Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

LÝ LUẬN GIÁ TRỊ CỦA CÁC TRƯỜNG PHÁI KINH TẾ TRONG GIAI ĐOẠN TỪ THẾ KỶ XVI ĐẾN XIX VÀ Ý NGHĨA CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (534.2 KB, 26 trang )

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
KHOA KINH TẾ
Tiểu luận
*
LÝ LUẬN GIÁ TRỊ
CỦA CÁC TRƯỜNG PHÁI KINH TẾ
TRONG GIAI ĐOẠN TỪ THẾ KỶ XVI ĐẾN XIX
VÀ Ý NGHĨA CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
Tác giả : Nguyễn Thị Hoàng Anh
Học phần: Lịch sử các học thuyết kinh tế
từ thế kỷ XVI đến XIX
Lớp : Kinh tế chính trị - K32B Lâm Đồng
Lâm Đồng, tháng 10 năm 2013
1
Phần 1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Sự phát triển của xã hội loài người là một quá trình vận động và phát triển
không ngừng của các hình thái kinh tế - xã hội. Ở mỗi giai đoạn phát triển, đều
có những hiện tượng kinh tế - xã hội đòi hỏi con người phải có những hiểu biết
và các giải quyết. Ban đầu, chỉ là những giải thích dưới hình thức các tư tưởng
kinh tế lẻ tẻ, rời rạc. Dần dần đã trở thành những quan niệm, quan điểm kinh tế
có tính hệ thống của các giai cấp khác nhau. Theo đà phát triển của kinh tế thị
trường, đến nay, đã có nhiều học thuyết kinh tế xuất hiện làm cơ sở lý luận cho
các nhà chiến lược kinh tế của Nhà nước và quản lý kinh doanh của các doanh
nghiệp. Đó là các học thuyết kinh tế của chủ nghĩa trọng thương, chủ nghĩa
trọng nông, kinh tế học tư sản cổ điển; … và cho đến nay là những học thuyết
kinh tế hiện đại.
Việc nghiên cứu lịch sử các học thuyết kinh tế từ thế kỷ XVI đến thế kỷ
XIX, ngoài việc tiếp cận các quan điểm kinh tế, bảo vệ lợi ích của các giai cấp
nhất định mà còn giúp cho các thế hệ sau nhận thức và cải tạo hiện thực kinh tế -
xã hội dựa trên những bài học của lịch sử. Ngoài ra, còn cung cấp một cách có
hệ thống các quan điểm, lý luận kinh tế làm cơ sở cho các khoa học kinh tế


khác, đặc biệt là những môn nghiên cứu các vấn đề liên quan đến kinh tế thị
trường( Kinh tế vĩ mô, kinh tế vi mô, marketing,…).
Trong hệ thống các các lý luận cơ bản của từng trường phái cũng như của
cả quá trình lịch sử phát triển, lý luận giá trị đóng vai trò hạt nhân, là cơ sở của
các lý luận khác; nó cũng bắt đầu sơ khai từ những tư tưởng kinh tế và được
phát triển thành những quan niệm, khái niệm và đến Mác đã khái quát hoá thành
những phạm trù, những hệ thống lý luận hoàn chỉnh mà nhờ đó giải thích được
các hiện tượng kinh tế trong xã hội.
Nước ta từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, chuyển sang phát triển
kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước, phát triển theo định hướng xã hội
chủ nghĩa nên chúng ta phải thừa nhận các quy luật khách quan vốn có của kinh
tế hàng hóa như: quy luật cạnh tranh, quy luật cung cầu, quy luật giá trị,… Vì
vậy, việc nghiên cứu các lý luận giá trị có ý nghĩa quan trọng trong quá trình xây
dựng và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Phần 2. NỘI DUNG
2
I. LÝ LUẬN CỦA HỌC THUYẾT KINH TẾ TRỌNG THƯƠNG:
Học thuyết kinh tế trọng thương ra đời trong thời kỳ phương thức sản xuất
phong kiến tan rã, phát sinh phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Đây là thời
kỳ tích lũy nguyên thủy của tư bản để tạo điều kiện ra đời cho nền sản xuất tư
bản chủ nghĩa. Nó ra đời vào khoảng những năm 1450, phát triển tới những năm
1650 và sau đó bị suy đồi. Về mặt lịch sử, đây là thời kỳ tích luỹ nguyên thuỷ
của chủ nghĩa tư bản.
Học thuyết kinh tế trọng thương là hệ tư tưởng đầu tiên của giai cấp tư sản,
chiếm vị trí quan trọng trong đời sống kinh tế - xã hội, phản ánh những tiến bộ
mới trong đời sống kinh tế của các nước Châu Âu thời bấy giờ. Đây là học
thuyết kinh tế đầu tiên phân tích về mặt lý luận một số vấn đề trong phương thức
sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Học thuyết kinh tế Trọng thương cho rằng, tiền là đại biểu duy nhất của của
cải, là tiêu chuẩn để đánh giá các quốc gia, một nước càng có nhiều tiền thì càng

giàu. Hàng hóa chỉ là phương tiện để gia tăng khối lượng tiền tệ. Trên quan
điểm coi tiền là tiêu chuẩn đánh giá mọi hình thức hoạt động nghề nghiệp.
Những hoạt động nào không dẫn đến tích luỹ tiền tệ là những hoạt động tiêu
cực, không có lợi. Hoạt động công nghiệp không thể là nguồn gốc của của cải
(trừ công nghiệp khai thác vàng và bạc) chỉ có hoạt động ngoại thương mới là
nguồn gốc thật sự của của cải. Khối lượng tiền tệ chỉ có thể gia tăng bằng con
đường ngoại thương. Trong hoạt động ngoại thương phải thực hiện chính sách
xuất siêu.
Những người theo chủ nghĩa Trọng thương coi sản xuất là phương tiện
phục vụ cho thương nghiệp, còn thương nghiệp mới là nguồn gốc tạo ra của cải
như Montcheretien cho rằng: “kinh tế chính trị là khoa học về của cải thương
mại mà nhiệm vụ của nó là bán nhiều, mua ít”; họ coi lợi nhuận thương nghiệp
là kết quả của sự trao đổi không ngang giá, là sự lừa gạt. Họ cho rằng, không
một người nào thu được lợi mà lại không làm thiệt kẻ khác. Dân tộc này là giàu
bằng cách hy sinh lợi ích của dân tộc khác. Trong trao đổi phải có một bên thua
để bên kia được.
3
Mặc dù còn hạn chế về tính lý luận nhưng hệ thống quan điểm học thuyết
kinh tế Trọng thương đã taọ ra những tiền đề lý luận kinh tế xã hội cho các lý
luận kinh tế thị trường sau này phát triển. Điều này thể hiện ở chỗ họ đưa ra
quan điểm sự giàu có không phải là giá trị sử dụng mà là giá trị, là tiền. Mục
đích hoạt động của kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường là lợi nhuận. Mác đã chỉ
ra rằng chủ nghĩa Trọng thương thế kỷ XVI - XVII đã đi theo cái hình thức chói
lọi của giá trị trao đổi và đứng trên lĩnh vực thô sơ của lưu thông hàng hóa để
xem xét nền sản xuất tư bản chủ nghĩa.
II. HỌC THUYẾT KINH TẾ TRỌNG NÔNG
Cũng như chủ nghĩa Trọng thương, chủ nghĩa Trọng nông xuất hiện trong
khuôn khổ thời kỳ quá độ phong kiến sang chế độ tư bản chủ nghĩa, nhưng ở
giai đoạn phát triển kinh tế trưởng thành hơn. Học thuyết kinh Trọng nông cho
rằng nguồn gốc thuần túy của sự giàu có của mỗi quốc gia là từ sản xuất nông

nghiệp hay các dạng phát triển của đất đai khác.
Học thuyết này hình thành ở Đức, Ba Lan, Thụy Sĩ và nhiều nước khác, tuy
nhiên chỉ có ở Pháp nó mới phát triển nhất và trở thành trường phái hoàn chỉnh,
phổ biến nhất trong nữa sau của thế kỷ XVIII.
Những người Trọng nông cho rằng thương mại chỉ đơn thuần là “việc đổi
những giá trị này lấy những giá trị khác ngang như thế” và trong quá trình trao
đổi đó, nếu xét nó dưới hình thái thuần tuý thì cả người mua, lẫn người bán
chẳng có gì để mất hay được cả. Thương nghiệp không sinh ra của cải. Trao đổi
không làm cho tài sản tăng lên, vì tài sản được tạo ra trong sản xuất, còn trong
trao đổi thì chỉ có sự trao đổi giá trị sử dụng này lấy giá trị sử dụng khác mà
thôi.
Boisguillebert phê phán lý luận tiền tệ và giá cả của chủ nghĩa Trọng
thương đã quá đề cao vai trò của đồng tiền, coi tiền là nội dung căn bản của của
cải, là tài sản thực sự của một quốc gia. Ông chứng minh, của cải quốc dân
chính là những vật hữu ích và trước hết là sản phẩm của nông nghiệp, còn khối
lượng tiền nhiều hay ít chẳng có ý nghĩa gì, chỉ cần có đủ tiền để giữ giá cả
tương ứng với hàng hóa. C.Mác trong khi phê phán chủ nghĩa Trọng thương
cũng viết: “Người ta trao đổi những hàng hoá với hàng hoá hay những hàng
4
hoá với tiền tệ có cùng giá trị với hàng hoá đó, tức là trao đổi những vật ngang
giá, rõ ràng là không ai rót ra được từ trong lưu thông ra nhiều giá trị hơn số
giá trị đã bỏ vào trong đó. Vậy giá trị thặng dư tuyệt nhiên không thể hình
thành ra được”. Điều này chứng tỏ sự trưởng thành của các quan điểm kinh tế
của phái Trọng nông. C.Mác nhận xét: “Phái trọng nông đã chuyển việc nghiên
cứu nguồn gốc của giá trị thặng dư từ lĩnh vực lưu thông vào lĩnh vực sản xuất
trực tiếp, và do đó đã đặt cơ sở cho việc phân tích nền sản xuất Tư bản chủ
nghĩa”.
F.Quesnay đưa ra học thuyết rất cơ bản, đóng vai trò trung tâm trong hệ
thống lý luận chủ nghĩa tư bản - Đó là học thuyết về “sản phẩm ròng” (sản
phẩm thuần tuý). Ông cho rằng chỉ có khu vực nông nghiệp của nền kinh tế

Pháp là mang tính sản xuất. Nghĩa là chỉ có thể tạo ra thặng dư trong nông
nghiệp mà thôi, hay là chỉ trong nông nghiệp thì sản lượng đầu ra mới lớn hơn
đầu vào cần cho sản xuất ra sản lượng đó. Theo ông, sự gia tăng của cải, sự giàu
có của một dân tộc phụ thuộc vào sự tăng trưởng của nông nghiệp; chỉ có nông
nghiệp là ngành sản xuất, còn các loại lao động khác là phi sản xuất. Quan điểm
này nhấn mạnh rằng của cải được tạo ra trong quá trình sản xuất chứ khong phải
trong thương mại
Những quan điểm của F.Quesnay được Anne Robert Jacques Turgor tiếp
tục kế thừa, lý luận về giá trị được ông trình bày khá rõ ràng trong tác phẩm “Tư
duy về việc tạo ra và phân bổ của cải”. Thứ nhất, ông nhất trí với quan điểm
cảu các nhà Trọng nông khác là có hai nguyên tắc hình thành giá trị hàng hóa
khác nhau giữa công nghiệp và nông nghiệp; trong nông nghiệp: giá trị hàng hóa
bằng tổng chi phí sản xuất như tiền lương, nguyên, nhiên vật liệu và sự quản lý
của nhà tư bản; giá trị hàng hóa bằng tổng chi phí sản xuất tương tự như trong
công nghiệp cộng với sản phẩm thuần túy mà ngành công nghiệp không có. Bởi
vì chỉ trong nông nghiệp mới có sự giúp sức của tự nhiên làm sinh sôi nảy nở
nhiều của cải mới. Thứ hai, giá trị hàng hóa và giá trị trao đổi được xác định bởi
tỷ lệ nhu cầu, bởi cường độ, tầng suất sự mong muốn tham gia trao đổi giữa
người mua với người bán.Thứ ba, để tiện lợi cho việc trao đổi phải có một loại
hàng hóa có thể đại diện cho tất cả các loại hàng hóa khác. Hàng hóa này phải
có hai thuộc tính: có thể làm thước đo chung để biểu hiện giá trị các loại hàng
5
hóa khác và là sự đảm bảo chung nhằm thu được các hàng hóa khác thông qua
trao đổi.
Như vậy, chủ nghĩa Trọng nông đã giải thích nguồn gốc của sản phẩm
thuần tuý theo tinh thần của chủ nghĩa tự nhiên, tựa hồ như đất đai là nguồn gốc
của sản phẩm thuần tuý. Trong học thuyết này, họ đã coi sản phẩm thuần tuý là
sản phẩm lao động của người công nhân làm thuê, bộ phận này đã biến thành
nguồn thu nhập của giai cấp tư sản và địa chủ. Tuy nhiên, phái Trọng nông chưa
phân tích được rõ các khái niệm lý luận cơ sở như hàng hóa, tiền tệ, giá trị, giá

cả; đã tầm thường hoá khái niệm của cải, không thấy tính hai mặt của nó (hiện
vật và giá trị). Ai cũng biết rằng việc làm tăng thêm giá trị của vật phẩm thường
kèm theo việc làm giảm khối lượng thực thể chứa đựng trong các vật phẩm đó.
Giá trị và khối lượng của vật phẩm có thể thay đổi theo chiều hướng hoàn toàn
ngược nhau.
III. LÝ LUẬN GIÁ TRỊ TRONG CÁC HỌC THUYẾT KINH TẾ CHÍNH
TRỊ TƯ SẢN CỔ ĐIỂN
Vào thế kỷ thứ XVI - XVII sự thống trị của tư bản thương nghiệp thông
qua việc thực hiện chủ nghĩa trọng thương chính là bộ phận của học thuyết tích
luỹ nguyên thuỷ, dựa trên cướp bóc và trao đổi không ngang giá ở trong nước và
quốc tế, làm thiệt hại lợi ích của người sản xuất và người tiêu dùng, kìm hãm sự
phát triển của tư bản công nghiệp. Khi nguồn tích luỹ nguyên thuỷ đã cạn thì
chủ nghĩa trọng thương trở thành đối tượng phê phán. Sự phê phán chủ nghĩa
trọng thương đồng thời là sự ra đời một lý thuyết mới làm cơ sở lý luận cho
cương lĩnh kinh tế của giai cấp tư sản, hướng lợi ích của họ vào lĩnh vực sản
xuất. Kinh tế chính trị tư sản cổ điển ra đời từ đó.
Ở Anh, từ khi thương nghiệp mất dần đi ý nghĩa lịch sử, giai cấp tư sản
Anh đã sớm nhận thấy lợi ích của họ trong sự phát triển công trường thủ công
công nghiệp. Họ chỉ rõ: muốn làm giàu phải bóc lột lao động, lao động làm thuê
của những người nghèo là nguồn gốc làm giàu vô tận cho người giàu. Đó là
điểm cốt lõi của kinh tế chính trị tư sản cổ điển Anh, là học thuyết kinh tế chủ
yếu của giai cấp tư sản ở nhiều nước lúc bấy giờ. Nổi lên ở giai đoạn này là 3
đại diện tiêu biểu: William Petty, Adam Smith, David Ricardo.
6
1. William Petty - người đặt nền móng cho trường phái Kinh tế chính trị
cổ điển ở Anh
William Petty (1623 - 1687) là một trong
những người sáng lập ra học thuyết kinh
tế cổ điển ở Anh. Ông sinh ra trong một gia
đình thợ thủ công, có trình độ tiến sĩ vật

lý, là giáo sư giải phẫu và âm nhạc, là
bác sĩ. Ông còn là một chủ đất, một nhà
công nghiệp phát đạt. W.Petty là người
áp dụng phương pháp mới trong nghiên
cứu khoa học, được gọi là phương pháp
khoa học tự nhiên; là người đầu tiên
đưa ra nguyên lý lao động quyết định giá trị trong kinh tế chính trị học tư
sản.
Theo ông, giá trị hàng hóa là do lao động kết tinh, khẳng định vai trò của
lao động trong việc tạo ra giá trị hàng hóa. Với phát hiện này ông đã đối lập
hoàn toàn với học thuyết kinh tế trọng thương, vì họ cho rằng lưu thông tạo ra
giá trị. Đây là cống hiện lớn của ông so với tất cả các nhà kinh tế trước đây và
đương thời với ông. Với phát minh này W. Petty được coi là cha đẻ của kinh tế
chính trị học.
Để tìm hiểu lý luận giá trị hàng hóa, ông bắt đầu nghiên cứu về giá cả. Theo
ông có 3 loại giá cả: giá cả tự nhiên, giá cả thị trường và giá cả chính trị. Giá cả
tự nhiên là giá cả vốn có, là giá cả có trước khi trao đổi đã nằm trong hàng hóa.
Giá cả tự nhiên là do thời gian lao động kết tinh trong hàng hóa và trong tiền tệ
(vàng - bạc) tạo ra. Do vậy theo ông người ta trao đổi hàng hóa lấy tiền tệ thực
chất là trao đổi lao động cho nhau. Với quan điểm này,W.Petty đã tìm thấy cái
chung trong các hàng hóa đem trao đổi với nhau, đó là thời gian lao động của
con người. Giá cả nhân tạo hay giá cả thị trường của hàng hóa phụ thuộc vào giá
trị tự nhiên và quan hệ cung - cầu của hàng hóa. Giá cả chính trị chịu sự tác
động của các yếu tố chính trị đối với lượng chi phí lao động để sản xuất ra hàng
William Petty
7
hóa, làm cho các chi phí này vượt lên cao hơn so với các chi phí lao động tự
nhiên.
Như vậy, W.Petty chính là người đầu tiên trong lịch sử đặt nền móng cho lý
thuyết giá trị lao động. Việc phân biệt 3 loại giá cả trên đã cho thấy sự cố gắng

của W.Petty khi tìm hiểu bản chất và nguồn gốc của giá trị hàng hóa ở lao động
sản xuất ra nó, mà các hình thức thể hiện bên ngoài che lấp đi. Đồng thời ông
còn xác định mối quan hệ giữa giá trị hàng hóa với năng suất lao động. Nếu
năng suất lao động tăng thì giá trị hàng hóa giảm và ngược lại. Ngoài ra W.Petty
còn đặt vấn đề nghiên cứu lao động giản đơn và lao động phức tạp, nhưng
không thành công.
Tuy nhiên, giá trị lao động của W.Petty cũng còn những hạn chế. Ông chưa
phân biệt được lao động cụ thể và lao động trừu tượng, bởi vậy chưa thể chỉ rõ
được nguồn gốc của giá trị hàng hóa. Ông cũng lẫn lộn giữa giá trị và giá trị trao
đổi, giá trị và giá trị sử dụng. Ông tập trung nghiên về giá cả một bên là hàng
hóa một bên là tiền, tức ông mới chỉ nghiên cứu về mặt lượng. Ông chỉ thừa
nhận lao động khai thác vàng bạc mới là nguồn gốc của giá trị, còn giá trị của
các hàng hóa khác chỉ được xác định nhờ quá trình trao đổi tiền tệ. Theo ông,
giá trị của hàng hóa chính là sự phản ánh giá trị của tiền tệ. Đó là ảnh hưởng của
học thuyết kinh tế trọng thương.
2. Adam Smith
Adam Smith (1723 - 1790) là nhà lý luận xuất sắc nhất của giai cấp tư sản.
Ng là người đầu tiên hoàn chỉnh,
hệ thống hóa lý luận, đồng thời
đặt nền móng vững chắc cho sự
phát triển của kinh tế học
Xác định giá trị do lao động tạo
ra là một đóng góp quý giá nhất
của ông đối với học thuyết kinh
tế học thời đó: “lao động là
thước đo thực sự của giá trị có
thể trao đổi mọi loại hàng hóa”
8
Mặc dù tư tưởng này đã được những người đi trước đề cập, song với
A.Smith nó được trình bày rõ ràng và dứt khoát hơn. Ông thật sự là người đầu

tiên khắc phục được hạn chế của những người trọng thương và trọng nông trong
việc quy lao động tạo ra giá trị chỉ về một lao động cụ thể, đặc thù nào đó. Theo
ông tất cả các lao động sản xuất đều bình đẳng trong việc tạo ra giá trị. A.Smith
còn đi xa hơn khi xác định giá trị bằng lao động có tính chất trung bình của xã
hội chứ không phải lao động cá biệt của những người sản xuất hàng hóa riêng lẻ.
Theo quan điểm này, trao đổi hàng hóa diễn ra trên thị trường thực chất là trao
đổi những lượng lao động được xã hội thừa nhận và tất cả những người sản xuất
cần phải tính toán chi phí sản xuất của mình dựa trên mức hao phí trung bình
của xã hội để có thể thu lợi. Ông cũng phân biệt lao động giản đơn, không lành
nghề và lao động phức tạp, lành nghề và nhận xét rất đúng rằng cùng trong một
thời gian ngắn như nhau với một cường độ lao động như nhau, những lao động
phức tạp, lành nghề sẽ tạo được lượng giá trị lớn gấp nhiều lần so với lao động
giản đơn, không lành nghề.
Ông cũng phân biệt rõ giá trị sử dụng và giá trị trao đổi trong một hàng hóa:
“Giá trị có hai nghĩa khác nhau, có lúc nó biểu thị hiệu quả sử dụng như là một
vật phẩm đặc biệt, có lúc biểu thị sức mua do chỗ chiếm hữu một vật nào đó mà
có được đối với vật khác. Cái trước gọi là giá trị sử dụng, và cái sau gọi là giá
trị trao đổi” và có một nhận xét thú vị là thường mặt hàng nào có giá trị sử dụng
cao lại có ít giá trị hơn so với mặt hàng có giá trị sử dụng thấp hơn.
Cùng tư tưởng như W.Petty nhưng dưới cách trình bày khác, A.Smith phân
biệt giá cả tự nhiên và giá cả thị trường. Giá cả thị trường được ông xác định là
giá mà người ta trả trong các trao đổi thực tế hàng ngày. Giá cả này chủ yếu do
quan hệ cung và cầu hàng hóa quyết định, song đôi khi do tác động can thiệp
của chính phủ. Ngược lại, cơ sở giá trị tự nhiên là thu nhập từ 3 nguồn mang lại:
tiền công với tư cách là thu nhập lao động; lợi nhuận - thu nhập của tư bản và
địa tô - thu nhập của chủ đất. Ông cũng nhận xét trong ngắn hạn, hai loại giá cả
này thường chênh lệch nhau, xong do một cơ chế điều tiết tự động của thị
trường, cuối cùng chúng sẽ có xu hướng cân bằng với nhau.
9
Đặc biệt, ông coi trọng vai trò của tiền tệ trong trao đổi hàng hóa. Nguồn

gốc của tiền được ông coi là do nhu cầu phát triển của chế độ trao đổi hàng hóa
mà có. Về chức năng của tiền ông cổ vũ nhiều nhất cho chức năng làm phương
tiện lưu thông và phương tiện thanh toán.
Bên cạnh những đóng góp quan trọng, A.Smith còn bộc lộ nhiều điểm hạn
chế và mâu thuẫn trong lý luận giá trị của mình. Hạn chế lớn nhất của ông là sự
không nhất quán trong việc xác định cơ sở giá trị là lao động. Ở ông thậm chí
còn có 3 cách xác định giá trị khác nhau. Trong đó có cả việc quy giá trị phân
giải thành các thu nhập: tiền công, lợi nhuận và địa tô. Sai lầm điển hình của ông
là một mặt vừa xác định giá trị bằng lao động tạo ra hàng hóa, mặt khác lại vừa
xác định nó bằng lượng lao động có thể mua bằng hàng hóa này. Ngoài ra, ông
còn không phân biệt được sự khác nhau căn bản giữa sản xuất hàng hóa giản
đơn và sản xuất hàng hóa tư bản chủ nghĩa ở chỗ lao động trong chủ nghĩa tư
bản đã trở thành lao động làm thuê và anh ta chỉ được trả công thấp hơn so với
giá trị mà anh ta tạo ra cho tư bản, bởi vậy ông có khuynh hướng phủ nhận tác
động của quy luật giá trị - quy luật đặc trưng của mọi nền sản xuất hàng hóa, đặc
biệt trong nền sản xuất hàng hóa tư bản chủ nghĩa.
3. David Ricacdo
David Ricardo (1772 -1823) là người cổ
vũ thương mại tự do dựa trên lý luận
với lợi thế so sánh. Ông đã tiếp bước Adam
Smith và đóng góp lớn vào việc phát
triển thuyết giá trị lao động. Các lý luận
của ông đã ảnh hưởng đáng kể đến tư
tưởng kinh tế của C.Mác. David Ricardo
cũng là một thương gia, chuyên gia tài
chính, nhà đầu cơ, ông được coi là người
đã tích lũy được một tài sản lớn.
D.Ricardo dựa vào lý thuyết của A.Smith có sự kế thừa và phát triển tư
tưởng của A.Smith.
David Ricacdo

10
Ông phân biệt rõ hai thuộc tính của hàng hóa là giá trị sử dụng và giá trị
trao đổi và chỉ rõ giá trị sử dụng là điều kiện cần thiết cho giá trị trao đổi, nhưng
không phải là thước đo của nó. Trừ một số ít hàng hóa khan hiếm, thì giá trị sử
dụng quyết định giá trị trao đổi, còn đại đa số hàng hóa khác, giá trị do lao động
quyết định. Vì giá trị trao đổi là một lượng tương đối biểu hiện khối lượng hàng
hóa khác (hay tiền tệ) nên D.Ricardo đặt vấn đề là bên cạnh giá trị tương đối,
còn tồn tại giá trị tuyệt đối. Đó là thực thể của giá trị, là số lượng lao động kết
tinh, giá trị trao đổi là hình thức cần thiết và có khả năng duy nhất để biểu hiện
giá trị tuyệt đối.
Ông xem xét lại lý luận giá trị của A.Smith, gạt bỏ những chỗ thừa và mâu
thuẫn trong lý thuyết kinh tế của A.Smith, chẳng hạn, trong hai định nghĩa “giá
trị do lao động hao phí quyết định” là đúng, còn định nghĩa “giá trị lao động mà
người ta có thể mua được bằng hàng hóa này quyết định” là không đúng. Theo
D.Ricardo, không phải chỉ trong nền sản xuất hàng hóa giản đơn mà ngay cả
trong nên sản xuất hàng hóa tư bản chủ nghĩa, giá trị vẫn do lao động quyết
định. Ông chỉ ra rằng, trong cơ cấu giá trị hàng hóa phải bao gồm 3 bộ phận là c
1
+ v + m, chứ không thể loại c ra khỏi giá trị sản phẩm như A.Smith đã làm. Tuy
nhiên ông chưa phân tích được sự chuyển dịch c
1
vào sản phẩm mới diễn ra như
thế nào. Ông có ý định phân tích lao động giản đơn và lao động phức tạp, quy
lao động phức tạp thành lao động giản đơn và trung bình. Ông nói rằng, lao
động xã hội cần quyết định lượng giá trị hàng hóa, song lại cho rằng lao động xã
hội cần thiết do điều kiện sản xuất xấu nhất quyết định.
Đề cập vấn đề tiền tệ và giá cả, Ricacdo cho rằng giá trị của tiền là do giá
trị vật liệu làm ra tiền quyết định. Nó bằng số lượng hao phí để khai thác vàng,
bạc. Ông nêu lên khái niệm giá cả là biểu hiện bằng tiền của giá trị. Ông ủng hộ
quy luật lưu thông tiền tệ của W.Petty và A.Smith, song mặt khác ông đi theo

lập trường của thuyết “số lượng tiền tệ”. Theo thuyết này, giá trị của tiền phụ
thuộc vào số lượng của nó. Nếu số lượng tiền càng nhiều, thì giá trị của tiền tệ
càng ít và ngược lại, còn tiền tệ bản thân nó không có giá trị nội tại. Ricacdo viết
rằng, việc tăng giá cả lên có thể là một nhân tố điều tiết một lượng cung không
đủ so với một lượng cầu đang phát triển, điều tiết việc tiền tệ sụt giá, việc đánh
thuế vào những vật phẩm thiết yếu, ông đã cố gắng tìm hiểu sự vận động của giá
11
cả. Theo ông giá cả không phải do cung cầu quyết định, quyết định mức giá ở
trong tay những người sản xuất, cung cầu chỉ ảnh hưởng đến giá cả
Phương pháp nghiên cứu giá trị hàng hóa của ông mang tính siêu hình. Ông
coi giá trị là phạm trù vĩnh viễn. Đó là thuộc tính của mọi vật, ông không thấy
được mâu thuẫn giữa giá trị sử dụng và giá trị, do ông chưa thấy được tính 2 mặt
của lao động, ông còn chịu ảnh hưởng của tính khan hiếm quyết định giá trị, ông
chưa phân biệt được giá trị hàng hóa với giá cả sản xuất, mặc dù ông có nhìn
thấy xu hướng bình quân hóa tỷ suất lợi nhuận.
IV. NHỮNG LÝ LUẬN CỦA KINH TẾ CHÍNH TRỊ TƯ SẢN TẦM
THƯỜNG:
Vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản phát triển nhanh ở
các nước Anh, Pháp, Hoa Kỳ. Nhờ những tiến bộ của khoa học kỹ thuật làm cho
ngành công nghiệp phát triển mạnh. Cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1825 mở
đầu cho các cuộc khủng hoảng có chu kỳ. Phong trào đấu tranh của giai cấp
công nhân chuyển diễn ra mạnh mẽ. Mâu thuẫn giai cấp ngày càng gay gắt. Các
nước tư bản tự do cạnh tranh tìm kiếm thuộc địa và thị trường cũng mâu thuẫn
làm cho các vấn đề kinh tế - xã hội của chủ nghĩa tư bản ngày càng trở nên trầm
trọng. Những trào lưu tư tưởng tư tưởng triết học, kinh tế chính trị học cổ điển
xuất hiện với nhiều cách lý giải về nguyên nhân của hiện tượng trên và đề ra giải
pháp khắc phục tình trạng đó. Trong các trào lưu đó có tư tưởng của các nhà
kinh tế học tư sản cổ điển – C.Mác gọi là “sự tầm thường hóa kinh tế chính trị tư
sản cổ điển”.
Các nhà kinh tế theo trường phái này không phát triển quan điểm kinh tế

của trường phái tư sản cổ điển, đặc biệt là lý luận giá trị - lao động. Hơn thế nữa,
họ dần dần xa rời lý luận giá trị - lao động, phát triển mặt thứ hai trong thuyết
giá trị của các nhà cổ điển, như ủng hộ thuyết giá trị - các nhân tố sản xuất, ủng
hộ lý luận giá trị - ích lợi. Một số đại biểu trong thời kỳ này như: T.R.Malthus,
J.B.Say, N.W.Senior,
1. Thomas Robert Malthus
Thomas Robert Malthus (1766 - 1844) sinh ra trong một gia đình quý tộc
và làm nghề tu hành. Ông không nhất trí với lý luận giá trị lao động của A.Smith
12
hay D.Ricardo. Ông đề cập đến hai khía cạnh trong vấn đề giá trị đó là giải thích
giá trị trao đổi và cách đánh giá giá trị.
Theo ông nguyên tắc cung cầu xác định giá cả tự nhiên cũng như giá cả thị
trường. Ông xác định nhu cầu như là mong muốn kết hợp với khả năng để mua
và cũng như là lượng hàng hóa kinh doanh kết hợp với ý định bán chúng. Theo
Malthus quan hệ cung cầu quyết định giá trị thị trường của hàng hóa.
2. Lý luận của Jean Baptisste Say
Jean Baptisste Say (1766 - 1832) sinh ra trong một gia đình làm nghề dệt ở
Lyon. Điểm nổi bật trong phương pháp luận của ông là áp dụng phương pháp
chủ quan, tâm lý trong việc đánh giá các hiện tượng và quá trình kinh tế, phủ
nhận các quy luật kinh tế khách quan.
J. B.Say đã đem thuyết về “tính hữu dụng” thay cho học thuyết giá trị của
khoa kinh tế chính trị cổ điển, đối lập với lý luận giá trị của Ricacdo. Theo ông,
sản xuất tạo ra giá trị hữu dụng (giá trị sử dụng), còn tính hữu dụng lại truyền
giá trị cho các vật. Giá trị là thước đo tính hữu dụng. Như vậy, ông đã không
phân biệt được giá trị sử dụng và giá trị, coi giá trị sử dụng và giá trị là một, do
đó đã che đậy cái bản chất đặc thù xã hội của giá trị. Ông đưa ra kết luận các
nhân tố tạo ra giá trị không phải chỉ có lao động mà còn có cả công cụ và ruộng
đất.
Ông còn đưa ra định nghĩa thứ hai về giá trị là: giá trị của sự phục vụ có
tính chất sản xuất chẳng qua chỉ là giá trị của hàng hóa vốn là kết quả của những

sự phục vụ ấy.
Ông quan niệm giá trị chỉ được xác định trong trao đổi, thước đo dùng để
đo giá trị của đồ vật là số lượng các đồ vật mà những người khác đồng ý đưa ra
để đổi lấy đồ vật nói trên. Với quan điểm này ông cho rằng chính quan hệ cung
cầu quyết định giá trị
V. HỌC THUYẾT KINH TẾ TIỂU TƯ SẢN:
Cuối thế kỷ XVIII, cách mạng công nghiệp phát triển mạnh mẽ. Sản xuất
với máy móc và chế độ công xưởng thay thế cho nền sản xuất nhỏ của nông dân
và thợ thủ công.Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản đã bộc lộ những mâu thuẫn:
thất nghiệp, nghèo khổ, phân hóa giai cấp sâu sắc, tự phát vô chính phủ trong
13
sản xuất kinh doanh.Sự phản kháng về mặt tư tưởng của những người sản xuất
nhỏ, thợ thủ công làm xuất hiện một trào lưu tư tưởng kinh tế mới – Kinh tế học
tiểu tư sản. Học thuyết kinh tế Tiểu tư sản xuất hiện, các đại biểu của trường
phái này là Simonde de Sismondi, Pierr Joseph Proudon…
1. Những lý luận của Simonde de Sismondi
Sismondi (1773-1842) sinh ở Thuỵ sĩ, gần Giơnever, xuất thân từ một gia
đình quý tộc. Quá trình phát triển tư tưởng kinh tế của ông chia thành hai giai
đoạn. Trong giai đoạn đầu ông ủng hộ A.Smith. Giai đoạn sau, ông phê phán tư
bản chủ nghĩa và các quan điểm của phái
cổ điển.
Lý luận giá trị của A.Smith và D.Ricardo
được Sismondi thừa nhận và sử dụng. Ông
khẳng định một cách chắc chắn rằng lao
động là nguồn gốc duy nhất của của cải.
Ông cũng đi xa hơn trong việc xác định
lượng giá trị, vạch rõ mâu thuẫn giữa giá
trị và giá trị sử dụng, song ông không hiểu
được cơ sở của nó, giống như A.Smith,
ông nhận xét được sự chênh lệch của giá

cả với giá trị của hàng hóa song lại coi đó như một sự vi phạm quy luật giá trị
trong chủ nghĩa tư bản. Để khắc phục sự chênh lệch này, ông hy vọng một xã
hội dựa trên cơ sở chiếm hữu tư nhân nhỏ có thể phân bố hợp lý các tỷ lệ lao
động.
Về vấn đề tiền tệ ông đã nghiên cứu một cách cẩn thận và đưa ra một số
luận điểm khoa học. Ông coi tiền như một loại hàng hóa, nhưng là hàng hóa đặc
biệt có chức năng làm thước đo chung của giá trị. Ông thấy được sự khác nhau
giữa tiền giấy và tiền tín dụng. Song nói chung ông vẫn còn dừng lại trước bản
chất và nguồn gốc phát sinh của tiền.
2. Những lý luận của J.P.Proudhon
Proudhon (1809-1865) sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo ở Pháp.
Ông đặt ra những vấn đề kỳ lạ, độc đáo cho sự tranh luận, các quan điểm của
Simonde de Sismondi
mondi
14
J.P.Pruodhon được coi là có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc hình thsanhg.
Lý luận giá trị là phần quan trọng trong học thuyết kinh tế của ông.
Trong lý luận gía trị J.P.Proudhon có cố gắng
đặt vấn đề một cách biện chứng. Cụ thể ông
cảm nhận được và muốn vạch rõ mâu thuẫn
biện chứng giữa giá trị sử dụng và giá trị trao
đổi.
Về hình thức, ông có đặt vấn đề một cách
biện chứng hứa hẹn bóc trần mâu thuẫn giữa
giá trị và giá trị sử dụng của hàng hoá. Nhưng
ông đã giải thích không đúng mâu thuẫn đó.
Ông coi giá trị sử dụng là hiện thân của sự dồi
dào, còn giá trị trao đổi là hiện thân của sự khan hiếm, thành thử giá trị sử dụng
và giá trị biểu hiện hai khuynh hướng đối lập: dồi dào và khan hiếm.
Theo ông, trao đổi trên thị trường người ta có sự lựa chọn, đặc biệt về sản

phẩm. Một loại hàng hoá nào đó đi vào lĩnh vực tiêu dùng, đã qua thị trường,
được thị trường thử thách, và xã hội thừa nhận – trở thành giá trị, là giá trị cấu
thành. Ngược lại, những hàng hoá bị đẩy ra, không được thị trường và xã hội
chấp nhận, ông cho rằng, cần phải cấu thành hay xác lập trước giá trị, làm thế
nào cho hàng hoá chắc chắn được thực hiện, đi vào lĩnh vực tiêu dùng. Ông lấy
dẫn chứng: vàng và bạc là những hàng hoá đắt tiền, mà giá trị được xác lập.
Như vậy, về thực chất ông muốn xoá bỏ những mâu thuẫn của nền kinh tế
tư bản chủ nghĩa. Quan điểm của ông thể hiện rõ những sai lầm về mặt phương
pháp luận: bảo vệ sản xuất hàng hoá, xoá bỏ mâu thuẫn giữa giá trị sử dụng và
giá trị. Về cơ bản ông muốn kết hợp quan điểm trao đổi với quan điểm giá trị –
lao động, để từ đó coi cả lao động và trao đổi đều là nguồn gốc của giá trị.
VI. LÝ LUẬN GIÁ TRỊ TRONG HỌC THUYẾT KINH TẾ MÁC -
LÊNIN:
Đến những năm 40 thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản đã giành được địa vị
thống trị. Sự ra đời của chủ nghĩa tư bản đã làm thay đổi căn bản cơ cấu giai cấp
xã hội. Trong xã hội tư bản, có hai giai cấp cơ bản là giai cấp tư sản giữ địa vị
J.P.Proudhon
15
thống trị và giai cấp vô sản bị thống trị đã làm tăng những mâu thuẫn vốn có của
nó. Phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại chế độ áp bức bóc lột tư
bản chủ nghĩa càng lên cao; đi từ tự phát đến tự giác, từ đấu tranh kinh tế đến
đấu tranh chính trị. Từ đó, đòi hỏi
phải có lý luận cách mạng làm vũ
khí tư tưởng cho giai cấp vô sản.
Chủ nghĩa Mác ra đời. C. Mác
(1818-1883) và Ăngghen (1820-
1895) là những người sáng lập ra
chủ nghĩa Mác.
Chủ nghĩa Mác phát sinh ra là
sự tiếp tục trực tiếp của triết học cổ điển Đức, kinh tế chính trị Cổ điển Anh và

CNXH không tưởng Pháp. Lênin coi đó là 3 nguồn gốc lý luận của chủ nghĩa
Mác.
C.Mác khẳng định mình là người đầu tiên phát hiện ra tính chất hai mặt của
lao động sản xuất hàng hóa, đó là lao động cụ thể và lao động trừu tượng. Lao
động cụ thể là lao động có ích dưới một hình thức cụ thể, có đối tượng lao động,
mục đích, phương pháp lao động, kết quả sản xuất riêng. Chính cái riêng đó
phân biệt được các loại lao động cụ thể khác nhau. Mỗi lao động cụ thể tạo ra 1
giá trị sử dụng nhất định. Lao động cụ thể tồn tại vĩnh viễn cùng với sản xuất và
tái sản xuất xã hội, không phụ thuộc vào bất cứ hình thái kinh tế xã hội nào. Còn
lao động trừu tượng là lao động của người sản xuất hàng hoá đã gạt bỏ hình thức
biểu hiện cụ thể của nó để quy về một cái chung đồng nhất. Đó là sự tiêu phí sức
lao động, tiêu hao sức bắp thịt, thần kinh của con người. Lao động trừu tượng
tạo ra giá trị hàng hoá. Chỉ có lao động sản xuất hàng hoá mới có tính chất là lao
động trừu tượng.
Tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá vừa là lao động cụ thể,
vừa là lao động trừu tượng có liên hệ với tính chất tư nhân và tính chất xã hội
của lao động sản xuất hàng hoá. Sự phân công lao động xã hội tạo ra sự phụ
thuộc lẫn nhau giữa những người sản xuất hàng hoá thông qua trao đổi. Việc
16
trao đổi hàng hoá không thể căn cứ vào lao động cụ thể mà phải quy về lao động
chung nhất, lao động trừu tượng.
Theo Mác, đây là điểm xuất phát mà khoa kinh tế chính trị xoay quanh,
nghĩa là phát hiện này đã đem lại cuộc cách mạng trong kinh tế chính trị. Bởi lẽ
phát hiện này đã đem đến cơ sở khoa học cho lý luận giá trị nói riêng và toàn bộ
học thuyết kinh tế của Mác nói chung.
Theo Mác, hàng hoá có hai thuộc tính: giá trị và giá trị sử dụng; ông đã
tiến xa hơn lý luận của các nhà tư sản cổ điển là phân biệt một cách rõ ràng hai
thuộc tính này; đó là giá trị sử dụng là công dụng của vật phẩm có thể thoả mãn
nhu cầu nào đó của con người; còn giá trị là lao động xã hội thể hiện và vật hoá
trong hàng hoá. Giá trị và giá trị sử dụng là hai thuộc tính cùng tồn tại và thống

nhất với nhau ở một hàng hoá. Quá trình thực hiện giá trị và quá trình thực hiện
giá trị sử dụng là hai quá trình khác nhau về thời gian và không gian. Trước khi
thực hiện giá trị sử dụng của hàng hoá, phải thực hiện giá trị của nó; nếu không
thực hiện được giá trị thì sẽ không thực hiện được giá trị sử dụng.
Nhờ phát hiện này, Mác đã khắc phục được những hạn chế của các nhà
kinh tế học tư sản về hàng hóa và giá trị, từ đó bổ sung và phát triển xây dựng lý
luận giá trị thành một lý luận thực sự khoa học.
Lần đầu tiên, giá trị được xem xét như là quan hệ sản xuất xã hội của những
người sản xuất hàng hoá, còn hàng hoá là nhân tố tế bào của xã hội tư sản. Giá
trị hàng hoá là lao động của người sản xuất hàng hoá kết tinh trong hàng hoá.
Giá trị là phạm trù lịch sử - có sản xuất hàng hoá thì mới có giá trị hàng hoá. Giá
trị trao đổi chỉ là hình thức biểu hiện của giá trị; giá trị là nội dung, là cơ sở của
giá trị trao đổi. Chất của giá trị là lao động trừu tượng của người sản xuất hàng
hoá kết tinh trong hàng hoá. Về lượng giá trị là do số lượng lao động tiêu hao để
sản xuất ra hàng hóa quyết định, nhưng không phải là lượng lao động cá biệt, mà
là lượng lao động xã hội trung bình hay thời gian lao động xã hội cần thiết.
Trong đó, thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian cần thiết để sản xuất ra
một hàng hoá trong điều kiện bình thường của xã hội, tức là với trình độ kỹ
thuật trung bình, trình độ khéo léo trung bình và cường độ trung bình so với
hoàn cảnh xã hội nhất định
17
Tiếp đó Mác còn xác định các hình thái của giá trị, đó là hình thái giản đơn,
hình thái mở rộng, hình thái chung và hình thái tiền. Hình thái giản đơn là hình
thái phôi thai của giá trị, nó xuất hiện trong giai đoạn đầu của trao đổi hàng hoá,
trao đổi mang tính chất hiện vật ngẫu nhiên, người ta trao đổi trực tiếp vật này
lấy vật khác. Hình thái giá trị đầy đủ hay mở rộng: Khi lực lượng sản xuất phát
triển hơn, sau phân công lao động xã hội lần thứ nhất, chăn nuôi tách khỏi trồng
trọt, trao đổi trở nên thường xuyên hơn, một hàng hoá có thể đổi lấy nhiều hàng
hoá khác. Tương ứng với giai đoạn này là hình thái đầy đủ hay mở rộng. Hình
thái giá trị chung: Với sự phát triển cao hơn của lực lượng sản xuất và phân

công lao động xã hội, hàng hoá được đưa ra trao đổi thường xuyên hơn. Nhu cầu
trao đổi do đó trở nên phức tạp hơn, người có vải muốn đổi thóc, nhưng người
có thóc lại không cần vải mà lại cần thứ khác. Vì thế, việc trao đổi trực tiếp
không còn thích hợp và gây trở ngại cho trao đổi. Trong tình hình đó, người ta
phải đi vòng, mang hàng hoá của mình đổi lấy thứ hàng hoá mà nó được nhiều
người ưa chuộng, rồi đem đổi lấy thứ hàng hoá mà mình cần. Khi vật trung gian
trong trao đổi được cố định lại ở thứ hàng hoá được nhiều người ưa chuộng , thì
hình thái chung xuất hiện. Các địa phương khác nhau thì hàng hoá dùng làm vật
ngang giá chung cũng khác nhau. Hình thái tiền tệ: tiền tệ là một hàng hoá đặc
biệt được tách ra từ trong thế giới hàng hoá làm vật ngang giá chung thống nhất;
nó thể hiện lao động xã hội và biểu hiện quan hệ giữa những người sản xuất
hàng hoá.
Mác chỉ ra ảnh hưởng khác nhau tới lượng giá trị hàng hoá của lao động
giản đơn và lao động phức tạp: “Lao động phức tạp chỉ là lao động giản đơn
được nâng lên luỹ thừa, hay nói cho đúng hơn, là lao động giản đơn được nhân
lên, thành thử một lượng lao động phức tạp nhỏ hơn thì tương đương với 1
lượng lao động giản đơn lớn hơn”. Vì vậy, khi trao đổi người ta lấy lao động
giản đơn làm đơn vị tính toán và quy tất cả những lao động phức tạp thành lao
động giản đơn.
Mác là người đầu tiên vạch rõ nguồn gốc, bản chất của tiền; theo Mác, sự
xuất hiện của tiền là do quá trình phát triển lâu dài của sản xuất và trao đổi hàng
hóa , chứ không phải do dấu hiệu ước định hay do bản chất của vàng làm nó trở
thành tiền tệ. Đồng thời Mác còn vạch ra năm chức năng của tiền, đó là: chức
18
năng thước đo giá trị; chức năng phương tiện lưu thông; chức năng phương tiện
cất trữ, chức năng phương tiện thanh toán và chức năng tiền tệ thế giới.
Lý luận về giá cả hàng hoá, ông cho rằng giá cả thị trường lên xuống xoay
quanh giá trị hàng hoá và trở thành cơ chế tác động của quy luật giá trị. Cơ chế
này phát sinh tác dụng trên thị trường thông qua cạnh tranh, cung – cầu, sức mua
của đồng tiền.

Cuối cùng Mác rút ra quy luật giá trị, coi đây là quy luật cơ bản của nền sản
xuất hàng hóa
Trên cơ sở lý luận giá trị lao động và với việc phát hiện ra tính chất hai mặt
của lao động sản xuất hàng hóa, tìm ra phạm trù tư bản bất biến, tư bản khả biến,
đặc biệt phát hiện ra lý luận hàng hóa sức lao động, Mác đã khám phá ra lý luận
giá trị thặng dư. Với phát minh này, Mác đã vạch rõ thực chất của giá trị thặng
dư là lao động không công của công nhân bị nhà tư bản chiếm không, nó biểu
hiện quan hệ bóc lột của giai cấp tư sản cới giai cấp vô sản.
Mác đã thực hiện một cuộc cách mạng trong lịch sử học thuyết kinh tế, ông
đã xây dựng học thuyết giá trị - lao động một cách hệ thống và hoàn chỉnh.
Đồng thời dựa vào phát hiện này, ông đã trình bày một cách khoa học hệ thống
các phạm trù kinh tế chính trị mà trước đó, chưa ai có thể làm được. Và cũng
nhờ đó đã giải thích được hiện tượng phức tạp diễn ra trong thực tế, như sự vận
động trái ngược: khối lượng của cải vật chất ngày càng tăng lên, đi liền với khối
lượng giá trị của nó giảm xuống hay không thay đổi.
VII. Ý NGHĨA CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU LÝ LUẬN GIÁ TRỊ
Giá trị là quy luật căn bản của sản xuất và trao đổi hàng hoá. ở đâu có sản
xuất và trao đổi hàng hoá thì ở đó có sự tồn tại và phát huy tác dụng của giá trị.
Qua việc nghiên cứu lý luận giá trị trong các học thuyết kinh tế qua các giai
đoạn khác nhau, giúp chúng ta thấy được vai trò quan trọng của quy luật giá trị
trong nền kinh tế thị trường đó là:
Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá
Trong quá trình sản xuất hàng hoá: Điều tiết sản xuất tức là điều hoà, phân
bổ các yếu tố sản xuất giữa các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế. Tác dụng
này của giá trị thông qua sự biến động của giá cả hàng hoá trên thị trường dưới
19
tác động của quy luật cung cầu. Nếu ở ngành nào đó khi cung nhỏ hơn cầu, giá
cả hàng hoá sẽ lên cao hơn giá trị, hàng hoá bán chạy, lãi cao, thì người sản xuất
sẽ đổ xô vào ngành ấy. Do đó, tư liệu sản xuất và sức lao động được chuyển
dịch vào ngành ấy tăng lên và ngược lại. Tình hình ấy buộc người sản xuất phải

thu hẹp quy mô sản xuất lại hoặc chuyển sang đầu tư vào ngành có giá cả hàng
hoá cao.
Trong quá trình lưu thông hàng hoá: Điều tiết lưu thông của giá trị cũng
thông qua giá cả trên thị trường. Sự biến động của giá cả thị trường cũng do tác
dụng thu hút luồng hàng từ nơi giá cả thấp đến nơi giá cả cao, do đó làm cho lưu
thông hàng hoá thông suốt.
Kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, tăng năng suất lao động,
lực lượng sản xuất xã hội phát triển nhanh
Người sản xuất phải hạ thấp chi phí cá biệt: Do điều kiện sản xuất khác
nhau nên hao phí lao động cá biệt khác nhau, người sản xuất nào có hao phí lao
động cá biệt nhỏ hơn hao phí lao động xã hội của hàng hoá ở thế có lợi, sẽ thu
được lãi cao và ngược lại. Để giành lợi thế trong cạnh tranh và tránh nguy cơ vỡ
nợ, phá sản, họ phải hạ thấp hao phí lao động cá biệt của mình, sao cho bằng hao
phí lao động xã hội cần thiết.
Thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển: để có lợi thế họ phải tìm cách cải
tiến kỹ thuật, cải tiến tổ chức quản lý, thực hiện tiết kiệm chặt chẽ, tăng năng
suất lao động. Sự cạnh tranh quyết liệt càng thúc đẩy quá trình này diễn ra mạnh
mẽ hơn, mang tính xã hội, kết quả là lực lượng sản xuất xã hội được thúc đẩy
phát triển mạnh mẽ.
Thực hiện sự lựa chọn tự nhiên và phân hoá người sản xuất hàng hoá
thành kẻ giàu người nghèo
Thực hiện sự lựa chọn tự nhiên: quá trình cạnh tranh theo đuổi giá trị tất
yếu dẫn đến kết qủa là: những người có điều kiện sản xuất thuận lợi, có trình độ,
kiến thức cao, trang bị kỹ thuật tốt nên có hao phí lao động cá biệt thấp hơn hao
phí lao động xã hội cần thiết, nhờ đó giàu lên nhanh chóng. Họ mua sắm thêm tư
liệu sản xuất, mở rộng kinh doanh. Ngược lại những người không có điều kiện
20
thuận lợi làm ăm thua kém, hoặc gặp rủi ro trong kinh doanh nên bị thua lỗ dẫn
tới phá sản trở thành nghèo khó.
Phân hoá xã hội thành kẻ giàu người nghèo: xã hội bị phân hoá thành kẻ

giàu người nghèo; thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung sản xuất, do đó tạo điều
kiện ra đời của sản xuất lớn có xã hội cao, đồng thời chọn lọc được những người
sản xuất kinh doanh giỏi, hình thành đội ngũ cán bộ quản lý có trình độ, lao
động lành nghề đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước.
Tổ chức xã hội: giá trị đóng vai trò quan trọng trong việc làm phong phú
thêm nội dung kinh tế của các mối quan hệ kinh tế giữa xã hội với các tập thể
lao động (các đơn vị kinh doanh), giữa các tập thể lao động với nhau cũng như
giữa các tập thể với từng người lao động. Giá trị tạo cho chủ nghĩa xã hội các
công cụ kinh tế quan trọng để thực hiện, củng cố và phát triển sự xã hội hoá sản
xuất trên thực tế, tạo cơ sở cho người tham gia sản xuất hoạt động theo phương
án thống nhất, đảm bảo các lợi ích của xã hội, tập thể và người lao động.
Kích thích xã hội: Giá trị phục vụ quá trình phân phối, nhằm tính đến hiệu
quả kinh tế. Ở đây, việc phân phối bao gồm sự phân chia các nguồn lực cho các
đơn vị sản xuất kinh doanh, các sản phẩm tiêu dùng và sự trả lương cho lao
động. Giá trị kích thích sự phát triển của các hoạt động sản xuất kinh doanh và
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Bảo đảm xã hội: việc tuân thủ các yêu cầu của giá trị sẽ định hướng nền
kinh tế của chủ nghĩa xã hội hướng vào hiệu quả kinh tế, đảm bảo sự phát triển
lực lượng sản xuất và tạo điều kiện khai thác các nguồn lực để đẩy mạnh tăng
trưởng kinh tế. Mặt khác, việc trao đổi ngang giá theo yêu cầu của giá trị đã tạo
ra điều kiện cần thiết bảo đảm cho xí nghiệp làm ăn tốt, chống lại việc phân phối
vô căn cứ đối với các nguồn vốn sản xuất kinh doanh. Đây chính là đóng góp
của giá trị trong việc đảm bảo xã hội ổn định và phát triển.
Nền kinh tế của nước ta hiện nay là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần,
vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, định hướng xã hội
chủ nghĩa. Nền kinh tế vận động theo những quy luật vốn có của kinh tế thị
trường như quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh và đặc biệt là giá trị. Sự tác
động của các quy luật đó hình thành cơ chế tự điều tiết của nền kinh tế. Các
21
doanh nghiệp, các hộ gia đình tự quyết định hành vi của mình để trả lời thoả

đáng ba câu hỏi: sản xuất cái gì, sản xuất cho ai và sản xuất như thế nào. Trên
thị trường hàng hoá và dịch vụ, giá cả điều tiết cung cầu.
Trong những năm qua, nhờ sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước. Nhà nước Việt
Nam quản lý nền kinh tế thị trường trước hết đã dựa trên những yêu cầu khách
quan của các quy luật kinh tế thị trường mà trong đó có giá trị. Nhà nước thiết
lập khuôn khổ pháp luật và Đảng đề ra những nghị quyết nhằm tạo điều kiện cần
thiết để vận dụng giá trị. Những quy định đó chi phối hoạt động của các doanh
nghiệp, điều chỉnh hành vi kinh tế của họ. Nhà nước định hướng cho sự phát
triển kinh tế và thực hiện điều tiết các hoạt động kinh tế nhằm đảm bảo cho giá
trị được phát huy tác dụng để ổn định nền kinh tế. Nhà nước xây dựng các chiến
lược và quy hoạch phát triển, trực tiếp đầu tư vào một số lĩnh vực để dẫn dắt nền
kinh tế - xã hội đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế. Nhà nước đảm bảo cho nền
kinh tế hoạt động có hiệu quả theo giá trị - kích thích hoạt động của chủ thể
kinh tế và tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động tự do của họ. Do đó làm cho
nền kinh tế phát triển năng động, có hiệu quả. Nhờ đó, nền kinh tế nước ta đã có
những thành tựu đáng kể:
Tạo sự thích ứng tự phát giữa khối lượng và cơ cấu của sản xuất (tổng
cung) với khối lượng và cơ cấu nhu cầu của xã hội (tổng cầu). Nhờ đó ta có thể
thoả mãn tốt nhu cầu tiêu dùng cá nhân về hàng ngàn, hàng vạn sản phẩm khác
nhau. Nhiệm vụ này nếu để Nhà nước làm sẽ phải thực hiện một số công việc
lớn, có khi không thực hiện được và đòi hỏi chi phí cao trong quá trình ra các
quyết định.
Kích thích đổi mới kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất. Sức ép của cạnh tranh
buộc những người sản xuất phải giảm chi phí sản xuất cá biệt đến mức tối thiểu
bằng cách áp dụng phương pháp sản xuất tốt nhất như không ngừng đổi mới kỹ
thuật và công nghệ sản xuất, đổi mới sản xuất, đổi mới tổ chức sản xuất và quản
lý kinh doanh, nân cao hiệu quả.
Thực hiện phân phối nguồn lực một cách tối ưu. Trong nền kinh tế thị
trường với sự hoạt động mạnh mẽ của giá trị, việc lưu động, di chuyển phân
phối các yếu tố sản xuất, vốn đều tuân theo nguyên tắc của thị trường; chúng sẽ

22
chuyển đến nơi được sử dụng với hiệu quả cao nhất, do đó các nguồn lực kinh tế
được phân bố một cách tối ưu.
Tạo sự mềm dẻo và linh hoạt và có khả năng thích nghi cao hơn nữa trước
những điều kiện kinh tế biến đổi, làm thích ứng kịp thời giữa sản xuất xã hội với
nhu cầu xã hội.
Nền kinh tế tăng trưởng liên tục, trong giai đoạn 1986 - 2004, nhiều năm
đạt tố độ cao: Từ thập kỷ 90 nền kinh tế tăng trưởng với tốc độ 9,5%, hoàn
thành vượt mức kế hoạch 5 năm (1991- 1995). Sản xuất đã đáp ứng được tiêu
dùng và dành một phần cho tích luỹ (1991: 10%, 1995: 20%, 2000: 27% GDP).
Nông nghiệp đạt sản lượng tăng từ 21,5 triệu tấn (1990) lên 36 triệu tấn (2002),
bình quân mỗi năm tăng 1,4 triệu tấn. Công nghiệp : tăng trưởng liên tục với hai
con số, đạt 13,7% (1991-1995), tăng 13,2 % (1996-2000). Bình quân đầu người
nhiều sản phẩm công nghiệp tăng lên. Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước
(GDP) năm 2006 đạt 8,23%, năm 2007 đạt 8,46%, năm 2008 đạt 6,31%, năm
2009 đạt 5,32% và năm 2010 ước tính đạt 6,78%. Bình quân thời kỳ 2006 -
2010, tăng trưởng kinh tế đạt 7,01%/năm, nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng
3,34%/năm; công nghiệp và xây dựng tăng 7,94%/năm; dịch vụ tăng
7,73%/năm; trong đó bình quân giai đoạn 2006 - 2007 đạt 8,34%; bình quân giai
đoạn 2008 - 2010 đạt 6,14%;, xây dựng mới và nâng cấp hệ thống giao thông
vận tải và bưu điện. Hoạt động thương mại và dịch vụ có nhiều chuyển biến
mạnh mẽ.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu nói trên, trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam còn có một số mặt hạn chế, hệ thống
thị trường chưa đồng bộ; môi trường kinh tế (gồm cả vĩ mô và vi mô) chưa được
hoàn thiện và chưa thực sự hiệu quả, năng lực quản lý nhà nước và cơ chế chính
sách chưa theo kịp thực tiễn; nguồn nhân lực chưa đáp ứng được với kinh tế thị
trường trong bối cảnh hội nhập.
Giao thông vận tải kém phát triển nên chưa lôi cuốn được tất cả các vùng
trong nước vào một mạng lưới lưu thông hàng hoá thống nhất. Thị trường hàng

hoá - dịch vụ đã hình thành nhưng còn hạn hẹp và còn nhiều hiện tượng tiêu
cực (hàng giả, hàng nhập lậu, hàng nhái nhãn hiệu) vẫn làm rối loạn thị trường.
23
Thị trường hàng hoá sức lao động mới manh nha, một số trung tâm giới thiệu
việc làm và xuất khẩu lao động mới xuất hiện nhưng đã nảy sinh hiện tượng
khủng hoảng. Nét nổi bật của thị trường này là sức cung về lao động lành nghề
nhỏ hơn cầu rất nhiều, trong khi đó cung về sức lao động giản đơn lại vượt quá
cầu, nhiều người có sức lao động không tìm được việc làm. Thị trường tiền tệ,
thị trường vốn đã có nhiều tiến bộ nhưng vẫn còn nhiều trắc trở.
Sự cạnh tranh không hoàn hảo, do sự vận dụng giá trị còn chưa được hiệu
quả nên vẫn xuất hiện độc quyền.
Hiệu quả kinh tế xã hội không được đảm bảo do mục đích của các chủ thể
kinh tế là lợi nhuận tối đa; họ lạm dụng tài nguyên và gây ô nhiễm môi trường
sống.
Phân phối thu nhập không công bằng, dưới tác dụng của giá trị sẽ có sự
phân chia kẻ giàu người nghèo nhưng do sự vận dụng còn bị hạn chế nên không
đem lại được sự công bằng cho mọi người dân bằng các chính sách trợ giúp xã
hội.
Không thể tránh khỏi khủng hoảng kinh tế chu kỳ và thất nghiệp, tỷ lệ thất
nghiệp và lạm phát ở nước ta còn tương đối cao (năm 2011 lạm phát lên đến
18,12%; năm 2012 lạm phát 6,81%).
Trình độ phát triển của nền kinh tế thị trường ở nước ta thấp; kết cấu hạ
tầng cơ sở vật chất kỹ thuật kém. Nước ta còn nghèo nhưng chưa thực hiện tốt
cần kiệm trong sản xuất, tiết kiệm trong tiêu dùng, tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế
và đầu tư cho phát triển còn thấp
Do đó, trong thời gian tới, cần có những giải pháp cơ bản nhằm vận dụng
tốt hơn lý luận giá trị để phát triển kinh tế ở nước ta như:
Nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ, đẩy mạnh cơ chế quản lý, phát triển
kinh tế thị trường: Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, ứng dụng nhanh
tiến bộ khoa học – công nghệ. Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại.

Giữ vững ổn định chính trị, hoàn thiện hệ thống luật pháp. Tổ chức giáo dục và
đào tạo, nâng cao trình độ lý luận và thực tiễn, xoá bỏ tư duy cổ hủ, xem thường
việc vận dụng giá trị. Tích cực học hỏi tiếp thu kinh nghiệm của thế giới, đẩy
24
mạnh hoạt động thực tiễn, đánh giá đúng hiệu quả thực tiễn của lý luận để bổ
sung hoàn thiện và phát triển lý luận.
Tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả khu vực doanh
nghiệp nhà nước: Có chính sách khuyến khích, tạo điều kiện đột phá, nâng cao
sức cạnh tranh của doanh nghiệp, tiếp thu công nghệ hiện đại, công nghệ nguồn,
đào tạo và nâng cao năng lực của giám đốc doanh nghiệp và tay nghề của công
nhân. Khuyến khích mọi thành phần kinh tế khác đầu tư và các hoạt động công
ích và dịch vụ công, tham gia nhiều hơn trong đầu tư phát triển hạ tầng kinh tế –
xã hội và các lĩnh vực văn hoá, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, y
tế , thể dục thể thao…. Tạo chuyển biến cơ bản trong thu hút vốn đầu tư trực
tiếp của nước ngoài, hướng mạnh hơn vào những ngành, lĩnh vực quan trọng
của nền kinh tế, đặc biệt là các lĩnh vực công nghệ cao, công nghệ nguồn. Thực
hiện nghiêm ngặt quy chế đầu tư và xây dựng, đặc biệt là quy chế đấu thầu, quy
chế giám sát đầu tư. Chấm dứt tình trạng đơn vị thi công và tổ chức giám sát thi
công đều thuộc một cơ quan quản lý.
Tiếp tục chủ động hội nhập, thực hiện có hiệu quả các cam kết và lộ trình
hội nhập kinh tế quốc tế: Triển khai khẩn trương và đồng bộ việc chuẩn bị đầy
đủ điều kiện để giành thế chủ động trong hội nhập , nhất là: sửa đổi và xây dựng
mới các văn bản pháp luật phù hợp với yêu cầu hội nhập; tăng nhanh năng lực
cạnh tranh của quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm Việt Nam. Kiên quyết khắc
phục mọi biểu hiện của lợi ích cục bộ làm kìm hãm tiến trình hội nhập.
Đổi mới cơ bản công tác xây dựng chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế
- xã hội và điều chỉnh mạnh cơ cấu kinh tế: Nâng cao chất lượng quy hoạch;
sớm ban hành nghị định về công tác quy hoạch, khắc phục tình trạng thiếu thống
nhất giữa quy hoạch chung của cả nước, quy hoạch vùng và quy hoạch của tỉnh,
quy hoạch ngành và quy hoạch vùng. Quy định rõ trách nhiệm thực hiện quy

hoạch và kiểm tra, giám sát việc thực hiện quy hoạch; rà soát, bổ sung, điều
chỉnh các quy hoạch và triển khai lập các quy hoạch mới theo yêu cầu điều
chỉnh quy hoạch tổng thể phát triển của đất nước.

×