Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

TIỂU LUẬN bài học về GIỮ VỮNG, TĂNG CƯỜNG sự LÃNH đạo của ĐẢNG từ sự sụp đổ CHỦ NGHĨA xã hội ở LIÊN xô, ĐÔNG âu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168.34 KB, 20 trang )

BÀI HỌC VỀ GIỮ VỮNG, TĂNG CƯỜNG SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG;
XÂY DỰNG ĐẢNG VỮNG MẠNH VỀ CHÍNH TRỊ, TƯ TƯỞNG VÀ TỔ
CHỨC RÚT RA TỪ SỰ SỤP ĐỔ CỦA LIÊN XÔ VÀ ĐÔNG ÂU ĐỐI VỚI
CÁCH MẠNG VIỆT NAM

Thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười Nga năm 1917
mở ra một thời đại mới. Thời đại quá độ từ chủ nghĩa Tư bản lên chủ nghĩa xã
hội trên phạm vi toàn thế giới. Thời đại đấu tranh cho hoà bình, độc lập dân
tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa
tháng Mười Nga năm 1917 không chỉ có ý nghĩa đặc biệt với phong trào cách
mạng và quần chúng nhân dân Nga mà còn có ý nghĩa to lớn với phong trào
cộng sản và công nhân quốc tế; không chỉ có ý nghĩa quan trọng lúc bấy giờ
mà cho đến ngày nay ý nghĩa của nó vẫn giữ nguyên giá trị. Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã khẳng định: “ Giống như mặt trời chói lọi, cách mạng tháng Mười
chiếu sáng khắp năm châu, thức tỉnh hàng triệu người bị áp bức bóc lột trên
trái đất, trong lịch sử loài người chưa từng có cuộc cách mạng nào có ý
nghĩa to lớn và sâu xa như thế”1
Thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười Nga đã biến chủ
nghĩa xã hội khoa học thành hiện thực sinh động trong đời sống xã hội loài
người. Qua 70 năm tồn tại của chủ nghĩa xã hội hiện thực, tuy mới trong giai
đoạn đầu của quá trình phát triển, nhưng những thành tựu mà nó mang lại
không thể nào phủ nhận được; cả về chính trị, kinh tế, xã hội, quân sự và khoa
học kỹ thuật. Từ một nước kinh tế kém phát triển, sau một thời gian ngắn
Liên Xô đã trở thành một cường quốc kinh tế, quân sự; đủ tiềm lực đánh bại
chủ nghĩa phát xít, cứu loài người thoát khỏi thảm hoạ nô dịch, tạo điều kiện
cho sự ra đời của hàng loạt nước xã hội chủ nghĩa. Hệ thống xã hội chủ nghĩa
được hình thành làm thay đổi cục diện thế giới, là cán cân quan trọng và là
lực lượng chủ yếu đấu tranh chống chủ nghĩa Đế quốc. Chủ nghĩa xã hội hiện
1

Hå ChÝ Minh toµn tËp, tËp 2, Nxb CTQG, sù thËt, H1980, Tr 461




thực là chỗ dựa quan trọng cho phong trào cộng sản và công nhân quốc tế,
đồng thời cổ vũ mạnh mẽ cho cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân
ở các nước tư bản chủ nghĩa hướng tới mục tiêu chủ nghĩa xã hội. Tồn tại của
hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa là thành trì vững chắc cho hoà bình thế
giới, đặc biệt với tiềm lực về quân sự buộc các nước đế quốc phải chấp nhận
cùng tồn tại hoà bình, cùng tồn tại phát triển với chủ nghĩa xã hội.
Thắng lợi của cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 trước hết phản
ánh sự vận động phát triển của xã hội loài người theo đúng quy luật khách
quan của nó; là kết quả của quá trình vận động và phát triển của phong trào
cộng sản và công nhân quốc tế; nó còn là kết quả tất yếu của việc giải quyết
những mâu thuẫn cơ bản đã chín muồi của chủ nghĩa Tư bản, đó là mâu thuẫn
giữa chủ nghĩa Đế quốc với chủ nghĩa Đế quốc, giữa Đế quốc và thuộc địa,
giữa giai cấp tư sản và giai cấp công nhân, nhân dân lao động. Đó cũng còn là
sự phản ánh xu thế mới của thời đại, sự cần thiết tất yếu phải xoá bỏ chế độ xã
hội cũ, xây dựng chế độ xã hội mới.
Có được thành tựu đó phải kể đến vai trò tích cực của Đảng cộng sản
trong việc nhận thức và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào thực tiễn
nước Nga; đó là việc xây dựng nhà nước kiểu mới của giai cấp công nhân,
nhà nước do nhân dân lao động làm chủ khác hẳn về chất so với các chế độ xã
hội trước đó, chế độ xã hội mới đã huy động được sức mạnh của quần chúng
được giác ngộ vào trong quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới;
đồng thời là sự kết hợp chặt chẽ chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa
quốc tế của giai cấp công nhân trong cuộc đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân
tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Bên cạnh những thành tựu trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội
mà Liên xô nói riêng và các nước xã hội chủ nghĩa nói chung đã đạt được,
Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa cũng đã vi phạm những sai lầm nghiêm



trọng, đẩy chủ nghĩa xã hội lâm vào khủng hoảng sâu sắc toàn diện. Sự khủng
hoảng đó đã dẫn đến sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các
nước Đông Âu; khủng hoảng đó không phải là bản chất của chủ nghĩa xã hội,
mà là khủng hoảng của một mô hình cụ thể của chủ nghĩa xã hội- Một mô
hình hàm chứa trong nó những biểu hiện chủ quan, duy ý chí,nóng vội không
tôn trọng những quy luật khách quan…Nguyên nhân của sự khủng hoảng dẫn
đến sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu có nhiều, có
cả nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan trong đó nguyên nhân
chủ quan là cơ bản- “vấn đề tự thân của đảng cầm quyền ”. Bởi vì các nước
xã hội chủ nghĩa là do các Đảng cộng sản lãnh đạo, Đảng là trung tâm lãnh
đạo nhà nước và xã hội. Đảng mà có vấn đề giống như bộ não có vấn đề, đó là
vấn đề có tính sống còn. Cần xem xét tình hình Đảng cầm quyền lúc bấy giờ.
Thứ nhất, tư tưởng của đội ngũ cán bộ đảng viên trong Đảng rất hỗn
loạn. Điều đó do nhiều nguyên nhân gây nên.
Một là, Đảng không coi trọng việc vận dụng chủ nghĩa Mác- Lênin vào
điều kiện thực tế nước mình ,nhận thức và vận dụng giáo điều chủ nghĩa Mác
- Lênin. Về quan điểm lý luận có lúc rơi vào chủ nghĩa duy tâm, chủ quan duy ý
chí, công thức hóa con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Coi nhẹ công tác tổng kết
kinh nghiệm thực tiễn, phát triển lý luận. Xử lý các mối quan hệ giữa các thành
tố trong hệ thống chính trị chưa đúng đắn, Đảng lãnh đạo nhưng lại bao biện làm
thay, “Đảng trị”;quan chức nhà nước thì quan liêu tham nhũng, quốc hội và các


tổ chức chính tri - xã hội trở thành những cơ quan “ăn theo nói leo”. Quyền làm
chủ của nhân dân lao động bị vi phạm. Công tác tổ chức cán bộ, việc đào tạo,sử
dụng tuỳ tiện, giáo dục, bồi dưỡng cán bộ lúc tả khuynh lúc hữu khuynh.
Về đường lối chính trị, xét lại chủ nghĩa Mác - Lênin, xa rời những vấn
đề có tính nguyên tắc Mácxít trong xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Trong xây
dựng Đảng, thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, dân chủ cực đoan

vô chính phủ, vô nguyên tắc, bôi nhọ lịch sử, phi chính trị hoá quân đội, từ bỏ
đấu tranh giai cấp…Về kinh tế chủ quan duy ý chí, muốn nhanh chóng có chủ
nghĩa xã hội, nên đã xoá bỏ các hình thức sở hữu trung gian, ồ ạt công hữu
hoá trong khi trình độ của lực lượng sản xuất còn thấp chưa phát triển, đây là
sai lầm đi trái quy luật: quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất của lực
lượng sản xuất. Trong quản lý kinh tế duy trì chế độ bao cấp quá lâu.
Hai là, đánh giá không công bằng, thực sự cầu thị đối với nhân vật quan
trọng, sự kiện quan trọng trong lịch sử , gây ra tư tưởng trong Đảng hỗn loạn
lâu dài và trì trệ về chính trị. Chẳng hạn như, trong Đảng Cộng sản Liên Xô,
đánh giá vấn đề Stalin như thế nào cho đúng đắn là vấn đề lớn liên quan đến
lịch sử và phương hướng phát triển của Liên Xô, nhưng thời gian dài không
phân tích nghiên cứu một cách thực sự cầu thị, không làm rõ vấn đề đó để
thống nhất tư tưởng trong Đảng. Do đó không làm rõ được công tội, đúng sai,
của Stalin, phê phán Stalin dẫn đến phê phán cả Lênin.
Ba là, chưa tỉnh táo nhận thức đúng đắn đối với những vấn đề quan
trọng trong và ngoài nước, những vấn đề quan trọng liên quan đến cương lĩnh
đường lối của Đảng như cải cách, cải tổ, liên quan đến tiền đồ vận mệnh của
Liên Xô,và của Đảng Cộng sản Liên Xô, mà mơ hồ đi theo Gobachov - một
nhân vật cơ hội xét lại. Cần khẳng định rằng trong tình hình xã hội xã hội chủ


nghĩa trì trệ và lâm vào khủng hoảng do những sai lầm kéo dài của mô hình
cũ thì cải tổ là liều thuốc. Bởi vì chỉ có đổi mới sâu sắc toàn diện mới đưa xã
hội thoát khỏi tình trạng khủng hoảng để bước vào thời kỳ phát triển mới.
Vấn đề đặt ra là; cải tổ như thế nào?nhằm mục đích gì? theo đường lối nào?.
Công cuộc cải tổ của Liên Xô, ban đầu được tuyên bố nào là “cải tổ để có
nhiều dân chủ hơn, nhiều CNXH hơn”, nào là “ chúng ta tìm trong khuôn khổ
của CNXH chứ không phải ở ngoài giới hạn của nó những câu trả lời cho các
vấn đề do cuộc sống đặt ra”...Nhưng thực tế rốt cuộc đó chỉ là nguỵ biện, che
đậy cho ý đồ phản bội. Đó là quá trình từng bước đi ra ngoài quỹ đạo của

CNXH, từng bước phản bội đầu hàng tiếp tay cho “DBHB” của CNĐQ giành
thắng lợi.
Thứ hai, một số cán bộ của Đảng thoái hóa, biến chất xa rời quần
chúng nghiêm trọng. Nạn cửa quyền hách dịch với quần chúng nhân dân
không nắm được nguyện vọng của dân, không tôn trọng ý kiến nhân dân, bè
phái, cục bộ địa phương. Xeauxexcu của Rumani những năm 1980 đưa vợ lên
làm phó thủ tướng, quyền lực thực tế còn lớn hơn nhiều so với thủ tướng…
Cán bộ lãnh đạo của các nước khác ở Đông Âu cũng có vấn đề tham nhũng và
đặc quyền đặc lợi như vậy nhưng ở mức độ khác nhau. Đảng cộng sản Liên
Xô và Đông Âu đã mất đi hình ảnh của những người cộng sản chí công vô tư
suốt đời phục vụ nhân dân. Phái đối địch ở nhiều nước đều nắm lấy nhược
điểm này của Đảng cầm quyền chào đón tâm lý chống đối của quần chúng.
Thứ ba, nguyên tắc tập chung dân chủ trong Đảng bị phá hoại, không
những làm cho Đảng mất khả năng lãnh đạo, mà ngay cả những mâu thuẫn
trong Đảng cũng không giải quyết nổi. Thời kỳ Stalin tệ sùng bái cá nhân, độc
đoán chuyên quyền nổi lên mạnh, pháp chế bị buông lỏng, rất nhiều người bị
chết oan, làm tổn thương nghiêm trọng hình ảnh của chủ nghĩa xã hội. Từ đại
hội lần thứ XX của Đảng Cộng sản Liên Xô trở đi, mặc dù không ngừng phê
phán Stalin, nhưng Đảng cộng sản Liên Xô vẫn không rút ra bài học. Để cho


Góbachov miệng nói dân chủ, nhưng thực tế nhiều vấn đề quan trọng đều một
mình ông ta quyết định không thông qua bàn bạc tập thể.
Đối với một Đảng mất lòng dân, xa rời quần chúng nhân dân như thế,
thì Đảng đó có cầm quyền hay không cầm quyền cũng không liên quan gì đến
quần chúng nhân dân, quần chúng nhân dân không quan tâm tới Đảng đó có
còn hay mất. Điều đó cũng dễ hiểu, vì sao khi lá cờ trên điện Kremli bị kéo
xuống, Matxcơva Thời kỳ xảy ra khủng hoảng ở Liên Xô và Đông Âu, người
ta đã tiến hành điều tra xã hội học về Đảng cộng sản Liên Xô: “Đảng Cộng
sản Liên Xô đại biểu cho ai”. Kết quả cho thấy: Đảng Cộng sản Liên Xô đại

biểu cho toàn thể nhân dân lao động chỉ chiếm 7%, đại biểu cho công nhân
chỉ chiếm 4%, đại biểu cho toàn thể đảng viên cũng chỉ chiếm 11%, còn cho
rằng Đảng Cộng sản Liên Xô đại biểu cho giới quan chức của Đảng, đại biểu
cho cán bộ, đại biểu cho nhân viên công tác ở các cơ quan chiếm 85%.tĩnh
lặng quần chúng nhân dân không hề có một phản ứng gì, việc chuyển giao
chính quyền thuận lợi như thế. Điều đó nghĩa là sự hủ bại trong Đảng Cộng
sản Liên Xô là nguyên nhân tầng sâu khiến nó sụp đổ. Về một ý nghĩa nào đó
mà nói, sự sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu là cuộc tự đảo chính.
Bài học về giữ vững, tăng cương sự lãnh đạo của Đảng đã, đang và sẽ
là một trong những bài học vô cùng quý báu cho phong trào cộng sản và công
nhân quốc tế nói chung và các Đảng cộng sản nói riêng trên con đường đấu
tranh hướng đến mục tiêu cuối cùng của cách mạng vô sản.
Đối với Việt Nam, truyền thống yêu nước đã đước kết tinh qua hàng
ngàn năm dựng nước và giữ nước, truyền thống ấy được thể hiện trong suốt


chiều dài của lịch sử. Mỗi khi có giặc ngoại xâm không kể già, trẻ, gái, trai
đều đứng lên đánh giặc giữ nước. Khi thực dân Pháp vào xâm lược nước ta,
lịch sử đã ghi lại hạng ngàn cuộc khởi nghĩa chống Pháp xâm lược, song tất
cả các cuộc khởi nghĩa đều bị thất bại. Những thất bại đó có nhiều nguyên
nhân, nhưng một trong những nguyên nhân cơ bản đó là sự lựa chọn sai lầm
con đường cách mạng trước xu thế phát triển mới của xã hội loài người.
Những năm đầu thế kỷ XX cách mạng Việt Nam thực sự khủng hoảng về
đường lối cứu nước; một câu hỏi đặt ra cho cách mạng Việt Nam lúc này là:
làm thế nào để đánh đuổi được thực dân, đế quốc giải phóng nhân dân khỏi áp
bức bóc lột, đưa đất nước tiến lên? .
Vượt lên những nhà tư tưởng đương thời, Nguyễn Tất Thành đã ra đi tìm
đường cứu nước, khi tiếp xúc với chủ nghĩa Mác- Lênin, đặc biệt khi đọc luận
cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin, Người đã thốt lên rằng con
đường cứu nước, cứu dân là đây. Người khẳng định cách mạng Việt Nam trước

hết cần phải có một chính đảng độc lập lãnh đạo, Người chỉ rõ “ trước hết phải
có Đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên
lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững thì cách
mạng mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy"2.
Vận dụng sáng tạo học thuyết Mác- Lênin về chính đảng vô sản của
giai cấp công nhân, Hồ Chí Minh đã sáng lập và rèn luyện Đảng cộng sản
Việt Nam trở thành đội tiên phong, bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp công
nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc. Đảng cộng sản Việt Nam đã trở
thành người tổ chức và lãnh đạo duy nhất của cách mạng Việt Nam. Thực tiễn
hơn 70 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, cách mạng
Việt Nam đã đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Ngay từ khi mới thành
lập, Đảng ta đã phát động được cao trào đấu tranh rộng lớn, đỉnh cao là Xô
Viết Nghệ Tĩnh 1930-1931. Đó là cuộc tổng diễn tập đầu tiên của cách mạng
nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng; tuy thất bại, nhưng nó đã để lại nhiều
2

Hå ChÝ Minh toµn tËp, Nxb CTQG, H1995, TËp 2, Tr 267-268


kinh nghiệm quý báu cho đấu tranh giành chính quyền sau này. Nhanh chóng
rút kinh nghiệm, kịp thời bổ sung vào đường lối lãnh đạo của Đảng, Đảng ta
đã tiến hành lãnh đạo cao trào đòi dân sinh, dân chủ 1936- 1939, một trong
những thành công của cao trào này là Đảng ta đã tập hợp và xây dựng được
lực lượng chính trị quần chúng rộng rãi chuẩn bị cho cuộc tổng khởi nghĩa
tháng tám năm 1945 sau này.
Thắng lợi của cách mạng tháng tám năm 1945 thể hiện sự năng động,
sáng tạo của Đảng và chủ tịch Hồ Chí Minh trong nắm bắt thời cơ, chuyển
hướng chỉ đạo chiến lược, giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, giải quyết
đúng đắn mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến,
tạo thời cơ và nắm thời cơ phát động quần chúng khởi nghĩa giành chính

quyền từ tay phát xít Nhật.
Thắng lợi của cách mạng tháng tám năm 1945, chấm dứt gần một thế
kỷ đô hộ của thực dân Pháp, mở ra cho dân tộc ta một kỷ nguyên mới- kỷ
nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Sau cách mạng tháng tám, tình
thế cách mạng nước ta như “ngàn cân treo sợi tóc”, song với đường lối chiến
lược, sách lược đúng đắn, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân ta vượt qua thác
gềnh, chính quyền non trẻ được giữ vững và ngày càng lớn mạnh. Trước
những khó khăn chồng chất của chính quyền non trẻ, dân tộc ta bước vào
cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp. Với đường lối kháng chiến
toàn dân, toàn diện, lâu dài, tự lực cánh sinh; với tư tưởng “vừa kháng chiến,
vừa kiến quốc”, chúng ta đã làm lên chiến thắng Điện Biên Phủ lừng lẫy năm
châu, chấn động địa cầu; đánh bại chủ nghĩa thực dân cũ, đưa miền Bắc tiến
lên con đường xã hội chủ nghĩa, tiếp tục cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
ở Miền Nam. Bằng chiến lược, sách lược đúng đắn, Đảng ta đã lãnh đạo nhân
dân ta tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng trên hai
miền Tổ Quốc. Quân, dân hai miền Tổ Quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng đã
làm lên thắng lợi mùa xuân năm 1975, đập tan chế độ thực dân mới của đế


quốc Mỹ ở Miền Nam. Thắng lợi của cách mạng mùa xuân năm 1975 mở ra
một trang sử mới cho dân tộc Việt Nam, thời kỳ độc lập, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ, cả nước bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Đất nước thống nhất,cách mạng Việt Nam bước vào một giai đoạn mớiĐảng lãnh đạo cả nước bước vào công cuộc cải tạo xã hội cũ xây dựng xã hội
mới. Bước vào xây dựng xã hội mới với muôn vàn khó khăn thử thách: Điểm
xuất phát lên chủ nghĩa xã hội thấp, lực lượng sản xuất nhỏ lẻ, manh mùn lại
bị tàn phá nặng nề sau chiến tranh, tư tưởng tập quán, thói quen của người sản
xuất nhỏ, cơ sở sản xuất hầu như không đáng kể. Song với đường lối lãnh đạo
tài tình, sáng suốt của Đảng, cách mạng Việt Nam vẫn được giữ vững, chính
trị ổn định, an ninh được tăng cường tạo điều kiện cho đổi mới và phát triển
đất nước sau này. Thành tựu đó trước hết phải kể đến sự lãnh đạo đúng đắn

của Đảng, uy tín của Đảng ngày càng được củng cố và tăng cường trong thực
tiễn cách mạng. Để có được đường lối lãnh đạo đúng đắn với những chiến
lược sách lược phù hợp với từng giai đoạn của cách mạng, là do Đảng ta đã
vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào điều
kiện cụ thể của nước ta, nó còn là kết quả của quá trình xây dựng Đảng luôn
luôn vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức.
Khi vấn đề cải cách, cải tổ, đổi mới đã trở thành nhu cầu, đòi hỏi tất
yếu khách quan đối với các Đảng cộng sản và các nước xã hội chủ nghĩa ở
thập niên 80 của thế kỷ XX. Đảng ta đã nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật,
đổi mới tư duy nhận thức, đặc biệt là nhận thức đúng đắn về con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội. Đổi mới trên cơ sở kiên trì con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội và đổi mới có nguyên tắc. Kiên trì đường lối đổi mới, mục tiêu độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội ,kiên định hệ tư tưởng Mác- Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, đó là con đường phát triển duy nhất đúng của cách mạng Việt
Nam. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986) của Đảng cộng sản Việt
Nam là một mốc đánh dấu quan trọng trong sự nghiệp cách mạng của Đảng


ta. Cụng cuc i mi bc u ó to ra s chuyn bin tớch cc, to th v
lc mi cho cỏch mng Vit Nam v khng nh bc i ỳng n ca cỏch
mng nc ta. T thc tin hn bn nm i mi ton din t nc, ng ta
ó rỳt ra bi hc quan trng: S lónh o ỳng n ca ng l nhõn t
hng u bo m thng li ca cỏch mng Vit Nam..
Tng kt mi nm i mi, ti i hi i biu ton quc ln th VIII
nm 1996 ng ta ó ch ra mt trong sỏu bi hc ch yu l: Tng cng
vai trũ lónh o ca ng, coi xõy dng ng l nhim v then cht. ú l
nhõn t quan trng a cỏch mng nc ta vt qua khi khng hong kinh
t- xó hi a cỏch mng nc ta chuyn sang mt thi k cỏch mng mithi k y mnh cụng nghip hoỏ- hin i hoỏ t nc theo nh hng xó
hi ch ngha. Tip tc khng nh vai trũ lónh o ca ng cng sn Vit
Nam i vi cỏch mng Vit Nam, i hi i biu ton quc ln th IX

khng nh Nhng thnh tu v yu kộm trong cụng cuc i mi, xõy dng
v bo v t quc gn lin vi trỏch nhim lónh o ca ng 3.iu ú ó
c kim nghim bng thc tin cỏch mng Vit Nam, mi s lónh o ỳng
n sỏng to ca ng l nhõn t quyt nh n thnh cụng hay tht bi ca
cỏch mng. Thc tin Vit Nam cho thy: Khụng cú s lónh o ca ng
cng sn thỡ khụng th cú c lp dõn tc, khụng cú quyn lm ch thc s
ca nhõn dõn, khụng cú nh nc ca dõn , do dõn, vỡ dõn, khụng th thc
hin c cụng bng xó hi, khụng th cú ch ngha xó hi4. Thc tin ú ó
tr thnh chõn lý c khng nh trong cỏch mng dõn tc an ch nhõn dõn,
bng thng li v vang ca cỏch mng thỏng tỏm, bng thng li v i ca
hai cuc khỏng chin chng thc dõn Phỏp v quc M, lm rng r non
sụng ta v khng nh ta trờn trng quc t. Chõn lý y li mt ln na c
khng nh trong cụng cuc i mi xõy dng t nc, bng nhng thnh
tu to ln quan trng ó ginh c qua gn hai thp k i mi.
3

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,Nxb.Ctqg,HN,2001,tr.137.

4

Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb. Ctqg, HN,1996, tr 47


Từ vai trò to lớn của Đảng cộng sản Việt Nam đối với cách mạng nước
ta như vây, nên ngay từ khi mới ra đời cho đến nay, chủ nghĩa Đế quốc và các
thế lực thù địch tìm mọi cách chống phá nhằm làm hạ uy tín của Đảng, dẫn
đến xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng ta đối với cách mạng nước ta, đưa nước
ta phát triển theo quỹ đạo của chủ nghĩa Tư bản.
Thực tiễn từ sự sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên xô và các nước
Đông Âu cho thấy, chiến lược “DBHB” của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực

thù địch của cách mạng là làm vô hiệu hoá vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản.
Chúng tập chung phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng đó là chủ nghĩa MácLênin; phá hoại nguyên tắc tập chung dân chủ, nguyên tắc tổ chức quan trọng
nhất của Đảng; phá vỡ mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với quần chúng nhân
dân; thổi phồng bóp méo những sai lầm, khuyết điểm của Đảng, đòi “đa nguyên
chính trị” dẫn đến “đa đảng đối lập”, đòi “phi chính trị hoá”bộ máy nhà
nước ...Đặc biệt, chúng thường lợi dụng những kẻ cơ hội phản bội chính trị,
thoái hoá về đạo đức, lối sống để phá hoại sự đoàn kết thống nhất từ trong nội bộ
Đảng.
Sự sụp đổ của các nước xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu, đã
cho chúng ta rút ra bài học quý báu là: Phải không ngừng tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng, phải thường xuyên chăm lo xây dựng Đảng vững mạnh về
chính trị, tư tưởng và tổ chức; phải nắm vững và thực hiện có hiệu quả bài
học coi “ xây dựng Đảng là vấn đề then chốt”.
Là người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng ta, Chủ Tịch Hồ Chí
Minh không chỉ dầy công chuẩn bị những điều kiện về lý luận chính trị,tổ
chức và cán bộ cho sự ra đời của Đảng, mà người còn thường xuyên quan tâm
đặc biệt đến công tác xây dựng Đảng. Người nhận thức một cách sâu sắc
rằng, cách mạng Việt Nam muốn thành công, “trước hết phải có đảng cách
mạng”, “Đảng có vững cách mạng mới thành công” “Đảng muốn vững thì
phải có chủ nghĩa làm lòng cốt” và trong thời đại ngày nay, “chủ nghĩa chân


chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất” 5 mà Đảng cần phải theo để đưa
cách mạng Việt Nam đến thành công là chủ nghĩa Mác - Lênin. Với nhận
thức ấy, trong suốt cuộc đời hoạt động và lãnh đạo cách mạng Việt Nam, xây
dựng, lãnh đạo và rèn luyện Đảng ta, Người không chỉ ra sức truyền bá và vận
dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh thực tiễn cách
mạng Việt Nam, mà còn khẳng định một cách dứt khoát rằng xây dựng Đảng
theo nguyên tắc của chủ nghĩa Mác - Lênin là nhiệm vụ then chốt để Đảng ta
phát triển và ngày càng vững mạnh, tương xứng với sự phát triển của cách

mạng nước ta, trở thành hạt nhân tạo nguồn động lực cho sự phát triển
đó.Người chỉ rõ “Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là
vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được
mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào
chủ nghĩa cá nhân”6. Do vậy, khi nói về công tác xây dựng Đảng trong bối
cảnh mới, Người yêu cầu “Mọi đảng viên đều phải ra sức học tập chủ nghĩa
Mác - Lênin, củng cố lập trường giai cấp vô sản, cố gắng nắm vững những
quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam”.7 Với người, công việc xây
dựng đường lối, chiến lược, sách lược cho cách mạng Việt Nam luôn gắn liền
với việc thường xuyên chăm lo xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo nguyên tắc
của chủ nghĩa Mác - Lênin. Người coi đây không phải là biện pháp nhất thời,
giải pháp tình thế, mà là nhiệm vụ tất yếu, mang tính chiến lược, là công việc
thường xuyên của Đảng để thực hiện vai trò lãnh đạo cách mạng của mình, là
sự vận động của Đảng trong tiến trình phát triển của cách mạng nước ta.
Trước lúc đi xa người không quên dặn chúng ta “việc cần làm trước tiên” là
“chỉnh đốn lại Đảng”, “thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm
chỉnh tự phê bình và phê bình”, “giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như
giữ gìn con ngươi của mắt mình”, “giữ gìn Đảng ta thật trong sạch”8
Hå ChÝ Minh, Toµn TËp, Nxb. ChÝnh trÞ Quèc gia, HN, 1995, t.12, tr.267-268.
Hå ChÝ Minh, Toµn TËp, Nxb. ChÝnh trÞ Quèc gia, HN, 1995, t.12, tr557-558.
7
Hå ChÝ Minh. Sdd, t.10, tr.21
8
Hå ChÝ Minh. Sdd, t.12, tr.497,498,503.
5
6


Thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh, hơn 70 năm qua, không lúc nào
Đảng ta buông lỏng công tác xây dựng Đảng theo nguyên tắc của chủ nghĩa

Mác - Lênin. Đảng luôn coi trọng phê bình và tự phê bình, xác định phê bình
và tự phê bình là quy luật tồn tại và phát triển của Đảng và coi đó là chế độ
trong sinh hoạt Đảng. Nhờ thường xuyên chăm lo xây dựng, chỉnh đốn Đảng
theo nguyên tắc của chủ nghĩa Mác - Lênin, nhờ quán triệt nguyên tắc phê
bình và tự phê bình, trong mỗi thời kỳ cách mạng, nhất là trong mỗi bước
ngoặt, trong những lúc cách mạng gặp khó khăn hoặc diễn biến phức tạp, khi
tình hình nội bộ của Đảng nổi lên những vấn đề cần giải quyết, Đảng luôn chú
trọng tổng kết thực tiễn công tác lãnh đạo và công tác xây dựng Đảng, nghiêm
túc chỉ ra những mặt yếu kém và nguyên nhân của tình hình, rút ra bài học từ
thành công hoặc vấp váp, đề ra các biện pháp phát huy mặt ưu điểm, sửa chữa
những sai lầm, khuyết điểm. Qua đó, hoàn thiện đường lối, chủ chương, chính
sách, chấn chỉnh công tác xây dựng Đảng, làm cho Đảng ngày càng thêm
trong sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ chính trị.
Trong hơn 70 năm lãnh đạo cách mạng nước ta, Đảng đã nhiều lần phát
động những cuộc vận động lớn về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, tiến
hành tự phê bình và phê bình trong Đảng.
Ngay khi mới ra đời, khi cách mạng nước ta còn đang gặp rất nhiều khó
khăn, trước sự khủng bố trắng của kẻ thù, truy lùng và bắt bớ cán bộ đảng
viên; ở một số cán bộ đảng viên của Đảng nảy sinh những quan điểm, nhận
thức khác nhau về mục tiêu và bản chất giai cấp của Đảng, về sự kiên định
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và có những biểu hiện “tả
khuynh”, “hữu khuynh”, vì vậy vào tháng 3-1931, Đảng ta đã tiến hành hội
nghị phê phán những biểu hiện sai lầm ấy. Một cuộc vận động lớn đã diễn ra
trong toàn Đảng nhằm chấn chỉnh các cấp uỷ, chuyển hướng hoạt động về chi
bộ, đấu tranh chống mọi biểu hiện tả khuynh và hữu khuynh trong đội ngũ
cán bộ đảng viên. Thời kỳ mặt trận dân chủ (1936-1939),Đảng ta lại mở cuộc


vận động tự phê bình và phê bình để uốn nắn những lệch lạc về quan điểm,
nhận thức giai cấp sau thất bại của mặt trận Dân chủ trong cuộc tranh cử Hội

đồng quản hạt Nam Kỳ. “Tự chỉ trích” do Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ viết
đã chỉ rõ nguyên tắc tự phê bình và phê bình trong Đảng, phê phán những
quan điểm không đúng, những nhận thức sai lệch, những biểu hiện hẹp hòi,
thoả hiệp khiến cho Đảng xa cách quần chúng, dao động trước tình hình
nghiêm trọng, lãng quên chủ nghĩa Mác - Lênin. Trong thời gian tiến hành
cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược, vào năm 1951,
khi cuộc kháng chiến đang ở giai đoạn gay go, quyết liệt, Đảng ta mở cuộc
vận động xây dựng Đảng, trong đó đặc biệt nhấn mạnh tinh thần tự phê bình
và phê bình, coi đó là cuộc cách mạng tư tưởng để khắc phục những biểu hiện
tiêu cực như ngại khó, ngại khổ, nôn nóng, thiếu ý thức tổ chức kỷ luật, quan
liêu xa rời quần chúng, tham ô, lãng phí…Mùa xuân năm 1961, Đảng ta đã phát
động Cuộc chỉnh huấn mùa xuân, tiến hành tự phê bình và phê bình trong toàn
Đảng để khắc phục chủ nghĩa cá nhân, chống biểu hiện tự do vô tổ chức, vô kỷ
luật, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa. Cuộc chỉnh huấn lần này được
xác định là đợt sinh hoạt chính trị lớn trong toàn Đảng nhằm duy trì sự thống
nhất của Đảng,phát huy dân chủ nội bộ, xây dựng mối liên hệ chặt chẽ giữa
Đảng và nhân dân, “nâng cao sức chiến đấu mới, tiến lên dành những thắng lợi
mới trong thời kỳ phát triển mới của cách mạng ”9
Sau mỗi cuộc vận động đó, vai trò lãnh đạo của Đảng được tăng cường
và củng cố, sức mạnh và uy tín của Đảng được nâng lên, sự kiên định chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong toàn Đảng ngày càng được
vững vàng hơn. 20 năm qua, Đảng ta đã lãnh đạo toàn dân tiến hành công
cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trên cơ sở kiên định
lập trường chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong quá trình
lãnh đạo công cuộc đổi mới đất nước ta, một lần nữa Đảng ta lại thể hiện rõ
99

Hå ChÝ Minh. Sdd, t10, tr.309



bản lĩnh chính trị, năng lực trí tuệ, phẩm chất cách mạng và phong cách khoa
học của mình.
Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, tự phê bình
nghiêm túc, tại đại hội VI và sau đó được tiếp tục tại đại hội Đảng VII, Đảng
ta đã chỉ rõ những khuyết điểm của Đảng , ý thức một cách sâu sắc về tầm
quan trọng của công tác xây dựng Đảng, của sự tự đổi mới, chỉnh đốn Đảng.
Tại đại hội Đảng VI, Đảng ta đã đề ra chủ trương đổi mới tư duy, đổi mới tổ
chức, đổi mới công tác cán bộ, đổi mới phong cách công tác. Tại hội nghị
Trung ương sáu khoá VI (3-1989), Đảng tiếp tục chỉ rõ phải đổi mới phương
thức lãnh đạo, nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị. Tiếp tục
phương hướng này, tại đại hội Đảng VII, Đảng ta đã đề ra chủ trương tự đổi
mới, tự chỉnh đốn. Tại Hội nghị Trung ương ba khoá VII(6 - 1992), Đảng ta
đã cụ thể hoá chủ trương đó và nhấn mạnh rằng lúc này xây dựng kinh tế là
trung tâm và xây dựng Đảng là then chốt. Nói về công tác xây dựng Đảng
trong giai đoạn này, nguyên Tổng Bí thư của Đảng Đỗ Mười nhấn mạnh:
“Phải đổi mới và chỉnh đốn Đảng để đảm bảo tăng cường vai trò lãnh đạo
của Đảng trên mọi lĩnh vực”10. Chỉ có chăm lo đầy đủ công tác xây dựng
Đảng, thường xuyên đổi mới, chỉnh đốn Đảng mới nâng cao được sức chiến
đấu của Đảng, bảo đảm quyết định thành công của công cuộc đổi mới và con
đường phát triển hợp quy luật của dân tộc.
Tại Đại hội Đảng lần thứ VIII và tiếp đó trong các nghị quyết Trung
ương (khoá VIII), khi nói về công tác xây dựng Đảng trong thời kỳ công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; Đảng ta đã tự phê bình nghiêm túc khuyết
điểm là chưa lường trước tính khó khăn, phức tạp của bước chuyển cơ chế
quẩn lý mới, nên thiếu sự chuẩn bị đầy đủ trong công tác xây dựng Đảng cho
bước chuyển này; chưa chú ý đúng mức, thậm chí có lúc còn buông lỏng công
tác giáo dục, rèn luyện phẩm chất chính trị và đạo đức cách mạng đối với cán
bộ, đảng viên, buông lỏng sinh hoạt tự phê bình và phê bình; chưa quan tâm
10


§ç Mêi, VÒ x©y dùng §¶ng, Nxb. ChÝnh trÞ quèc gia, HN, 1994, tr.20


n vic khụng ngng nõng cao trỡnh lý lun Mỏc - Lờnin, t tng H
Chớ Minh cho cỏn b, ng viờn. Coi ú l nguyờn nhõn quan trng dn n
tỡnh trng suy thoỏi, thoỏi hoỏ, bin cht ca mt b phn cỏn b, ng viờn,
trong ú cú c cỏn b trung cao cp v nhn thc, t tng, chớnh tr, o c,
li sng v v ý thc t chc, k lut. Ti Hi ngh Trung ng 6 (ln 2),
ng ta ó a ra ch chng: Ton ng tin hnh cuc vn ng xõy dng,
chnh n ng, thc hin t phờ bỡnh v phờ bỡnh nhõn k nim 30 nm thc
hin di chỳc ca Ch Tch H Chớ Minh v k nim 70 nm thnh lp ng.
Cuc vn ng xõy dng, chnh n ng, t phờ bỡnh v phờ bỡnh trong ton
ng ln ny cú ý ngha cc k quan trng i vi vn mnh ca ng v s
nghip i mi t nc, y mnh s nghip cụng nghip hoỏ, hin i hoỏ
theo nh hng xó hi ch ngha do ng lónh o. Ch cú trờn c s thc
hin thng li cuc vn ng ny mi cú th tip thờm lung sinh khớ mi
cho ng, lm cho ng trong sch vng mnh, kh nng a cỏch mng
nc ta tin lờn theo con ng m cỏc nh sỏng lp ch ngha Mỏc - Lờnin
v Ch tch H Chớ Minh ó vch ra; mi cú th nõng cao uy tớn v thanh
danh ng, thc hin quan h mỏu tht vi nhõn dõn, ng - dõn mt ý chớ
nh nguyờn Tng Bớ th Lờ Kh Phiờu ó nhn mnh trong bi phỏt biu ti
phiờn b mc Hi ngh Trung ng 6 (ln2) khoỏ VIII. Hi ngh Trung ng
6 (ln2) khoỏ VIII ó to ra bc chuyn bin mi trong cụng tỏc xõy dng
ng, bỏo cỏo chớnh tr ti i hi IX nờu rừ t i hi VIII n nay, ng
ó cú nhiu c gng tin hnh nhim v then cht l xõy dng chnh n
ng... Trong bỏo cỏo ng ta cng ỏnh giỏ Qua gn hai nm thc hin,
cuc vn ng thu mt s kt qu v kinh nghim bc u song cha t
yờu cu ra11. khc phc nhng hn ch trong cụng tỏc xõy dng ng,
tao ra bc chuyn bin mi trong cụng tỏc xõy dng ng, B Chớnh tr Ban
chp hnh Trung ng ng khoỏ IX ó ban hnh ch th s 03- CT/TW v

vic tip tc thc hin ngh quyt Trung ng 6 (ln 2) khoỏ VIII, vi ch th
11

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,Nxb.Ctqg,HN,2001,tr.137-138.


ny ó to ra bc chuyn bin ln trong cụng tỏc phờ bỡnh v t phờ bỡnh
trong ng, gúp phn xõy dng ng trong sch vng mnh
Hin nay trc nhng din bin phc tp ca tỡnh hỡnh th gii v trong
nc, trc s chng phỏ mnh m ca k thự gi vng v tng cng s
lónh o ca ng, thỡ cụng tỏc xõy dng ng vn l vn c ng ta
ht sc quan tõm ng phi c xõy dng vng mnh v chớnh tr, t
tng v t chc, thng xuyờn t i mi, t chnh n nõng cao nng lc
lónh o v sc chin u, i mi cụng tỏc xõy dng ng... 12 . Xõy dng
ng l nhim v ca ton ng, ton dõn, ca c h thng chớnh tr; trong ú
ng phi ch ng thng xuyờn lm tt cụng tỏc xõy dng ni b ng
trong sch vng mnh
thc hin thng li cuc vn ng xõy dng, chnh n ng ,
nõng cao hiu qu ca cụng tỏc xõy dng ng v tng cng s lónh o ca
ng trong giai on hin nay
Mt l, Phi kin nh vi ch ngha Mỏc Lờnin, t tng H Chớ
Minh; thng xuyờn i mi cụng tỏc giỏo dc trong ng v trong xó hi v
ch ngha Mỏc - Lờnin, t tng H Chớ Minh lm cho ch ngha MỏcLờnin, t tng H Chớ Minh thm sõu vo mi cỏn b ng viờn v qun
chỳng, to ra s thng nht t tng trong ng v trong nhõn dõn. Khng
nh mt ln na tm quan trng, ý ngha ln lao ca bi hc ny v xõy
dng, chnh n ng, nõng cao nng lc lónh o v sc chin u ca
ng, ti i hi i biu ton quc ln th IX, ng ta ó nhn mnh:
Ton ng nghiờm tỳc hc tp ch ngha Mỏc - Lờnin, t tng H Chớ
Minh. Mi cp u, mi chi b cú k hoch nh k kim im vic thc hin


12

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X,Nxb.Ctqg,HN,2006,tr.276


Di chỳc ca Ch tch H Chớ Minh v nõng cao o c cỏch mng, chng
ch ngha cỏ nhõn.13
Hai l, thng xuyờn chm lo xõy dng mi on kt trong ni b
ng to thnh khi thng nht ý chớ v hnh ng. on kt l sc mnh vụ
ch, l yu t vụ cựng quan trng trong xõy dng ng. Trong di chỳc ca
Bỏc H, Ngi ó nhc nh ng v nhõn dõn ta: on kt l mt truyn
thng cc k quý bỏu ca ng v ca dõn ta, cỏc ng chớ t Trung ng n
cỏc chi b cn phi gi gỡn s on kt nht trớ ca ng nh gi gỡn con ngi
ca mt mỡnh . on kt phi to thnh khi thng nht ý trớ v hnh ng;
phi chm lo xõy dng ng, y mnh phờ bỡnh v t phờ bỡnh gi nghiờm k
lut trong ng.
B l, luụn gi vng nguyờn tc t chc v sinh hot ng. Bi hc t
s sp ca Liờn Xụ v ụng u cng xut phỏt t s khụng tuõn th
nguyờn tc t chc v sinh hot ng, do ú cha to c s thng nht ý trớ
v hnh ng, cha tp chung c trớ tu trong ng. Vỡ vy, trong quỏ trỡnh
xõy dng v chnh n ng, ng ta phi luụn quỏn trit v thc hin nguyờn
tc tp chung dõn ch cú nh vy mi to ra c s thng nht trong ng,
to ra c sc mnh cho ng trong quỏ trỡnh lónh o cỏch mng nc ta.
Bn l, Luụn gi vng mi quan h gia ng vi qun chỳng. S sp
ca Liờn Xụ v ụng u l do cỏc ng cng sn cỏc nc ny xa ri
qun chỳng, khụng to ra c mi quan h gia ng vi qun chỳng, thm
trớ ra nhng chớnh sỏch phi lý, khụng tin tng v h thp vai trũ ca trớ
thc...ng ta, t khi ra i n nay luụn gi gỡ mi quan h tt gia ng
vi qun chỳng; khi i on kt ton dõn trong mt trn thng nht luụn


13

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,Nxb.Ctqg,HN,2001,tr.139.


luôn được củng cố và phát triển trên cơ sở liên minh giữa giai cấp công nhân,
giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.
Năm là, luôn nêu cao cảnh giác, kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm
mưu chống phá của kẻ thù. Trong quá trình đổi mới và chỉnh đốn Đảng, phải
luôn cảnh giác không được mơ hồ mất cảnh giác trước những thủ đoạn của các
thế lực thù địch, đặc biệt là chiến lược “DBHB” của chúng; cần tỉnh táo, kiên
quyết đấu tranh ngăn chặn từ xa không để bị bất ngờ trong mọi tình huống
Có thể nói, lịch sử gần 80 năm phát triển và trưởng thành của Đảng ta
gắn liền với công tác xây dựng Đảng theo nguyên tắc của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Chính nhờ sự kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, nhờ không ngừng tự đổi mới, chỉnh đốn, vươn lên về
mọi mặt và luôn phát huy truyền thống vẻ vang của Đảng lên tầm cao mới,
suốt tám thập kỷ qua, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân ta vượt qua bao gian nan
thử thách, đưa cách mạng nước ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, viết
tiếp những trang sử vẻ vang của dân tộc việt Nam ta. Giờ đây, trong thời kỳ
cách mạng mới, thời kỳ đẩy manh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, việc thực
hiện tốt cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, tự phê bình và phê bình
theo nguyên tắc của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh mà Đảng
ta đã phát động là cơ sở nền tảng tạo ra bước chuyển biến thực sự trong củng
cố, chấn chỉnh lại Đảng ; bảo đảm cho Đảng thực sự mạnh, thực sự mang bản
chất của giai cấp công nhân, đảm đương được sứ mệnh mà lịch sử và nhân
dân giao phó - xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa
trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tóm lại: từ thực tiễn những sai lầm khuyết điểm, sự trì trệ, khủng
hoảng và sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu Đảng ta đã kịp
thời rút ra bài học kinh nghiệm về xây dựng Đảng. Ngày nay đứng trước vận



hội, thời cơ, thách thức lớn của đất nước; trước sự chống phá quyết liệt của kẻ
thù bằng chiến lược “DBHB”, hơn lúc nào hết những bài học được rút ra từ sự
sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu càng phải được Đảng ta quán triệt sâu sắc
hơn, Đảng cần tiếp tục thực hiện có chất lượng hơn cuộc vận động xây dựng
và chỉnh đốn Đảng theo tinh thần nghị quyết Trung ương 6 (lần2) khoá VIII,
nhằm xây dựng Đảng vững mạnh cả về chính trị - tư tưởng - tổ chức; đảm bảo
cho Đảng đủ sức lãnh đạo cách mạng nước ta thực hiện thắng lợi sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước vì mục tiêu “ dân giầu nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh”.



×