Tải bản đầy đủ (.pdf) (174 trang)

Nguyên lý tinh không trong trung quán luận của bồ tát long thọ và ý nghĩa của nó

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.77 MB, 174 trang )

y
o

c u -tr a c k

.c

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN VĂN THÀNH
(THÍCH QUẢNG HỢP)

NGUYÊN LÝ TÍNH KHÔNG TRONG
TRUNG QUÁN LUẬN CỦA BỒ TÁT LONG THỌ
VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ

U N N TI N SĨ TRI T HỌC

HÀ NỘI - 2016

.d o

m

o

w

w



w

.d o

C

lic

k

to

bu

y
bu
to
k
lic
C

w

w

w

N


O
W

!

h a n g e Vi
e

N

PD

!

XC

er

O
W

F-

w

m

h a n g e Vi
e


w

PD

XC

er

F-

c u -tr a c k

.c


y
o

c u -tr a c k

.c

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN VĂN THÀNH
(THÍCH QUẢNG HỢP)

NGUYÊN LÝ TÍNH KHÔNG TRONG

TRUNG QUÁN LUẬN CỦA BỒ TÁT LONG THỌ
VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ
Chuyên ngành: Lịch sử Triết học
Mã số: 62 22 03 01

U N N TI N SĨ TRI T HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. HOÀNG THỊ THƠ

HÀ NỘI - 2016

.d o

m

o

w

w

w

.d o

C

lic

k


to

bu

y
bu
to
k
lic
C

w

w

w

N

O
W

!

h a n g e Vi
e

N


PD

!

XC

er

O
W

F-

w

m

h a n g e Vi
e

w

PD

XC

er

F-


c u -tr a c k

.c


y
o

c u -tr a c k

.c

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu trong luận án là trung thực. Những
kết luận khoa học của luận án chưa từng được công bố
trong bất kỳ công trình khoa học nào khác.

Tác giả

Trần Văn Thành
(Thích Quảng Hợp)

.d o

m

o

w


w

w

.d o

C

lic

k

to

bu

y
bu
to
k
lic
C

w

w

w


N

O
W

!

h a n g e Vi
e

N

PD

!

XC

er

O
W

F-

w

m

h a n g e Vi

e

w

PD

XC

er

F-

c u -tr a c k

.c


y
o

c u -tr a c k

.c

LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn quý thầy, cô giáo trong Khoa Triết học –

ọc

viện khoa học xã hội đã tạo mọi điều kiện giảng dạy trang bị kiến thức, hỗ trợ tôi

trong suốt qu trình nghiên cứu và hoàn thành uận án này.
Đặc biệt, tôi xin chân thành tri ân sâu sắc tới PGS. TS. Hoàng Thị Thơ đã
tận tình hướng dẫn giúp đỡ tôi hoàn thành Luận án.
Tôi xin trân trọng tri ân các thầy cô trong c c hội đồng khoa học đã tận
tình góp ý kiến hướng dẫn giúp cho luận n được hoàn thiện hơn.
Cuối cùng, tôi xin tri ân tới Tam Bảo, thầy Tổ gia đình Phật tử, bạn bè
đã giúp đỡ và động viên tôi trong suốt quá trình làm luận n

Tác giả luận án

Trần Văn Thành
(Thích Quảng Hợp)

.d o

m

o

w

w

w

.d o

C

lic


k

to

bu

y
bu
to
k
lic
C

w

w

w

N

O
W

!

h a n g e Vi
e


N

PD

!

XC

er

O
W

F-

w

m

h a n g e Vi
e

w

PD

XC

er


F-

c u -tr a c k

.c


y
o

c u -tr a c k

.c

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU IÊN QUAN Đ N
LU N ÁN .............................................................................................................. 6
1.1. Tư liệu về bối cảnh Ấn Độ trước Bồ Tát Long Thọ ....................................... 6
1.2. Tư liệu về nguyên lý Tính Không trong Trung Quán Luận của Bồ Tát Long Thọ 12
1.3. Tư liệu về ý nghĩa nguyên lý Tính Không của Bồ tát Long Thọ trong Trung
Quán Luận ............................................................................................................ 22
1.4. Khái niệm, thuật ngữ sử dụng trong luận án ................................................. 28
1.5. Những nội dung kế thừa và triển khai mới trong Luận án ............................ 30
Chương 2: NHỮNG TIỀN ĐỀ, NHÂN TỐ HÌNH THÀNH NGUYÊN LÝ TÍNH
KHÔNG TRONG TRUNG QUÁN LUẬN CỦA BỒ TÁT LONG THỌ ................ 31
2.1. Những tiền đề khách quan ...................................................................................... 31
2.2. Nhân tố chủ quan và giới thiệu tác phẩm Trung Quán Luận ........................... 58
Chương 3: NGUYÊN LÝ TÍNH KHÔNG TRONG TRUNG QUÁN LUẬN
CỦA BỒ TÁT LONG THỌ ...................................................................................... 78

3.1. Nội dung cơ bản của nguyên lý Tính Không trong Trung Quán Luận .......... 80
3.2. Cấu trúc của nguyên lý Tính Không trong Trung Quán Luận ......................... 95
3.3. Đặc điểm cơ bản của nguyên lý Tính Không trong Trung Quán Luận ........ 100
Chương 4: Ý NGHĨA NGUYÊN Ý TÍNH KHÔNG TRONG TRUNG
QUÁN LUẬN CỦA BỒ TÁT LONG THỌ .................................................... 105
4.1. Ý nghĩa nguyên lý Tính Không trong Trung Quán Luận đối với Phật giáo
nói chung.......................................................................................................................... 105
4.2. Ý nghĩa nguyên lý Tính Không trong Trung Quán Luận đối với Phật giáo
Việt Nam .......................................................................................................................... 117
4.3. Ý nghĩa nguyên lý Tính Không trong Trung Quán Luận đối với con người
Việt Nam hiện nay ......................................................................................................... 133
K T LU N ....................................................................................................... 145
NHỮNG CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ ........................... 148
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 149
PHỤ LỤC

.d o

m

o

w

w

w

.d o


C

lic

k

to

bu

y
bu
to
k
lic
C

w

w

w

N

O
W

!


h a n g e Vi
e

N

PD

!

XC

er

O
W

F-

w

m

h a n g e Vi
e

w

PD

XC


er

F-

c u -tr a c k

.c


y
o

c u -tr a c k

.c

1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong công cuộc đổi mới xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay,
đang đặt ra những yêu cầu phát triển toàn diện về mọi mặt: kinh tế, chính trị, xã
hội, văn hóa, tư tưởng triết học, tôn giáo. Ngoài việc nghiên cứu tri thức lý luận,
nhận thức luận đúng đắn về chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, còn
phải quan tâm nghiên cứu các trào lưu tư tưởng triết học truyền thống cũng như
tư tưởng ngoại lai. Bởi vì chúng cũng là một phần trong lịch sử phát triển tri thức,
nhận thức của dân tộc và nhân loại.
Phật giáo du nhập vào Việt Nam khoảng đầu Công Nguyên, song nói tới
Phật giáo Việt Nam người ta thường hay nhắc tới thời vàng son lịch sử Phật giáo

thời Lý – Trần, thiền Phái Trúc Lâm Yên Tử đã hợp nhất ba dòng thiền (Tỳ Ni
Đa Lưu Chi, Thảo Đường, Vô Ngôn Thông) thành một dòng thiền mang đậm
triết lý Tính Không được thể hiện thành tinh thần nhập thế của Phật giáo Việt
Nam, từ vua quan đến thứ dân, sống tỉnh thức, không kẹt chấp trong cuộc sống
tu hành và cuộc sống đời thường.
Tư tưởng của người Việt Nam chịu ảnh hưởng không ít từ triết học của
Phật giáo, mà nền tảng tư tưởng của các tông phái Phật giáo Đại thừa như Thiền
tông, Tịnh độ tông, Mật tông đều trực tiếp từ tư tưởng Tính Không của Bồ Tát
Long Thọ. Mặc dù, không tránh khỏi những bất cập nhất định có tính lịch sử cụ
thể, nhưng Tính Không như một nguyên lý Phật giáo Đại thừa từng làm thay đổi
cả một khuynh hướng phát triển của Phật giáo.
Trong tiến trình lịch sử, đã có sự hòa quyện, giao thoa giữa Phật giáo với
nhiều tôn giáo khác nhau, nhưng Phật giáo vẫn giữ được nét độc đáo riêng. Phật
giáo gắn bó, đồng hành với nhiều dân tộc trên thế giới và có ảnh hưởng to lớn, sâu
rộng đến đời sống tinh thần của tín đồ trên nhiều phương diện và trong các tôn giáo.
Trong các tôn giáo, Phật giáo là một học thuyết thể hiện tính triết lý sâu
sắc, mà Trung Quán Luận của Bồ Tát Long Thọ (Nagarjuna, khoảng 150-250

.d o

m

o

w

w

w


.d o

C

lic

k

to

bu

y
bu
to
k
lic
C

w

w

w

N

O
W


!

h a n g e Vi
e

N

PD

!

XC

er

O
W

F-

w

m

h a n g e Vi
e

w

PD


XC

er

F-

c u -tr a c k

.c


y
o

c u -tr a c k

.c

2

CN) là sự kế thừa và phát triển tinh thần “Không”, “Vô”, “Bất”, “Phi” vốn có từ
nguồn gốc Phật giáo Nguyên thủy, được thể hiện trong Kinh Kim Cương B t
Nhã thành hệ thống tư tưởng của Phật giáo Đại thừa.
Từ thực tế đó trở về nghiên cứu hệ thống tư tưởng triết học cơ bản nguyên
lý Tính Không trong Trung Quán Luận của Bồ Tát Long Thọ là việc làm cần
thiết, có ý nghĩa lý luận đối với triết học Phật giáo. Tính Không trong Phật giáo
nói chung, trong Trung Quán Luận của Bồ Tát Long Thọ nói riêng là vấn đề cốt
lõi, thuộc bản thể luận, nhận thức luận, giải thoát luận của triết học Phật giáo. Nó
là tiền đề lý luận quan trọng để nắm bắt được mắt xích của toàn bộ các triết

thuyết độc đáo của Phật giáo nói chung và của Thiền tông Đại thừa nói riêng. Từ
đó có thể hiểu và giải thích được toàn bộ sự phát triển của các tông phái Phật
giáo và các hình thức đa dạng của nó.
Tuy nhiên, đến nay vẫn c n một số ý kiến chưa thống nhất về vấn đề Tính
Không của Phật giáo Đại thừa nói chung và Phật giáo Việt Nam nói riêng. Ch ng
hạn, có người nhầm hiểu Tính Không là trơ lì, trống rỗng, không tác dụng, không
phải Niết bàn, và từ đó sinh hoài nghi cả Phật giáo. Nghiên cứu vấn đề nguyên lý
Tính Không của Phật giáo nói chung và của Trung Quán Luận nói riêng, không có
nghĩa là đoạn tuyệt nền triết học cũ, mà ngược lại, đó là xu hướng kết hợp biện
chứng giữa triết học hiện đại với yếu tố hợp lý của triết học truyền thống.
Là một vị tu sỹ Phật giáo, bản thân tôi cần phải tu học, nghiên cứu nghiêm
túc nắm vững giáo lý Phật giáo, triết học Phật giáo nói chung và về nguyên lý
Tính Không trong Trung Quán Luận nói riêng để có thể giải thích những thắc
mắc của Phật tử về triết lý Phật giáo, cũng như để hiểu ảnh hưởng của triết lý
nguyên lý Tính Không trong lịch sử Phật giáo Việt Nam. Việc thảo luận về
nguyên lý Tính Không vẫn chưa bao giờ kết thúc, song thực tế ở nước ta dường
như lại chưa có công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống về vấn đề này.
Thêm nữa, Bồ Tát Long Thọ cũng đã từng kh ng định nguyên lý Tính
Không diệt trừ những luận điểm siêu hình trong tâm thức tư tưởng cá nhân. Nó

.d o

m

o

w

w


w

.d o

C

lic

k

to

bu

y
bu
to
k
lic
C

w

w

w

N

O

W

!

h a n g e Vi
e

N

PD

!

XC

er

O
W

F-

w

m

h a n g e Vi
e

w


PD

XC

er

F-

c u -tr a c k

.c


y
o

c u -tr a c k

.c

3

không chỉ là nội dung tư tưởng căn bản đối với Phật giáo Đại thừa nói chung, mà
còn có vị trí quan trọng đối với tư tưởng Phật giáo Việt Nam, con người Việt Nam.
Với một số lý do trên, tác giả luận án này lựa chọn đề tài Nguyên lý Tính
Không trong Trung Quán Luận của Bồ Tát Long Thọ và ý nghĩa của nó làm
đề tài nghiên cứu của luận án thuộc chuyên ngành lịch sử triết học.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án

+ Mục đích của luận án là nghiên cứu làm rõ nguyên lý Tính Không trong
Trung Quán Luận của Bồ Tát Long Thọ và làm rõ ý nghĩa của nó.
+ Nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể là:
- Khái quát tiền đề, nhân tố cá nhân đối với sự hình thành nguyên lý Tính
Không trong Trung Quán Luận của Bồ tát Long Thọ.
- Phân tích nguyên lý Tính Không trong Trung Quán Luận của Bồ Tát
Long Thọ từ tiếp cận triết học.
- Làm rõ ý nghĩa nguyên lý Tính Không trong Trung Quán Luận của Bồ
Tát Long Thọ đối với Phật giáo nói chung và Phật giáo Việt Nam, con người
Việt Nam nói riêng.
3. Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý thuyết
Luận án được thực hiện trên cơ sở lý luận về duy vật biện chứng - duy vật
lịch sử và các quy luật phát triển của lịch sử tư tưởng của chủ nghĩa Mác – Lênin.
Các giá trị tư tưởng của tôn giáo nói chung và Phật giáo nói riêng; Ngoài ra luận án
còn dựa trên các thành tựu lý luận về triết học Phật giáo nói chung, triết học Phật
giáo Việt Nam nói riêng và một số bản dịch Trung Quán Luận bằng tiếng Việt.
- Phương pháp nghiên cứu:
Để đạt được Mục tiêu và Nhiệm vụ nghiên cứu đã đặt ra, luận án vận
dụng các phương pháp lịch sử – logic, phân tích – tổng hợp, so sánh - đối chiếu
và kết hợp các phương pháp nghiên cứu liên ngành: triết học, sử học, văn học,
Phật học, Thiền học, Tôn giáo học, đạo đức học…

.d o

m

o

w


w

w

.d o

C

lic

k

to

bu

y
bu
to
k
lic
C

w

w

w


N

O
W

!

h a n g e Vi
e

N

PD

!

XC

er

O
W

F-

w

m

h a n g e Vi

e

w

PD

XC

er

F-

c u -tr a c k

.c


y
o

c u -tr a c k

.c

4

4. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Đề tài luận án lấy đối tượng nghiên cứu là nội
dung nguyên lý Tính Không trong Trung Quán Luận của Bồ Tát Long Thọ và
phân tích ý nghĩa của nó đối với Phật giáo nói chung, Phật giáo Việt Nam và con

người Việt Nam nói riêng.
Phạm vi nghiên cứu của Luận án: về mặt khoa học là nguyên lý Tính
Không trong Trung Quán Luận theo tiếp cận triết học; về tài liệu gốc luận án dựa
vào hai bản Việt dịch có uy tín là: Trung Quán Luận (2001) của Chánh Tấn Tuệ
và Trung Luận (2008) của Thích Thanh Từ. Ngoài ra, luận án còn tham khảo
một số kinh Phật để minh chứng cho các luận điểm cần thiết trong đề tài. Về thời
gian và không gian gắn liền với thời đại Long Thọ và Phật giáo Đại thừa Ấn Độ,
Trung Quốc và liên hệ với lịch sử Phật giáo Việt Nam, trên các vấn đề có liên
quan từ góc độ một tu sĩ Phật giáo Đại thừa.
5. Đóng góp mới của luận án
Trên cơ sở tiếp thu các đề tài đi trước, luận án tập trung đóng góp một số ý sau:
- Làm rõ hơn tiền đề tư tưởng nguyên lý Tính Không trong Ấn Độ cổ và
tư tưởng của Đức Phật trong kinh điển Nguyên thủy Phật giáo.
- Khái quát và đánh giá nội dung nguyên lý Tính Không trong Trung
Quán Luận của Bồ Tát Long Thọ từ tiếp cận triết học.
- Chỉ ra một số ảnh hưởng của nguyên lý Tính Không trong Trung Quán
Luận đến lịch sử phát triển Phật giáo Đại thừa và việc hình thành một số đặc
điểm nổi bật của tư tưởng nhập thế của Phật giáo Việt Nam.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận án
- Ý nghĩa lý luận: Đề tài góp phần hệ thống, phân tích và đánh giá tư
tưởng nguyên lý Tính Không của Phật giáo Đại thừa qua tác phẩm Trung Quán
Luận của Long Thọ - một đại diện tiêu biểu nhất của Phật giáo Đại thừa từ góc
độ triết học. Đề tài hy vọng sẽ bổ sung thêm cho lý luận về triết học Phật giáo
nói riêng và triết học phương Đông nói chung.

.d o

m

o


w

w

w

.d o

C

lic

k

to

bu

y
bu
to
k
lic
C

w

w


w

N

O
W

!

h a n g e Vi
e

N

PD

!

XC

er

O
W

F-

w

m


h a n g e Vi
e

w

PD

XC

er

F-

c u -tr a c k

.c


y
o

c u -tr a c k

.c

5

- Ý nghĩa thực tiễn: Luận án có thể làm tài liệu tham khảo cho nghiên cứu,
giảng dạy và học tập về tư tưởng triết học Phật giáo nói chung và Phật giáo Đại

thừa trong tác phẩm Trung Quán Luận của Bồ Tát Long Thọ.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Danh mục
các công trình đã công bố, Phụ lục, Luận án gồm 4 chương, 13 tiết.

.d o

m

o

w

w

w

.d o

C

lic

k

to

bu

y

bu
to
k
lic
C

w

w

w

N

O
W

!

h a n g e Vi
e

N

PD

!

XC


er

O
W

F-

w

m

h a n g e Vi
e

w

PD

XC

er

F-

c u -tr a c k

.c


y

o

c u -tr a c k

.c

6

Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH
NGHIÊN CỨU

IÊN QUAN Đ N LU N ÁN

Nghiên cứu về tư tưởng triết học Phật giáo Đại thừa cũng như tư tưởng
triết học nguyên lý Tính Không trong Trung Quán Luận của Bồ tát Long Thọ1,
từ lâu đã được các triết gia, các nhà Phật học trong và ngoài nước quan tâm vì
Trung u n uận là một tác phẩm triết học độc đáo, không thể bỏ qua khi nói về
Phật giáo Đại thừa hay nói về tư tưởng triết học phương Đông. Căn cứ vào nội
dung cũng như cách tiếp cận của các tư liệu nghiên cứu, Trong đề tài luận án này
tác giả luận án tạm chia thành các nhóm tư liệu cơ bản sau:
1.1. Tư liệu về bối cảnh Ấn Độ trước Bồ Tát Long Thọ
Để xác định lại tư liệu sử học, đem lại cái nhìn tổng quan về bối cảnh lịch
sử Phật giáo Ấn Độ qua các thời kỳ, ảnh hưởng tới tư tưởng Tính Không ở Đức
Phật và Phật giáo trước Long Thọ, tác giả đã tham khảo các tư liệu sau:
Thích Thanh Kiểm (1971), ược sử Phật giáo Ấn Độ, Quê Hương (tái bản
lần thứ nhất); Doãn Chính (1999), Lịch sử triết học Ấn Độ cổ đại, Nxb Thanh
Niên, Hà Nội; Thích Nữ Trí Hải (dịch), Minh Châu (giới thiệu) (1974), Tư tưởng
Phật học, Nxb Tu Thư Đại Học Vạn Hạnh; Minh Chi - Hà Thúc Minh (1993),
Đại cương triết học phương Đông Nxb Đại học Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh;

Cao Xuân Huy (1995), Tư tưởng phương Đông gợi những điểm nhìn tham chiếu,
Nxb Văn học; Thích Thiện Siêu (dịch) (1997), Luận đại trí độ, Tập I, Viện
Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam, TP. Hồ Chí Minh; Thích Tâm Thiện (1998),
Tìm hiểu nhân sinh quan Phật giáo, Nxb TP. Hồ Chí Minh; Kimura Taiken
(1998), Nguyên thuỷ Phật gi o tư tưởng luận, Thích Quảng Độ dịch, Nxb Thành
Hội Phật giáo TP. Hồ Chí Minh ấn hành; Kimura Taiken (1998), Tiểu thừa Phật
gi o tư tưởng luận, Thích Quảng Độ dịch, Nxb Thành Hội Phật giáo TP. Hồ Chí
Minh ấn hành; Kimura Taiken (1998), Đại thừa Phật gi o tư tưởng luận, Thích
1

Bồ Tát Long Thọ có khi gọi tắt là Long Thọ

.d o

m

o

w

w

w

.d o

C

lic


k

to

bu

y
bu
to
k
lic
C

w

w

w

N

O
W

!

h a n g e Vi
e

N


PD

!

XC

er

O
W

F-

w

m

h a n g e Vi
e

w

PD

XC

er

F-


c u -tr a c k

.c


y
o

c u -tr a c k

.c

7

Quảng Độ dịch, Nxb Thành Hội Phật giáo TP. Hồ Chí Minh ấn hành; Nalinaksha
Dutt (1999), Đại thừa và sự liên hệ với Tiểu thừa (HT Thích Minh Châu dịch),
Nxb TP.Hồ Chí Minh; Doãn Chính (1999), Tư tưởng giải thoát trong triết học Ấn
Độ, Nxb. Thanh Niên, Hà Nội; Thích Trí Quảng (2001), Tư tưởng Phật giáo tập II,
Nxb Tôn Giáo; Nguyễn Hùng Hậu (2002), Đại cương triết học Phật giáo, Nxb
khoa học xã hội, Hà Nội; Pháp Hiền dịch (2003), Các bộ phái Phật giáo Tiểu thừa
của Andre Bareau, Nxb Tôn giáo, Hà Nội; Thích Hạnh Bình (2007), Tìm hiểu
giáo lý Phật giáo Nguyên thủy của Thích Hạnh Bình, Nxb. Phương Đông, TP. Hồ
Chí Minh; Conze (2007), Tư tưởng Phật giáo Ấn Độ, Hạnh Viên dịch, Nxb.
Phương Đông, TP. Hồ Chí Minh; Nguyễn Hữu Vui (chủ biên - 2007), Lịch sử
Triết học, Nxb chính trị quốc gia; Lịch sử Phật giáo Ấn Độ (2008) của Pháp Sư
Thánh Nghiêm, Thích Tâm Trí dịch, Nxb Phương Đông; Thích Thiện Hoa (2008),
Phật học phổ thông, Thành Hội Phật Giáo TP. Hồ Chí Minh ấn hành; Tuệ Sĩ dịch
(2008), Tinh hoa triết học Phật giáo, Nxb Phương Đông; Bộ giáo dục và Đào tạo
(2008), Giáo trình triết học Mác Lênin, NXB. Chính trị quốc gia; T.R.V. Murti,

(2012), Tính Không cốt tủy của triết học Phật giáo, Huỳnh Ngọc Chiến dịch, Nxb
Hồng Đức; Hoang Phong (dịch, 2013), Khái niệm Tánh Không trong Phật giáo,
Nxb, Hồng Đức. Trong đó đáng chú ý là các tác phẩm sau:
Cuốn Triết học Ấn Độ (2002) của Hà Thúc Minh, nhà xuất bản thành phố
Hồ Chí Minh đã khái quát hóa triết học Phật giáo từ thời Thích Ca tới Long Thọ,
trong đó đã nêu bật được sự hình thành Tam tạng kinh điển với những nội dung
căn bản của Phật giáo như: Vô thường (trang 204), Tứ Đế (trang 189), Ngũ uẩn
(trang 191), Giới – Định - Tuệ (trang 216- 220), quá trình hình thành phân chia
bộ phái và hai nhánh triết học Đại thừa (Trung quán, Du già). Từ đó Hà Thúc
Minh khái lược quan niệm về Không, Trung đạo của Long Thọ: “... về vấn đề
bản thể (tồn tại, pháp), đã tránh được pháp hữu và pháp vô. Long Thọ không
đứng về bên nào cả”. Về phương pháp tiếp cận, ông cho rằng trong Trung u n
uận Long Thọ đã tập trung loại trừ phương pháp tư duy duy lý và kh ng định

.d o

m

o

w

w

w

.d o

C


lic

k

to

bu

y
bu
to
k
lic
C

w

w

w

N

O
W

!

h a n g e Vi
e


N

PD

!

XC

er

O
W

F-

w

m

h a n g e Vi
e

w

PD

XC

er


F-

c u -tr a c k

.c


y
o

c u -tr a c k

.c

8

để tìm ra chân lý của pháp phải dựa vào “phủ định pháp”, trên cơ sở cho rằng
Không thuộc về bản thể, nó không thể giải thích được bằng tư duy logic. Hà
Thúc Minh đã nhận định “Không của Long Thọ gắn liền với quan niệm duyên
khởi” của Phật khi giác ngộ thấy pháp Duyên khởi [104, tr. 251-266].
Cuốn Lịch sử Triết học (2008) của Nguyễn Hữu Vui (chủ biên), chương 2
(trang 109) đã khái quát sự hình thành lịch sử Phật giáo Ấn Độ Cổ - Trung đại,
đồng thời đã nêu bật được nhân sinh quan của Phật giáo với tư tưởng “Vô ngã”,
“Vô thường”. Nhân sinh quan Phật giáo bác bỏ ý nghĩa thần thánh của Đại ngã
(Braman) và Tiểu Ngã ( tman), nhưng tiếp thu nhân sinh quan biện chứng về
luân hồi (samsara) và nghiệp (karma) của Bà La Môn giáo. Đức Phật kh ng định
mục đích giáo pháp của Người là tìm ra con đường giải thoát, và giúp chúng sinh
thoát ly sinh tử. Tác phẩm cũng nêu bật được tư tưởng của phái Trung luận
(Madhyamika) là tư tưởng về “Không” của Long Thọ khi cho rằng thế giới vật

chất và ý thức vốn là Không, do vô minh mà nó hiện tượng như chúng ta đang
thấy. Sự vật hiện tượng chỉ là giả, ảo. Để nhận thức được như thật, đó là nhờ
pháp Trung đạo. Có được Trung đạo cần phải tu tập, có được trí tuệ Bát nhã sẽ
có thể thấy vạn sự như Không, Chân như [187, tr.133-141].
Cuốn Giáo trình triết học Mác – Lênin (2008) của Bộ Giáo dục và Đào
tạo, do Nguyễn Ngọc Long và Nguyễn Hữu Vui chủ biên đã khái quát được về
triết học, lịch sử triết học, đặc biệt cuốn sách này ở chương 2 (trang 25) đã có
phần khái quát hoàn cảnh ra đời triết học và đặc điểm của triết học Ấn Độ Cổ Trung đại. Khi bàn tới vấn đề bản thể luận, một số học phái thường tập trung bàn
tới vấn đề Tính Không, lấy không để đối với có, quy cái có về cái không, chứng
tỏ có một tư duy khái quát cao vào thời đó [7, tr. 25 – 27].
Cuốn Lịch sử Phật giáo Ấn Độ (2008) của Thánh Nghiêm, do Thích Tâm
Trí dịch, nhà xuất bản phương Đông, đã khái quát về Ấn Độ trên các phương
diện lịch sử, tôn giáo, tư tưởng, đời sống, khoa học, nghệ thuật…, như Ấn Độ
như một đại lục hình tam giác khổng lồ, có nhiều loại chủng tộc chung sống tạo

.d o

m

o

w

w

w

.d o

C


lic

k

to

bu

y
bu
to
k
lic
C

w

w

w

N

O
W

!

h a n g e Vi

e

N

PD

!

XC

er

O
W

F-

w

m

h a n g e Vi
e

w

PD

XC


er

F-

c u -tr a c k

.c


y
o

c u -tr a c k

.c

9

ra nhiều văn hóa khác nhau, có khi đồng có khi dị, như nền văn hóa ở khu vực
Bàng Giá Phổ (Ngũ Hà), và Tín Đức. Ở Ấn Độ, người ta nhận thấy nơi này phát
xuất ra nhiều mô hình tôn giáo của Thế giới. Nếu lấy tôn giáo của người Aryan
làm chính thống thì Veda là nhất quán cả về tôn giáo - tư tưởng. Xã hội Ấn Độ
phân chia làm bốn giai cấp rõ rệt: giai cấp Bà La Môn, giai cấp Sát Đế Lợi, giai
cấp Phệ Xá (thương gia), và giai cấp Thủ Đà La (nô lệ tiện dân). Bốn giai cấp
này phân biệt hà khắc, không có bình đ ng về sinh hoạt trong cuộc sống. Về tín
ngưỡng của người Aryan chia vũ trụ làm ba cõi: Thiên – không – đại. Mỗi cõi
chứa 11 vị thần. Tổng cộng ba cõi có 33 vị thần cai quản. Một số vị thần như:
Thái dương thần, Thiên Thần, vũ thần, không khí thần, hỏa thần..., Triết học Ấn
Độ chia thành bốn thời kỳ, đó là thời kỳ Veda, Sử thi, thời kỳ Kinh điển, thời kỳ
Chú sớ. Một khi sáu phái triết học ra đời, phái nào cũng muốn luận tranh để tồn

tại. Việc chấp hữu chấp vô là lẽ không thể tránh khỏi trong cuộc sống hằng ngày.
Mặt khác, do thiếu sự nhận thức rõ ràng về thế giới vũ trụ như thực là không thể,
đ i hỏi cần có một tư tưởng, cái nhìn mới về vũ trụ như thực. Thế là một con
người ra đời tu tập giác ngộ, đó là Thích Ca Mâu Ni. Người tiếp tục kế thừa và
phát triển tư tưởng Không chính là Bồ Tát Long Thọ, khi đưa ra triết thuyết
nguyên lý Tính Không nhằm phá tan chấp hữu – vô của ngoại đạo và của tư duy
thông thường. Ngoài ra, chương IV c n ghi tóm tắt tiểu sử Long Thọ, trước thuật
tư tưởng giáo hóa độ sinh, tư tưởng Tính Không của ông. Tác giả có nhận định
rằng Long Thọ chịu ảnh hưởng từ Kinh Bát Nhã và Kinh Hoa Nghiêm nhưng vẫn
lấy kinh Bát Nhã làm chính cho tư tưởng nguyên lý Tính Không của mình [108,
tr.360]. Luận án sẽ bàn tiếp theo thêm ở phần chương 2. Đặc biệt Thánh Nghiêm
đã chú ý tới một số tranh luận liên quan tới nguyên lý Tính Không ở góc độ bản
thể luận, nhận thức luận giữa hai khuynh hướng Tiểu thừa và Đại thừa như
“Không” và “Hữu”. Từ đó ông kh ng định vị trí quan trọng của Tính Không trên
những vấn đề triết học đối với khuynh hướng Đại thừa của Phật giáo Ấn Độ.

.d o

m

o

w

w

w

.d o


C

lic

k

to

bu

y
bu
to
k
lic
C

w

w

w

N

O
W

!


h a n g e Vi
e

N

PD

!

XC

er

O
W

F-

w

m

h a n g e Vi
e

w

PD

XC


er

F-

c u -tr a c k

.c


y
o

c u -tr a c k

.c

10

Trên đây là một số thành quả nghiên cứu có liên quan đến nguyên lý Tính
Không Phật giáo Ấn Độ trước thời Bồ Tát Long Thọ. Tác giả căn cứ vào tài liệu
đó để khảo cứu tư tưởng nguyên lý Tính Không trong Phật giáo Ấn Độ qua từng
giai đoạn lịch sử của đất nước.
Cuốn Đại cương triết học Trung Quán của Tác giả Jaidev Singh, dịch giả
Thích Viên Lý, Viện Triết Lý Việt Nam và Triết Học Thế Giới Xuất Bản đăng
tải trên trang web Thư Viện Hoa Sen năm 2010 đã trình bày cấu trúc của cuốn
sách này gồm có 5 chương, trong đó tác giả và dịch giả đã phác thảo toàn cảnh
về triết học Trung Quán Luận, mà Tính Không làm chủ đạo, cụ thể : Ở chương 1,
Jaidev Singh đã khảo cứu về vấn đề Nguyên thủy Phật giáo Đại thừa. Về Triết
học Đại thừa (Mahayàna) gồm có hai phái: Triết học Trung Quán (Madhyamaka)

hay Không Luận (Sùnyavàda) và Du Dà Hành phái (Yogàcàra) hoặc Duy Thức
Luận (Vijnànavàda). Tiếp theo tác giả luận về phần Trung Quán Luận: Cuộc đời
của Long Thọ và Đề Bà (Thánh Thiên); Trung Quán Luận (Madhyamaka-sastra)
của Long Thọ (Nàgàrjuna) được khái lược chỉ gồm hơn 400 tụng tán ca, được
chia thành 27 chương. Tuy nhiên ở đây tác giả đã giải thích về hai Long Thọ
khác nhau về thời gian; một Long Thọ ta đang nghiên cứu, hai là Dược sư Long
Thọ Mật Giáo (Tràtrica Nàgàrjuna) người đã sống khoảng thế kỷ thứ VII CN.
Theo người Tây Tạng thì Bồ Tát Long Thọ đã sáng tác được khoảng 122
bộ luận, nhưng dường như chỉ còn một số luận. Theo tác giả thì khởi nguyên của
Phật giáo Đại thừa có thể truy cứu từ thời sơ khởi của Đại Chúng Bộ
(Mahàsamghika) và thời sơ khởi của văn điển Đại thừa (Mahàyana sùtras). Đặc
biệt tác giả khái quát sự tranh luận về Tính Không trong giáo lý Phật giáo Tiểu
thừa và Phật giáo Đại thừa qua vấn đề Vô ngã và Vô pháp. Theo Thượng Tọa Bộ
(Sthaviras) thì tự ngã của con người vốn không có tự tính, còn các pháp là có tự
tính (ngã không pháp hữu). C n Đại Chúng Bộ thì cho rằng ngã pháp đều không.
Chương 2, tác giả đã liệt kê được những trước tác của Long Thọ đã được
dịch sang tiếng Tây Tạng và tiếng Hoa. Ngoài ra tác giả còn luận giải về biện
chứng pháp của Trung Quán.

.d o

m

o

w

w

w


.d o

C

lic

k

to

bu

y
bu
to
k
lic
C

w

w

w

N

O
W


!

h a n g e Vi
e

N

PD

!

XC

er

O
W

F-

w

m

h a n g e Vi
e

w


PD

XC

er

F-

c u -tr a c k

.c


y
o

c u -tr a c k

.c

11

Chương 3, tác giả nói về sự khác biệt giữa Nguyên thủy và Đại thừa. Theo
tác giả, sự khác biệt giữa Nguyên thủy và Đại thừa phải dựa vào nhiều yếu tố:
Thông qua lý “Duyên khởi”, theo Nguyên thủy thì Niết bàn là có thể thụ đắc (đạt
được), còn theo Trung Quán thì Niết bàn không thể thụ đắc. Về lý tưởng giải
thoát, Nguyên thủy lấy mục đích là đạt tới giác ngộ cá nhân, c n Đại thừa là giác
ngộ cho tất cả mọi người.
Chương 4, tác giả đã khái quát những đặc điểm chính của Triết học Trung
Quán. Đó là Không và Tính Không. Có lẽ theo ý nghĩa lý luận về tồn hữu thì

“sunya” là một loại “không” mà đồng thời cũng “chứa đầy”. Vì nó không phải là
một thứ đặc biệt nào, nên nó dễ có thể trở thành mọi thứ. Nó được xem như đồng
nhất với Niết bàn, với Tuyệt đối, với Thực tại tối thượng, với Thực tại. Không là
đặc tính của thực tại. Còn Không Tính (sunyata) là danh từ trừu tượng bắt nguồn
từ chữ “sunya” (không). Tính Không có ý nghĩa là sự tước đoạt, và còn có hàm ý
là viên mãn. Vì nó thoát ra ngoài ngôn ngữ. Ngoài ra tác giả còn giải thích về
tam thân Phật theo lý tính không tự tính, pháp thân là tự tính từ bi và trí tuệ, ứng
dụng hóa thân vào đời [198].
Chương 5, tác giả đã trình bày về triết lý của sự tương quan theo quan
niệm Trung đạo, Tuyệt đối và Hiện tượng, Biểu hiện của thực tại (Tục đế) và
thực tại tuyệt đối (Thắng nghĩa đế).
Đây là một công trình nghiên cứu rất công phu, cung cấp nhiều thông tin
rất rõ ràng. Tuy nhiên việc phân tích nội dung chỉ mang tính giáo trình, chưa đi
sâu phân tích các luận điểm triết học của Tính Không.
Cuốn Lịch sử Tư tưởng triết học Ấn Độ cổ Đại của Doãn Chính năm 2010,
gồm hai phần: Phần thứ nhất bàn về những tiền đề hình thành và phát triển của
triết học tôn giáo Ấn Độ thời cổ Đại, như điều kiện lịch sử và đặc điểm kinh tế,
chính trị xã hội Ấn Độ cổ đại. Phần thứ hai trực tiếp đi vào phân tích lý giải rõ
quá trình hình thành và phát triển của triết học tôn giáo Ấn Độ cổ đại về tư tưởng
triết học Ấn Độ trong thời kỳ Veda và sử thi. Tiếp theo là triết học Ấn Độ thời

.d o

m

o

w

w


w

.d o

C

lic

k

to

bu

y
bu
to
k
lic
C

w

w

w

N


O
W

!

h a n g e Vi
e

N

PD

!

XC

er

O
W

F-

w

m

h a n g e Vi
e


w

PD

XC

er

F-

c u -tr a c k

.c


y
o

c u -tr a c k

.c

12

kỳ Phật giáo và Bà La Môn giáo. Trong đó đã kh ng định sự ra đời triết lý Vô
ngã vô thần đối nghịch lại một số tôn giáo hữu thần, thần quyền khác. Đến giai
đoạn Phật giáo Đại Chúng Bộ chủ đã có luận thuyết về vô, tức là Không luận.
Đó là lúc manh nha phân chia làm hai hệ phái Đại thừa và Tiểu thừa. Tiểu thừa
dùng kinh điển tiếng Pali và ảnh hưởng tới các nước phía Nam như Srilanka, Lào,
Thái Lan nên được gọi là Phật giáo Nam tông. C n Đại thừa dùng kinh điển

tiếng Sanscrit, phát triển ra các nước phía Bắc như Nê pan, Tây Tạng, Trung
Quốc, Nhật Bản, Việt Nam, nên gọi là Phật giáo Bắc Tông [16, tr.330 - 337].
Như vậy tư tưởng Không đã có từ Phật giáo Nguyên thủy và nguyên lý Tính
Không đã có ảnh hưởng từ thời kỳ Phật giáo Bộ phái ở Ấn Độ và tiếp tục phát
triển theo Phật giáo Bắc tông.
1.2. Tư liệu về nguyên lý Tính Không trong Trung Quán Luận của Bồ Tát
Long Thọ
1.2.1. Tư liệu về nguyên lý Tính Không nói chung của Phật giáo
Trường Bộ Kinh do Thích Minh Châu dịch (1967), Nxb Viện Đại học Vạn
Hạnh; Đại Tạng Kinh Việt Nam (1991), Kinh Tương Ưng Bộ, Tập III, Viện
nghiên cứu Phật học Việt Nam ấn hành; Kinh Kim Cương, Thích Trí Quang dịch
và chú giải (1994), Nxb TP. Hồ Chí Minh; Đại Tạng Kinh Việt Nam (1999), Kinh
Tiểu Bộ, Tập I, Nxb. TP. Hồ Chí Minh; Kinh Trung Bộ (trọn bộ 3 tập), dịch giả
Thích Minh Châu, tóm tắt và chú giải Thích Nữ Trí Hải, (2002), Nxb Tôn Giáo;
Chư Kinh Nhật Tụng, Phạm Gia Thoan biên tập (2005), Nxb Tôn Giáo; Kinh Mi
Tiên Vấn Đ p, Thích Giới Nghiêm dịch (2005), Nxb Tôn Giáo; Kinh Chánh Pháp,
Hồng Như chuyển Việt ngữ (2006), Nxb Tôn Giáo; Kinh Đại Bảo Tích, Thích Trí
Tịnh dịch (2009), Nxb Tôn Giáo; Thích Thanh Kiểm (1995) ược sử Phật giáo
Ấn Độ, Thành hội Phật giáo TP Hồ Chí Minh ấn hành; Hoang Phong (2013), Khái
niệm Tánh Không trong Phật giáo, Nxb Hồng Đức...là những kinh sách có thông
tin cho thấy tư tưởng nguyên lý Tính Không đã có trong kinh điển Phật giáo
Nguyên thủy với những khái niệm liên quan trực tiếp và gián tiếp như giáo lý Vô
thường, Vô ngã, Không của vạn pháp, quy luật vô thường.

.d o

m

o


w

w

w

.d o

C

lic

k

to

bu

y
bu
to
k
lic
C

w

w

w


N

O
W

!

h a n g e Vi
e

N

PD

!

XC

er

O
W

F-

w

m


h a n g e Vi
e

w

PD

XC

er

F-

c u -tr a c k

.c


y
o

c u -tr a c k

.c

13

Trong Kinh Phật Tự Thuyết (Udana), thuộc Tiểu Bộ Kinh I, Đức Phật đúc
kết nguyên lý Duyên khởi: “Nếu như cái này có mặt thì cái kia có mặt, cái này
không có mặt thì cái kia cũng không có mặt, cái này hay cái kia sinh ra được là

do nương duyên vào nhau mà hiện khởi” [40, tr. 291].
Đặc biệt, trong Kinh Tương Ưng III, Đức Phật giảng về quán sắc - không
qua hình ảnh đám bọt nước đang trôi giữa dòng sông Hằng. Bọt nước và ráng
mặt trời đều “trống không, hiện rõ ra là rỗng không” không có tướng cố định [37,
tr.252-253]. Qua đoạn kinh trên thuyết minh pháp duyên sinh khi phân tích các
hình ảnh nương gá vào nhau h a hợp mà có các pháp, nên chúng không có thực
thể, chỉ là trống không, và tự tính không, nên tính là Không. Trong kỳ kết tập
Kinh điển lần thứ ba sau Phật nhập diệt (khoảng ba trăm năm), giải thích nguyên
lý Tính Không của Phật đã được ghi vào Tương Ưng Bộ Kinh. Đây cũng là cách
nhìn mới về nguyên lý Tính Không của Phật học hậu thế.
Kinh Phạm Võng được coi là chuyên luận về giới Bồ Tát, dành cho chúng
Phật tử tại gia khi thụ giới Bồ Tát, có đoạn nói về thực tướng Không của vạn
pháp. Điểm này tương đồng với tư tưởng “Bát bất” trong Trung Quán Luận của
Long Thọ [142, tr. 331].
Trong Kinh Kim Cương, Đức Phật còn thuyết giảng về “ngã không và
pháp không” và nhiều khi còn nhấn mạnh rằng tâm con người ta qua ba thời
cũng đều là vô ngã, không thể có, tức Không: “tâm quá khứ không thể có, tâm
hiện tại không thể có, tâm vị lai không thể có” [88, tr.751]. Với giáo lý của Phật
từng dạy rằng hiểu biết về pháp Không đồng nghĩa với đạt được mục tiêu của sự
tu tập giác ngộ và giải thoát. Ngài nhấn mạnh nên hiểu cuộc đời mọi pháp do
nhân duyên hòa hợp, pháp pháp đều vô tướng, vô ngã tức Không. Phải chăng tư
tưởng nguyên lý Tính Không có được ở Phật giáo là sự kế thừa và phát triển từ
Không trong Nguyên thủy Phật giáo. Những tài liệu trên, phong phú, công phu
và nghiêm túc, là nguồn tài liệu gốc để tác giả tìm hiểu tiền đề tư tưởng nguyên
lý Tính Không của Trung Quán Luận của Bồ Tát Long Thọ.

.d o

m


o

w

w

w

.d o

C

lic

k

to

bu

y
bu
to
k
lic
C

w

w


w

N

O
W

!

h a n g e Vi
e

N

PD

!

XC

er

O
W

F-

w


m

h a n g e Vi
e

w

PD

XC

er

F-

c u -tr a c k

.c


y
o

c u -tr a c k

.c

14

1.2.2. Tài liệu về nguyên lý Tính Không trong Trung Quán Luận

* Tài liệu liên quan đ nh gi nguyên lý Tính Không trong Trung u n uận
Thích Tâm Thiện (1999), Lịch sử tư tưởng và triết học Tánh Không, Nxb
Tp. Hồ Chí Minh; Thích Hạnh Bình (2007), Triết học Có và Không, Nxb
Phương Đông, Hà Nội; Tuệ Hạnh (dịch) (2007), Tăng Triệu và Tánh Không học
Đông phương, Nxb Phương Đông, TP. Hồ Chí Minh; Thích Nữ Giới Hương
(2007), Bồ Tát và Tánh Không trong Kinh tạng Pali và Đại thừa, Nxb Tổng hợp
TP. Hồ Chí Minh; Đoàn Trung C n (2008), Phật Học Từ Điển, Nxb Tổng Hợp,
TP. Hồ Chí Minh;Tưởng Duy Kiều, Tưởng Duy Kiều (1958), Đại cương triết
học Phật giáo, Thích Đạo Quang dịch, Nxb Huyền Trang, Sài gòn; O. O.
Rozenberg (1990), Phật giáo- những vấn đề triết học, Trung tâm Tư liệu Phật
học xuất bản, Hà Nội; Sự phân nhánh Tiểu thừa và Đại thừa Phật giáo của
Hoàng Thị Thơ, tạp chí Triết học, số 4 năm 1993; Thích Chơn Thiện (1997),
Phật học khái luận, Nxb TP Hồ Chí Minh; Nguyễn Tài Thư (chủ biên;1998),
Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Nxb Khoa Học Xã Hội, Hà Nội; Thích Mật Thể
(2004), Thế giới quan Phật giáo, Nxb Tôn giáo, Hà Nội; Hoàng Thị Thơ (2005),
Lịch Sử Tư Tưởng Thiền Từ Vê Đa Ấn Độ Tới Thiền tông Trung Quốc, Nxb
Khoa Học Xã Hội, Hà Nội; Chân Tâm (2006), Niết bàn khái luận, Nxb Tôn giáo,
Hà Nội; Katupahana,Trần Nguyên Trung dịch (2007), Nhân quả- triết lý trung
tâm Phật giáo, Nxb Tổng hợp, TP. Hồ Chí Minh; Junjiro Takakusu (2008), Tinh
hoa triết học Phật giáo, Tuệ Sỹ dịch Nxb phương Đông; Thích Thiện Hoa
(2008), Phật học phổ thông, 3 quyển, Nxb TP.HCM; Đoàn Văn

n (2011),

“Quan niệm về Tính Không (sunyata) trong Kinh Kim Cương’’, Tạp chí Triết
học, số 1/2011, tr. 71-77…Trong đó đáng chú ý là các tài liệu sau:
Trong Đại thừa Phật gi o tư tưởng luận, Kimura Taiken đã giành
chương 3 đề cập chi tiết về cuộc đời, các trước tác, tư tưởng của Long Thọ, đề
cập tới tư tưởng các pháp vốn do duyên sinh, không phải là do vô minh, cũng
không phải do khát ái, hết thảy rốt cuộc cũng chỉ là “Không”. Ngay cái gọi là


.d o

m

o

w

w

w

.d o

C

lic

k

to

bu

y
bu
to
k
lic

C

w

w

w

N

O
W

!

h a n g e Vi
e

N

PD

!

XC

er

O
W


F-

w

m

h a n g e Vi
e

w

PD

XC

er

F-

c u -tr a c k

.c


y
o

c u -tr a c k


.c

15

không cũng không nốt. Do thế Kinh Bát Nhã nói: “Không không”, “ Đại
không”.

ng nhấn mạnh “chủ ý của Trung Luận muốn đem cái thuyết Chân

Không của Bát Nhã thành lập trên phương diện biện chứng luận”. Thuyết biện
chứng Không của Long Thọ thành lập trên lý Bát Nhã, lập trường của Long
Thọ là quyết không nhất định ở thuyết không. Cái không cũng không rồi thì về
với cái thế giới giả danh diệu hữu đó [84, tr.89-100].
Hoàng Thị Thơ (2005), Lịch sử tư tưởng Thiền từ Vê Đa Ấn Độ tới Thiền
tông Trung Quốc, nhà xuất bản khoa học xã hội Hà Nội cũng đề cập đến tư
tưởng nguyên lý Tính Không của Long Thọ và cho rằng trên cơ sở nguyên lý
Tính Không Long Thọ đã đưa ra hai loại chân lý: chân lý tương đối và chân lý
tuyệt đối. Chân lý tương đối chỉ là phản ánh ảo ảnh của thế giới. Chân lý tuyệt
đối (Chân như) phản ánh bản chất tuyệt đối đằng sau mọi hiện tượng, do vậy
chân lý tuyệt đối là siêu vượt ngôn ngữ, không thể dùng ngôn ngữ thông thường
để diễn đạt được. Nắm bắt chân lý tuyệt đối phải bằng trí tuệ Bát Nhã (tuệ
giác/trực giác) mới có thể nắm bắt được. Chân lý Tuyệt đối từ góc độ giải thoát
cũng là Niết bàn [154].
Trong tác phẩm Khái niệm Tánh Không trong Phật giáo (2013), do Hoang
Phong sưu tầm và dịch đã khái quát được các nội dung về lịch sử khái niệm Tính
Không của Phật giáo. Khái niệm này đã được xuất phát từ thời Đức Phật còn tại
thế, khi Đức Phật thuyết giảng về tánh không (Tính Không), về vô ngã:
Học phái Theravada và một số các học phái cổ xưa mà nay đã mai một,
thì chủ trương tánh không - hay bản chất “vô ngã” - của một cá thể. Trung
Quán Luận (Madhyamika) khai triển định nghĩa của khái niệm này rộng hơn,

và cho rằng tánh không là tính cách vô thực thể của tất cả mọi hiện tượng, và
tất nhiên trong đó có cả “cái tôi” của mỗi cá thể. Trung quán là một con đường
hay một vị thế ở giữa. Đối với Trung quán, tánh không không phải là một khái
niệm triết học mà là một kinh nghiệm cảm nhận về thực thể tối hậu của mọi
hiện tượng [117, tr.14].

.d o

m

o

w

w

w

.d o

C

lic

k

to

bu


y
bu
to
k
lic
C

w

w

w

N

O
W

!

h a n g e Vi
e

N

PD

!

XC


er

O
W

F-

w

m

h a n g e Vi
e

w

PD

XC

er

F-

c u -tr a c k

.c



y
o

c u -tr a c k

.c

16

Đây là một tác phẩm dịch có tính học thuật cao về nguyên lý Tính Không,
song là người miền Nam nên thường dùng từ Tánh Không.
Theo cuốn Tinh hoa triết học Phật giáo của Junjiro Takakusu người
Nhật sáng tác, Tuệ Sỹ dịch (2008), nhà xuất bản phương Đông đã nêu được bối
cảnh Ấn Độ, Phật giáo Ấn Độ, Đức Phật, với Tứ Đế là chân lý của Phật giáo,
và những nguyên lý căn bản trong triết học Phật giáo, như nguyên lý duyên
khởi, nguyên lý tất định và bất định, nguyên lý như thực, nguyên lý viên dung.
Tác phẩm đã lý giải các thuyết đó đều có mối liên hệ với nhau qua nguyên lý
Tính Không và ngược lại. Với tư tưởng nguyên lý Không, Long Thọ nhằm
phục hồi Phật giáo, hướng mọi người hiểu giáo lý duyên sinh vô ngã của Phật,
nhìn sự vật như thật có. Chữ “Không” trong nghĩa cao nhất không có nghĩa là
“không chi cả” (ngoan không) mà nó chỉ cho cái không có những điều kiện
riêng biệt, không tự tính. Đây là một nhận định có giá trị triết học về tư tưởng
nguyên lý Tính Không trong Trung Quán Luận. Long Thọ đã đề cao triết
thuyết nguyên lý Tính Không của mình nhiều khi làm cho mọi người nhầm
Không có gì với cái không không tự tính của vạn vật [79, tr. 147-157].
Thích Thanh Kiểm đã đề cập đến hệ thống Triết học Trung đạo và lược
truyện Long Thọ. Ông cho rằng Long Thọ được coi là tổ khai sáng của Thiền
tông, Tịnh Độ tông, Mật tông, Hoa Nghiêm tông, Tam Luận tông, nhưng giáo
nghĩa căn bản của Long Thọ thì chính là tư tưởng Trung đạo, thể hiện rõ trong
Trung Quán Luận. Long Thọ gọi đó là “chư pháp thực tướng”, “chân Không vô

tướng”. Thích Thanh Kiểm đánh giá cao biện chứng mà Long Thọ triển khai
“nghĩa trung đạo không phải là nghĩa trung gian giữa có và không là vượt ra
khỏi vòng sai biệt tương đối, siêu vượt lĩnh vực có và không, bản lai các pháp
là không sinh không diệt” [86, tr. 239-245].
Thích Thiện Siêu (2000) Vô Ngã là Niết bàn, Nxb. Tôn Giáo Hà Nội, đã
lý giải được Vô ngã có liên hệ với cảnh giới Niết bàn, đặc biệt nhấn mạnh vô ngã
ở đây là Không Tướng, Niết bàn cũng là Không Tướng, tức nguyên lý Tính
Không trong Trung Quán Luận của Long Thọ [124].

.d o

m

o

w

w

w

.d o

C

lic

k

to


bu

y
bu
to
k
lic
C

w

w

w

N

O
W

!

h a n g e Vi
e

N

PD


!

XC

er

O
W

F-

w

m

h a n g e Vi
e

w

PD

XC

er

F-

c u -tr a c k


.c


y
o

c u -tr a c k

.c

.d o

17

Theo cuốn Tính Không học tham nguyên (Nghiên cứu về Tính Không học)
(性空學探源) cũng của Ấn Thuận, ở chương 1 đã đánh giá Không là pháp tột
cùng của pháp Phật, và cũng cho rằng biết được Không thì biết được Có “tri
không bất tức năng tri hữu” (trang 8). Chương 2 đã đề cập tới căn bản nghĩa
Không trong Kinh A Hàm: “

Hàm vi không nghĩa chi bản nguyên” (trang 15),

vô ngã là căn bản của xứ không và ngược lại “vô ngã vi căn bản chi xứ không”
(trang 43), “vô thường vi luận đoan (ngay th ng) chi uẩn không” nghĩa là Vô
Thường luận ngay th ng từ không mà có (trang 30). Chương 3 lại giải thích về
Không trong A Tỳ Đàm (Luận thư): “chung quy ư không”, Vô là thường trụ
(trang 203), Vô là pháp (trang 204), nguyên lý Tính Không của pháp là vô ngã
“pháp Tính Không vô ngã”. Cái hay của cuốn này là Ấn Thuận giảng về Không
qua những câu Phật nói ở kinh A Hàm, hoặc trong A Tỳ Đàm. Đặc biệt, ở phần
Dẫn luận ông lại cảm ơn rằng “nếu không đọc Trung Luận của Long Thọ thì khó

mà hiểu được nghĩa Không chân thực”. Đây là một nhận định có ý nghĩa đánh
giá vai tr vấn đề nguyên lý Tính Không đối với toàn bộ lịch sử tư tưởng Phật
giáo nói chung (Xem: phần dẫn luận của chương 1, trang 1)[193].
Nguyệt Xứng (月稱, khoảng thế kỷ VI-VII) vị luận sư quan trọng nhất
ngay sau Long Thọ, đã chú ý tới Trung u n uận. Các trước tác quan trọng của
ông là Minh Cú Luận (明句論, còn nguyên bản Phạn ngữ), gọi đủ là Trung quán
minh cú luận (madhyamakavrtti-prasannapadā), ông đã chú giải chú thích rõ
ràng về Trung đạo như là một thực thể Không.
Theo T.R.M.Murti viết trong Tính Không cốt tủy triết học Phật giáo, mà
Huỳnh Ngọc Chiến dịch (2012), ông đã cho rằng Tính Không là cốt tủy của giáo
lý Phật giáo, cũng là triết lý, là tư tưởng vô ngã, vô chấp, song nó nhắc nhở con
người cần sống có niềm tin tâm linh trong cuộc sống hiện nay, mà nguyên lý
Tính Không có vai trò thiết yếu. Tác phẩm có đoạn viết: "Tánh Không (sunyata)
thâm diệu sẽ là nền tảng cho sự phục sinh tâm linh thế giới”. Đây là một nhận

m

o

w

w

w

.d o

C

lic


k

to

bu

y
bu
to
k
lic
C

w

w

w

N

O
W

!

h a n g e Vi
e


N

PD

!

XC

er

O
W

F-

w

m

h a n g e Vi
e

w

PD

XC

er


F-

c u -tr a c k

.c


y
o

c u -tr a c k

.c

18

định quan trọng để chứng minh cho tư tưởng nguyên lý Tính Không của Long
Thọ là chân Không, không ngoan không mà diệu hữu [175, tr.11].
Theo đánh giá của P.T.Raju, trong "Idealistic Thought of India", thì tác
giả của Trung Quán Luận này là "một nhà biện chứng độc nhất vô nhị trên thế
giới” [142, tr. 95]. Có thể thấy, Trung Quán Luận rất được quan tâm bởi các học
giả cả Ðông, cả Tây.
Tác phẩm Triết học có và không của phật giáo Ấn Độ (2007) của Thích
Hạnh Bình, nhà xuất bản phương Đông đã giải thích và phân tích được phần nào
giáo nghĩa “không” theo tư tưởng Duyên khởi của Phật giáo Đại thừa [6].
Trong cuốn Phật học phổ thông (2008), quyển 3, tái bản lần thứ tư của
Thích Thiện Hoa đã bàn tới Kinh Kim Cương với tư tưởng Không: không nên trụ
chấp vào một nơi nào “ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm”. Trong kinh này c n nói
tới giáo pháp của Phật như chiếc bè đưa người qua bể khổ, người sang để lại bè.
Cũng vậy, chúng sinh không được chấp vào chính pháp huống chi là phi pháp.

Chấp chính pháp và phi pháp không khác gì chấp vào Hữu và Vô trong Trung
Quán Luận. Đây là biện chứng pháp phủ định được Long Thọ tiếp thu để triển
khai tư tưởng nguyên lý Tính Không trong Trung Quán Luận [72, tr. 447].
Phật học Từ Điển (2008) của Đoàn Trung C n, nhà xuất bản Tổng hợp,
thành phố Hồ Chí Minh giải thích khái lược về ý nghĩa Trung quán là quán sát lý
Không theo Duyên khởi Phật giáo[19].
Trong bài viết Quan niệm về Tính Không (sunyata) trong Kinh kim cương
(Tạp chí Triết học, số 1, 2011), Đoàn Văn n đã khái quát được tinh thần cơ bản
của Tính Không (Sunyata) trong Kinh Kim Cương. Đó là Không tự ngã, tức
Không Bát Nhã, và có liên hệ với Tư tưởng Không của Trung Quán Luận. Tuy
nhiên, tác giả của bài báo này chỉ lướt qua tư tưởng Không trong Trung Quán
Luận để làm nổi bật quan niệm Không trong Kinh Kim Cương [1, tr.71-77].
Bài ược thuật về pháp giới duyên khởi của Tông Hoa Nghiêm, (Tạp chí
Nghiên cứu Phật học, số 1, 2013) Tác giả Thích Diễn Tuệ, dịch giả Quảng Lâm

.d o

m

o

w

w

w

.d o

C


lic

k

to

bu

y
bu
to
k
lic
C

w

w

w

N

O
W

!

h a n g e Vi

e

N

PD

!

XC

er

O
W

F-

w

m

h a n g e Vi
e

w

PD

XC


er

F-

c u -tr a c k

.c


y
o

c u -tr a c k

.c

19

đã nói rõ quy luật các pháp không tự sinh, không thể tự diệt mà các pháp phải
dựa vào duyên sinh, tương hỗ lẫn nhau, nên gọi đó là Duyên khởi hay gọi là
Duyên khởi Tính Không. Bài viết này, cho thấy tư tưởng biện chứng Chân như
không rời sinh diệt, sinh diệt không rời Chân như, tuy hai mà là một. Do vậy, ta
có thể thấy cái Duyên khởi Tính Không này liên hệ với nguyên lý Tính Không
trong Trung Quán Luận [167].
Theo cuốn Triết lý nhà Phật của Đoàn Trung C n (2014) cho hay Long
Thọ sinh và sống trong quá trình học đạo, tu đạo, hoằng pháp triết lý thuyết cao
siêu, ngài là người sáng lập ra phái Trung Luận, thuộc tư tưởng Đại thừa, ngài
luận thuyết cao siêu, đánh đổ mọi học thuyết khác muốn phá hoại giáo lý của
Phật Đà. Học phái Trung Luận lấy thuyết Không làm cốt lõi để phát triển luận
thuyết. Ngài thuộc đ ng cấp Bà La Môn, và hưởng thọ chừng sáu mươi tuổi.

Theo Đoàn Trung C n, Long Thọ sáng tác Trung Quán Luận nhằm giải thích
quả vị tu chứng, quả vị Bồ Tát, khuyên mọi người tu tập hiểu giáo lý Không của
Đại thừa mới có thể thoát khỏi khổ đau [20, tr.214-221].
Mới đây, bài “Để đọc hồi tránh luận của Long Thọ” (2015) của tác giả
Vũ Thế Ngọc trong Tạp chí Suối Nguồn do Trung tâm dịch thuật Hán Nôm Huệ
Quang ấn hành đã bàn về một số điều kiện cần biết để hiểu Trung

u n uận.

Đó là phải sáng tỏ được tư tưởng Không và Tính Không. Theo Vũ Thế Ngọc,
tác phẩm Hồi Tránh Luận và Trung Quán Luận là những tác phẩm xuất sắc của
Long Thọ lý giải về thực thể các pháp vốn là Không: Không không có nghĩa là
trống rỗng, trống không, rỗng lặng. Từ đó tác giả kh ng định: “Long Thọ đã luận
về bản chất (tính) của vạn vật là Không, vắn tắt là Tính Không. Nói cách khác,
vạn vật trống không vì không có tự tính và không có tự ngã’’[112, tr.34- 40]. Vũ
Thế Ngọc còn kh ng định rằng Bát bất là phương pháp phủ định, tám cái phủ
định bằng từ Bất làm cho nguyên lý Tính Không được hiện rõ: như không sinh,
không diệt, bất thường bất đoạn..., mọi sự hiện hữu không sinh từ chính nó, cũng
không sinh từ cái khác nó, mà cần phải đủ nhân duyên thì sự vật mới có thể hiện
hữu. Sự hiện hữu được như vậy là nhờ vào nguyên lý Tính Không diệu hữu.

.d o

m

o

w

w


w

.d o

C

lic

k

to

bu

y
bu
to
k
lic
C

w

w

w

N


O
W

!

h a n g e Vi
e

N

PD

!

XC

er

O
W

F-

w

m

h a n g e Vi
e


w

PD

XC

er

F-

c u -tr a c k

.c


y
o

c u -tr a c k

.c

20

* Tài liệu trực tiếp về nội dung nguyên lý Tính Không trong Trung Quán Luận
Theo cuốn Trung Quán Kim Luận (Nay luận về Trung Quán) (中觀今論)
của Ấn Thuận, Tục Minh ghi, Diệu Vân biên tập, gồm 2 tập. Phần tựa của tập 2
giới thiệu ca ngợi Phật thuyết Duyên khởi, ca ngợi tư tưởng Tính Không của
Long Thọ, không có vật gì là không từ nhân duyên mà thành “duyên khởi, phàm
thị duyên khởi đích, ...tác dụng đích duyên khởi pháp” (trang 1 phần tựa: 自序).

Ngoài ra, Trung Quán Kim Luận còn giải thích nghĩa lý nội dung của Trung đạo
là không trụ chấp vào pháp nào cả; kế tiếp giải thích về Không, duyên khởi tự
Tính Không ở chương 5 tiết 3, tiết 4; giải thích chữ “bất” ở chương 6 tiết 2. Ấn
Thuận c n liên hệ tới ý nghĩa nguyên lý Tính Không trong thuyết Duyên khởi
của Phật [192].
Tác phẩm Luận giải Trung Luận Tính Khởi và Duyên khởi (2003) của
Hồng Dương &Nguyễn Văn Hai, nhà xuất bản Tôn giáo đã cho rằng để hiểu
được Trung Luận một cách nhất quán cần hiểu về Tánh Không (Tính Không)
của Không, hay Không Không của Trung Luận, với bài tụng Trung Luận
XXIV.18 viết:
Các pháp do duyên khởi, nên ta nói là Không, là giả danh, cũng chính là
Trung đạo có nghĩa là sự vật do duyên sinh tức nói nó là Không, nghĩa là không
có tự tính, không có quyết định tính. Sự vật là không, tức nói nó sinh khởi hay
hình thành do nhân duyên. Qua đó ta thấy cái diệu dụng của Không, là do duyên
sinh thành ra vạn hữu [30, tr.5].
Ở Việt Nam, Phật giáo truyền vào rất sớm khoảng đầu Công Nguyên
nhưng việc dịch và nghiên cứu Trung u n uận diễn ra muộn hơn Trung Quốc
và chủ yếu chỉ là từ các văn bản đã dịch sang tiếng Hán.
Trung Luận của Thích Thanh Từ giảng giải (2008), nhà xuất bản tôn giáo,
Hà Nội, phân tích được cái Không theo ba nghĩa: tức Không, quán tưởng Không,
đương thể tức Không. Ba cái Không hiểu như thế nhưng chỉ nhằm một mục đích
giúp cho mọi người hiểu được sự Duyên sinh, vô ngã của sự vật hiện tượng trên
thế gian này, từ đó tu tập được bình an[147, tr.5-8]. Cuốn Trung Luận giảng giải

.d o

m

o


w

w

w

.d o

C

lic

k

to

bu

y
bu
to
k
lic
C

w

w

w


N

O
W

!

h a n g e Vi
e

N

PD

!

XC

er

O
W

F-

w

m


h a n g e Vi
e

w

PD

XC

er

F-

c u -tr a c k

.c


×