giàu thêm
về giá trị và có thể tiếp tục được phát huy, phát triển vì lợi ích của cộng đồng,
xã hội, vì sự phát triển của văn hóa. Ngoài ra, hoạt động bảo tồn di sản văn
hóa phải tuân thủ những nguyên tắc nghiêm ngặt mang tính thông lệ được
cộng đồng quốc tế cam kết thực hiện.
Không có một hình thức, phương pháp chung nào có thể áp dụng cho
việc bảo tồn tất cả các loại hình di sản văn hóa do sự đa dạng, phong phú của
di sản văn hóa. Sự đa dạng đó cũng biểu hiện trong các điều kiện không gian
và thời gian mà di sản văn hóa tồn tại và phát huy tác dụng, giá trị lịch sử,
Nghiên cứu khoa học văn hóa về di sản văn hóa là tìm ra cách lựa chọn bảo



20
tồn có ý thức, thích hợp và đảm bảo các khả năng lan tỏa ý nghĩa văn hóa
trong cộng đồng, phát huy giá trị của di sản văn hóa vào đời sống tinh thần
cộng đồng, là động lực cho sự phát triển.
Quan điểm của UNESCO về phát huy giá trị di sản văn hóa
Phát huy được hiểu là những tác động làm cho cái hay, cái đẹp, cái tốt
tỏa tác dụng và tiếp tục nảy nở từ ít đến nhiều, từ hẹp đến rộng, từ đơn giản
đến phức tạp. Có thể nói, phát huy chính là việc khai thác, sử dụng sản phẩm
một cách có hiệu quả. Công việc này xuất phát từ nhu cầu thực tế, con người
mong muốn sản phẩm của họ tạo ra phải được nhiều người cùng biết đến hoặc
đem về những lợi ích kinh tế. Phát huy giá trị di sản văn hóa là một hoạt động
có tính liên ngành, có tiêu chí chung, mục đích là phục vụ cho sự tiến bộ của
xã hội, gúp phần giáo dục truyền thống yêu nước, giữ gìn bản sắc văn hóa dân
tộc, đồng thời là nhịp cầu nối với bạn bè năm châu. Cách thức phát huy của
mỗi di sản, mỗi thời điểm có khác nhau, điều đó tùy thuộc vào văn hóa của
mỗi vùng, vào nhận thức của từng người. Nhưng tất thảy các hoạt động này
đều phải dựa vào giá trị sẵn có của di sản, làm tôn vinh vẻ đẹp và phát triển
các giá trị văn hóa đó.
Phát huy di sản văn hóa là một hoạt động có tính liên ngành, có nguyên
tắc chung để đảm bảo cho hiệu quả của hoạt động này. Do tính đa dạng của di
sản văn hóa nên cách thức phát huy từng di sản văn hóa có thể khác nhau ở từng
thời điểm khác nhau, tùy thuộc vào đặc điểm văn hóa của từng vùng cũng như
nhận thức của chủ thể tổ chức các hoạt động phát huy cũng như cộng đồng,
nhưng nguyên tắc cao nhất của phát huy di sản văn hóa là phải dựa vào những
giá trị hiện có của di sản văn hóa, tôn vinh giá trị và phát triển những tinh hoa
của giá trị di sản văn hóa vì lợi ích cộng đồng cũng như sự phát triển văn hóa.
Mục đích quan trọng nhất của hoạt động phát huy giá trị di sản văn hóa
là làm cho các ý nghĩa văn hóa, tinh hoa các giá trị văn hóa truyền thống tốt

đẹp lan tỏa vào cộng đồng, tiếp tục duy trì sức sống của nó trong đời sống
tinh thần cộng đồng, góp phần quan trọng vào hoạt động giáo dục truyền
thống và đặc biệt là giữ gìn bản sắc dân tộc trong thế giới tôn trọng đa dạng


21
văn hóa hôm nay, tạo cơ sở, bản lĩnh cho giao lưu, tiếp biến, phát triển văn
hóa, phục vụ cho sự tiến bộ xã hội.
Trong phương pháp nhằm phát huy tốt nhất giá trị của di sản văn hóa
thì phương pháp kết hợp giữa bảo tồn và phát huy đạt hiệu quả cao. Nếu
chúng ta chỉ bảo tồn, không sử dụng, không đưa các giá trị văn hóa vào cuộc
sống thì không thể phát huy di sản văn hóa và thời gian sẽ làm di sản mai một
đi, có thể rơi vào tình trạng bị lãng quên. Chỉ khi giá trị các di sản văn hóa
được phát huy thì chúng ta mới có cơ sở, căn cứ làm điều kiện để bảo tồn.
1.3.2. Quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước về bảo tồn và
phát huy di sản văn hóa
Thành công của Cách mạng tháng Tám năm 1945 đã lập ra nước Việt
Nam Dân chủ Cộng Hòa. Giữa bối cảnh sau chiến tranh, đất nước còn gặp
khó khăn, thử thách và nhiều nhiệm vụ chính trị cần được quan tâm thực hiện
hàng đầu. Đảng và Nhà nước ta đã xác định xây dựng văn hóa là nhiệm vụ
then chốt quan trọng và vấn đề giữ gìn di sản văn hóa dân tộc được đặt ra thực
hiện. Ngày 23/11/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh ký và công bố Sắc lệnh số
65/SL về bảo tồn cổ tích trên toàn cõi Việt Nam.
Ngày 29/10/1957, Nghị định số 519-TTg về bảo vệ di tích lịch sử và
danh lam thắng cảnh do Thủ tướng Chính phủ công bố đã tạo điều kiện cho
ngành Văn hóa thông tin tiến hành kiểm kê phổ thông các di tích lịch sử văn
hóa và danh lam thắng cảnh ở các tỉnh và thành phố toàn miền Bắc; giúp bảo
vệ những di tích quan trọng nhất của đất nước như Đền Hùng, cổ Loa, Văn
Miếu, Bãi Cọc Bạch Đằng; xây dựng được hệ thống bảo tàng Cách mạng Việt
Nam, Bảo tàng Quân đội, Bảo tàng Hải Phòng, Bảo tàng Việt Bắc và nhiều bảo

tàng khác ở cơ sở.
Pháp lệnh bảo vệ và sử dụng di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh do
Hội đồng Nhà nước công bố ngày 31/3/1984, đó chứng tỏ sự quan tâm của Đảng
và Chính phủ đối với công tác giữ gìn di sản văn hóa của dân tộc.
Công cuộc đổi mới là một bước ngoặt quan trọng trong sự nghiệp phát
triển đất nước. Những thay đổi sâu sắc nhất bắt đầu từ lĩnh vực kinh tế, ở đó,


×