LUẬN VĂN:
Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
các chi bộ ấp ở huyện Hóc Môn, TP
HCM hiện nay- thực trạng và giải pháp
MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay, Đảng ta nhất quán xác định “Phát triển
kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt”. Sự nghiệp đổi
mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước theo định hướng XHCN là sự
nghiệp cách mạng to lớn được thực hiện trong điều kiện vừa có thời cơ và thuận lợi, vừa
có khó khăn và thách thức đan xen. Để thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới, vì mục tiêu
“Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, đòi hỏi Đảng phải tiếp tục
xây dựng và chỉnh đốn bảo đảm cho Đảng thực sự vững mạnh ngang tầm với nhiệm vụ
trong tình hình mới.
Chi bộ nói chung và chi bộ ấp nói riêng là nền tảng của Đảng, là hạt nhân chính trị ở
địa bàn dân cư, là cầu nối giữa Đảng với nhân dân. Chi bộ ấp có vị trí, vai trò quan trọng
trong hệ thống tổ chức và hoạt động của Đảng; trong quá trình thực hiện thắng lợi các
chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Nhận thức được vị
trí, vai trò và tầm quan trọng đó, Đảng ta đã đặc biệt quan tâm đến việc củng cố, xây
dựng và chỉnh đốn Đảng để nâng cao NLLĐ và SCĐ của các TCCSĐ nói chung và chi
bộ ấp nói riêng; nhất là từ khi thực hiện Nghị quyết TW 3 (khóa VII ) về “Một số nhiệm
vụ đổi mới và chỉnh đốn Đảng” và Nghị quyết TW 6 lần 2 ( khóa VIII) về “Một số vấn
đề cơ bản và cấp bách trong công tác xây dựng Đảng hiện nay”. Qua thời gian thực hiện,
chất lượng của các TCCSĐ nói chung và chi bộ ấp nói riêng đã được nâng lên, số lượng
chi bộ ấp trong sạch vững mạnh ngày càng tăng, số lượng chi bộ ấp yếu kém giảm dần.
Nhiều chi bộ ấp đã lãnh đạo và thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ của mình, góp phần to
lớn trong công cuộc đổi mới, trong sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn,
trong thực hiện QCDCCS, trong phong trào tự quản của cộng đồng dân cư.
Tuy nhiên, so với yêu cầu đặt ra trong tình hình mới hiện nay, vẫn còn không nhỏ số
lượng chi bộ ấp chưa đủ NLLĐ và SCĐ ngang tầm với nhiệm vụ mới. Tình trạng mất
đoàn kết, kèn cựa, thiếu hợp tác trong cấp ủy vẫn còn xảy ra; chế độ sinh hoạt, chế độ tự
phê bình và phê bình không được duy trì thường xuyên và nghiêm túc; nguyên tắc tập
trung dân chủ chưa được tôn trọng; vẫn còn đ ảng viên suy thoái về đạo đức, lối sống vẫn
còn. Nhiều vụ việc tiêu cực, vi phạm điều lệ Đảng và pháp luật không được phát hiện và
xử lý kịp thời; một số vụ việc phát hiện nhưng việc xử lý không đến nơi, đến chốn. Đáng
chú ý là tình trạng chạy theo thành tích, phô trương hình thức vẫn còn xảy ra phổ biến, có
nhiều chi bộ ấp đạt “trong sạch, vững mạnh” nhưng thực tế chất lượng và hiệu quả của
thực hiện nhiệm vụ thấp.
Trong những năm gần đây, Đảng bộ huyện Hóc Môn đã rất chú trọng tới công tác
xây dựng và chỉnh đốn Đảng, nhìn chung các chi bộ ấp đã có chuyển biến tích cực; số
lượng chi bộ ấp trong sạch, vững mạnh ngày càng nhiều góp phần to lớn thực hiện thắng
lợi nhiệm vụ chính trị đã đề ra, nhất là trong phát triển kinh tế - xã hội, trong CNH, HĐH
nông nghiệp và nông thôn tr.
Vì vậy, việc nghiên cứu, đánh giá thực trạng, tìm hiểu nguyên nhân của những kết
quả đạt được cũng như những tồn tại, hạn chế NlLĐ và SCĐ của chi bộ ấp ở huyện Hóc
Môn, để từ đó xây dựng những giải pháp nhằm đáp ứng yêu cầu đặt ra trong tình hình
mới là rất cần thiết và cấp bách cả về lý luận lẫn thực tiễn. Với những lý do nói trên, tác
giả chọn đề tài “Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các chi bộ ấp ở huyện Hóc
Môn, TP HCM hiện nay- thực trạng và giải pháp” làm luận văn thạc sĩ chuyên ngành
xây dựng Đảng cộng sản Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Kể từ khi thành lập đến nay, Đảng ta luôn quan tâm đến công tác xây dựng và chỉnh
đốn Đảng, nhất là từ khi thực hiện Nghị quyết TW 3 (khóa VII) về “ Một số nhiệm vụ đổi
mới và chỉnh đốn Đảng” và Nghị quyết TW 6 lần 2 ( khóa VIII) về “ Một số vấn đề cơ
bản và cấp bách trong công tác xây dựng Đảng hiện nay”. Chính vì vậy, có rất nhiều cá
nhân, tập thể và cơ quan khoa học đã chọn đề tài nâng cao NLLĐ và SCĐ để nghiên cứu
khoa học, khai thác và sử dụng kết quả này. Nổi bật trong số những bài viết, công trình
liên quan trong những năm gần đây:
-Đề tài khoa học cấp bộ: “Thực trạng và những yêu cầu xây dựng TCCSĐ ở nông
thôn một số tỉnh miền núi, vùng cao phía Bắc nước ta hiện nay”, do tác giả Nguyễn Minh
Bích làm chủ nhiệm, Hà Nội, tháng 10 năm 1998. Đề tài tập trung phân tích thực trạng
TCCSĐ và xây dựng một số giải pháp để củng cố và kiện toàn các TCCSĐ ở vùng núi,
cao phía Bắc tổ quốc.
- Đề tài luận án phó tiến sĩ về “Nâng cao chất lượng TCCSĐ nông thôn( cấp xã)
vùng đồng bằng sông Hồng” của tác giả Đỗ Ngọc Ninh( 1995). Tác giả tập trung phân
tích, đánh giá thực trạng chất lượng và đề ra những giải pháp nâng cao chất lượng
TCCSĐ ở vùng đồng bằng sông Hồng.
- Đề tài luận án tiến sĩ của tác giả Nguyễn Đức Ái (2001) “Nâng cao NLLĐ và SCĐ
của tổ chức cơ sở Đảng nông thôn vùng cao phía Bắc trong thời kỳ đẩy mạnh CNH,
HĐH đất nước”. Tác giả tập trung làm những rõ cơ sở lý luận và thực trạng NLLĐ và SCĐ,
từ đó tác giả đưa ra những những giải pháp cơ bản để nâng cao NLLĐ và SCĐ của TCCSĐ
ở nông thôn vùng cao phía Bắc.
- Một số đề tài luận văn thạc sĩ: “Nâng cao NLLĐ và SCĐ của các Đảng bộ xã ở
huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang trong giai đọan hiện nay” của tác giả Dương Trung Ý
(2002); “Nâng cao NLLĐ và SCĐ của các chi bộ phân đội chiến đấu phòng không thuộc
quân chủng phòng không- không quân trong giai đọan hiện nay” của tác giả Nguyễn Học
(2001); “Năng lực lãnh đạo và SCĐ của tổ chức cơ sở Đảng nông thôn vùng có đông
đồng bào công giáo ở tỉnh Nam Định trong giai đoạn hiện nay- Thực trạng và giải pháp”
của tác giả Bùi Hữu Dược( 2003); “Nâng cao NLLĐ và SCĐ của các tổ chức cơ sở Đảng
ở xã thuộc tỉnh Tây Ninh hiện nay” của tác giả Phùng Đức Thái (2000); “Nâng cao
NLLĐ và SCĐ của các tổ chức cơ sở Đảng nông thôn tỉnh Long An hiện nay” của tác giả
Nguyễn Văn Dũng (2000)v.v…
Ngoài một số bài viết được đăng tải trên các sách báo, tạp chí còn có một số sách
tham khảo: “Nâng cao NLLĐ và SCĐ của Đảng trong thời kỳ mới”GS,TS Nguyễn Phú
Trọng, PGS,TS Tô Huy Rứa và PGS, TS Trần Khắc Việt đồng chủ biên-Nxb CTQG-Hà
Nội-2004; “Nâng cao NLLĐ và SCĐ của các Đảng bộ phường ở thủ đô Hà Nội hiện
nay” của tập thể tác giả, PGS, TS Đỗ Ngọc Ninh chủ biên, Nxb CTQG, Hà Nội- năm
2004 v.v…
Các công trình nghiên cứu trên đã góp phần làm sáng tỏ cả về lý luận và thực tiễn về
TCCSĐ. Tuy nhiên, chưa có công trình nghiên cứu khoa học nào đi sâu nghiên cứu
NLLĐ và SCĐ của chi bộ ấp; có thể nói “Nâng cao NLLĐ và SCĐ của các chi bộ ấp ở
hyện Hóc Môn, TP HCM hiện nay- thực trạng và giải pháp” là đề tài khoa học đầu tiên
nghiên cứu về chi bộ ấp ở TP HCM .
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
- Mục đích của luận văn là góp phần nâng cao NLLĐ và SCĐ của các chi bộ ấp ở
huyện Hóc Môn, TP HCM trong giai đoạn hiện nay.
- Để đạt được mục đích đó, luận văn thực hiện một số nhiệm vụ sau:
+ Làm rõ những vấn đề lý luận và quan điểm nâng cao NLLĐ và SCĐ của chi bộ
ấp: khái niệm, xây dựng tiêu chí đánh giá v.v…
+ Khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng, nguyên nhân của những kết quả đạt được
và những tồn tại, hạn chế và những kinh nghiệm trong thời gian qua của NLLĐ và SCĐ
của các chi bộ ấp huyện Hóc Môn, TP HCM.
+ Trên cơ sở đó, xác định phương hướng và đề xuất những giải pháp chủ yếu để nâng
cao NLLĐ và SCĐ của các chi bộ ấp ở huyện Hóc Môn, TP HCM.
-Phạm vi nghiên cứu: luận văn tập trung nghiên cứu các chi bộ ấp ở huyện Hóc
Môn, TP HCM . Các số liệu dùng để phân tích thực trạng các chi bộ ấp ở huyện Hóc
Môn được tác giả khảo sát và tổng hợp theo báo cáo hàng năm của Ban tổ chức và Ủy
ban kiểm tra Huyện Ủy huyện Hóc Môn từ năm 2001 đến 2004.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của luận văn.
- Cơ sở lý luận và thực tiễn: Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận chủ nghĩa
Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng, các chủ trương, đường lối của
Đảng về xây dựng và chỉnh đốn Đảng, nhất là về NLLĐ và SCĐ của các TCCSĐ. Đồng
thời, Luận văn còn dựa trên cơ sở thực tiễn trong công cuộc đổi mới, xây dựng và chỉnh
đốn Đảng ở huyện Hóc Môn, TP HCM để rút ra những vấn đề cơ bản phục vụ cho luận
văn.
-Phương pháp nghiên cứu: Tác giả luận văn sử dụng chủ yếu các phương pháp luận
của chủ nghĩa Mác-Lênnin để thực hiện đề tài. Đối với những phương pháp nghiên cứu
cụ thể, tác giả tập trung sử dụng: Phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương
pháp khảo sát kết hợp với điều tra, phương pháp lôgic, phương pháp thống kê, phương
pháp so sánh, phương pháp lịch sử, phương pháp quy nạp, kết hợp nghiên cứu lý luận với
tổng kết thực tiễn v.v…
5. Những đóng góp mới của Luận văn
-Trên cơ sở lý luận và thực tiễn, tác giả đã xây dựng khái niệm về NLLĐ của chi bộ
ấp, xây dựng những tiêu chí đánh giá chất lượng NLLĐ và SCĐ của chi bộ ấp.
- Đánh giá đúng thực trạng, tìm ra những nguyên nhân những kết quả làm được,
những tồn tại, hạn chế đối với NLLĐ và SCĐ của chi bộ ấp ở huyện Hóc Môn, TP HCM.
-Tác giả đã đề xuất một số giải pháp chủ yếu có tính khả thi nhằm góp phần nâng
cao NLLĐ và SCĐ của chi bộ ấp ở huyện Hóc Môn, TP HCM.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn.
-Cung cấp luận cứ khoa học và làm tài liệu tham khảo trong quá trình nâng cao
NLLĐ và SCĐ của chi bộ ấp ở huyện Hóc Môn nói riêng và TP HCM nói chung trong
thời gian tới.
-Những kết quả nghiên cứu trong luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc
nghiên cứu, giảng dạy, bồi dưỡng cho các trường chính trị; đồng thời làm tài liệu bồi
dưỡng cho các cấp ủy, nhất là những chi ủy viên và đảng viên của chi bộ ấp.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần phụ lục và mở đầu, kết luận, những công trình tác giả đã công bố, tài
liệu tham khảo, luận văn gồm 03 chương, 08 tiết.
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO VÀ
SỨC CHIẾN ĐẤU CỦA CHI BỘ ẤP
1.1. CHI BỘ ẤP LÀ HẠT NHÂN CHÍNH TRỊ Ở ĐỊA BÀN DÂN CƯ, LÀ
CẦU NỐI GIỮA ĐẢNG VỚI NHÂN DÂN
1.1.1. Vị trí, vai trò, tổ chức, chức năng và nhiệm vụ của chi bộ
1.1.1.1. Vị trí, vai trò
C.Mác và Ph.Ăngghen ngay từ khi xây dựng tổ chức cộng sản đầu tiên của giai cấp
công nhân đã chỉ ra vị trí, vai trò đặc biệt của chi bộ Đảng. Thật vậy, ngay khi tham gia
vào việc cải tổ “Đồng minh những người chính nghĩa” (1836) thành “Liên đoàn những
người cộng sản” (1847 – 1852) điều lệ đã được khởi thảo. Thông qua điều lệ, những
quan điểm và tư tưởng cơ bản của C.Mác và Ph.Ăngghen về xây dựng Đảng đã được
trình bày khá đầy đủ. Lần đầu tiên luận điểm xây dựng Đảng đã xác định “về cơ cấu, liên
đoàn, chi bộ, khu bộ, tổng bộ, Ban chấp hành trung ương và Đại hội 37, tr .733.
Đối với tổ chức và hoạt động của Liên đoàn cũng được quy định hết sức chặt chẽ:
Để trở thành hội viên của Liên đoàn, ngoài các điều kiện cần, còn nhất thiết phải có
“được một chi bộ nhất trí kết nạp”, “việc kết nạp hội viên mới của liên đoàn do chủ tịch
chi bộ và hội viên giới thiệu của liên đoàn tiến hành, với điều kiện là đã có sự đồng ý
trước của chi bộ” 37, tr.732- 733. Điều đó cho thấy, hội viên của Liên đoàn phải sinh
hoạt ở một tổ chức cấp cơ sở của Liên đoàn đó là chi bộ. Hơn nữa, điều lệ không những
quy định đối với hội viên mà còn có cả đối với tổ chức của chi bộ: “Chi bộ gồm ít nhất
là 3 và nhiều nhất là 20 hội viên của liên đoàn”, “…… sống trong cùng một địa
phương”. Đối với lãnh đạo và cơ quan lãnh đạo của liên đoàn được tiến hành dân chủ,
lãnh đạo kịp thời và bắt đầu từ chi bộ.
Mỗi chi bộ bầu Chủ tịch và Phó Chủ tịch…Các Chủ tịch và Phó Chủ
tịch của các chi bộ ấy họp thành Ban Chấp hành khu bộ. Ban Chấp hành bầu
ra người lãnh đạo trong số ủy viên của mình. Ban Chấp hành khu bộ liên lạc
với các chi bộ của mình và với tổng bộ. Ban Chấp hành khu bộ là cơ quan
quyền lực đối với tất cả các chi bộ thuộc khu bộ
37, tr 733-734
Như vậy, những tư tưởng, quan điểm lãnh đạo, tổ chức và trong thực hiện lãnh đạo
của hai Ông về vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng của chi bộ đã khẳng định:
Để khỏi tụt xuống làm vai trò của kẻ vỗ tay, hoan nghênh bọn dân chủ tư sản,
công nhân và trước hết là liên đoàn phải cố gắng thành lập song song với phái dân
chủ chính thức một tổ chức Đảng riêng biệt, bí mật và công khai của công nhân và
biến mỗi chi bộ thành trung tâm và hạt nhân của các Hội liên hiệp công nhân [
39, tr. 348
.
Những tư tưởng quan điểm cơ bản của C.Mác và Ph.Ăngghen, được VI.Lênin lấy
làm cơ sở, vận dụng, phát triển có sáng tạo thành hệ thống những tư tưởng, quan điểm về
Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân Nga. Cơ sở của Đảng vô sản của nước Nga là
“liên minh đấu tranh giải phóng giai cấp công nhân” do V.I.Lênin thành lập năm 1858.
Trong tác phẩm “về việc cải tổ Đảng” và nhiều tác phẩm khác của Người, cũng như
trong bài báo “Đi vào con đường thẳng”, Người đã thể hiện tư tưởng xuyên suốt là các
chi bộ Đảng ở các công xưởng, nhà máy là nền tảng, trên đó cả tòa nhà của Đảng
Bônsêvích được xây dựng. V.I. Lênin đã nhấn mạnh và đặc biệt quan tâm đến việc thành
lập chi bộ Đảng công nhân dân chủ - xã hội Nga ở nhà máy, công xưởng, các địa phương
và coi trọng việc xây dựng các chi bộ đã trở thành hạt nhân lãnh đạo ở cơ sở.
Những chi bộ Đảng ở các địa phương và nhất là ở các nhà máy dưới sự
lãnh đạo của các phần tử tiên tiến xuất thân ngay từ hàng ngũ công nhân và
sâu sát với quần chúng. Đó là cơ sở mà trên đó chúng ta đã xây dựng và xây
dựng hạt nhân vững chắc không gì lay chuyển nổi của phong trào công nhân
cách mạng và dân chủ - xã hội . 35, tr .8.
Với V.I.Lênin, tổ chức Đảng được xây dựng ở nhà máy, công xưởng phải trở thành
chỗ dựa cho công tác tuyên truyền, cổ động và công tác tổ chức thực tiễn trong quần
chúng. Chính từ đặc điểm đó, chi bộ Đảng đã trở thành cầu nối Đảng với các cơ quan
cấp trên của Đảng với quần chúng, trực tiếp liên hệ với quần chúng, là nơi phản ánh kịp
thời tâm tư nguyện vọng và những kiến nghị chính đáng của quần chúng với Đảng. Đến
Cách mạng Tháng Mười Nga, ngoài những chi bộ ở nhà máy, công xưởng còn có các chi
bộ theo lãnh thổ, ở các câu lạc bộ. Chính điều này, đã thể hiện quan điểm nhất quán của
Người và là một đòn giáng vào những lời nói ấu trĩ của bọn tư sản cho rằng Đảng
Bônsêvích hình như được xây dựng không phải như một Đảng của giai cấp công nhân
mà chỉ là một Đảng tri thức.
Để khẳng định quan điểm, tư tưởng nhất quán đó, Hội nghị lần thứ VIII toàn Nga
của Đảng Cộng sản Nga (đây là hội nghị đầu tiên sau khi cách mạng tháng Mười Nga
thắng lợi và chính quyền Xô Viết được thành lập) Điều lệ Đảng đã được bổ sung và
khẳng định: “Cơ sở của tổ chức Đảng là chi bộ Đảng”. Điều lệ còn nói rõ: “Các chi bộ
được thành lập ở các xí nghiệp, các làng, các đơn vị Hồng quân và các cơ quan”.
Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, thực tiễn
hơn 70 năm xây dựng và trưởng thành đã khẳng định: Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh
luôn trung thành với những tư tưởng, quan điểm cơ bản của học thuyết Mác-Lênin về
Đảng và đã vận dụng những quan điểm tư tưởng ấy một cách sáng tạo, phù hợp với thực
tế nước ta để xây dựng Đảng; đồng thời, thường xuyên tổng kết kinh nghiệm thực tiễn,
khái quát lên tầm lý luận, bổ sung làm phong phú thêm kho tàng lý luận Mác – Lênin về
xây dựng Đảng.
Mặc dù ra đời ở một nước nửa thuộc địa, nửa phong kiến, giai cấp công nhân còn
nhỏ bé nhưng ngay từ đầu, Đảng ta đã xác định vị trí của Đảng và hệ thống tổ chức của
Đảng. Điều lệ đầu tiên Đảng Cộng sản Đông Dương đã xác định: “Chi bộ gồm tất cả
đảng viên trong một nhà máy, một công xưởng, một hầm mỏ, một sở xe lửa, một chiếc
tàu, một đồn điền, một đường phố….” 20, tr. 22. Đảng Cộng sản Đông Dương đã xác
định: “Căn bản tổ chức của Đảng là chi bộ (nhà máy, công sở, nhà buôn, trường học)
tất cả Đảng viên làm ở trong những chỗ ấy đều phải dựa vào chi bộ” 9, tr. 72 .
Chủ tịch Hồ Chí Minh, Người sáng lập tổ chức Đảng phân tích khá sâu sắc vị trí,
vai trò của chi bộ: “Chi bộ là nền móng của Đảng, chi bộ tốt thì mọi việc sẽ tốt” 43, tr.
210. Người còn nhấn mạnh mối quan hệ giữa chất lượng chi bộ với chất lượng toàn
Đảng. Theo Người, để lãnh đạo cách mạng thì Đảng phải mạnh “Đảng mạnh là do chi
bộ tốt” 43, tr. 210, “chi bộ là nền móng của Đảng, chi bộ tốt thì mọi việc sẽ tốt”,
ngược lại “xây dựng chi bộ tốt, cho vững mạnh là một việc vô cùng quan trọng” 43, tr.
77. Như vậy, chất lượng của chi bộ có quan hệ chặt chẽ và biện chứng với chất lượng
của Đảng. Đối với quần chúng, Người viết “chi bộ là gốc rễ của Đảng trong quần
chúng. Chi bộ tốt thì mọi chính sách của Đảng đều được thi hành tốt, mọi công việc đều
tiến bộ không ngừng. Trái lại, chi bộ yếu kém thì công việc không trôi chảy”
42, tr.
161.
Trong quá trình xây dựng Đảng, Đảng ta luôn luôn xác định chi bộ có một vị trí,
vai trò quan trọng: là hạt nhân lãnh đạo chính trị, là cầu nối quan trọng giữa Đảng với
quần chúng, vận động quần chúng thực hiện đường lối, chính sách của Đảng. Đồng chí
Lê Duẩn - cố Tổng Bí thư của Đảng đã viết:
Nói đến xây dựng Đảng, trước hết phải nói đến xây dựng chi bộ, vì chi bộ
là tổ chức cơ sở Đảng, là nơi gắn liền Đảng với quần chúng, là nơi vận động
quần chúng thực hiện đường lối, chính sách của Đảng… Chi bộ còn là nơi giáo
dục rèn luyện Đảng viên, mọi nhân tài của Đảng, trước hết nảy nở ở chi bộ và từ
đó mà đưa dần lên cấp lãnh đạo Đảng từ huyện, tỉnh cho tới Trung ương 14,
tr.154.
Quán triệt chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã vận dụng
thành công vào thực tiễn công tác xây dựng Đảng, nhất là tổ chức cơ sở Đảng đảm
bảo cho Đảng ta lãnh đạo con thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua bao thác ghềnh
để đi đến thắng lợi. Đặc biệt, trong tình hình đổi mới hịên nay, vị trí, vai trò nền tảng
của chi bộ Đảng còn được thể hiện hơn bao giờ hết. Thật vậy, qua các Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII và IX cũng đã thể hiện rõ, cụ thể tại Điều lệ Đảng
Cộng sản Việt Nam được Đại hội Đảng lần thứ IX thông qua đã xác định: “Tổ chức
cơ sở Đảng (chi bộ cơ sở, Đảng bộ cơ sở) là nền tảng của Đảng, là hạt nhân chính trị
ở cơ sở” 17, tr 31.
Qua những vấn đề đã trình bày ở trên cho thấy, mỗi chi bộ là một tế bào cấu
thành cơ thể sống và là yếu tố bảo đảm cho sự phát triển bền vững của toàn Đảng.
Hơn nữa, chi bộ không những là tế bào cấu thành cơ thể sống, các chi bộ còn là tế
bào cơ sở, nền tảng của toàn bộ sự sống của Đảng gắn chặt với đời sống xã hội.
Chính vì vậy, mà chi bộ trở thành hạt nhân lãnh đạo chính trị của Đảng trong quần
chúng, trực tiếp đưa đường lối chủ trương của Đảng vào quần chúng và tổ chức thực
hiện đường lối ấy, đồng thời qua hiện thực sinh động của cuộc sống, từ tâm tư
nguyện vọng của quần chúng để phản ảnh với Đảng. Hơn nữa, chi bộ Đảng là nơi
hàng ngày đảng viên sinh hoạt, học tập, chiến đấu, là trường học giáo dục rèn luyện
đảng viên, nơi sàng lọc đảng viên và giới thiệu quần chúng ưu tú cho Đảng. Ngày
nay, trong công cuộc đổi mới đất nước, thực tế cho thấy nơi nào có tổ chức cơ sở
Đảng trong sạch, vững mạnh, nội bộ đoàn kết thì nơi đó thực hiện mọi đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng, kịp thời và hiệu quả, kinh tế - xã hội được nâng lên rõ
rệt, an ninh chính trị và trật tự xã hội được giữ vững, lòng tin của dân đối với Đảng
không ngừng được củng cố và nâng lên, quan hệ Đảng với quần chúng ngày càng thắt
chặt. Ngược lại, nơi nào chi bộ yếu kém, mất đoàn kết, đảng viên không gương mẫu
và tiên phong thì lòng tin đối với Đảng bị giảm sút, tiềm năng, thế mạnh của địa
phương không được khai thác, chủ trương, đường lối của Đảng thực hịên không đến
nơi, đến chốn, dân chủ cơ sở không được thực hiện, quyền làm chủ của nhân dân bị vi
phạm.
1.1.1.2 Chức năng, nhiệm vụ của chi bộ
* Chức năng
Điều 24 Điều lệ Đảng do Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX thông qua ngày 22
tháng 4 năm 2001 quy định chức năng của chi bộ như sau:
Chi bộ lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị của đơn vị, giáo dục, quản
lý và phân công công tác cho đảng viên, làm công tác vận động quần chúng
và công tác phát triển đảng viên, kiểm tra, thi hành kỷ luật Đảng viên, thu
nộp Đảng phí. Chi bộ, chi ủy họp thường lê mỗi tháng một lần 17, tr. 36.
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng, các Nghị quyết của
Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) đã quy định rất cụ thể chức năng của các
loại hình tổ chức cơ sở Đảng như chi bộ, Đảng bộ cơ sở ở nông thôn, phường, đơn vị sự
nghiệp, trong các doanh nghiệp nhà nước, cơ quan, các đơn vị cơ sở quân sự, công an,
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp tư nhân. Trên cơ sở quy định
chức năng, nhiệm vụ của từng tổ chức cơ sở Đảng mà lãnh đạo thực hịên nhiệm vụ cụ
thể. Điều 1 Quy định số 95-QĐ/TW ngày 03/3/2005 của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng quy định về chức năng Đảng bộ, chi bộ cơ sở xã.
Đảng bộ, chi bộ cơ sở xã là hạt nhân chính trị, lãnh đạo thực hiện
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, lãnh
đạo phát triển kinh tế -xã hội; xây dựng hệ thống chính trị ở xã vững mạnh,
nông thôn giàu đẹp, văn minh, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần của nhân dân, động viên nhân dân làm tròn nghĩa vụ đối với Nhà
nước. 19
Chức năng của tổ chức cơ sở Đảng nói chung và chức năng của chi bộ bộ phận nói
riêng là lãnh đạo thực hiện các nhịêm vụ theo đúng đường lối, chủ trương của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước đạt hiệu quả cao, không ngừng cải thiện đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân, hoàn thành nghĩa vụ với Nhà nước.
Bất kỳ chủ trương, giải pháp nào đề ra và quá trình lãnh đạo tổ chức thực hiện
nhiệm vụ, tổ chức cơ sở Đảng nói chung và chi bộ bộ phận nói riêng phải luôn luôn đảm
bảo tính chính trị, giữ vững định hướng XHCN. Đồng thời tạo sự phát triển về mọi mặt:
kinh tế, chính trị, xã hội; nâng cao hiệu quả công tác chống tham nhũng, hối lộ, vi phạm
dân chủ, kịp thời giải quyết những nguyện vọng chính đáng, thiết thực, bức xúc của nhân
dân.
Đảng lãnh đạo trực tiếp, toàn diện và duy nhất, không có lĩnh vực nào trong xã hội:
kinh tế, văn hóa, khoa học v.v… không có sự lãnh đạo của Đảng; Đảng là hạt nhân chính
trị, tổ chức cơ sở Đảng nói chung và chi bộ bộ phận nói riêng đều phải hết sức nhạy cảm,
nắm vững những vấn đề chung và những vấn đề cụ thể để có những chủ trương, nghị
quyết lãnh đạo đúng đắn và sâu sát với tình hình thực tiễn. Thực tế cho thấy, một số nơi,
một số địa phương do không làm tốt chức năng lãnh đạo nên dẫn đến tham ô, hối lộ, mất
dân chủ, chia rẽ nội bộ, nhiều năm liền không đạt trong sạch, vững mạnh.
Trong quá trình đổi mới đất nước hiện nay, chức năng lãnh đạo của tổ chức cơ sở
Đảng, chi bộ bộ phận còn thể hiện ở việc phải biến được các đường lối, chủ trương của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước thành hiện thực và đi vào cuộc sống.
* Nhiệm vụ
Cũng như chức năng, nhịêm vụ của tổ chức cơ sở Đảng nói chung và chi bộ nói
riêng tùy theo hình thức các cấp mà có nhiệm vụ riêng. Tuy nhiên, tất cả các tổ chức cơ
sở Đảng đều có nhiệm vụ chung như điều 23 Điều lệ Đảng đã được Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ IX quy định:
1/ Chấp hành đường lối, chính sách của Đảng, pháp lụât của Nhà nước,
đề ra chủ trương, nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ, chi bộ và lãnh đạo thực
hiện có hiệu quả.
2/ Xây dựng Đảng bộ, chi bộ trong sạch vững mạnh về chính trị, tư
tưởng và tổ chức, thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ, nâng cao
chất lượng sinh hoạt Đảng, thực hiện tự phê bình và phê bình, giữ gìn kỷ luật
và tăng cường đoàn kết thống nhất trong Đảng, thường xuyên giáo dục, rèn
luyện và quản lý cán bộ đảng viên, nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng,
tính chiến đấu, trình độ kiến thức, năng lực công tác, làm công tác phát triển
đảng viên.
3/ Lãnh đạo xây dựng chính quyền, các tổ chức kinh tế, hành chính, sự
nghiệp, quốc phòng, an ninh và các đoàn thể chính trị - xã hội trong sạch,
vững mạnh, chấp hành đúng pháp luật và phát huy quyền làm chủ của nhân
dân.
4/ Liên hệ mật thiết với nhân dân, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần
và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân, lãnh đạo nhân dân tham gia xây
dựng và thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà
nước.
5/ Kiểm tra việc thực hiện, bảo đảm các nghị quyết, chỉ thị của Đảng và pháp
luật của Nhà nước được chấp hành nghiêm chỉnh, kiểm tra tổ chức Đảng và đảng
viên chấp hành điều lệ Đảng.
Đảng ủy cơ sở nếu được cấp ủy cấp trên trực tiếp ủy quyền thì được
quyết định kết nạp và khai trừ đảng viên 17, tr. 34.
Trên cơ sở các nhịêm vụ nói trên, tổ chức cơ sở Đảng ở các địa bàn và các lĩnh vực
hoạt động khác nhau cần cụ thể hóa thành những nhiệm vụ phù hợp với tình hình, đặc
điểm của mình và trong từng giai đoạn nhất định. Cụ thể như Đảng bộ, chi bộ ở nông
thôn có nhiệm vụ: quán triệt và thực hiện CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn, phát
huy vai trò kinh tế hộ gia đình; đồng thời từng bước xây dựng kinh tế hợp tác phát triển
từ thấp đến cao, phù hợp yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất, phát triển sự nghiệp
văn hóa, thông tin, giáo dục, y tế, dân số và kế hoạch hóa gia đình, thực hiện chính sách
xã hội, tăng hộ giàu, giảm hộ nghèo, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân
dân, động viên nhân dân hoàn thành nghĩa vụ đối với nhà nước, lãnh đạo phát huy dân
chủ, thực hiện công bằng xã hội, chống tham nhũng, ức hiếp nhân dân, lấn chiếm ruộng
đất, cho vay nặng lãi; lãnh đạo tốt nhịêm vụ quốc phòng an ninh, giữ gìn an ninh chính
trị, trật tự an toàn xã hội v.v… xây dựng nông thôn mới giàu đẹp, văn minh.
Tóm lại, 5 nhiệm vụ của các chi bộ, Đảng bộ cơ sở được thể hiện trên các lĩnh vực
sau:
Một là, lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị.
Hai là, lãnh đạo công tác tư tưởng.
Ba là, lãnh đạo công tác tổ chức và cán bộ
Bốn là, lãnh đạo các đoàn thể nhân dân.
Năm là, xây dựng Đảng bộ, chi bộ trong sạch vững mạnh.
1.1.2. Vị trí, vai trò của ấp và chi bộ ấp
1.1.2.1. Vị trí, vai trò và đặc điểm của ấp
Sau khi công xã thị tộc tan rã, người Việt với cuộc sống nông nghiệp với nghề
trồng lúa nước, lại liên tục chinh phục thiên nhiên và phải đối phó với môi trường xã hội,
do vậy, họ phải cần hợp tác, liên kết chặt chẽ với nhau, quan hệ xóm làng trở nên hết sức
gần gũi, thân thiết. Làng xã Việt Nam chính là sản phẩm của tổ chức sinh hoạt nông thôn
theo địa bàn cư trú, sản phẩm của tính cộng đồng “trong sinh hoạt nông thôn chính là
một tập thể”. Làng xã mang tính tự trị, nó khẳng định sự độc lập, nét riêng biệt của từng
cộng đồng: mỗi làng, mỗi tập thể hoạt động độc lập với các tập thể khác, có quy ước
riêng, lề thói sinh hoạt riêng nên tinh thần tự quản trong cộng đồng rất mạnh mẽ. Do
vậy, có thể hiểu khái quát về ấp như sau: Ấp là cụm dân cư trên địa bàn xã, được hình
thành tự nhiên trong quá trình hình thành và phát triển của cộng đồng dân cư. Ấp có hai
đặc trưng cơ bản: tính cộng đồng và tính tự trị, đây là một nét văn hóa Việt Nam, tiềm
tàng sức sống mãnh liệt. Các triều đại phong kiến trong lịch sử và sau này các kẻ thù
xâm lược Pháp và Mỹ đã nhiều lần tìm cách phá bỏ nhưng đều thất bại.
Với những giá trị như vậy, vị trí, vai trò ấp (thôn, làng…) ngày càng được củng cố
và phát huy mạnh mẽ, nhất là trong công cuộc đổi mới đất nước. Hội nghị lần thứ 5 Ban
Chấp Trung ương Đảng khoá IX “Về đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị
cơ sở xã, phường, thị trấn” quy định: “Thôn, làng, ấp, bản, sóc( gọi chung là thôn) là
địa bàn quan trọng để phát huy các hình thức tự quản của cộng đồng dân cư trên cơ sở
huyết thống gắn bó trong đời sống vật chất và văn hoá.”[ 4, tr .89]
Hay tại điều 1 quy chế tổ chức và hoạt động của thôn và tổ dân phố ngày 6/12/2002
của Bộ trưởng Bộ Nội vụ (ban hành kèm theo Quyết định số 13/2002/QĐ-BNV ngày
6/12/2002) quy định:
Thôn, làng, ấp, bản, buôn, phum, sóc…(gọi chung là thôn), tổ dân phố,
khu phố, khóm…(gọi chung là tổ dân phố) không phải là cấp hành chính mà
là tổ chức tự quản của cộng đồng dân cư, nơi thực hiện dân chủ một cách
trực tiếp và rộng rãi để phát huy các hình thức hoạt động tự quản và tổ chức
nhân dân thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật
của nhà nước và nhiệm vụ của cấp trên giao. Dưới xã là thôn, dưới phường,
thị trấn là tổ dân phố [ 12].
Trước hết, khẳng định ấp( thôn) không phải là một cấp hành chính trong hệ thống
hành chính ở nước ta. Bởi vì, tại điều 118 Hiến pháp 1992 (sửa đổi) quy định hệ thống
hành chính của nước ta gồm 4 cấp: Trung ương, tỉnh (thành phố), huyện (quận) và xã
(phường). Về cơ cấu tổ chức, mổi ấp có 01 trưởng ấp và phó ấp( giúp việc cho trưởng
ấp), nếu có số dân trên 1.500 thì có thể bố trí thêm 1 phó ấp. Trưởng ấp do dân trực tiếp
bầu ra, vừa là người đại diện cho dân vừa là người đại diện cho chính quyền xã để thực
hiện một số công việc hành chính tại ấp. Về hoạt động, ấp là một tổ chức tự quản của
cộng đồng dân cư và thông qua hội nghị ấp. Hội nghị được tiến hành ba tháng hoặc 6
tháng một lần, khi cần có thể họp bất thường và khi có ít nhất quá nửa số cử tri hoặc các
hộ tham dự. Như vậy, Nghị quyết của ấp chỉ có giá trị khi được qúa nửa số chủ hộ hoặc
cử tri đại diện tán thành và không trái với quy định pháp luật.
Tất cả công việc của ấp đều được cộng đồng dân cư của ấp cùng nhau bàn bạc,
quyết định và thực hiện. Các công việc tự quản, bảo đảm đoàn kết giữ gìn trật tự an toàn
xã hội và vệ sinh môi trường, xây dựng đời sống văn hoá mới, giúp đỡ nhau trong sản
xuất và đời sống, giữ gìn và phát huy truyền thống tốt đẹp, thuần phong mỹ tục, xây
dựng hạ tầng, xây dựng và thực hiện hương ước, bàn biện pháp thực hiện chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhiệm vụ của cấp trên giao và
thực hiện nghĩa vụ của công dân đối với Nhà nước, ngoài ra còn thực hiện quy chế dân chủ cơ
sở.
Như vậy, ấp có một vị trí, vai trò rất quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội, giải
quyết những vấn đề xã hội trên địa bàn dân cư ấp, giữ vững an ninh chính trị - trật tự an
toàn xã hội, giữ vững và phát huy truyền thống tốt đẹp. Đồng thời, ấp là nơi vận động
quần chúng nhân dân giữ gìn an toàn trật tự, phòng chống các tệ nạn trên địa bàn dân
cư v.v; nơi xây dựng và thực hiện những quy ước (hương ước) trong cộng đồng dân cư.
Từ vị trí, vai trò, chức năng và nhiệm vụ đã nêu trên, tác giả cho rằng ấp có một số đặc điểm
sau:
Một là, ấp không phải là một cấp hành chính trong hệ thống hành chính ở nước ta,
mà là hệ thống chân rết của chính quyền xã đồng thời nó còn là chân rết của các tổ chức
đoàn thể hoạt động. Tuy nhiên, một số nơi xem ấp như một cấp hành chính, các đoàn thể
trên địa bàn dân cư hầu như chưa phát huy đúng mức vai trò đại diện cho quyền dân chủ
và lợi ích chính đáng của các giới quần chúng, có xu hướng hành chính hóa bộ máy hoạt
động này, biến thành công cụ một chiều của chính quyền, chưa thật sự gắn bó và làm
nòng cốt trong các phong trào tự quản của nhân dân.
Hai là, hoạt động của ấp mang dáng dấp của một cơ chế tự quản. Bởi vì tất cả các
hoạt động đều thông qua hội nghị ấp để bàn bạc, thảo luận: các công việc có liên quan
mật thiết đến đời sống nhân dân trong cộng đồng dân cư, triển khai thực hiện chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước, các nghĩa vụ của công dân đối với
Nhà nước, các vấn đề liên quan đến an ninh chính trị - trật tự an toàn xã hội, đời sống
văn hóa theo phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Do vậy, nơi nào
nhận thức đúng chức năng này thì nơi đó hoạt động tốt, sâu sát nhân dân, phong trào sôi nổi
và có hiệu quả.
1.1.2.2.Vai trò, chức năng, nhiệm vụ và đặc điểm của các chi bộ ấp
Như trình bày ở trên, ấp không phải là cấp chính quyền trong hệ thống hành chính ở
nước ta và nó hoạt động dưới hình thức tự quản. Chính vì vậy, chi bộ ấp có vai trò là hạt
nhân chính trị ở địa bàn dân cư, là cầu nối giữa Đảng với nhân dân. Chi bộ ấp gắn bó
trực tiếp với quần chúng nhân dân, nắm bắt tâm tư, tình cảm và nguyện vọng nhân dân;
là nơi trực tiếp biến đường lối, chính sách của Đảng thành hành động cách mạng của
Đảng viên và quần chúng. Chi bộ ấp lãnh đạo phát triển kinh tế xã hội, xây dựng dân cư
ấp văn minh, sạch đẹp, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân
dân, động viên nhân dân làm tròn nghĩa vụ đối với nhà nước.
Chi bộ ấp có vai trò to lớn trong việc kiểm nghiệm, khẳng định tính đúng đắn của
đường lối, nghị quyết của Đảng, đóng góp cho Đảng những ý kiến để sửa đổi, bổ sung
các chủ trương, đường lối một cách đúng đắn hơn. Đồng thời, chi bộ ấp là nơi Đảng viên
hàng ngày sinh hoạt, học tập v.v… và là nơi trực tiếp giáo dục, rèn luyện, sàng lọc và
giới thiệu những quần chúng ưu tú cho Đảng. Với vai trò to lớn như vậy, nên nơi nào có
chi bộ ấp trong sạch vững mạnh thì nơi đó thực hiện tốt các chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, đời sống vật chất và tinh thần của dân được
nâng lên, tình hình an ninh - trật tự xã hội được giữ vững. Ngược lại, nếu chi bộ ấp yếu
kém, mất đoàn kết, coi thường kỷ cương, pháp luật; đảng viên thấy đúng không dám bảo
vệ, thấy sai không dám đấu tranh thì chi bộ đó yếu kém, lòng tin của nhân dân đối với
Đảng và Nhà nước bị giảm sút.
Về chức năng của chi bộ ấp, trước hết phải xác định đó không phải là một cấp bộ
Đảng, mà là hệ thống chân rết của Đảng trên địa bàn dân cư. Do vậy, chức năng chi bộ
ấp không lãnh đạo toàn diện mà là cầu nối giữa Đảng với quần chúng, có nhiệm vụ chủ
yếu là lãnh đạo công tác quần chúng, vận động quần chúng thực hiện các chủ trương của
Đảng, Nhà nước và nghị quyết của xã; chăm lo đời sống vật chất, tinh thần của nhân
dân; động viên nhân dân làm tròn nghĩa vụ đối với Nhà nước; xây dựng nông thôn mới(
văn minh, sạch đẹp, trật tự- an toàn …). Bởi vì, chi bộ ấp không tự đề ra chủ trương,
nghị quyết về mục tiêu xây dựng, phát triển kinh tế xã hội toàn diện của ấp; hơn nữa ấp
không có một bộ máy hành chính tương ứng để thông qua đó mà lãnh đạo.
Về nhiệm vụ của chi bộ ấp, chủ yếu là lãnh đạo các tổ chức, mặt trận, đoàn thể, đặc
biệt đối với Trưởng ấp và phân công đảng viên trực tiếp thâm nhập vào các phong trào
quần chúng, phát huy vai trò làm chủ của quần chúng ở cơ sở để từ đó nâng cao đời sống
vật chất và tinh thần cho nhân dân, xây dựng đời sống văn hóa mới, giữ vững trật tự an
toàn xã hội trên địa bàn dân cư v.v Tóm lại, chi bộ ấp có một số nhiệm vụ cơ bản sau:
Một là, lãnh đạo chăm lo đời sống nhân dân, giữ gìn an ninh trật tự khu vực và
thực hiện tốt qui chế dân chủ cơ sở.
Tuyên truyền, vận động nhân dân phát triển sản xuất, nhất là ngành nghề truyền
thống và động viên nhân dân làm tròn nghĩa vụ đối với Nhà nước. Lãnh đạo thực hịên tốt
QCDCCS: xây dựng và và sữa chữa công trình phúc lợi, xoá đói giảm nghèo, xây dựng
nhà tình thương, lãnh đạo nhân dân giữ gìn an ninh trật tự xã hội
Hai là, công tác chính trị tư tưởng.
Trong tình hình hiện nay, các chi bộ ấp phải quan tâm và tăng cường công tác giáo
dục chính trị tư tưởng cho Đảng viên và quần chúng , coi đây là nhiệm vụ hàng đầu, là
mặt trận chiến đấu của Đảng trên lĩnh vực tư tưởng.
Ba là, xác định đúng nhiệm vụ chính trị, xây dựng và tổ chức thực hiện nghị quyết.
Để lãnh đạo và thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị trong từng giai đọan, trong
từng thời kỳ, yêu cầu đặt ra với chi bộ ấp là phải xác định đúng chức năng, nhiệm vụ
sao cho sát hợp với đặc điểm của địa bàn dân cư. Tiến tới xây dựng nghị quyết phải đúng
đắn, sát hợp và quán triệt sâu sắc để tổ chức thực hiện tốt Nghị quyết đề ra.
Bốn là, công tác tổ chức, đảng viên và xây dựng Đảng.
Đảm bảo sinh hoạt Đảng đúng, đầy đủ và có chất lượng, làm tốt công tác quản lý
đảng viên, lựa chọn những quần chúng ưu tú giới thiệu cho Đảng và làm tốt công tác
kiểm tra Đảng.
Năm là, lãnh đạo các tổ chức quần chúng.
Lãnh đạo các tổ chức, đoàn thể hoạt động tốt và hiệu quả: tổ nhân dân tự quản, đoàn
thanh niên, ban nhân dân, Mặt trận tổ quốc, Hội người cao tuổi, Hội cưu chiến binh, Hội chữ
thập đỏ, Hội phụ nữ.
Từ những vấn đề trình bày trên, tác giả cho rằng chi bộ ấp có một số đặc điểm cơ
bản sau:
Một là, chi bộ ấp không phải là cấp bộ Đảng, mà là hệ thống chân rết của Đảng trên
địa bàn dân cư.
Hai là, chi bộ ấp không có chức năng lãnh đạo toàn diện như các cấp bộ Đảng.
Ba là, chi bộ ấp vừa lãnh đạo ra nghị quyết, vừa là nơi tổ chức thực hiện nghị
quyết.
Như vậy, chi bộ ấp là chi bộ bộ phận có vị trí, vai trò rất quan trọng trong việc thực
hịên các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, là cầu nối
quan trọng giữa Đảng với nhân dân để thông qua đó Đảng kiểm nghiệm, đánh giá tính
đúng đắn khả năng lãnh đạo của mình. Đồng thời, chi bộ ấp lãnh đạo thực hiện những
phong trào tự quản của quần chúng nhân dân và xây dựng đời sống văn hóa mới. Song,
cần nhận thức đúng, đầy đủ chức năng, nhiệm vụ của chi bộ ấp để phát huy những mặt
mạnh, hạn chế những tồn tại, yếu kém của chi bộ ấp.
1.2. QUAN NIỆM VỀ NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO VÀ SỨC CHIẾN ĐẤU CỦA
CHI BỘ ẤP
1.2.1. Quan niệm về năng lực lãnh đạo của chi bộ ấp:
Theo Đại từ điển tiếng Việt của Trung tâm ngôn ngữ văn hóa Việt Nam - Bộ Giáo
dục và đào tạo (1998)
Năng lực: một trong những điều kiện đủ hoặc vốn có để làm một việc gì.1: năng
lực tư duy của con người. 2: khả năng đủ để thực hiện tốt công việc: có năng lực chuyên
môn, năng lực tổ chức [ 61, tr.1172]
Lãnh đạo tgt 1. Dẫn dắt tổ chức phong trào theo đường lối cụ thể: lãnh đạo cuộc
đấu tranh. 2. dt cơ quan lãnh đạo, bao gồm những người có khả năng tổ chức dẫn dắt
phong trào: chờ lãnh đạo cho ý kiến [ 61, tr.1979] .
Hay theo Từ điển tiếng Việt của Nhà xuất bản Đà Nẵng ( 1997)
Năng lực 1: là khả năng, điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có để thực hiện một
hoạt động nào đó, 2: phẩm chất tâm lý, sinh lý tạo cho con người hoàn thành một hoạt
động nào đó [ 56, tr.639].
Lãnh đạo: đề ra chủ trương, đường lối và tổ chức vận động thực hiện đường lối đó[
56, tr.524].
Như vậy có thể hiểu, năng lực lãnh đạo là khả năng của một tập thể hay cá nhân có
khả năng đề ra mục tiêu, chủ trương đường lối và khả năng tổ chức, dẫn dắt tập thể, thực
hiện thắng lợi đường lối đó.
Đối với năng lực lãnh đạo của Đảng, theo cuốn sách Tìm hiểu một số khái niệm trong
văn kiện Đại hội IX của Đảng, do PGS Vũ Hữu Ngoạn chủ biên thì năng lực lãnh đạo của
Đảng là “khả năng đề ra được mục tiêu cách mạng đúng đắn, cơ bản, lâu dài, cũng như thời
kỳ và bằng những phương thức, phương pháp đúng đắn tổ chức nhân dân, dân tộc thực hiện
có hiệu quả” [ 49, tr. 38].
Năng lực lãnh đạo của Đảng là khả năng hiện thực bao gồm nhiều nội dung: năng lực đề
ra chủ trương, đường lối, năng lực xây dựng nghị quyết, chỉ thị, năng lực tổ chức thực hiện
đường lối, năng lực kiểm tra phát hiện và xử lý.
Năng lực đề ra chủ trương, đường lối của Đảng: đó là khả năng thực tế được cụ thể hóa
bằng việc xây dựng cương lĩnh, đường lối, chủ trương, chiến lược và sách lược của Đảng, đồng
thời nó phải là sự định hướng phát triển cho cả thời kỳ lịch sử. Do vậy, Đảng phải nghiên cứu,
am hiểu để dự báo, tổng kết thực tiễn, khái quát lý luận thành cương lĩnh, đường lối, chủ trương
và xây dựng giải pháp mang tính đồng bộ để thực hiện đối với tất cả lĩnh vực liên quan đến đời
sống xã hội, phù hợp với hoàn cảnh trong nước và quốc tế.
Thực tiễn 75 năm xây dựng và phát triển của Đảng đã chứng minh điều đó.
Năng lực xây dựng nghị quyết của Đảng: đó là những vấn đề được nghiên cứu, xem xét,
thảo luận của một tập thể và đi đến quyết nghị ( có nhiều loại và do nhiều cấp bộ Đảng khác
nhau quyết nghị). Đặc trưng cơ bản của nghị quyết là biểu quyết tập thể, ý chí và trí tuệ tập thể,
sự đúc kết sâu sắc từ kinh nghiệm thực tiễn phong phú và thể hiện đầy đủ quyền dân chủ.
Năng lực tổ chức thực hiện các chủ trương, đường lối, nghị quyết, chỉ thị của Đảng là khả
năng nắm vững những nội dung, quan điểm, tư tưởng và vận dụng sáng tạo vào thực tiễn, vào
hoàn cảnh cụ thể ở địa phương, đơn vị để từ đó tìm ra những biện pháp hữu hiệu nhất, thích hợp
nhất thực hiện thắng lợi những mục tiêu đề ra.
Năng lực kiểm tra, phát hiện và xử lý những vi phạm là khả năng kiểm nghiệm thực tiễn
những chủ trương, đường lối của mình để phát huy những ưu điểm, nhược điểm, tồn tại, hạn
chế; đồng thời phát hiện những biểu hiện tiêu cực, những vi phạm trong quá trình xây dựng và
thực hiện đường lối đó. Có thể nói đây là một trong những vấn đề mà Đảng ta rất quan tâm để
làm cho Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh.
Đối với năng lực lãnh đạo của chi bộ ấp, về cơ bản cũng giống như năng lực lãnh
đạo của tổ chức cơ sở Đảng. Tuy nhiên, chi bộ ấp có một số nét đặc thù riêng như trình
bày ở trên, cho nên năng lực lãnh đạo của chi bộ ấp cũng có những đặc điểm riêng, đặc
biệt là đối với chi bộ ấp ở một huyện ngoại thành của TP HCM như Hóc Môn.
Theo chúng tôi: năng lực lãnh đạo của chi bộ ấp là khả năng nắm vững những
chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhiệm vụ của
cấp trên giao và vận dụng sáng tạo, đúng đắn, phù hợp với điều kiện thực tiễn ở địa
bàn dân cư vào công tác lãnh đạo quần chúng, vận động quần chúng thực hiện
đường lối đó và trực tiếp lãnh đạo các phong trào tự quản của nhân dân ở địa bàn
dân cư mà chi bộ ấp phụ trách.
1.2.2. Quan niệm về sức chiến đấu của chi bộ ấp
Theo Đại từ điển tiếng Việt: “Sức” dt, I khả năng hoạt động của thân thể cho sự bền
bỉ của gân cốt, II: khả năng làm việc, tác động hoặc chịu tác động đến đâu[ 62, tr.1474].
“Chiến đấu” dtg, 1: Đánh nhau giữa các lực lượng vũ trang ở trên chiến trường; 2:
Đối chọi, chống trả quyết liệt với lực lượng gây nguy hại cho mình [ 62, tr.357].
Như vậy, có thể hiểu sức chiến đấu của một tổ chức hay một cá nhân là sức mạnh,
khả năng làm việc, hoạt động hoặc khả năng tác động của một tổ chức, một tập thể hay
cá nhân đối với công việc, hoặc đối với những tổ chức, tập thể hay cá nhân khác và
những lực lượng gây nguy hại cho mình.
Theo cuốn sách “Tìm hiểu một số khái niệm trong văn kiện Đại hội IX của Đảng”
(2001), do PGS Vũ Hữu Ngoạn chủ biên: sức chiến đấu của Đảng là “Sức lực của bản
thân Đảng” để chiến đấu,vượt qua “những trở lực, chông gai phát sinh từ các thế lực thù
địch với lý tưởng và sự nghịêp của Đảng, của nhân dân, của dân tộc, từ những tiêu cực
trong xã hội, trong nội bộ nhân dân, thậm chí trong nội bộ Đảng và cả những khó khăn
khách quan của đất nước,của tình hình kinh tế xã hội trong bước đường đi lên”[49, tr.
39]
Sức chiến đấu của Đảng là sức mạnh tổng hợp về chính trị, tư tưởng và tổ chức, là
sự thống nhất về ý chí và hành động, nhằm tạo nên sức mạnh, sức bền nội tại của Đảng,
là ý chí vượt lên trong mọi hoàn cảnh để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ, là khả năng đấu
tranh kiên định và hiệu quả với mọi thế lực thù địch trên các lĩnh vực: chính trị - tư
tưởng - tổ chức, bảo vệ trong sạch nội bộ, là tính tiên phong, gương mẫu của Đảng viên,
là sự gắn kết Đảng với quần chúng và uy tín của Đảng trong quần chúng. Từ đó có thể
thấy sức chiến đấu của Đảng được biểu hiện:
- Bản lĩnh chính trị, sự vững vàng của Đảng trước những khó khăn và thách thức trong và
ngoài nước.
- Trung thành tuyệt đối với chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục
tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, quyết tâm thực hiện thắng lợi đường lối đổi mới của
Đảng.
- Kiên quyết đấu tranh loại bỏ những phần tử cơ hội chủ nghĩa, những phần tử thoái hóa
biến chất, tham nhũng ra khỏi Đảng, đấu tranh ngăn chặn sự tác động của những quan điểm, tư
tưởng phản động, bảo vệ sự trong sạch nội bộ.
- Tính tổ chức kỷ luật, tinh thần đoàn kết nội bộ, ý thức tập thể trong lãnh đạo và sinh hoạt
Đảng.
- Phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, trình độ năng lực thực tế và vai trò tiên phong,
gương mẫu của đội ngũ cán bộ đảng viên.
- Lối sống, phương pháp công tác và phong cách lãnh đạo của cán bộ đảng viên[ 1, tr 24 -
25].
Từ những vấn đề đã trình bày trên, có thể nhận thấy sức chiến đấu của chi bộ ấp là
sức mạnh tổng hợp về chính trị, tư tưởng và tổ chức, sự thống nhất về ý chí và hành
động, là khả năng đấu tranh chống lại mọi tác động làm suy yếu chi bộ ấp, là sự gắn kết
Đảng với quần chúng để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ ở địa bàn dân cư mà chi bộ phụ
trách.
Như vậy, chi bộ ấp có sức chiến đấu cao là thể hiện ở những nội dung chủ yếu là:
chất lượng chi ủy, đội ngũ đảng viên bao gồm trình độ chuyên môn nghịêp vụ, ý thức tự
giác và bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống của đảng viên và vai trò tiên
phong, gương mẫu của đảng viên. Khả năng khắc phục những khó khăn và yếu kém,
những biểu hiện tiêu cực, những sai trái trong chi ủy, trong nhân dân. Đấu tranh ủng hộ
cái đúng, cái mới, phê phán cái cũ, lạc hậu và các thế lực thù địch. Đặc biệt là mỗi đảng
viên phải “vừa hồng, vừa chuyên”, thực hiện nghiêm chỉnh các nguyên tắc tổ chức, kỷ
luật Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình, không bè phái
làm mất đoàn kết nội bộ.
1.2.3. Mối quan hệ giữa năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của chi bộ ấp
Từ quan niệm NLLĐ và SCĐ của chi bộ ấp có thể thấy rằng: NLLĐ và SCĐ của
chi bộ ấp là những vấn đề cơ bản nhất và quyết định đối với khả năng lãnh đạo hoàn
thành nhiệm vụ chính trị của chi bộ ấp và nó là những căn cứ chủ yếu để xây dựng, đồng
thời là căn cứ xem xét, đánh giá về chi bộ ấp có trong sạch, vững mạnh hay không.
Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của chi bộ ấp luôn vận động, phát triển theo
yêu cầu nhiệm vụ của cách mạng và nhiệm vụ chính trị ở địa phương. Trong từng giai
đoạn, tình hình cụ thể mà công tác lãnh đạo có những trọng tâm khác nhau. Năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của chi bộ ấp là khả năng nắm bắt và xử lý đúng những công
việc trọng tâm đó.
Hơn nữa, NLLĐ và SCĐ của chi bộ ấp là hai mặt thống nhất biện chứng với nhau,
có tác động qua lại và hỗ trợ lẫn nhau, có những nội dung của mặt này cũng đồng thời
thể hiện nội dung của mặt kia và ngược lại; song, chúng không hoàn toàn đồng nhất mà
mỗi mặt có những biểu hiện đặc trưng, có tính độc lập tương đối.
Năng lực lãnh đạo của chi bộ ấp tốt sẽ là cơ sở cho sức chiến đấu cao, đồng thời,
chi bộ ấp có sức chiến đấu cao là điều kiện để chi bộ ấp có năng lực lãnh đạo tốt. Do đó,
sức chiến đấu cao thì năng lực lãnh đạo càng tốt và ngược lại. Thực tế cho thấy giữa
NLLĐ và SCĐ rất khó chia tách rạch ròi vấn đề nào là của NLLĐ và vấn đề nào của
SCĐ. Điển hình như: thực hiện tốt công tác vận động quần chúng, phát huy vai trò của
quần chúng trong việc thực hiện nhiệm vụ của chi bộ ấp là vấn đề thuộc về NLLĐ, đồng
thời đây cũng là những nội dung công tác thuộc về hoạt động tăng cường sức chiến đấu,
tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân.
Có thể nói, NLLĐ và SCĐ của chi bộ ấp là khả năng nắm vững chủ trương, đường
lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, nghị quyết của cấp trên và vận dụng
sáng tạo, phù hợp với điều kiện thực tiễn của địa bàn dân cư ấp, là khả năng tập trung
được nguồn lực, khai thác được thế mạnh của địa phương, phát huy được sức mạnh tổng
hợp nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của chi bộ ấp. Bên cạnh đó, NLLĐ và
SCĐ còn là khả năng tuyên truyền, vận động và tổ chức quần chúng thực hiện tốt các
yêu cầu đề ra, là việc thực hiện nghiêm nguyên tắc tổ chức sinh hoạt Đảng, nhất là
nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình, đấu tranh kiên quyết với mọi biểu
hịên tiêu cực trong chi bộ ấp và trong nội bộ nhân dân trên địa bàn dân cư, bảo vệ những
cái đúng, cái mới phù hợp với xu hướng chung của những tổ chức, cá nhân; đấu tranh
những vi phạm điều lệ Đảng và pháp luật.
Như vậy, những nhân tố cấu thành NLLĐ và SCĐ không chỉ là chất lượng của chi
bộ ấp, là sức mạnh của bản thân, đây còn là khả năng phát huy sức mạnh của cả hệ thống,
khả năng huy động và vận động quần chúng nhân dân.
1.3. NHỮNG TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO VÀ SỨC
CHIẾN ĐẤU CỦA CHI BỘ ẤP
Để đánh giá đúng NLLĐ và SCĐ của TCCSĐ nói chung và chi bộ ấp nói riêng
phải căn cứ vào các nhiệm vụ của nó. Tuy nhiên, một thực tế hiện nay là chưa có một
văn bản nào hướng dẫn cụ thể về việc đánh giá NLLĐ và SCĐ chi bộ ấp, mà chỉ vận
dụng các quy định của TCCS Đảng để áp dụng cho chi bộ ấp nên việc xây dựng các tiêu
chí để đánh giá của chi bộ rất khó khăn. Do vậy, theo chúng tôi để xây dựng tiêu chí để
đánh giá NLLĐ và SCĐ chi bộ ấp cần căn cứ vào các quy định sau:
- Điều 23, Điều lệ Đảng cộng sản Việt Nam được thông qua tại Đại hội Đại biểu toàn
quốc lần thứ IX của Đảng.
- Yêu cầu nâng cao NLLĐ và SCĐ của TCCSĐ theo tinh thần nghị quyết Hội nghị lần
thứ sáu (lần 2) Ban chấp hành TW khóa VIII.
- Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9 Ban chấp hành TW Đảng khóa IX.
- Hướng dẫn 18-HD/TCTW của Ban tổ chức Trung ương Đảng: hướng dẫn đánh giá chất
lượng tổ chức cơ sở Đảng
- Quy định 326/QĐ-TU của Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh về chức năng nhiệm vụ,
tổ chức của chi bộ khu phố, ấp.
Mặc dù chi bộ ấp vẫn có chức năng, nhiệm vụ cơ bản giống với TCCSĐ, song, chi
bộ ấp có đặc thù riêng: chức năng, nhiệm vụ, đối tượng lãnh đạo. Do vậy, tiêu chí đánh
giá chi bộ ấp cần dựa trên những tiêu chí sau:
Một là, lãnh đạo chăm lo đời sống nhân dân, giữ gìn an ninh trật tự của ấp và thực hiện
quy chế dân chủ.
Tuyên truyền vận động nhân dân phát triển sản xuất, dịch vụ và các ngành nghề truyền
thống; góp phần giải quyết công ăn việc làm ổn định và cải thiện đời sống nhân dân về vật chất
và tinh thần; động viên nhân dân làm tròn nghĩa vụ đối với Nhà nước.
Động viên nhân dân theo phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, xây dựng và
phát triển hạ tầng, bảo vệ môi trường sinh thái.
Thực hiện cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”,
xóa đói giảm nghèo, xây dựng nhà tình nghĩa, tình thương; động viên và giúp đỡ các trẻ em
nghèo trong độ tuổi đều được đến trường, khắc phục các tệ nạn xã hội: cờ bạc, rượu chè, mê tín,
dị đoan, mại dâm, các hủ tục v.v…
Vận động nhân dân tích cực tham gia phong trào gìn giữ an ninh trật tự; vận động thanh
thiếu niên đến tuổi tham gia thực hiện nghĩa vụ quân sự, xây dựng lực lượng dân quân tự vệ.
Kiến nghị với Đảng và Nhà nước cấp trên xem xét giải quyết những vấn đề, những yêu
cầu, nguyện vọng chính đáng của nhân dân mà chi bộ và nhân dân ở ấp không đủ khả năng và
thẩm quyền giải quyết.
Hai là, lãnh đạo công tác chính trị - tư tưởng.
Trong tình hình hiện nay cần tăng cường công tác chính trị tư tưởng, coi đây là
nhiệm vụ hàng đầu, là mặt trận chiến đấu của Đảng trên lĩnh vực tư tưởng ở cơ sở.
Tổ chức phổ biến quán triệt sâu sắc đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà
nước, các nghị quyết của cấp trên, của Đảng bộ xã, thường xuyên thông báo thời sự, chính sách
nhằm nâng cao nhận thức chính trị cho đảng viên trong chi bộ và cán bộ chủ chốt trong ấp.
Thường xuyên giáo dục và rèn luyện cán bộ, đảng viên, nâng cao đạo đức cần, kiệm, liêm,
chính, chí công, vô tư, chống chủ nghĩa cá nhân. Nêu cao tính tiên phong gương mẫu trong việc
chấp hành đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Tuyên truyền vận động nhân dân chấp hành tốt mọi chủ trương, chính sách của Đảng và
pháp luật của Nhà nước.
Nắm tâm tư, nguyện vọng, tư tưởng của đảng viên và các tầng lớp nhân dân; kịp
thời giải quyết những vấn đề thuộc thẩm quyền, đồng thời phản ảnh lên Đảng ủy xã và
cấp trên những vấn đề không thuộc thẩm quyền. Đấu tranh chống mọi luận điệu chiến
tranh tâm lý, diễn biến hòa bình của các thế lực thù địch.
Ba là, xác định nhiệm vụ chính trị, xây dựng và tổ chức thực hiện Nghị quyết.
Việc xác định đúng đắn nhiệm vụ chính trị trong từng giai đọan và sát hợp với điều
kiện thực tế là một yêu cầu rất quan trọng trong lãnh đạo của chi bộ ấp. Bởi vì, mỗi chi
bộ ấp có một đặc điểm riêng: về đội ngũ đảng viên, trình độ dân trí, điều kiện kinh tế-xã
hội v.v… cho nên việc xác định nhiệm vụ của mỗi chi bộ ấp phải khác nhau. Mặc khác,
nhiệm vụ của mỗi chi bộ ấp trong từng giai đọan khác nhau nên việc xác định nhiệm vụ
lãnh đạo và thực hiện cũng khác nhau.
Từ việc xác định đúng đắn nhiệm vụ chính trị, các chi bộ ấp phải tiến hành xây
dựng nghị quyết cho phù hợp với tình hình thực tế. Các chỉ tiêu, chương trình và kế
họach đề ra phải đáp ứng với yêu cầu chính trị, có tính khả thi sẽ mang lại hiệu quả cao,
đáp ứng mọi mặt đời sống của cộng đồng dân cư.
Nghị quyết được xây dựng có đúng đắn, có tốt đến đâu nhưng việc tổ chức thực
hiện không tốt, thực hiện lấy lệ, không có tâm huyết, phương thức tổ chức thực hiện
không phù hợp với đặc điểm của chi bộ và cộng đồng dân cư thì hiệu quả cũng không
cao.
Do vậy, một trong những tiêu chí rất quan trọng để đánh giá NLLĐ và SCĐ của chi
bộ ấp là việc xác định nhiệm vụ chính trị và xây dựng nghị quyết một cách đúng đắn, sát
hợp với điều kiện thực tế và tổ chức thực hiện tốt nghị quyết mà chi bộ ấp đã đề ra.
Bốn là, lãnh đạo công tác tổ chức, cán bộ, xây dựng Đảng.
Bảo đảm sinh hoạt chi bộ, tổ Đảng có nề nếp, đúng định kỳ (hàng tháng), có chất lượng,
bàn bạc những vấn đề cụ thể, thiết thực, ra nghị quyết, thường xuyên tự phê bình và phê bình,
định kỳ tổ chức cho quần chúng góp ý xây dựng đảng viên, xây dựng chi bộ. Hướng dẫn đảng
viên có chương trình học tập và rèn luyện, chi bộ thường xuyên kiểm tra việc thực hiện chương
trình này.
Làm tốt công tác quản lý đảng viên (về tư tưởng, học tập, công tác, phẩm chất đạo đức, lối
sống…). Tuỳ trình độ, năng lực, hoàn cảnh cụ thể, chi bộ (Tổ Đảng) phân công công tác hợp lý
cho đảng viên (như phụ trách tổ nhân dân, đoàn thể, công tác phát triển Đảng, tham gia và làm
nòng cốt trong các phong trào quần chúng…), trừ số đảng viên được miễn sinh hoạt, miễn công
tác. Thực hiện việc mỗi đảng viên hàng tháng báo cáo công tác được phân công cho chi bộ.
Có biện pháp quản lý các đảng viên đi làm ăn xa, làm thuê cho các doanh nghiệp (tư nhân,
liên doanh với nước ngoài) nhằm giúp đỡ và tạo điều kiện cho các đồng chí này làm nhiệm vụ
đảng viên ở địa phương và nơi làm việc.
Tuyên truyền và lựa chọn những quần chúng ưu tú trong các phong trào ở địa phương, các
tổ chức (đoàn thể, ban nhân dân ấp, tổ nhân dân, trong lực lượng dân quân tự vệ, dân phòng …)
để bồi dưỡng phát triển Đảng.
Thường xuyên kiểm tra đảng viên chấp hành Điều lệ Đảng, tăng cường kỷ luật Đảng.
Xây dựng chi ủy ấp có đủ phẩm chất, năng lực, nhiệt tình và trách nhiệm, được đảng viên
và quần chúng tín nhiệm. Đồng chí Bí thư Chi bộ ấp phải là người tiêu biểu, đoàn kết, tập hợp
được đảng viên và quần chúng ở ấp. Thước đo là được nhân dân trong ấp bầu làm người đại
diện cho cộng đồng dân cư ấp: trưởng ấp
Năm là, lãnh đạo các tổ chức quần chúng.
Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của chi bộ ấp, các tổ chức quần chúng
như: Mặt trận tổ quốc, Hội người cao tuổi, Hội nông dân, Hội phụ nữ, Đòan thanh niên,
Hội cựu chiến binh, Hội chữ thập đỏ có vai trò to lớn và quan trọng. Các tổ chức quần
chúng họat động dưới sự lãnh đạo của chi bộ ấp thông các chủ trương, nghị quyết của
chi bộ để thực hiện, đồng thời vận động quần chúng cùng thực hiện:
- Lãnh đạo xây dựng tổ dân phố, tổ nhân dân tự quản vững mạnh, bảo đảm sinh hoạt
thường xuyên, đúng định kỳ, thực hiện tốt các chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước và nghị quyết, kế hoạch của UBND phường.