Tải bản đầy đủ (.pdf) (38 trang)

Tiểu luận quá trình chính trị các nước đông nam á

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.09 MB, 38 trang )

MỤC LỤC
I. Quá trình chính trị ở các nước Đông Nam Á ......................................................2
1. Giai đoạn 1: từ những năm 1940 – 1960 – chế độ dân chủ đại nghị vay mượn
Phương Tây. ............................................................................................................2
1.1. Khái niệm chế độ dân chủ đại nghị: ..........................................................2
1.2. Sự tất yếu của chế độ dân chủ đại nghị “ vay mượn” Phương Tây ..........3
1.3. Tình hình chung của các nước Đông Nam Á khi áp dụng mô hình này ....5
2. Giai đoạn 2: từ năm 1970 – 1980 : chế độ độc tài .................................................8
2.1.Khái niệm chế độ độc tài ..................................................................................8
2.2. Các loại độc tài ................................................................................................8
Chế độ độc tài phát triển .....................................................................................9
Chế độ độc tài phản phát triển ............................................................................9
Chế độ độc tài quân sự ......................................................................................10
Chế độ độc tài hợp hiến .....................................................................................10
2.3. Nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của chế độ độc tài ở Đông Nam Á .............11
2.4. Quá trình hình thành và phát triển của chế độ độc tài ở Đông Nam Á .........14
2.5. Nguyên nhân sụp đổ chế độ độc tài ở Đông Nam Á .....................................24
2.6 Kết quả sau khi chế độ độc tài ở Đông Nam Á sụp đổ...................................25
3. Giai đoạn 3: Từ giữa những năm 1980 – đến nay: chế độ dân chủ đại nghị dân
tộc 27
3.1. Nguyên nhân tái lập ....................................................................................27
3.2. Dân chủ thể hiện trong hiến pháp của Hồ Chí Minh năm 1946 ...................28
3.3. Chuyên chính dân chủ nhân dân và liên minh quyền lực ở Việt Nam...........31
KẾT LUẬN ..............................................................................................................34
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................................38


Quá trình chính trị là các bước xác lập các điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội, văn
hóa, chính trị, cả về mặt không gian lẫn thời gian, cả nội dung và hình thức… cho
nền chính trị hiện đại như ngày hôm nay.
I.


Quá trình chính trị ở các nước Đông Nam Á
Tiền đề của quá trình chính trị ở các nước Đông Nam Á trải qua ba giai đoạn:
1. Giai đoạn 1: từ những năm 1940 – 1960 – chế độ dân chủ đại nghị vay
mượn Phương Tây.
1.1. Khái niệm chế độ dân chủ đại nghị:
- Là cấu trúc chính trị của xã hội tư bản chủ nghĩa, mà ở đó hình thành cơ
quan đại diện cho chế độ tư hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, ở đó nhà nước
bảo vệ quyền tự do cho nhân dân, ở đó nhà nước xây dựng trên nền tảng một
nhà nước pháp quyền.1
Ngoài ra, chế độ này là một thuộc tính của xã hội chủ nghĩa đó là
- Tổ chức nhà nước theo tam quyền phân lập
- Tồn tại đa đảng chính trị
- Tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần, trong đó thành phần kinh tế tư bản tư
nhân giữ vai trò chủ chốt
- Tuyên bố sự tham gia chính trị rộng rãi của nhân dân

1

Trích theo lời giảng của PGS.TS Hoàng Văn Việt


1.2. Sự tất yếu của chế độ dân chủ đại nghị “ vay mượn” Phương Tây
Chế độ dân chủ đại nghị vay mượn Phương Tây là một quá trình tất yếu mà
ngay sau khi giải phóng các nước Đông Nam Á buộc phải vay mượn vì:
Thứ nhất, “ tất yếu” là một phạm trù chỉ sự vận động của sự vật và hiện tượng
một cách khách quan, không phụ thuộc vào ý chí chủ quan, được lặp đi lặp lại
và mang tính phổ biến hay nói cách khác là không có là không được bắt buộc
phải có2.
Thứ hai, đặc điểm của tất yếu chỉ:
- Bản chất khách quan của sự vật hiện tượng

- Không gian tồn tại của sự vật hiện tượng
- Thời gian tồn tại của sự vật hiện tượng
Khi áp dụng quá trình này thì nó buộc phải vay mượn vì:
Thứ nhất dựa vào bối cảnh thế giới và điều kiện xã hội Đông Nam Á lúc bấy
giờ. Quyết định này không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của giai cấp tư sản,
giai cấp công nhân mà phụ thuộc vào bối cảnh thế giới và các nước Đông Nam
Á lúc bấy giờ. Đó là hầu hết các nước Đông Nam Á ( trừ Thái Lan ) đều là
thuộc địa của thực dân Phương Tây vì thế sau chiến tranh thế giới thứ hai buộc
các nước Đông Nam Á phải tìm kiếm một mô hình chính trị mới quản lí xã hội
sao cho giải quyết được các vấn đề cấp bách của xã hội lúc bấy giờ đó là:
- Khắc phục hậu quả kinh tế sau chiến tranh
- Ổn định và phát triển kinh tế
- Giữ gìn và bảo vệ nền độc lập, chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ

2

Giáo trình những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê nin, NXB chính trị quốc gia Hà Nội – sự thật, 2012


- Tiếp tục duy trì và bảo vệ quyền lực chính trị của giai cấp tư sản ( giai cấp
cầm quyền).
Nói tóm lại dựa vào bối cảnh thế giới cũng như đất nước lúc bấy giờ buộc các
nước Đông Nam Á phải có một cơ cấu quyền lực đủ mạnh, mà ở đây là giai cấp
tư sản – giai cấp mới lên cầm quyền phải thực sự mạnh để giải quyết những vấn
đề cấp bách xã hội trên.
Thứ hai bắt buộc phải có là dựa vào điều kiện tất yếu ở đây là điều kiện kinh tếchính trị - xã hội. Đó là sau khi giành độc lập giai cấp tư sản lên cầm quyền tuy
nhiên thì bản thân giai cấp tư sản còn non yếu, vì chúng ta đều biết giai cấp tư
sản được hình thành trong thời kì bão táp của cuộc cách mạng giải phóng dân
tộc thoát khỏi sự xâm lược của thực dân Phương Tây, là giai cấp đi đầu lãnh
đạo nhân dân chính vì vậy sau giải phóng giai cấp này được sự ủy nhiệm, tín

nhiệm của người dân và đất nước lên cầm quyền. Tuy nhiên giai cấp tư sản
chưa đủ mạnh về lực lượng, cơ sở kinh tế, xã hội, tư tưởng chính trị…nên nó
cần liên minh với giới quan lieu và địa chủ tư sản để thực hiện quản lí quyền
lực nhà nước. “ Sự lệ thuộc của các thuộc địa cũ vào tư bản nước ngoài đã làm
mất đi tính tự chủ, độc lập và hành động tự do của nhóm nắm quyền lực dân tộc
trong việc hoàn thiện cấu trúc chính trị. Mặt khác, một số thành phần của hệ
thống chính trị dân chủ đại nghị ( các đảng chính trị, các tổ chức quần chúng,
các nghị viện) xuất hiện trong thời kì thực dân dưới ảnh hưởng chính trị và tư
tưởng trực tiếp của chủ nghĩa đế quốc, vẫn còn tồn tại trong đất nước độc lập. 3
Chính vì những điều kiện trên buộc giai cấp tư sản phải vay mượn mô hình bên
ngoài để giải quyết các vấn đề cấp bách của xã hội. Ngoài ra, do ảnh hưởng của
thực dân quá lớn, ngay từ khi đô hộ thực dân đã áp dụng mô hình này tại các

3

Hoàng Văn Việt, Các quan hệ chính trị ở Phương Đông truyền thống và hiện đại, NXB chính trị quốc gia, 2012.


nước Đông Nam Á. Chính vì thế giai cấp tư sản đã chọn mô hình có sẵn – chế
độ dân chủ đại nghị “ vay mượn” Phương Tây để củng cố quyền lực của mình.
Nhưng hình thái dân chủ đại nghị của các nước Đông Nam Á không vay mượn
hoàn toàn mà cải tiến sao cho phù hợp với xã hội mình.
Ví dụ như Indonesia vay mượn mô hình của Hà Lan, Philippines vay mượn của
Mỹ….
1.3. Tình hình chung của các nước Đông Nam Á khi áp dụng mô hình này
Trong điều kiện mới thoát ra khỏi sự đô hộ của chủ nghĩa thực dân,với một cơ
sở xã hội gần như tuyệt đại là nông dân, các tầng lớp trung gian nhỏ bé, chủ yếu
là lực lượng ít ỏi các tiểu chủ nên bộ máy chính quyền của các nước Đông Nam
Á còn non yếu giống nhau nên không thể vay mượn của nhau được. Trong giai
đoạn này do vừa mới giải phóng nên nền kinh tế, chínhtrị, xã hội bất ổn, mâu

thuẫn giữa nhân dân với giai cấp cầm quyền ngàycàng gay gắt, nhiều cuộc bạo
động đấu tranh đòi ly khai xảy ra gây bất ổn cho an ninh chínhtrị ở các nước
Đông Nam Á..
Tóm lại, hầu hết ban đầu người dân Đông Nam Á đều đồng ý với chế độ dân
chủ đại nghị Phương Tây vì nó giải quyết được mong muốn của họ đó là từ khi
bị đô hộ họ không có quyền tự do về mọi mặt trong cuộc sống kể cả lĩnh vực
tinh thần tuy nhiên từ khi chế độ đại nghị này hình thành thì họ được tự do cả
về mặt tinh thần, tự do ngôn luận, tự do chọn cho mình một người đứng đầu đất
nước… Nhưng càng về sau họ không đồng ý với cách cai trị của người đứng
đầu đất nước dân tới hàng loạt cuộc đấu tranh bạo động.
Sự bất tương ứng giữa thượng tầng cơ sở và kiến trúc hạ tầng, sự khác nhau
giữa Phương Đông và phương Tây về văn hóa, chính trị, xã hội… đã làm cho


chế độ dân chủ đại nghị vay mượn Phương Tây hoàn toàn sụp đổ tại các nước
Đông Nam Á
VD cụ thể: Ở Indonesia.
Sau khi giành được chủ quyền, đấu tranh xóa bỏ liên bang và trở thành một
nước cộng hòa thống nhất, Indonesia đã tiến hành công cuộc tái thiết đất nước
và phát triển kinh tế, củng cố bộ máy nhà nước và quyền lực lãnh đạo của mình.
Do từng là thuộc địa của Hà Lan trong thời gian quá dài nên nền tảng luật pháp
và mô hình vay mượn của Châu Âu. Mô hình này vốn đã bọc lộ những điểm bất
hợp lí đối với môi trường xã hội và văn hóa Indonesia.
Thời kì đầu chính phủ Indonesia tiến hành xây dựng một nhà nước dân chủ tự
do kiểu phương Tây nhằm thúc đẩy quyền tự do, dân chủ trong nhân dân. Chính
sách dân chủ tự do của tổng thống Sukarno ban đầu nhận được sự ủng hộ của
đại đa số dân chúng, vì nó đáp ứng sự mong đợi của nhân dân sau một thời kì
quá dài nằm dưới sự cai trị, nô dịch của ngoại bang. Thời kì này, môi trường
chính trị Indonesia khá tự do với sự hoạt động của hàng trăm đảng phái chính
trị khác nhau. Tuy nhiên, bất kì chính sách nào cũng có những mặt trái của nó.

Sự đấu đá tranh giành quyền lực của các đảng phái cùng với sự non yếu về tổ
chức chính quyền làm cho tình hình chính trị Indonesia luôn ở trong trạng thái
không ổn định. Điều này bọc lộ rõ qua sự thay đổi liên tục các chính phủ. Chỉ
trong thời gian ngắn, từ năm 1950 – 1957 đã có đến 6 chính phủ nội các được
thay đổi. Người dân ngày càng cảm thấy chính đảng thích lợi ích riêng của
mình và sự bất lực của các nhiệm vụ cấu thành.
Một đặc điểm của nhà nước Indonesia thống nhất là nó áp dụng một ý thức hệ
dân tộc chủ nghĩa theo 5 quy tắc của Pancasila, đó là xây dựng một nhà nước
thế tục, trong đó yếu tố tôn giáo không phải là yếu tố quan trọng nhất. Việc sử


dụng ý thức hệ Pancasila với mong muốn xây dựng chủ nghĩa dân tộc
(Nationalism) nhằm đoàn kết các tộc người trên toàn bộ quần đảo về cơ bản rất
phù hợp với Indonesia – một đất nước đa tộc, đa tôn giáo. Tuy nhiên chính
Pancasila lại là nguyên nhân gây ra sự bất mãn với những tín đồ nhiệt thành của
Islam giáo, luôn mong muốn một nhà nước Indonesia được xây dựng trên nền
tảng Islam. Đó chính là một trong những nguyên nhân dẫn đến những cuộc
xung đột tôn giáo, những phong trào đấu tranh với mục đích thành lập nhà nước
Islam ở Indonesia thời kì đầu xây dựng đất nước của Indonesia. Sukarno đi theo
tư tưởng “dân chủ có chỉ đạo” nên nhà nước can thiệp, chi phối mọi mặt trong
đời sống của nhân dân. Về kinh tế, trong khi dân chúng đang phải chịu tình
trạng lạm phát cao và thiếu lương thực thì ông dùng tiền để xây dựng tượng đài.
Theo ông tượng đài là biểu tượng quốc gia, nhằm tạo sự đoàn kết giữa các dân
tộc khác nhau, song trên thực tế điều này gặp phải sự phản đối của nhân dân rất
nhiều, dân chúng ngày càng kêu ca về tình hình kinh tế gặp nhiều khó khăn.
Ngoài ra, với chính sách đóng cửa kinh tế cho nên kinh tế ngày càng yếu kém
hàng loạt các xí nghiệp tư nhân phá sản, hàng chục triệu công nhân bị thất
nghiệp, nạn đói đe dọa, làm cho hàng vạn nông dân đi ra thành thị tìm việc làm
để kiếm sống.
Trong thời kì này, các phong trào ly khai ở Indonesia chủ yếu chống lại sự sáp

nhập của các bang vào một nhà nước cộng hòa Indonesia thống nhất. Lý do
chống lại sự sáp nhập là các bang vốn có truyền thống tự trị tương đối trong
suốt thời kì thuộc địa và có sự khác nhau về sắc tộc, văn hóa tôn giáo cũng như
truyền thống lịch sử. Do đó họ không chấp nhận trở thành một phần của
Indonesia, điều này đã dẫn đến việc ly khai để thành lập một nhà nước độc lập
khi cộng hòa Indonesia ép buộc các bang kia sáp nhập. Điển hình cho các


phong trào ly khai giai đoạn này là phong trào ly khai ở Ambon thuộc quần đảo
Maluku và phong trào ly khai ở Tây Papua khi bị sáp nhập vào Indonesia.
Với những chính sách không phù hợp trên, đã làm cho tình hình xã hội – chính
trị Indonesia rối loạn, an ninh đe dọa, một số tỉnh có ý đồ ly khai, đời sống
nhân dân gặp nhiều khó khăn, kinh tế lạm phát hoành hành, nợ nước ngoài
chồng chất…
Người dân mất niềm tin vào chính phủ ngày càng bất mãn với chế độ dân chủ
đại nghị Phương Tây.
Tóm lại, ban đầu người dân các quốc gia ĐNA cũng như Indonesia chấp nhận
và rất đồng tình với chế độ này nhưng do tồn tại quá nhiều đảng phái tranh
giành quyền lực gây rối loạn xã hội cùng với những chính sách về tôn giáo,
chính trị, văn hóa xã hội không phù hợp với từng vùng miền đặc biệt là với một
đất nước đa sắc tộc, tôn giáo như Indonesia cho nên nhân dân đã bất mãn với
chế độ chính quyền này dẫn đến hàng loạt phong trào đấu tranh và chế độ dân
chủ đại nghị vay mượn Phương Tây đã sụp đổ.
2. Giai đoạn 2: từ năm 1970 – 1980 : chế độ độc tài
2.1.Khái niệm chế độ độc tài
Chế độ độc tài (Dictatorship) là một chế độ chính trị của giai cấp thống trị dựa
trên quyền hành không hạn chế của một người hay một nhóm người nắm quyền
thống trị xã hội.
2.2. Các loại độc tài
Dựa vào mục tiêu và nội dung hoạt động, chế độ độc tài được chia thành 2 loại

đó là chế độ độc tài phát triển và chế độ độc tài phản phát triển.


Chế độ độc tài phát triển là thể chế chính trị được thiết lập để đảm bảo sự ổn
định của chính trị - xã hội và tiến hành công cuộc hiện đại hóa nền kinh tế.
Trong thể chế chính trị này, quyền lực tập trung vào tay của một nguyên thủ
quốc gia (có thể là thủ tướng, tổng thống). Nguyên thủ quốc gia là người có
quyền hành rất lớn, nắm trong tay tất cả các quyền lập pháp, hành pháp và tư
pháp. Nguyên thủ quốc gia có thể thay đổi hiến pháp sao cho phù hợp với
quyền lực của mình. Trong các trường hợp cần thiết thì nguyên thủ quốc gia có
thể thay thế các đạo luật của quốc hội bằng những sắc lệnh của riêng mình.
Chính phủ có quyền kiểm soát các hoạt động của nền kinh tế quốc gia cũng như
can thiệp, kiểm soát và hạn chế hoạt động của các tổ chức chính trị đối lập với
chính phủ. Hoạt động của nhà nước vẫn chú tâm vào phục vụ lợi ích của quốc
gia, dân tộc và đời sống của nhân dân. Những chính sách của chính phủ đưa ra
nhằm đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng và tiến lên con đường công nghiệp
hóa, hiện đại hóa.
Chế độ độc tài phản phát triển là thể chế được xây dựng để phục vụ cho
quyền lợi của một cá nhân hay một nhóm cá nhân nhất định. Mục tiêu của chế
độ độc tài này là nhằm tranh quyền, đoạt lợi, chạy đua vũ trang để tiến hành
những cuộc chiến tranh xâm lược... phục vụ cho tham vọng của những cá nhân
nhất định. Trong trường hợp này, quyền hành của nguyên thủ quốc gia vẫn là
tuyệt đối và vô hạn. Bộ máy cai trị của thể chế này vô cùng hà khắc và độc
đoán. Chính phủ thẳng tay trừng trị và đàn áp đẫm máu những hoạt động chống
đối của các đảng phái chính trị đối lập. Chính phủ không từ bất cứ một thủ đoạn
nào để có thể loại bỏ đối thủ của mình và áp đặt quyền thống trị của mình lên xã
hội, buộc tất cả các tầng lớp trong xã hội phải phục tùng những sắc lệnh do
nguyên thủ quốc gia ban hành. Mọi quyền tự do, dân chủ của nhân dân đều bị



tước bỏ. Do đó, chế độ độc tài phản phát triển không phải phục vụ cho sự phát
triển của nền kinh tế quốc gia mà chỉ phục vụ cho tham vọng của chính phủ.

Dựa vào tính chất quyền lực chính trị và phương pháp quản lý xã hội, các nhà
khoa học Marxist đã chia chế độ độc tài làm 2 loại: chế độ độc tài quân sự và
chế độ độc tài hợp hiến.
Chế độ độc tài quân sự là thể chế chính trị được thiết lập dựa trên cơ sở dựa
vào hoạt động của bộ máy quân đội để tiến hành cuộc đảo chính quân sự giành
lấy chính quyền. Trong chính thể này, quyền lực quản lý nhà nước tập trung vào
tay giới quân nhân. Người đứng đầu nhà nước xuất thân từ quân đội, dựa vào
hoạt động của quân đội để thâu tóm tất cả quyền lực về tay của mình. Thông
qua quân đội, chính phủ tiến hành những cuộc thanh trừng, đàn áp và thủ tiêu
những tổ chức, đảng phái chính trị đối lập với họ. Chính phủ điều hành công
việc quốc gia bằng bộ máy quân đội. Quân đội trở thành công cụ đắc lực để trấn
áp những cuộc nổi dậy của nhân dân để ổn định tình hình chính trị, xã hội trong
nước.
Chế độ độc tài hợp hiến là chế độ chính trị được thiết lập trong hoàn cảnh đất
nước đang gặp rất nhiều khó khăn, khủng hoảng. Mục tiêu của chế độ độc tài
trên đó là nhằm thiết lập lại ổn định xã hội và phát triển kinh tế. Trong chính thể
này, quyền lãnh đạo đất nước không nằm trong tay của giới quân nhân mà nằm
trong tay của các nhà chính trị. Chính phủ độc tài được thiết lập thông qua một
cuộc cải cách chính trị do chính phủ đương nhiệm tiến hành hoặc do nhân dân
bầu ra trong một nhiệm kỳ mới. Do đó, chính phủ độc tài hợp hiến là chính phủ
phù hợp với Hiến pháp, hợp pháp và được nhân dân ủng hộ.


2.3. Nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của chế độ độc tài ở Đông Nam Á
Vào những năm 50 - 60, các nước Đông Nam Á không xã hội chủ nghĩa đã tiếp
thu mô hình dân chủ Nghị viện phương Tây. Trong điều kiện vừa mới thoát
khỏi sự đô hộ thực dân, với một cơ sở xã hội gần tuyệt đại đa số là nông dân,

các tầng lớp trung gian còn nhỏ bé (chủ yếu là lực lượng ít ỏi các tiểu chủ), vai
trò và ảnh hưởng của quân đội rất lớn và là một lực lượng chính trị độc lập chi
phối nhà nước, và là chỗ dựa của chính quyền, sự tranh giành quyền lực trong
các thế lực chóp bu, các phong trào ly khai, phản kháng, bạo động của các lực
lượng đối lập, nền dân chủ chưa có gốc này không đủ sức đưa ra và thực hiện
đến cùng các chương trình phát triển kinh tế - xã hội. Bất ổn chính trị mà phổ
biến là các cuộc đảo chính và sự thay đổi chính phủ thường xuyên xảy ra là
nguyên nhân chính của cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội chứng tỏ cần phải có
một nhà nước mạnh để tiến hành cải cách kinh tế.
Có thể thấy rằng nền chính trị độc đoán chuyên quyền ra đời là phản ứng và là
kết quả tất yếu từ sự bất lực của chế độ dân chủ hay dân chủ nửa vời, hệ quả
của những mâu thuẫn và khủng hoảng kinh tế đã tích tụ trong suốt thời kỳ của
nền dân chủ đó (Sukarno ở Indonesia, những năm 50 đến 60; Thái Lan những
năm 60 đến 70). Tại thời điểm đó “Tư sản bản địa cần chính quyền mạnh, đó là
chính quyền độc đoán”. Đây được xem là nguyên nhân chủ yếu tác động trực
tiếp đến tình hình chính trị thời bấy giờ, chế độ độc tài ra đời như một bước
ngoặt để giải quyết những bất ổn về kinh tế tiềm tàng trong xã hội.
Tuy nhiên chế độ độc đoán chuyên quyền cũng chưa thể thay thế được chế độ
dân chủ nếu chỉ vì khủng hoảng kinh tế – xã hội. Ở đây mâu thuẫn của các thế
lực chóp bu về chính trị và kinh tế trong việc lựa chọn con đường phát triển, về
các chính sách kinh tế cũng là một nguyên nhân. Chính lực lượng quân đội
không chỉ làm nhiệm vụ hậu thuẫn chính trị mà trước hết quân đội cũng có lập


trường kinh tế, tham gia quyết định các chiến lược kinh tế khi các lực lượng dân
chủ cầm quyền không đưa ra được những chương trình kinh tế, những kế hoạch
phát triển kinh tế phù hợp. Về sau, chính các chương trình kinh tế đúng đắn và
được bảo đảm thực hiện có hiệu quả là cơ sở để duy trì, củng cố chế độ độc
đoán chuyên quyền.
Bên cạnh đó, trong tình cảnh chế độ Dân Chủ Nghị Viện còn non yếu không có

người đứng đầu để giải quyết những khó khăn trong nước cũng như sự đấu
tranh tranh giành quyền lực giữa các phe phái thì vai trò của cá nhân của “người
cầm lái” và thế lực thân cận (Lý Quang Diệu ở Singapore ; Suharto ở
Indonesia) trở nên cần thiết và đặc biệt quan trọng. Mặc dù có sự độc tài chuyên
chế nhưng đây lại là những nhân vật không chỉ có bàn tay cứng rắn để duy trì
trật tự mà hơn thế biết đưa ra những tư tưởng chiến lược đúng đắn và tập hợp
một lực lượng các chuyên gia đủ sức tiến hành thành công các chương trình,
chiến lược đó.
Như vậy, chế độ độc đoán chuyên quyền công khai hay có che đậy đều hình
thành trong điều kiện khủng hoảng kinh tế - xã hội do sự bất lực của nền dân
chủ non yếu hay đúng hơn là sự bất lực của một xã hội không người chèo lái.
Và chế độ độc đoán chuyên quyền được đứng vững và củng cố chủ yếu dựa trên
một chiến lược phát triển là “ưu tiên kinh tế so với chính trị” , lấy hiện đại hóa
kinh tế làm nhiệm vụ chung của quốc gia. Ở những nước ASEAN, cũng như
nhiều nước khác trên thế giới, nếu lấy chính trị làm đầu thì hầu như đều dẫn đến
khủng hoảng kinh tế và cuối cùng lại dẫn đến khủng hoảng chính trị (như
Philippin).
Tại Đông Nam Á, trừ Việt Nam, Lào theo mô hình chính trị xã hội chủ nghĩa,
còn có Miến Điện đã từng chọn mô hình phát triển theo định hướng xã hội chủ


nghĩa với một nền chính trị độc đảng cầm quyền với những thiết chế quyền lực
tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ (1962 - 1988). Nhưng
Miến Điện đã không đủ sức hiện đại hóa vào những năm 70 - 80 và cuối cùng
cũng phải đổi mới và thực hiện thể chế dân chủ. Nói như vậy để thấy rằng đối
với các nước thế giới thứ ba, trong đó có các nước ASEAN, độc đoán chuyên
quyền có vai trò thúc đẩy hiện đại hóa hơn là dân chủ. Nhưng độc đoán chuyên
quyền phải nhằm mục đích hiện đại hóa, có chiến lược hiện đại hóa kinh tế phù
hợp với điều kiện đất nước, thực sự kết hợp được những thành tựu khoa học kỹ thuật, tranh thủ được đầu tư nước ngoài, mở cửa kinh tế v.v...
Chế độ độc đoán chuyên quyền và chế độ độc tài quân sự nói riêng ở các nước

Đông Nam Á hình như là một giai đoạn cần thiết của quá trình phát triển chính
trị. Điều này cũng gần như là một bước phổ biến cho thấy rằng ở đa số các nước
đang phát triển, nền dân chủ tự do không nhất thiết trở thành tiền đề cho hiện
đại hoá xã hội. Hầu như tại các nước đang phát triển, những năm 60 - 80 là
những năm bước ngoặt, vì chế độ chuyên quyền độc đoán, thậm chí độc tài đã
có vai trò lớn trong công cuộc hiện đại hóa (Hàn Quốc, Đài Loan, Chi-lê,
Brazil, Indonesia, Thái Lan (sau 1980), Singapore). Ở đây, mục tiêu hiện đại
hóa kinh tế một cách rõ ràng, với xu hướng chủ yếu là phi tập trung hóa, phi
nhà nước hóa, cải cách cơ cấu theo hướng tự do hóa, thị trường hóa thì chính
quyền độc tài đều dần dần giành được sự ủng hộ của đa số những lực lượng xã
hội theo lập trường hiện đại hóa (trí thức, trung và tiểu chủ, technocrat, và kể cả
giới quân sự). Ngược lại, ở một số nước có nền dân chủ bén rễ trong lòng của
chế độ thực dân cũ nhưng định hướng hiện đại hóa sai, thì nền chính trị có phần
dân chủ tiến bộ hơn đó, lại không phải là phương tiện hữu hiệu để thúc đẩy phát
triển đất nước (Ấn Độ, Sri-lan-ca, Ma-đa-gát-ca).


2.4. Quá trình hình thành và phát triển của chế độ độc tài ở Đông Nam Á
Thời kỳ cuối những năm 60 đầu những năm 70 là thời kỳ ASEAN được thành lập
(8/8/1967) gồm 5 nước là Indonesia, Phlippines, Malaysia, Singapore và Thái Lan.
Đây là thời kỳ các nước ASEAN chuyển sang giai đoạn hiện đại hóa tăng tốc tư
bản chủ nghĩa cùng với sự hình thành những thiết chế chính trị mới có khả năng
lãnh đạo hiệu quả hơn quá trình phát triển kinh tế - xã hội; đó là những thiết chế
của chế độ độc đoán chuyên quyền hay chế độ độc tài. Với những hình thức cụ thể
khác nhau, những thiết chế này có khả năng đảm bảo sự phát triển tư bản chủ nghĩa
trong điều kiện lịch sử - xã hội lúc đó. Ngay cả Miến Điện (Myanmar), chế độ dân
chủ đại nghị cũng bị xóa bỏ và còn sớm hơn các nước ASEAN lúc đó, nhưng sau
này lại chọn con đường phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Để đảm bảo sự phát triển tăng tốc tư bản chủ nghĩa, các nước ASEAN lúc đó
cần có một chính quyền độc đoán, một chính quyền Trung ương mạnh đủ sức

hoạch định các chính sách và thực hiện các chính sách đó. Điển hình như một
số nước:
+Ở Indonesia :
Năm 1965, được sự hậu thuẫn và âm mưu “bẩn thỉu” của tình báo Mỹ, Anh, tại
Indonesia đã diễn ra cuộc đảo chính quân sự. Lúc đầu, giới quân sự mượn cớ
tiêu diệt Đảng Cộng Sản ủng hộ Sukarno, nhưng sau đó đã phế truất Sukarno,
toàn bộ chính quyền vào tay Tư lệnh lục quân - Tướng Suharto. Từ đây, thiết
lập chế độ độc tài quân sự với cái tên là chế độ “Trật tự mới”, thay thế chế độ
“Trật tự cũ” do Sukarno đề ra. Sau cuộc đảo chính quân sự này, ở Indonesia,
hơn 1 triệu người được coi là cộng sản bị đàn áp trong vòng vài tháng và


khoảng 1 triệu người khác cũng chịu chung số phận trong suốt 32 năm cầm
quyền của Suharto.
Giống như nền “dân chủ có định hướng” của Sukarno, “Trật tự mới” dưới thời
Suharto là một chế độ độc tài. Tổng thống Suharto là người có quyền đưa ra và
quyết định các chính sách quan trọng của đất nước, dưới ông là một bộ máy nhà
nước quan liêu bao gồm những thành viên thân cận với tổng thống. Không
giống như những chế độ khác trong khu vực Đông Nam Á, như Thái Lan,
Myanmar, nơi mà chế độ quân sự phục vụ chủ yếu trong các thời kỳ cải cách và
chuyển giao chế độ như ng ở Indonesia, quân sự cai trị dân sự trong cả chính trị
và xã hội. Quân nhân đóng một vai trò quan trọng không chỉ ở cấp bậc cao nhất
của chính phủ và cả cấp bậc quản lí nhà nước cấp khu vực và địa phương. Các
lực lượng vũ trang thuộc quân đội cũng đóng vai trò lớn trong nền kinh tế của
Indonesia.Tuy vậy, chế độ độc tài của Suharto lại có khả năng quản lí đất nước
hiệu quả mà bền vững, ổn định nhất so với thời Tổng thống Sukarno và những
người kế nhiệm sau này.
Việc giành chính quyền của Suharto không thể không phủ nhận công của các
đảng phái cũng như vai trò của các đảng phái trong đời sống kinh tế - tinh thần
của người dân Indonesia đã khiến Suharto đã phải đồng tình và hợp lý hoạt

động của các đảng phái, mặt khác cũng như tìm cách kiểm soát các đảng phái
chính trị đó để chúng không thể trở thành mối đe doạ lớn cho chế độ. Năm
1973, bốn đảng Islam giáo đã được hợp nhất để tạo thành Đảng hợp nhất phát
triển (Partai Persatuan Pembangunan; PPP), nay gọi là Đảng Hồi giáo; Đảng
dân chủ Indonesia (Partai Demokrasi Indonesia; PDI); Đảng dân chủ nhân dân
(PRD); Đảng thức tỉnh dân tộc (Golkar),…


Đảng Golkar (Partai Golangan Karya), một đảng chính trị tồn tại rất lâu (cùng
với nhiệm kỳ của Tổng thống Suharto hơn 32 năm) trong lịch sử chính trị
Indonesia là một tổ chức đại diện cho nhóm chức nghiệp gồm các quan chức
quân đội, giáo viên, viên chức nhà nước, đại biểu các ngành nghề, công nhân,
nhóm thanh niên, phụ nữ… Trong đó quyền lãnh đạo thuộc về giới quân sự.
Giống như các nhóm dưới quyền thời Tổng thống Sukarno, nó là một đảng
chính phủ, có quyền xây dựng bộ máy nhà nước. Năm 1971, đảng Golkar đã
giành được 30% số ghế trong hạ viện của cơ quan lập pháp bằng những tuyên
bố cho sự đảm bảo cho cuộc sống ổn định và phát triển, tỷ lệ này còn được duy
trì đến tận ba nhiệm kỳ tiếp theo là năm 1977, 1982 và 1987 cùng với những lần
tái tranh cử của Tổng thống Suharto mà không có bất kỳ sự kháng cự nào đáng
kể.4
“Cuộc bầu cử năm 1971 đã bộc lộ bản chất giai cấp của nó, sắc luật về bầu cử
đã gạt ra ngoài bất kỳ sự tham dự nào của các đảng viên đảng Cộng sản và các
liên minh cánh tá và của tất cả những ai đã tham gia “Phong trào 30-9”. Quân
đội được đảm bảo chiếm 22% số ghế trong quốc hội, những ứng viên đều phải
khải qua khâu kiểm soát lòng trung thành với chính phủ” . Trong các đảng phái
phải vận động tài chính bằng quỹ riêng của mình cho cuộc bầu cử thì đảng
Golkar được sử dụng không giới hạn các phương tiện có được từ kho bạc nhà
nước. Các đảng phải tham gia hầu như không được phép đưa ra bất kỳ cương
lĩnh tư tưởng nào khác “Pantja Sila” và Hiến pháp năm 1945.
Chính thể của Tổng thống Suharto thực thi chính sách thân Mỹ. Nền chuyên

chế độc tài do tướng Suharto dựng lên lấy quân đội và cảnh sát làm cột sống
thống trị, lấy Đảng Golkar làm cột trụ chính trị và lấy Quốc hội (do Đảng
4

Huỳnh Văn Tòng (1992), Lịch sử Indonesia (từ thế kỷ XV – thế kỷ XVI đến những năm 1980), NXB Viện Đào tạo
mở rộng, Bộ Giáo dục & Đào tạo, trang 164.


Golkar và quân đội thao túng) làm bình phong pháp chế trị vì. Cả ba trụ cột
nằm trong tay tướng Suharto trong suốt 32 năm, qua 6 nhiệm kỳ độc chiếm vị
trí Tổng thống.
Ngay từ những ngày tháng đầu tiên lên nắm chính quyền, những hoạt động của
Tổng thống Suharto đã chứng tỏ hoạt động của chế độ độc tài quan liêu, quân
phiệt trong suốt 6 nhiệm kỳ (năm 1973, 1978, 1983, 1988, 1993 và 1998).
Trước hết, bằng việc thanh trừng những đảng viên Đảng cộng sản nhằm khẳng
định và tăng cường quyền lực cá nhân của Tổng thống Suharto theo tư tưởng
độc tài độc trị. Để duy trì trật tự trong nước, Suharto đã thành lập hai cơ quan
tình báo để đối phó với các mối đe doạ cho chế độ của mình.
Thứ hai, ổn định trong quân đội và lấy quân đội làm cơ quan điều hành mọi
hoạt động của nhà nước. “Các cơ quan chính phủ mới được đặt theo khu vực do
quân đội nắm giữ, mà theo Suharto điều này có thể đảm bảo an ninh quốc
phòng và quản lý dân sự hiệu quả nhất (50% bộ trưởng, 64% tỉnh trưởng, trên
40% các viên chức cao cấp là sỹ quan)”.
+ Ở Malaysia:
Mâu thuẫn dân tộc gay gắt chủ yếu là giữa người Hoa và người Mã Lai đã dẫn
đến khủng hoảng sâu sắc vào năm 1969, buộc Chính phủ phải tăng cường
quyền lực tập trung, giữ vững ổn định chính trị nhằm thực hiện các chương
trình hiện đại hóa.
+ Ở Philippines:
Khủng hoảng quyền lực vào cuối những năm đầu những năm 70 đã được khắc

phục bằng việc chuyển sang chế độ độc tài của chính quyền Tổng thống


F.Marcos với tên gọi là “Xã hội mới” với chính sách phát triển tư bản chủ nghĩa
triệt để hơn, nhằm hiện đại hóa cơ cấu kinh tế - xã hội của Philippines.
Biện pháp đầu tiên được chính quyền Marcos thực hiện trong chương trình “Xã
hội mới” là: Thực hiện cải cách bộ máy nhà nước, sửa đổi Hiến pháp, thay đổi
cơ chế bầu cử, tổ chức lại quân đội,….Trong đó, việc ban bố thuyết quân luật
được xem là biện pháp có tác động mạnh mẽ nhất đối với đời sống kinh tế chính trị Philippines lúc bấy giờ. Bên cạnh đó, quyền hành được tập trung trong
tay Tổng thống, đồng thời, Marcos cũng tiến hành thanh trừ các lực lượng
chống đối với ông. Chính vì thế, việc tra tấn, bắt bớ tùy tiện, mất tích cưỡng
bức xảy ra một cách phổ biến nhằm vào các lãnh đạo phong trào công nhân,
nông dân, sinh viên. Marcos đã tiến hành thâu tóm cả các quyền lập pháp, hành
pháp và tư pháp. Nhiều lĩnh vực của xã hội bị tê liệt, các quyền tự do ngôn luận,
mọi sự chỉ trích chính quyền đều bị bóp nghẹt.
Tăng cường vai trò của nhà nước và khu vực quốc doanh trong việc điều chỉnh
kinh tế, tạo điều kiện khuyến khích đầu tư quốc doanh, khuyến khích đầu tư
nông, công nghiệp hướng về xuất khẩu, hiện đại hóa nền kinh tế, đi đôi với việc
phát triển những xí nghiệp vừa và nhỏ, sử dụng nhiều công nhân, chế biến nông
sản tại chỗ. Các biện pháp trên được thể hiện thông qua “luật khuyến khích đầu
tư mới năm 1967”, “kế hoạch 5 năm (1977-1982)”.
Thực hiện cải cách ruộng đất và cách mạng xanh ở vùng trồng lúa và ngũ cốc,
tăng cường cung cấp nguồn nguyên liệu nông sản cho nông nghiệp và xuất
khẩu, tiến đến xuất khẩu lương thực, thúc đẩy nhanh sự phát triển của tư bản
ngay trong nông nghiệp thông qua sắc lệnh cải cách ruộng đất 21-12-1972.
Trong đó cải cách ruộng đất được xem là trung tâm của chương trình cải cách
kinh tế - xã hội mang tính chất chống phong kiến rất rõ ràng. Mục tiêu của nó là


tạo điều kiện phát triển chủ nghĩa tư bản ở nông thôn nhằm khuyến khích địa

chủ bỏ vốn đầu tư vào công nghiệp. Nội dung khác của chương trình cải cách
ruộng đất là xây dựng các hợp tác xã nông nghiệp. Những nông dân nào đã
được chia ruộng đất đều bắt buộc gia nhập hợp tác xã.
Phát triển hệ thống ngân hàng dịch vụ, tăng cường thu hút vốn và kỹ thuật hiện
đại của tư bản nước ngoài, đa dạng hóa quan hệ kinh tế đối ngoại để thực hiện
chương trình cải cách kinh tế - xã hội dài hạn, với hoài bão biến Philippines trở
thành nước công - nông nghiệp hiện đại vào năm 2000. Về kinh tế, chính phủ
đã đề ra kế hoạch phát triển 4 năm (1974-1977) và 5 năm (1978-1982). Các kế
hoạch phát triển được đề ra với các nhiệm vụ cụ thể, rõ ràng, thể hiện mục tiêu
của chương trình “Xã hội mới”, thay đổi toàn diện bộ mặt kinh tế, cũng như xã
hội Philippines lúc bấy giờ. Đó là việc phân phối lại lợi ích tức và của cải, tạo
điều kiện tăng thêm việc làm, thúc đẩy kinh tế phát triển, khuyến khích những
ngành công nghiệp hướng ra xuất khẩu, xây dựng những nhà máy cần nhiều
nhân công để giải quyết nạn thất nghiệp, công nghiệp hóa những vùng lạc hậu.
Tuy nhiên, việc thực hiện hai kế hoạch này gặp rất nhiều khó khăn (cả trong
nước và ngoài nước), vì thế, nó cũng không góp phần đáng kể vào việc hoàn
thành nhiệm vụ đề ra.
Với chương trình “Xã hội mới” của mình, chính quyền Marcos đã thực thi rất
nhiều chính sách với các biện pháp cụ thể đã mang đến sự thay đổi không nhỏ
về bộ mặt kinh tế - xã hội Philippines trong quá trình cầm quyền. Tuy với mục
tiêu chính là cải cách nền kinh tế, chấn chỉnh xã hội, tạo ra một “ Xã hội mới”,
phát triển toàn diện, tuy nhiên các mục tiêu đề ra trong việc cải cách ruộng đất
cũng như các lĩnh vực khác trong xã hội vẫn chưa được thực hiện đến nơi đến
chốn, còn gặp rất nhiều khó khăn trong quá trình thực hiện, đồng thời cũng tạo
ra rất nhiều vấn nạn, ảnh hưởng không nhỏ tới người dân cũng như đất nước


Philippines cho tới ngày nay. Vì vậy, có thể nói thời kỳ Marcos có những thời
điểm kinh tế tăng trưởng mạnh mẽ nhưng trên toàn cục thì kinh tế không phát
triển.

Xét cho cùng, để kéo dài việc cầm quyền của mình, Marcos đã tiến hành những
biện pháp vi hiến và để cho nạn tham nhũng, chuyên quyền, gia đình trị và vi
phạm nhân quyền tràn lan, biến chính phủ mình đứng đầu biến chất và mất uy
tín, xã hội ngày một căng thẳng, bất ổn, nhân dân bất mãn.
+ Ở Singapore:
Là nước phát triển tư bản chủ nghĩa nhanh nhất trong khu vực, Singapore đã áp
dụng nguyên tắc tập trung cao độ quyền lực vào tay Đảng cầm quyền - Đảng
Nhân dân Hành động, nên đã hòa nhập bộ máy đảng vào bộ máy nhà nước.
Singapore trong suốt thời kỳ chuyên quyền, chính quyền liên tục do Đảng Nhân
dân Hành động nắm giữ. Nhìn bề ngoài thì là nên dân chủ Nghị viện phương
Tây, còn trên thực tế cũng là chế độ độc đoán chuyên quyền vì nhà nước do một
Đảng lãnh đạo. Lãnh tụ Đảng trong ba chục năm là thủ tướng chính phủ, ông
Lý Quang Diệu, chính phủ thực tế đã quyết định mọi vấn đề và lãnh đạo cơ
quan lập pháp. Cho đến nay Đảng Nhân dân Hành động vẫn là đảng cầm quyền
ở Singapore.
+ Ở Thái Lan:
Việc đấu tranh quyền lực chủ yếu giữa các phe nhóm dân sự và quân sự quan
liêu, do đó Chính phủ dân sự và Chính phủ quân sự lần lượt thay thế nhau
nhưng chính quyền vẫn chủ yếu thuộc về giới lãnh đạo quân đội.
Thái Lan trong khuôn khổ quân chủ nghị viện, chế độ độc đoán chuyên quyền
được thiết lập bằng các cuộc đảo chính quân sự tuy về hình thức, sự thay thế


các chính phủ quân sự không làm thay đổi nền tảng chính trị của quốc gia và
hình thức quân chủ lập hiến.
Như vậy, mặc dù Thái Lan là nước ít có dấu hiệu độc đoán chuyên quyền
nhưng trên thực tế trong những năm cuối 60 và những năm 70, trong bối cảnh
kinh tế - chính trị và quân sự tại khu vực và do quyền lợi của các phe nhóm tư
sản và quân sự nên chế độ độc đoán chuyền quyền mặc dù không liên tục nhưng
cũng tồn tại phần lớn thời gian này. Vì vậy, có thể nói “Thái Lan là nước có nền

chính trị ổn định trong bất ổn” nghĩa là thường xuyên đảo chính quân sự nhưng
chỉ thay thế chính phủ mà không động chạm đến nền tảng kinh tế chính trị
chung và do đó không dẫn đến những hành động phản ứng lớn của quần chúng.
Như vậy, thời kỳ những năm 60 -70 là thời kỳ mà chế độ độc đoán chuyên
quyền, kể cả độc tài quân sự được thiết lập ở phần lớn các nước ASEAN.
1. Vai trò của chế độ độc tài ở các nước Đông Nam Á
Trong bối cảnh khủng hoảng giai cấp do sự sụp đổ của các hình thái thượng
tầng dân chủ - đại nghị, giai cấp tư sản dân tộc cần có một bộ máy nhà nước
trung ương tập quyền mạnh mẽ để tiếp tục quản lý nhà nước. Do tính chất và
nội dung các thay đổi chính trị chuyển dịch theo hướng tập trung lãnh đạo chính
trị, nâng cao vai trò của nhà nước trong tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội và
tăng cường xu hướng chuyên quyền, độc tài. Một cấu trúc chính trị - nhà nước
phù hợp với các điều kiện dân tộc sẽ phát huy vai trò thúc đẩy sự phát triển chủ
nghĩa tư bản và thực hiện hiện đại hóa xã hội. Sự thay đổi về hệ thống chính trị
này tạo điều kiện phát triển cho các lĩnh vực của xã hội, các biện pháp quản lý
độc tài kết hợp với chính sách thực tế của chính phủ đối với liên minh đối lập
cấp tiến, giải quyết hợp lý các xung đột sắc tộc và chính sách đối ngoại nhạy
cảm. Có thể nói, hệ thống chính trị độc tài đã đảm bảo những điều kiện cơ bản


của quá trình phát triển đất nước đó là duy trì ổn định chính trị tương đối trong
xã hội. Giai cấp tư sản nắm quyền kinh tế
VD: Chế độ độc tài Suharto
Chế độ trật tự mới của Suharto đã đưa đến một kì tích: đưa đất nước đến chỗ phát
triển và ổn định. Sau khi thực hiện chương trình 3 năm ổn định kinh tế (19671969) nhà nước Indonesia đã đề ra 3 kế hoạch 5 năm: Repelita I( 1969 – 1973),
Repelita II( 1974 – 1978), Repelita III( 1979 – 1983). Mục đích chính của 3 kế
hoạch 5 năm này là: phát triển nông nghiệp và các ngành phục vụ nông nghiệp, sản
xuất những công cụ nông nghiệp không phức tạp, mở rộng và cải tổ cấu trúc hạ
tầng và đặt cơ sở cho sự phát triển sau đó. Đặc biệt chú ý tới việc phát triển công
nghiệp xây dựng, xây dựng những nhà máy luyện kim đầu tiên, hình thành nền

công nghiệp hóa dầu. 5
Để khắc phục sự trì trệ trong kinh tế, nhà nước trật tự mới đã tập trung vào việc
tích lũy vốn bằng nhiều biện pháp khác nhau như : giảm lạm phát, thay đổi hình
thức và phương pháp thu hút vốn từ bên ngoài, gia tăng và dần dần cải tiến quan hệ
ngoại thương( trước hết là việc xuất khẩu dầu mỏ và khí đốt).
Vốn là nước giàu có về tài nguyên thiên nhiên nhất là dầu mỏ, khí đốt và tài
nguyên rừng, trong suốt ba kế hoạch 5 năm đầu tiên, Indonesia đặc biệt chú trọng
phát triển việc khai thác và xuất khẩu những nguồn tài nguyên này. Trong những
năm 70, tốc độ xuất khẩu tài nguyên thiên nhiên của Indonesia tăng rất nhanh. Nếu
năm 1970 kim ngạch xuất khẩu của Indonesia là 1.108,1 triệu đô la Mỹ thì năm
1980, tổng kim ngạch xuất khẩu đã lên tới 21.909 triệu (tăng gần 20 lần).

5

Huỳnh Văn Tòng (1992), Lịch sử Indonesia (từ thế kỷ XV – thế kỷ XVI đến những năm 1980), NXB Viện Đào tạo
mở rộng, Bộ Giáo dục & Đào tạo, trang 164.


Do chính sách tập trung công nghiệp hóa khai khoáng chủ yếu là dầu mỏ và khí
đốt, Indonesia đã mở cửa cho hơn 50 công ty nước ngoài vào điều tra dữ lượng
khoáng sản. Điều này đã thu hút rất nhiều các công ty nước ngoài đầu tư vào đất
nước này. Ngoài ra, Indonesia cũng chú trọng tới việc khai thác và xuất khẩu
những khoáng sản tài nguyên thiên nhiên khác như thiếc, đồng, niken, cao su và
gỗ.
Để phát triển kinh tế đặc biệt là kinh tế ngoại thương, ngay từ những ngày đầu, nhà
nước trật tự mới chủ trương đường lối đối ngoại “ đa cực” và mở cửa. Ngay sau
năm 1967, Indonesia đã phát triển mối quan hệ về nhiều mặt với Mỹ, Nhật, Cộng
hòa liên bang Đức, Pháp, Anh và các nước phương Tây khác ( chủ trương thân
phương Tây). Trong khu vực Indonesia đặc biệt thân với các nước Châu Á, đặc
biệt là các nước ASEAN. Nhằm mục đích phát triển kinh tế đất nước, Indonesia đã

tích cực tham gia các tổ chức kinh tế của khu vực và thế giới. Ngày 8/8/1967
Indonesia là một trong những quốc gia đầu tiên tham gia kí tuyên bố Băng Cốc
thành lập hiệp hội các nước ĐNA(ASEAN) – một tổ chức khu vực hoạt động dưới
khẩu hiệu giúp đỡ phát triển các mối quan hệ: kinh tê, xã hội, văn hóa và khoa học.
Từ năm 1970 – 1980 tỉ trọng xuất nhập khẩu của Indonesia với các nước ASEAN
chiếm vị trí thứ ba ( sau Mỹ và Nhật). Ngoài ra, trong giai đoạn này Indonesia còn
là thành viên tích cực của Liên Hợp Quốc, tham gia vào nhiều tổ chức khác nhau
của tổ chức này: AFTA – khu vực mậu dịch tự do ASEAN, ban kinh tế xã hội châu
Á – Thái Bình Dương ( ESKATO ), tổ chức nông nghiệp và lương thực (FAO), tổ
chức giáo dục khoa học và văn hóa ( UNESCO)… Indonesia còn là thành viên của
quỹ tiền tệ quốc tế, ngân hàng tái thiết và phát triển thế giới…
Với đường lối kinh tế mở cửa và tham gia nhiều vào các tổ chức quốc tế, Indonesia
đã thu hút và tạo ra được khá nhiều nguồn vốn để phát triển kinh tế. Từ năm 1968
– 1979 Indonesia được tập đoàn tài chính liên chính phủ ( IGGI) cho vay 9.608


triệu đô la. Ngoài việc thu hút vốn từ bên ngoài, Indonesia còn mở cửa cho tư bản
nước ngoài vào đầu tư ( chủ yếu đàu tư vào công nghiệp khai khoáng – dầu mỏ).
Vì vậy cho đến đầu năm 80, Indonesia đã cải thiện được tình hình kinh tế một cách
đáng kể ổn đinh được vấn đề tài chính, giảm được tình trạng thiếu hụt lương thực,
phát triển một số lĩnh vực công nghiệp. Tuy nhiên do vay nước ngoài quá nhiều
nên Indonesia trở thành con nợ, nguồn dầu khí cạn kiệt do 400 công ty nước ngoài
được phép khai thác dầu mỏ tại đây, người nghèo chiếm số đông, nông nghiệp phát
triển chậm. Indonesia đã đưa ra kế hoạch 5 năm tiếp theo Repelita IV, Repelita V,
Repelita VI từ năm 1984 – 1999 để nền kinh tế được hoàn chỉnh hơn cũng với mục
tiêu là hiện đại hóa kinh tế. Với chiến lược “tất cả để phát triển kinh tế” nhà nước
trật tự mới của tổng thống Suhacto đã làm thay đổi cơ bản bộ máy kinh tế của đất
nước Indonesia. Từ một nước trì trệ phát triển chậm Indonesia đã vươn lên thành
một trong những quốc gia có nền kinh tế phát triển nhanh và ổn định ở Châu Á.
2.5. Nguyên nhân sụp đổ chế độ độc tài ở Đông Nam Á

Các quốc gia thực hiện chế độ độc tài ở Đông Nam Á: Philippines (19721986), Indonesia (1976-1998), Malaysia (1971-1990), Singapore (1967-1990),
Myanmar ( 1988-2008). Khoảng cuối những năm 80, chế độ độc tài bắt đầu bị
tiêu vong khi tình hình trong và ngoài các nước không còn phù hợp với chế độ
này. Chế độ độc tài ở một số quốc gia không những không tạo ra sự ổn định mà
còn biến nơi này thành nơi đàn áp, khủng bố và thao túng nền kinh tế. Chính vì
vậy, từ cuối những năm 80 đến nay, sau khi chế độ độc tài bắt đầu bị tiêu vong,
các quốc gia bắt đầu tìm kiếm một mô hình dân chủ đại nghị phù hợp với các cơ
sở thượng tầng và hạ tầng của đất nước.
Nguyên nhân dẫn tới chế độ độc tài bị tiêu vong là hiện đại hóa kinh tế
diễn ra nhanh trên mảnh đất truyền thống trong khi hiện đại hóa chính trị chưa
theo kịp, điều này dẫn đến quá trình mất cân đối giữa truyền thống và hiện đại,


giữa thượng tầng chính trị truyền thống với cấu trúc hạ tầng cơ sở tư bản chủ
nghĩa. Quá trình ấy tạo ra cơ sở cho cuộc khủng hoảng mới của hệ thống độc tài
và phát triển theo khuynh hướng dân chủ hóa và hiện đại hóa chính trị. Chính vì
vậy, từ giữa những năm 1980 ở nhiều khu vực khác nhau trên thế giới diễn ra
quá trình sụp đổ từng bước các chế độ độc tài và cực quyền, khuynh hướng dân
chủ hóa mang tính toàn cầu và các nước Đông Nam Á cũng không nằm ngoài
xu hướng này.
2.6 Kết quả sau khi chế độ độc tài ở Đông Nam Á sụp đổ
Ở Philippines với sự thay thế chế độ Marcos vào năm 1986 bằng chính phủ của
bà A-ki-no. Ở Myanmar vào năm 1988, Đảng Cương lĩnh Xã hội Chủ nghĩa từ
bỏ địa vị thống trị và chuyển sang chế độ đa đảng và dân chủ. Ở Thái Lan diễn
ra cuộc bầu cử khá dân chủ vào tháng 7-1986. Đặc biệt ở Indonesia, năm 1997
đã kết thúc chế độ độc tài Suharto bằng một làn sóng dân chủ hóa. Riêng ở
Singapore: Đảng Nhân dân Hành động vẫn là Đảng nắm chính quyền nhưng các
cuộc bầu cử đã được tiến hành với sự tham gia của các đảng đối lập. Còn Việt
Nam, Lào cũng bước vào đổi mới (1986) và từng bước dân chủ hóa về chính trị.
Ý nghĩa: Chế độ độc tài ở một số nước ASEAN ( Indonesia thời Suharto,

Philippin thời Marcos,…) không những không tạo ra sự ổn định về chính trị, mà
còn biến những nước này thành nơi đàn áp, khủng bố những phần tử tiến bộ,
hoặc biến đất nước thành “ trại lính” ( lệnh thiết quân luật của Marcos từ 19721981). Cùng với độc tài về chính trị, giới cầm quyền ở những nước này cũng
độc quyền thao túng về kinh tế, ban phát cho các thuộc hạ thân tín, các thành
viên trong gia đình quyền chi phối và kiểm soát các ngành kinh tế then chốt,
tham nhũng, làm giàu bất chính… đẩy đất nước vào nợ nần chồng chất. Ví dụ:
người ta ước tính tài sản của gia đình Suharto hiện nay vào khoảng 50 tỷ đô la,


×