Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

tiểu luận cao học xdd ve to chuc năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các chi bộ thôn ở huyện yên sơn, tỉnh tuyên quang hiện nay thực trạng và

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (203.09 KB, 26 trang )

Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đứng trước nhiệm vụ mới của lịch sử đất nước,đảng cộng sản đã
nhất quán xác định : "phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, xây dựng đảng
là nhiệm vụ then chốt". Có thể nói, đảng ta đã xác định đúng đắn nhiệm vụ
của mình khi mà công cuộc đổi mới đang diễn ra trong điều kiện vừa có thời
cơ và thuận lợi,khó khăn và thách thức đan xen. Vì vậy, để thực hiện thắng lợi
sự nghiệp cách mạng ấy, đòi hỏi đảng ta phải không ngừng xây dựng và chỉnh
đốn, bảo đảm cho đảng thực sự vững mạnh ngang tầm với nhiệm vụ của mình
trong giai đoạn hiện nay.
Sinh thời, chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại của chúng ta đã từng nói:
Gốc có vững,cây mới bền
Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân
Câu nói của Bác - đối với công tác xây dựng đảng, có thể hiểu rằng:
đảng muốn thắng lợi trong sự nghiệp lãnh đạo của mình thì phải biết lấy dân
làm gốc, không chỉ thế, muốn xây dựng đảng vững mạnh thì phải làm cho
đảng vững mạnh từ các tổ chức cơ sở lên tới trung ương.
Trong bộ máy tổ chức của đảng ta,chi bộ nói chung và chi bộ thôn nói
riêng là nền tảng của đảng, là hạt nhân chính trị ở địa bàn dân cư,là cầu nối
giữa đảng với nhân dân.Chi bộ thôn có vị trí, vai trò quan trọng trong hệ
thống tổ chức và hoạt động của Đảng; trong quá trình thực hiện thắng lợi các
chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Nhận
thức được vị trí, vai trò và tầm quan trọng đó, Đảng ta đã đặc biệt quan tâm
đến việc củng cố, xây dựng và chỉnh đốn Đảng để nâng cao NLLĐ và SCĐ
của các TCCSĐ nói chung và chi bộ thôn nói riêng; nhất là từ khi thực hiện
Nghị quyết TW 3 (khóa VII ) về “Một số nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn
Đảng” và Nghị quyết TW 6 lần 2 ( khóa VIII) về “Một số vấn đề cơ bản và
cấp bách trong công tác xây dựng Đảng hiện nay”. Qua thời gian thực hiện,
chất lượng của các TCCSĐ nói chung và chi bộ thôn nói riêng đã được nâng



lên, số lượng chi bộ thôn trong sạch vững mạnh ngày càng tăng, số lượng chi
bộ thôn yếu kém giảm dần. Nhiều chi bộ thôn đã lãnh đạo và thực hiện tốt
chức năng nhiệm vụ của mình, góp phần to lớn trong công cuộc đổi mới,
trong sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn,trong phong trào tự
quản của cộng đồng dân cư.
Tuy nhiên, so với yêu cầu đặt ra trong tình hình mới hiện nay, vẫn còn
không nhỏ số lượng chi bộ thôn chưa đủ NLLĐ và SCĐ ngang tầm với nhiệm
vụ mới. Tình trạng mất đoàn kết, kèn cựa, thiếu hợp tác trong cấp ủy vẫn còn
xảy ra; chế độ sinh hoạt, chế độ tự phê bình và phê bình không được duy trì
thường xuyên và nghiêm túc; nguyên tắc tập trung dân chủ chưa được tôn
trọng; vẫn còn đảng viên suy thoái về đạo đức, lối sống vẫn còn. Nhiều vụ
việc tiêu cực, vi phạm điều lệ Đảng và pháp luật không được phát hiện và xử
lý kịp thời; một số vụ việc phát hiện nhưng việc xử lý không đến nơi, đến
chốn. Đáng chú ý là tình trạng chạy theo thành tích, phô trương hình thức vẫn
còn xảy ra phổ biến, có nhiều chi bộ thôn đạt “trong sạch, vững mạnh” nhưng
thực tế chất lượng và hiệu quả của thực hiện nhiệm vụ thấp.
Trong những năm gần đây, Đảng bộ huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang
đã rất chú trọng tới công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng, nhìn chung các chi
bộ thôn đã có chuyển biến tích cực; số lượng chi bộ thôn trong sạch, vững
mạnh ngày càng nhiều góp phần to lớn thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị
đã đề ra, nhất là trong phát triển kinh tế - xã hội, trong xây dựng nông thôn mới
và CNH-HĐH công nghiệp nông thôn.
Vì vậy mà việc tìm hiểu nguyên nhân của những kết quả đạt được cũng như
những tồn tại, hạn chế của NLLĐ và SCĐ của chi bộ thôn ở huyện Yên Sơn,
tỉnh Tuyên Quang để đưa ra những giải pháp nhằm đáp ứng yêu cầu đặt ra trong
tình hình mới là điều rất cần thiết về cả lý luận lẫn thực tiễn. Từ những lý do
trên, em chọn đề tài: " Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các chi bộ thôn
ở huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang hiện nay- thực trạng và giải pháp" làm
đề tài tiểu luận môn Xây dựng Đảng về tổ chức.



2.Tình hình nghiên cứu đề tài
Kể từ khi thành lập đến nay, Đảng ta luôn quan tâm đến công tác xây
dựng và chỉnh đốn Đảng, nhất là từ khi thực hiện Nghị quyết TW 3 (khóa
VII) về “ Một số nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn Đảng” và Nghị quyết TW 6
lần 2 ( khóa VIII) về “ Một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công tác xây
dựng Đảng hiện nay”. Chính vì vậy, có rất nhiều cá nhân, tập thể và cơ quan
khoa học đã chọn đề tài nâng cao NLLĐ và SCĐ để nghiên cứu khoa học,
khai thác và sử dụng kết quả này như:
-Đề tài khoa học cấp bộ: “Thực trạng và những yêu cầu xây dựng
TCCSĐ ở nông thôn một số tỉnh miền núi, vùng cao phía Bắc nước ta hiện
nay”, do tác giả Nguyễn Minh Bích làm chủ nhiệm, Hà Nội, tháng 10 năm
1998. Đề tài tập trung phân tích thực trạng TCCSĐ và xây dựng một số giải
pháp để củng cố và kiện toàn các TCCSĐ ở vùng núi, cao phía Bắc tổ quốc.
- Đề tài luận án tiến sĩ của tác giả Nguyễn Đức Ái (2001) “Nâng cao
NLLĐ và SCĐ của tổ chức cơ sở Đảng nông thôn vùng cao phía Bắc trong
thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước”. Tác giả tập trung làm những rõ cơ sở
lý luận và thực trạng NLLĐ và SCĐ, từ đó tác giả đưa ra những những giải pháp
cơ bản để nâng cao NLLĐ và SCĐ của TCCSĐ ở nông thôn vùng cao phía
Bắc…
Các công trình nghiên cứu trên đã góp phần làm sáng tỏ cả về lý luận và
thực tiễn về TCCSĐ. Cùng với đó là những giải pháp thiết thực để giải quyết
thực trạng của các TCCSĐ.
1. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
-Mục đích của tiểu luận là góp phần nâng cao NLLĐ và SCĐ của các chi
bộ thôn ở huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang trong giai đoạn hiện nay.
- Để đạt được mục đích đó, tiểu luận thực hiện một số nhiệm vụ sau:
+ Làm rõ những vấn đề lý luận và quan điểm nâng cao NLLĐ và SCĐ
của chi bộ thôn: khái niệm, xây dựng tiêu chí đánh giá v.v…
+ Khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng, nguyên nhân của những kết



quả đạt được và những tồn tại, hạn chế và những kinh nghiệm trong thời gian
qua của NLLĐ và SCĐ của các chi bộ thôn ở huyện Hậu lộc, tỉnh Thanh Hóa
+ Trên cơ sở đó, xác định phương hướng và đề xuất những giải pháp chủ
yếu để nâng cao NLLĐ và SCĐ của các chi bộ thôn ở huyện Yên Sơn, tỉnh
Tuyên Quang.
-Phạm vi nghiên cứu: tiểu luận tập trung nghiên cứu các chi bộ thôn ở
huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang. Các số liệu dùng để phân tích thực trạng các
chi bộ thôn ở huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang , em tổng hợp báo cáo hàng
năm của Ban tổ chức và Ủy ban kiểm tra huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp
nghiên cứu của luận văn.
- Cơ sở lý luận và thực tiễn: Tiểu luận được nghiên cứu trên cơ sở lý
luận chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng, các
chủ trương, đường lối của Đảng về xây dựng và chỉnh đốn Đảng, nhất là về
NLLĐ và SCĐ của các TCCSĐ. Đồng thời, tiểu luận còn dựa trên cơ sở thực
tiễn trong công cuộc đổi mới, xây dựng và chỉnh đốn Đảng ở huyện Hậu Lộc.
-Phương pháp nghiên cứu: Em sử dụng chủ yếu các phương pháp luận
của chủ nghĩa Mác-Lênnin để thực hiện đề tài. Đối với những phương pháp
nghiên cứu cụ thể, em sử dụng: Phương pháp phân tích, phương pháp tổng
hợp, phương pháp thống kê, phương pháp so sánh, phương pháp quy nạp, kết
hợp nghiên cứu lý luận với tổng kết thực tiễn v.v…


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO VÀ SỨC CHIẾN ĐẤU
CỦA CHI BỘ THÔN

1.1. CHI BỘ THÔN LÀ HẠT NHÂN CHÍNH TRỊ Ở ĐỊA BÀN DÂN CƯ,

LÀ CẦU NỐI GIỮA ĐẢNG VỚI NHÂN DÂN
1.1.1. Vị trí, vai trò, tổ chức, chức năng và nhiệm vụ của chi bộ
1.1.1.1. Vị trí, vai trò
C.Mác và Ph.Ăngghen ngay từ khi xây dựng tổ chức cộng sản đầu tiên
của giai cấp công nhân đã chỉ ra vị trí, vai trò đặc biệt của chi bộ Đảng. Thật
vậy, ngay khi tham gia vào việc cải tổ “Đồng minh những người chính nghĩa”
(1836) thành “Liên đoàn những người cộng sản” (1847 – 1852) điều lệ đã
được khởi thảo. Thông qua điều lệ, những quan điểm và tư tưởng cơ bản của
C.Mác và Ph.Ăngghen về xây dựng Đảng đã được trình bày khá đầy đủ. Lần
đầu tiên luận điểm xây dựng Đảng đã xuất hiện: “về cơ cấu, liên đoàn, chi bộ,
khu bộ, tổng bộ, Ban chấp hành trung ương và Đại hội [ t37, tr .733].


Đối với tổ chức và hoạt động của Liên đoàn cũng được quy định hết sức
chặt chẽ: Để trở thành hội viên của Liên đoàn, ngoài các điều kiện cần, còn
nhất thiết phải có “được một chi bộ nhất trí kết nạp”, “việc kết nạp hội viên
mới của liên đoàn do chủ tịch chi bộ và hội viên giới thiệu của liên đoàn tiến
hành, với điều kiện là đã có sự đồng ý trước của chi bộ”[ t37, tr.732- 733].
Điều đó cho thấy, hội viên của Liên đoàn phải sinh hoạt ở một tổ chức cấp cơ
sở của Liên đoàn đó là chi bộ. Hơn nữa, điều lệ không những quy định đối với
hội viên mà còn có cả đối với tổ chức của chi bộ: “Chi bộ gồm ít nhất là 3 và
nhiều nhất là 20 hội viên của liên đoàn”, “…… sống trong cùng một địa
phương”.
Như vậy, những tư tưởng, quan điểm lãnh đạo, tổ chức và trong thực
hiện lãnh đạo của hai Ông về vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng của chi bộ đã
khẳng định:
“Để khỏi tụt xuống làm vai trò của kẻ vỗ tay, hoan nghênh bọn dân chủ tư
sản, công nhân và trước hết là liên đoàn phải cố gắng thành lập song song với phái
dân chủ chính thức một tổ chức Đảng riêng biệt, bí mật và công khai của công



nhân và biến mỗi chi bộ thành trung tâm và hạt nhân của các Hội liên hiệp công
nhân”[ 39, tr. 348]
Những tư tưởng quan điểm cơ bản của C.Mác và Ph.Ăngghen, được
VI.Lênin lấy làm cơ sở, vận dụng, phát triển có sáng tạo thành hệ thống
những tư tưởng, quan điểm về Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân Nga. Cơ
sở của Đảng vô sản của nước Nga là “liên minh đấu tranh giải phóng giai cấp
công nhân” do V.I.Lênin thành lập năm 1858. Trong tác phẩm “về việc cải tổ
Đảng” và nhiều tác phẩm khác của Người, cũng như trong bài báo “Đi vào
con đường thẳng”, Người đã thể hiện tư tưởng xuyên suốt là các chi bộ Đảng
ở các công xưởng, nhà máy là nền tảng, trên đó cả tòa nhà của Đảng
Bônsêvích được xây dựng. V.I. Lênin đã nhấn mạnh và đặc biệt quan tâm đến
việc thành lập chi bộ Đảng công nhân dân chủ - xã hội Nga ở nhà máy, công
xưởng, các địa phương và coi trọng việc xây dựng các chi bộ đã trở thành hạt
nhân lãnh đạo ở cơ sở.
“Những chi bộ Đảng ở các địa phương và nhất là ở các nhà máy dưới
sự lãnh đạo của các phần tử tiên tiến xuất thân ngay từ hàng ngũ công nhân
và sâu sát với quần chúng. Đó là cơ sở mà trên đó chúng ta đã xây dựng và
xây dựng hạt nhân vững chắc không gì lay chuyển nổi của phong trào công
nhân cách mạng và dân chủ xã hội.” [ t35, tr .8].
Chính từ đặc điểm đó, chi bộ Đảng đã trở thành cầu nối Đảng với các cơ
quan cấp trên của Đảng với quần chúng, trực tiếp liên hệ với quần chúng, là
nơi phản ánh kịp thời tâm tư nguyện vọng và những kiến nghị chính đáng của
quần chúng với Đảng.
Ra đời ở một nước nửa thuộc địa, nửa phong kiến, giai cấp công nhân
còn nhỏ bé nhưng ngay từ đầu, Đảng ta đã xác định vị trí của Đảng và hệ
thống tổ chức của Đảng. Điều lệ đầu tiên Đảng Cộng sản Đông Dương đã xác


định: “Chi bộ gồm tất cả đảng viên trong một nhà máy, một công xưởng, một

hầm mỏ, một sở xe lửa, một chiếc tàu, một đồn điền, một đường phố….”[t 20,
tr. 22]. Đảng Cộng sản Đông Dương đã xác định: “Căn bản tổ chức của
Đảng là chi bộ (nhà máy, công sở, nhà buôn, trường học).. tất cả Đảng viên
làm ở trong những chỗ ấy đều phải dựa vào chi bộ” [ t9, tr. 72 ].
Chủ tịch Hồ Chí Minh, Người sáng lập tổ chức Đảng phân tích khá sâu
sắc vị trí, vai trò của chi bộ: “Chi bộ là nền móng của Đảng, chi bộ tốt thì
mọi việc sẽ tốt” [ t43, tr. 210]. Người còn nhấn mạnh mối quan hệ giữa chất
lượng chi bộ với chất lượng toàn Đảng. Theo Người, để lãnh đạo cách mạng
thì Đảng phải mạnh “Đảng mạnh là do chi bộ tốt” [ t43, tr. 210], “chi bộ là
nền móng của Đảng, chi bộ tốt thì mọi việc sẽ tốt”, ngược lại “xây dựng chi
bộ tốt, cho vững mạnh là một việc vô cùng quan trọng” [ t43, tr. 77]. Như vậy,
chất lượng của chi bộ có quan hệ chặt chẽ và biện chứng với chất lượng của
Đảng. Đối với quần chúng, Người viết “chi bộ là gốc rễ của Đảng trong


quần chúng. Chi bộ tốt thì mọi chính sách của Đảng đều được thi hành tốt,
mọi công việc đều tiến bộ không ngừng. Trái lại, chi bộ yếu kém thì công việc
không trôi chảy” [ t42, tr. 161].
Trong quá trình xây dựng Đảng, Đảng ta luôn luôn xác định chi bộ có
một vị trí, vai trò quan trọng: là hạt nhân lãnh đạo chính trị, là cầu nối quan
trọng giữa Đảng với quần chúng, vận động quần chúng thực hiện đường lối,
chính sách của Đảng. Đồng chí Lê Duẩn - cố Tổng Bí thư của Đảng đã viết:
“Nói đến xây dựng Đảng, trước hết phải nói đến xây dựng chi bộ, vì chi bộ
là tổ chức cơ sở Đảng, là nơi gắn liền Đảng với quần chúng, là nơi vận động
quần chúng thực hiện đường lối, chính sách của Đảng… Chi bộ còn là nơi giáo
dục rèn luyện Đảng viên, mọi nhân tài của Đảng, trước hết nảy nở ở chi bộ và
từ đó mà đưa dần lên cấp lãnh đạo Đảng từ huyện, tỉnh cho tới Trung ương” [
t14, tr.154].
Quán triệt chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã
vận dụng thành công vào thực tiễn công tác xây dựng Đảng, nhất là tổ chức

cơ sở Đảng đảm bảo cho Đảng ta lãnh đạo con thuyền cách mạng Việt Nam


vượt qua bao thác ghềnh để đi đến thắng lợi. Đặc biệt, trong tình hình đổi
mới hịên nay, vị trí, vai trò nền tảng của chi bộ Đảng còn được thể hiện
hơn bao giờ hết. Thật vậy, qua các Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, VII,
VIII và IX cũng đã thể hiện rõ, cụ thể tại Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam
được Đại hội Đảng lần thứ IX thông qua đã xác định: “Tổ chức cơ sở Đảng
(chi bộ cơ sở, Đảng bộ cơ sở) là nền tảng của Đảng, là hạt nhân chính trị
ở cơ sở” [ 17, tr 31].
mỗi chi bộ là
Như vậy, có thể khẳng định
một tế bào cấu thành cơ thể sống và là yếu tố bảo đảm cho sự phát triển
bền vững của toàn Đảng. Hơn nữa, chi bộ không những là tế bào cấu thành
cơ thể sống, các chi bộ còn là tế bào cơ sở, nền tảng của toàn bộ sự sống
của Đảng gắn chặt với đời sống xã hội. Chính vì vậy, mà chi bộ trở thành
hạt nhân lãnh đạo chính trị của Đảng trong quần chúng, trực tiếp đưa
đường lối chủ trương của Đảng vào quần chúng và tổ chức thực hiện đường
lối ấy, đồng thời qua hiện thực sinh động của cuộc sống, từ tâm tư nguyện
vọng của quần chúng để phản ảnh với Đảng. Hơn nữa, chi bộ Đảng là nơi
hàng ngày đảng viên sinh hoạt, học tập, chiến đấu, là trường học giáo dục
rèn luyện đảng viên, nơi sàng lọc đảng viên và giới thiệu quần chúng ưu tú
cho Đảng.
1.1.1.2 Chức năng, nhiệm vụ của chi bộ
* Chức năng


Điều 24 Điều lệ Đảng do Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX thông
qua ngày 22 tháng 4 năm 2001 quy định chức năng của chi bộ như sau:
“Chi bộ lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị của đơn vị, giáo dục, quản

lý và phân công công tác cho đảng viên, làm công tác vận động quần chúng và
công tác phát triển đảng viên, kiểm tra, thi hành kỷ luật Đảng viên, thu nộp
Đảng phí. Chi bộ, chi ủy họp thường lê mỗi tháng một lần” [ 17, tr. 36].
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng, các Nghị
quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) đã quy định rất cụ thể
chức năng của các loại hình tổ chức cơ sở . Trên cơ sở quy định chức năng,
nhiệm vụ của từng tổ chức cơ sở Đảng mà lãnh đạo thực hịên nhiệm vụ cụ
thể. Điều 1 Quy định số 95-QĐ/TW ngày 03/3/2005 của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng quy định về chức năng Đảng bộ, chi bộ cơ sở xã. “Đảng
bộ, chi bộ cơ sở xã là hạt nhân chính trị, lãnh đạo thực hiện đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, lãnh đạo phát triển
kinh tế -xã hội; xây dựng hệ thống chính trị ở xã vững mạnh, nông thôn giàu
đẹp, văn minh, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân, động viên nhân dân làm tròn nghĩa vụ đối với Nhà nước.”
Chức năng của tổ chức cơ sở Đảng nói chung và chức năng của chi bộ
bộ phận nói riêng là lãnh đạo thực hiện các nhịêm vụ theo đúng đường lối,
chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đạt hiệu quả cao,
không ngừng cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, hoàn
thành nghĩa vụ với Nhà nước.
Trong quá trình đổi mới đất nước hiện nay, chức năng lãnh đạo của tổ
chức cơ sở Đảng, chi bộ bộ phận còn thể hiện ở việc phải biến được các
đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước thành
hiện thực và đi vào cuộc sống.
* Nhiệm vụ
Đảng bộ, chi bộ ở nông thôn có nhiệm vụ: quán triệt và thực hiện CNH,
HĐH nông nghiệp và nông thôn, phát huy vai trò kinh tế hộ gia đình; đồng


thời từng bước xây dựng kinh tế hợp tác phát triển từ thấp đến cao, phù hợp
yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất, phát triển sự nghiệp văn hóa, thông

tin, giáo dục, y tế, dân số và kế hoạch hóa gia đình, thực hiện chính sách xã
hội, tăng hộ giàu, giảm hộ nghèo, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân, động viên nhân dân hoàn thành nghĩa vụ đối với nhà nước, lãnh đạo
phát huy dân chủ, thực hiện công bằng xã hội, chống tham nhũng, ức hiếp
nhân dân, lấn chiếm ruộng đất, cho vay nặng lãi; lãnh đạo tốt nhịêm vụ quốc
phòng an ninh, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội v.v… xây dựng
nông thôn mới giàu đẹp, văn minh
1.1.2. Vị trí, vai trò của thôn và chi bộ thôn
1.1.2.1. Vị trí, vai trò và đặc điểm của thôn
Sau khi công xã thị tộc tan rã, người Việt với cuộc sống nông nghiệp với
nghề trồng lúa nước, lại liên tục chinh phục thiên nhiên và phải đối phó với
môi trường xã hội, do vậy, họ phải cần hợp tác, liên kết chặt chẽ với nhau,
quan hệ xóm làng trở nên hết sức gần gũi, thân thiết. Làng xã Việt Nam chính
là sản phẩm của tổ chức sinh hoạt nông thôn theo địa bàn cư trú, sản phẩm
của tính cộng đồng “trong sinh hoạt nông thôn chính là một tập thể”. Làng xã
mang tính tự trị, nó khẳng định sự độc lập, nét riêng biệt của từng cộng đồng:
mỗi làng, mỗi tập thể hoạt động độc lập với các tập thể khác, có quy ước
riêng, lề thói sinh hoạt riêng nên tinh thần tự quản trong cộng đồng rất mạnh
mẽ. Do vậy, có thể hiểu khái quát về thôn như sau: Thôn là cụm dân cư trên
địa bàn xã, được hình thành tự nhiên trong quá trình hình thành và phát triển
của cộng đồng dân cư.
Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp Trung ương Đảng khoá IX “Về đổi mới và
nâng cao chất lượng hệ thống chính trị cơ sở xã, phường, thị trấn” quy định:
“Thôn, làng, ấp, bản, sóc( gọi chung là thôn) là địa bàn quan trọng để phát
huy các hình thức tự quản của cộng đồng dân cư trên cơ sở huyết thống gắn bó


trong đời sống vật chất và văn hoá.”[ 4, tr .89]
Hay tại điều 1 quy chế tổ chức và hoạt động của thôn và tổ dân phố ngày
6/12/2002 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ (ban hành kèm theo Quyết định số

13/2002/QĐ-BNV ngày 6/12/2002) quy định:
“Thôn, làng, ấp, bản, buôn, phum, sóc…(gọi chung là thôn), tổ dân phố,
khu phố, khóm…(gọi chung là tổ dân phố) không phải là cấp hành chính mà
là tổ chức tự quản của cộng đồng dân cư, nơi thực hiện dân chủ một cách
trực tiếp và rộng rãi để phát huy các hình thức hoạt động tự quản và tổ chức
nhân dân thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật
của nhà nước và nhiệm vụ của cấp trên giao. Dưới xã là thôn, dưới phường,
thị trấn là tổ dân phố” [ 12].
Trước hết, khẳng định thôn không phải là một cấp hành chính trong hệ
thống hành chính ở nước ta. Bởi vì, tại điều 118 Hiến pháp 1992 (sửa đổi)
quy định hệ thống hành chính của nước ta gồm 4 cấp: Trung ương, tỉnh (thành
phố), huyện (quận) và xã (phường). Về cơ cấu tổ chức, mỗi thôn có 01 trưởng
thôn và 01 phó thôn ( giúp việc cho trưởng thôn), nếu có số dân trên 1.500 thì
có thể bố trí thêm 1 phó thôn. Trưởng thôn do dân trực tiếp bầu ra, vừa là
người đại diện cho dân vừa là người đại diện cho chính quyền xã để thực hiện
một số công việc hành chính tại thôn. Thôn có một vị trí, vai trò rất quan
trọng trong phát triển kinh tế xã hội, giải quyết những vấn đề xã hội trên địa
bàn dân cư thôn, giữ vững an ninh chính trị - trật tự an toàn xã hội, giữ vững
và phát huy truyền thống tốt đẹp. Đồng thời, thôn là nơi vận động quần chúng
nhân dân giữ gìn an toàn trật tự, phòng chống các tệ nạn trên địa bàn dân
cư… Có thể nói,thôn không phải là một cấp hành chính trong hệ thống hành
chính ở nước ta, mà là hệ thống chân rết của chính quyền xã đồng thời nó còn
là chân rết của các tổ chức đoàn thể hoạt động.
1.1.2.2.Vai trò, chức năng, nhiệm vụ và đặc điểm của các chi bộ thôn
Như trình bày ở trên, thôn không phải là cấp chính quyền trong hệ thống


hành chính ở nước ta và nó hoạt động dưới hình thức tự quản. Chính vì vậy,
chi bộ thôn có vai trò là hạt nhân chính trị ở địa bàn dân cư, là cầu nối giữa
Đảng với nhân dân. Chi bộ thôn gắn bó trực tiếp với quần chúng nhân dân,

nắm bắt tâm tư, tình cảm và nguyện vọng nhân dân; là nơi trực tiếp biến
đường lối, chính sách của Đảng thành hành động cách mạng của Đảng viên và
quần chúng. Chi bộ thôn có vai trò to lớn trong việc kiểm nghiệm, khẳng định
tính đúng đắn của đường lối, nghị quyết của Đảng, đóng góp cho Đảng những
ý kiến để sửa đổi, bổ sung các chủ trương, đường lối một cách đúng đắn hơn.
Đồng thời, chi bộ thôn là nơi Đảng viên hàng ngày sinh hoạt, học tập v.v… và
là nơi trực tiếp giáo dục, rèn luyện, sàng lọc và giới thiệu những quần chúng
ưu tú cho Đảng. Với vai trò to lớn như vậy, nên nơi nào có chi bộ thôn trong
sạch vững mạnh thì nơi đó thực hiện tốt các chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước, đời sống vật chất và tinh thần của dân
được nâng lên,tình hình an ninh - trật tự xã hội được giữ vững. Ngược lại, nếu
chi bộ thôn yếu kém, mất đoàn kết, coi thường kỷ cương, pháp luật; đảng viên
thấy đúng không dám bảo vệ, thấy sai không dám đấu tranh thì chi bộ đó yếu
kém, lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước bị giảm sút.
Về nhiệm vụ của chi bộ thôn, chủ yếu là lãnh đạo các tổ chức, mặt trận,
đoàn thể, đặc biệt đối với Trưởng thôn và phân công đảng viên trực tiếp thâm
nhập vào các phong trào quần chúng, phát huy vai trò làm chủ của quần
chúng ở cơ sở để từ đó nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân,
xây dựng đời sống văn hóa mới, giữ vững trật tự an toàn xã hội trên địa bàn
dân cư v.v...
1.2. QUAN NIỆM VỀ NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO VÀ SỨC CHIẾN ĐẤU
CỦA CHI BỘ THÔN


1.2.1. Quan niệm về năng lực lãnh đạo của chi bộ thôn:
Theo Đại từ điển tiếng Việt của Trung tâm ngôn ngữ văn hóa Việt Nam Bộ Giáo dục và đào tạo (1998)
Năng lực là một trong những điều kiện đủ hoặc vốn có để làm một việc
gì.1: năng lực tư duy của con người. 2: khả năng đủ để thực hiện tốt công việc:
có năng lực chuyên môn, năng lực tổ chức [ 61, tr.1172]
Lãnh đạo (tgt1). Dẫn dắt tổ chức phong trào theo đường lối cụ thể: lãnh

đạo cuộc đấu tranh. 2. (Dt) cơ quan lãnh đạo, bao gồm những người có khả
năng tổ chức dẫn dắt phong trào: chờ lãnh đạo cho ý kiến [ 61, tr.1979] .
Hay theo Từ điển tiếng Việt của Nhà xuất bản Đà Nẵng ( 1997)
Năng lực 1: là khả năng, điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có để thực
hiện một hoạt động nào đó, 2: phẩm chất tâm lý, sinh lý tạo cho con người
hoàn thành một hoạt động nào đó [ 56, tr.639].Lãnh đạo: đề ra chủ trương,
đường lối và tổ chức vận động thực hiện đường lối đó[ 56, tr.524].
Như vậy có thể hiểu, năng lực lãnh đạo là khả năng của một tập thể hay


cá nhân có khả năng đề ra mục tiêu, chủ trương đường lối và khả năng tổ
chức, dẫn dắt tập thể, thực hiện thắng lợi đường lối đó.
Đối với năng lực lãnh đạo của Đảng, theo cuốn sách Tìm hiểu một số khái
niệm trong văn kiện Đại hội IX của Đảng, do PGS Vũ Hữu Ngoạn chủ biên thì
năng lực lãnh đạo của Đảng là “khả năng đề ra được mục tiêu cách mạng đúng
đắn, cơ bản, lâu dài, cũng như thời kỳ và bằng những phương thức, phương pháp
đúng đắn tổ chức nhân dân, dân tộc thực hiện có hiệu quả” [ 49, tr. 38].
Như vậy,có thể khẳng định năng lực lãnh đạo của Đảng là khả năng hiện
thực bao gồm nhiều nội dung: năng lực đề ra chủ trương, đường lối, năng lực xây
dựng nghị quyết, chỉ thị, năng lực tổ chức thực hiện đường lối, năng lực kiểm tra
phát hiện và xử lý.

1.2.2. Quan niệm về sức chiến đấu của chi bộ thôn
Theo Đại từ điển tiếng Việt: “Sức” (dt), I khả năng hoạt động của thân
thể cho sự bền bỉ của gân cốt, II: khả năng làm việc, tác động hoặc chịu tác
động đến đâu[ 62, tr.1474].
“Chiến đấu” (dtg), 1: Đánh nhau giữa các lực lượng vũ trang ở trên chiến
trường; 2: Đối chọi, chống trả quyết liệt với lực lượng gây nguy hại cho mình
[ 62, tr.357].
Như vậy, có thể hiểu sức chiến đấu của một tổ chức hay một cá nhân là

sức mạnh, khả năng làm việc, hoạt động hoặc khả năng tác động của một tổ
chức, một tập thể hay cá nhân đối với công việc, hoặc đối với những tổ chức,
tập thể hay cá nhân khác và những lực lượng gây nguy hại cho mình


Theo cuốn sách “Tìm hiểu một số khái niệm trong văn kiện Đại hội IX
của Đảng” (2001), do PGS Vũ Hữu Ngoạn chủ biên: sức chiến đấu của Đảng
là “Sức lực của bản thân Đảng” để chiến đấu,vượt qua “những trở lực, chông
gai phát sinh từ các thế lực thù địch với lý tưởng và sự nghịêp của Đảng, của
nhân dân, của dân tộc, từ những tiêu cực trong xã hội, trong nội bộ nhân
dân, thậm chí trong nội bộ Đảng và cả những khó khăn khách quan của đất
nước,của tình hình kinh tế xã hội trong bước đường đi lên”[49, tr. 39]
Từ những vấn đề đã trình bày trên, có thể nhận thấy sức chiến đấu của
chi bộ thôn là sức mạnh tổng hợp về chính trị, tư tưởng và tổ chức, sự thống
nhất về ý chí và hành động, là khả năng đấu tranh chống lại mọi tác động làm
suy yếu chi bộ thôn, là sự gắn kết Đảng với quần chúng để thực hiện thắng lợi
nhiệm vụ ở địa bàn dân cư mà chi bộ phụ trách.
1.2.3. Mối quan hệ giữa năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của chi
bộ thôn
Từ quan niệm NLLĐ và SCĐ của chi bộ thôn có thể thấy rằng: NLLĐ và
SCĐ của chi bộ thôn là những vấn đề cơ bản nhất và quyết định đối với khả
năng lãnh đạo hoàn thành nhiệm vụ chính trị của chi bộ thôn và nó là những
căn cứ chủ yếu để xây dựng, đồng thời là căn cứ xem xét, đánh giá về chi bộ
thôn có trong sạch, vững mạnh hay không.
Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của chi bộ thôn luôn vận động, phát
triển theo yêu cầu nhiệm vụ của cách mạng và nhiệm vụ chính trị ở địa
phương. Trong từng giai đoạn, tình hình cụ thể mà công tác lãnh đạo có
những trọng tâm khác nhau. Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của chi bộ
thôn là khả năng nắm bắt và xử lý đúng những công việc trọng tâm đó.
Hơn nữa, NLLĐ và SCĐ của chi bộ thôn là hai mặt thống nhất biện

chứng với nhau, có tác động qua lại và hỗ trợ lẫn nhau, năng lực lãnh đạo của
chi bộ thôn tốt sẽ là cơ sở cho sức chiến đấu cao, đồng thời, chi bộ thôn có
sức chiến đấu cao là điều kiện để chi bộ thôn có năng lực lãnh đạo tốt. Do đó,


sức chiến đấu cao thì năng lực lãnh đạo càng tốt và ngược lại. Thực tế cho
thấy giữa NLLĐ và SCĐ rất khó chia tách rạch ròi vấn đề nào là của NLLĐ
và vấn đề nào của SCĐ. Điển hình như: thực hiện tốt công tác vận động quần
chúng, phát huy vai trò của quần chúng trong việc thực hiện nhiệm vụ của chi
bộ thôn là vấn đề thuộc về NLLĐ, đồng thời đây cũng là những nội dung
công tác thuộc về hoạt động tăng cường sức chiến đấu, tăng cường mối quan
hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân.
1.4. NHỮNG YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG VÀ YÊU CẦU NÂNG CAO
NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO VÀ SỨC CHIẾN ĐẤU CỦA CHI BỘ THÔN
1.4.1. Những yếu tố ảnh hưởng đến năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của chi bộ thôn
Trong giai đoạn đổi mới hiện nay, nâng cao NLLĐ và SCĐ của chi bộ
thôn là yêu cầu thiết thực và cấp bách hơn bao giờ hết. Tuy nhiên, để làm
được điều này đòi hỏi phải xem xét, phân tích, đánh giá những yếu tố khách
quan và chủ quan tác động đến NLLĐ và SCĐ của chi bộ thôn.
Những yếu tố khách quan:
Điều kiện tự nhiên kinh tế - xã hội là yếu tố khách quan có ảnh hưởng mạnh
mẽ đến NLLĐ và SCĐ của chi bộ thôn. Những thôn có điều kiện tự nhiên, địa hình,
thuận lợi và kết cấu hạ tầng tốt thì rất thuận lợi trong việc tổ chức sinh hoạt, hội
họp, việc tiếp nhận, cập nhật thông tin cho đảng viên và quần chúng nhân dân
nhanh chóng, dễ dàng. Ngược lại, đối với những thôn mà địa hình phức tạp, điều
kiện kinh tế và đời sống người dân khó khăn thì việc sinh hoạt Đảng, hội họp, tuyên
truyền các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước
khó khăn. Như vậy, điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội có tác động rất lớn đến NLLĐ
và SCĐ của chi bộ thôn. Do vậy, mỗi một chi bộ thôn phải đánh giá đúng thực

trạng những điều kiện của mình để phát huy những thế mạnh, hạn chế, khắc phục
những khó khăn của ấp nhằm nâng cao năng NLLĐ và SCĐ của chi bộ thôn.
Hiện nay, tình hình thế giới và khu vực diễn ra nhanh chóng và phức tạp, các
thế lực thù địch, những phần tử phản động và bất mãn trong nước tiến công phủ


nhận lịch sử cách mạng của dân tộc, đặt lại vấn đề cơ bản trong cương lĩnh, đường
lối của Đảng ta. Sau sự kiện “động đất chính trị”, Liên Xô và một số nước Đông Âu
tan rã, cuộc chiến tranh vùng Vịnh… Các thế lực thù địch đã lợi dụng, cổ vũ, khích
lệ để chống phá Đảng ta bằng hai con đường (từ bên ngoài và từ bên trong), hòng
thủ tiêu chế độ XHCN ở Việt Nam. Trước những diễn biến như vậy, một số đảng
viên lập trường, quan điểm không vững vàng và kiên định nên đã hoang mang, dao
động, muốn Đảng ta thay đổi mục tiêu và con đường mà Đảng và Bác Hồ đã lựa
chọn, thậm chí còn có một số đảng viên mất ý chí chiến đấu.
Trước xu thế hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa thì bên cạnh những mặt
tích cực mang lại thì đã kéo theo rất nhiều tiêu cực mà chúng ta phải đối mặt
và cũng xem đây là một trong những quy luật vận động khách quan xã hội.
Điều đó cho thấy tình hình thế giới, khu vực và sự chống đối của các thế lực
thù địch đã làm ảnh hưởng sâu sắc đến NLLĐ và SCĐ của hệ thống chính trị
nói chung và chi bộ thôn nói riêng.
Những yếu tố chủ quan:
Trong những năm đổi mới vừa qua, trước những biến động phức tạp của
tình hình thế giới và trong khu vực, những thách thức từ mặt trái của cơ chế
thị trường, nhìn chung hầu hết Đảng viên vững vàng, kiên định và hăng hái đi
đầu trong công cuộc đổi mới, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, giữ vững
phẩm chất đạo đức cách mạng, có lối sống lành mạnh và gần gũi với quần
chúng nhân dân. Tuyệt đại bộ phận Đảng viên có ý thức tổ chức kỷ luật,
nghiêm chỉnh chấp hành đường lối, điều lệ Đảng, chính sách pháp luật của
Nhà nước, những quy định của địa phương.
Bên cạnh những mặt mạnh, vẫn còn một số ít đảng viên thoái hóa biến

chất, bán mình cho “quỷ dữ”. “Tỷ lệ đảng viên thật sự thể hiện rõ vai trò tiên
phong, gương mẫu còn thấp (khoảng 30%), đội ngũ đảng viên đang đứng
trước nguy cơ tụt hậu và không đều về trình độ trí tuệ. Đáng lo ngại nhất là
tình trạng cơ hội về chính trị, thoái hóa về đạo đức và lối sống, nhất là tham
nhũng, đã trở thành một bộ phận không nhỏ ở tất cả các cấp, các lĩnh vực và
có xu hướng tăng lên”[ 55, tr. 149]. Chính vì vậy, vấn đề đặt ra là phải xây
dựng đội ngũ đảng viên nói chung và nhất là đảng viên ở cơ sở nói riêng có


năng lực tổ chức và vận động nhân dân thực hịên chủ trương đường lối của
Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, công tâm, thạo việc, tận tụy với
dân, biết phát huy sức mạnh, không tham nhũng, không ức hiếp dân.
Từ những vấn đề trình bày ở trên cho thấy đội ngũ đảng viên có vị trí,
vai trò quan trọng trong NLLĐ và SCĐ của tổ chức cơ sở Đảng nói chung và
chi bộ thôn nói riêng. Do vậy, phải xây dựng một đội ngũ đảng viên “vừa
hồng, vừa chuyên” là nền tảng căn bản để nâng cao NLLĐ và SCĐ của chi bộ
thôn.
1.4.2 Những yêu cầu nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của chi bộ thôn
Trong công cuộc đổi mới hiện nay, vấn đề xây dựng tổ chức hệ thống
chính trị nói chung và chi bộ thôn nói riêng là yêu cầu cấp bách hơn bao giờ hết.
Một là, việc nâng cao NLLĐ và SCĐ của chi bộ thôn nhằm thực hiện
tốt chức năng, nhiệm vụ của Đảng là vấn đề cơ bản và cấp bách trong công
tác xây dựng Đảng.
Hai là, từ khi thành lập cho đến nay, vai trò lãnh đạo của Đảng đã được khẳng
định qua phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước. Tuy nhiên,
để những chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đi
vào cuộc sống điều đó phụ thuộc rất lớn vào NLLĐ và SCĐ của chi bộ thôn. Hơn
nữa, chi bộ thôn còn là nơi kiểm nghiệm tính đúng đắn của những chủ trương và
chính sách ấy. Do vậy, mỗi chi bộ thôn phải phấn đấu nâng cao NLLĐ và SCĐ để

thực sự là cầu nối giữa Đảng với quần chúng nhân dân.
Ba là, nâng cao NLLĐ và SCĐ của chi bộ thôn nhằm đáp ứng yêu cầu xây
dựng và thực hiện quy chế dân chủ cơ sở. Do vậy, nâng cao NLLĐ và SCĐ của chi
bộ thôn để lãnh đạo thực hiện tốt QCDCCS là yêu cầu cấp bách trong việc xây
dựng Đảng, xây dựng Nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Bốn là, nâng cao NLLĐ và SCĐ của chi bộ thôn nhằm phát huy vai trò
tiên phong, gương mẫu của đảng viên, nhất là những đảng viên trong chi uỷ:
Bí thư và phó Bí thư chi bộ thôn, chi uỷ viênHơn nữa, nâng cao NLLĐ và
SCĐ của chi bộ thôn sẽ hình thành cho mỗi Đảng viên tinh thần dũng cảm


đấu tranh với những hành vi sai trái, dám bảo vệ lẽ phải; qua đó, xây dựng chi
bộ kỷ cương, đoàn kết thống nhất
Như vậy, nâng cao NLLĐ và SCĐ là yêu cầu bức thiết đối với mỗi tổ chức
Đảng trong cuộc cách mạng ở thời đại mới, đòi hỏi sự góp sức chung tay của các tổ
chức Đảng và chính quyền.
Chương 2
NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO VÀ SỨC CHIẾN ĐẤU CỦA CÁC CHI
BỘ THÔN Ở HUYỆN YÊN SƠN – TỈNH TUYÊN QUANG

2.1. THỰC TRẠNG VỀ NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO VÀ SỨC CHIẾN
ĐẤU CỦA CHI BỘ THÔN Ở HUYỆN YÊN SƠN -TỈNH TUYÊN
QUANG
Đảng bộ huyện Yên Sơn hiện có 63 chi bộ, đảng bộ cơ sở, 655 chi bộ
trực thuộc đảng ủy cơ sở. Theo khảo sát mới nhất của Ban Tổ chức Huyện ủy,
tính đến tháng 8-2012, toàn huyện còn 53 chi bộ trực thuộc đảng ủy cơ sở có
dưới 5 đảng viên, trong đó chủ yếu ở các xã vùng sâu, vùng xa, vùng đồng
bào dân tộc thiểu số gặp nhiều khó khăn như: Công Đa, Trung Sơn, Hùng
Lợi, Kiến Thiết, Lực Hành, Chiêu Yên... Bên cạnh đó, số chi bộ thôn bản có
trên 5 năm chưa kết nạp được đảng viên cũng chiếm tỷ lệ khá cao, với 60 chi

bộ thôn bản ở 21 đảng bộ cơ sở. Những chi bộ nhiều năm không kết nạp được
đảng viên do nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu là do thiếu nguồn và nhận
thức của một số quần chúng ưu tú về việc phấn đấu trở thành đảng viên còn
hạn chế.
The báo cáo của Đồng chí Vũ Văn Lập, Phó Bí thư Thường trực Đảng
ủy xã Hùng Lợi: “Đảng bộ xã có 22 chi bộ, trong đó có 17 chi bộ thôn bản,


192 đảng viên. Hiện nay, Đảng bộ còn 4 chi bộ có dưới 5 đảng viên là các chi
bộ thôn Nhùng, Tấu Lìn, thôn Toạt và Khuổi Ma. Trong đó, chi bộ thôn
Nhùng có 3 đảng viên, Tấu Lìn, thôn Toạt và Khuổi Ma, mỗi chi bộ có 4 đảng
viên”. Thực hiện mục tiêu Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ xã lần thứ
XIX, nhiệm kỳ 2010 - 2015, phấn đấu mỗi năm kết nạp 12 đảng viên, Đảng
bộ xã đã chỉ đạo thực hiện nhiều giải pháp cụ thể nhằm đẩy mạnh công tác
phát triển Đảng, đặc biệt đối với những chi bộ nhiều năm chưa kết nạp được
đảng viên và những chi bộ dưới 5 đảng viên. Tuy nhiên, việc kết nạp Đảng ở
những chi bộ này gặp rất nhiều khó khăn.
Nguồn lớn nhất để giới thiệu cho Đảng là đoàn viên thì hầu hết thanh
niên hoàn thành chương trình THPT đều đi làm ăn xa, một bộ phận còn lại
không muốn phấn đấu đứng trong hàng ngũ của Đảng. Có những quần chúng
ưu tú đã được cử đi học lớp tìm hiểu về Đảng, nhưng lại không theo học.
Bên cạnh những chi bộ thôn bản ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào
dân tộc thiểu số khó khăn trong công tác phát triển Đảng vẫn còn những chi
bộ thuộc các xã vùng “sáng” cũng nhiều năm chưa kết nạp được đảng viên và
còn có chi bộ dưới 5 đảng viên như: Chi bộ Nghiêm Sơn 2, Đảng bộ xã
Hoàng Khai có 4 đảng viên; Chi bộ Hòn Vang, Đảng bộ xã Thắng Quân có 3
đảng viên. Như ở thôn Nghiêm Sơn 2, xã Hoàng Khai: “Chi bộ hiện có 4 đảng
viên, trong đó có 1 đồng chí Ủy viên BCH Đảng bộ xuống sinh hoạt tăng
cường. Đảng viên cao tuổi nhất đã 82 tuổi, đảng viên ít tuổi nhất đã 42 tuổi.
Trong nhiều năm liền, chi bộ không kết nạp được đảng viên mới vì khó khăn

về nguồn kết nạp. Mặt khác, chi bộ cũng chưa thực sự quan tâm, chú trọng
việc kết nạp đảng viên.”
2.2 YÊU CẦU ĐẶT RA ĐỂ NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO
VÀ SỨC CHIẾN ĐẤU CỦA CHI BỘ THÔN Ở HUYỆN YÊN SƠN
Từ thực trạng này đã đặt ra yêu cầu cho các chi bộ Đảng như sau:
- Phải phát triển số lượng đảng viên, không để tình trạng thôn, bản


“trắng” đảng viên, phát triển số lượng đảng viên là người dân tộc.
- Nâng cao chất lượng của đảng viên trong chi bộ: gồm trình độ tri thức
và trang bị lý luận của đảng viên trong chi bộ thôn,nhất là những người cán
bộ của chi bộ như bí thư chi bộ...
- Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của chi bộ trong vai trò là
người lãnh đạo nhân dân thực hiện các công việc về kinh tế, văn hóa, xã hội,
an ninh quốc phòng…theo chủ trương chính sách của Đảng,Nhà nước trong
công cuộc đổi mới.
- Tăng cường sự lãnh đạo của các chi bộ đối với nhân dân.
2.3. NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NÂNG CAO NĂNG LỰC
LÃNH ĐẠO VÀ SỨC CHIẾN ĐẤU CỦA CHI BỘ THÔN Ở HUYỆN
YÊN SƠN
Đứng trước tình hình thực tế có nhiều khó khăn như vậy, muốn nâng cao
được năng lực lãnh đạo thì cần đồng bộ thực hiện những giải pháp như:
- Đẩy mạnh công tác chính trị tư tưởng, coi trọng giáo dục, rèn luyện
phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, lối sống của đội ngũ đảng viên.
Tập trung đẩy mạnh và nâng cao chất lượng công tác chính trị tư tưởng
cho đội ngũ đảng viên và quần chúng nhân dân, nhất là công tác giáo dục
chính trị tư tưởng, giáo dục truyền thống và đạo đức cách mạng v.v... Quan
tâm hơn nữa công tác giáo dục phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, thực



hành tiết kiệm, đấu tranh chống tiêu cực cho đảng viên và quần chúng nhân
dân.
Các chi bộ phải chủ động đổi mới nội dung và phương thức công tác tư
tưởng, thường xuyên đi sâu, đi sát thực tế để nắm những tâm tư, băn khoăn và
giải quyết kịp thời những nguyện vọng, quyền lợi chính đáng của quần chúng
nhân dân nhằm củng cố niềm tin của họ đối với Đảng và Nhà nước.Nhất là
những bản, thôn xa trung tâm. Hơn nữa, thông qua công tác chính trị tư tưởng
để nâng cao SCĐ của từng đảng viên góp phần bảo vệ Đảng, bảo vệ đất nước;
đấu tranh, phê phán, uốn nắn kịp thời những quan điểm, những nhận thức lệch
lạc. Do vậy, các chi bộ thôn ở huyện Yên Sơn phải coi công tác tư tưởng là
nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong công tác xây dựng Đảng.
- Đẩy mạnh công tác phát triển Đảng, nhất là ở những nơi còn ít đảng
viên, những địa bàn trọng yếu, chú ý phát triển Đảng tại chỗ: những đoàn viên
ưu tú, những cá nhân có thành tích xuất sắc trong các phong trào, lực lượng
dân quân tự vệ, dân phòng v.v...
- Phải đổi mới phương thức họat động của chi ủy, xây dựng và thực hiện
tốt quy chế hoạt động. Các chi bộ ấp phải xác định đúng đắn trọng tâm nhiệm


vụ và sát hợp với tình hình thực tiễn: chuyễn dịch cơ cấu nông nghiệp, xây
dựng đời sống văn hoá mới, giữ gìn an ninh trật tự.
- Chi bộ phải duy trì thường xuyên chế độ họp, sinh họat trong chi ủy,
chi bộ để phổ biến kịp thời những chủ trương, đường lối, chính sách, pháp
luật của Nhà nước và nắm bắt thông tin, những phản ánh kịp thời, chính xác
để có những quyết sách thích hợp.
- Các chi bộ thôn cần quan tâm chăm lo, xây dựng các tổ chức quần
chúng nhằm làm cho các tổ chức này họat động có hiệu quả và là nòng cốt
trong các phong trào. Chi bộ thôn tăng cường những đảng viên có năng lực,
trình độ và phẩm chất đạo đức tốt để lãnh đạo các tổ chức này. Quan tâm giới
thiệu những cá nhân ưu tú trong các tổ chức quần chúng nhằm làm nòng cốt,

nhân tố để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị.
- Phát triển đội ngũ đảng viên trẻ, có tri thức, sự nhạy bén, sang tạo trong
cách làm việc.
- Các tổ chức cấp ủy cấp trên cần phải sát sao với các chi bộ thôn để có
sự uốn nắn, điều chỉnh cũng như giúp đỡ kịp thời trong các tình huống cần
thiết.
Có như ậy mới xây dựng được các chi bộ thôn vững mạnh cả về số
lượng lẫn chất lượng, xứng đáng là lực lượng nòng cốt, “tế bào sống” của
Đảng.


×