Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA TRUNG QUỐC VỀ VẤN ĐỀ BIỂN ĐÔNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (128.84 KB, 15 trang )

TIỂU LUẬN MÔN
XÂY DỰNG THƯƠNG HIỆU VÀ HÌNH ẢNH QUỐC TẾ
LỜI NÓI ĐẦU
Trong thời đại toàn cầu hóa, tất cả các quốc gia đều phải cạnh tranh với
nhau nhằm thu hút sự chú ý, lòng kính trọng, và lòng tin của các nhà đầu tư,
người du lịch, người tiêu dùng, các nhà tài trợ, người nhập cư, giới truyền
thông và chính phủ các nước. Chính vì vậy xây dựng thương hiệu quốc gia là
một việc quan trọng và cần thiết để tạo lợi thế cạnh tranh cho quốc gia trong
quá trình thu hút đầu tư, khách du lịch, kích thích xuất khẩu, thu hút nhân tài...
tạo động lực mạnh mẽ để phát triển kinh tế của đất nước.
Tuy các nhà khoa học, doanh nghiệp, lãnh đạo ngày càng nhận ra những
vai trò và lợi ích của công tác xây dựng thương hiệu quốc gia, nhưng cho đến
nay, Việt Nam vẫn còn gặp nhiều lúng túng trong việc định hình hình ảnh Việt
Nam năng động, thân thiện, cởi mở đến bạn bè quốc tế. Xây dựng thương hiệu
quốc gia là một công tác đòi hỏi phải có sự chung tay của toàn xã hội, mà
trong đó nhà nước đóng vai trò chỉ đạo tổng thể, vạch ra những phương hướng
đúng đắn và hiệu quả.
Trong giới hạn một tiểu luận, người viết chỉ xin trình bày những nhận
thức chung nhất về một số vấn đề trong công tác xây dựng thương hiệu và
xây dựng thương hiệu quốc gia. Bên cạnh những nhận thức về lý thuyết, tiểu
luận cũng trình bày những liên hệ với công tác xây dựng thương hiệu quốc gia
Việt Nam.


LỜI MỞ ĐẦU
Biển Đông là một vùng biển nửa kín có tầm quan trọng chiến lược đối
với an ninh quốc phòng và phát triển kinh tế trong khu vực. Vùng biển này có
môi trường biển đa dạng và nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, đặc biệt
là dầu khí và thủy sản. Biển Đông án ngữ nhiều tuyến đường hàng hải quan
trọng nối liền Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương. Vùng biển này cũng được
đánh giá là có vị trí chiến lược, địa – chính trị quan trọng trên thế giới. Hai


quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa trong khu vực Biển Đông có vị trí đặc biệt
trong chiến lược an ninh quốc phòng của các quốc gia và vòng lãnh thổ ven bờ
như Trung Quốc, Đài Loan và các thành viên của ASEAN. Có lẽ vì những giá
trị tiềm năng và vai trò chiến lược kể trên, vùng biển đảo này trở thành đối
tượng tranh chấp giữa các quốc gia và vùng lãnh thổ hơn nửa thập kỷ nay.
Trong thời gian gần đây, tranh chấp Biển Đông đang ngày càng trở
thành một vấn đề nóng bỏng, gây sự chú ý không chỉ đối với các nước trong
khu vực mà đã dần trở thành một vấn đề quốc tế quan trọng. Vấn đề Biển
Đông được đánh giá là một trong những tranh chấp căng thẳng, phức tạp vào
bậc nhất trên thế giới hiện nay. Đặc biệt, những chính sách đối ngoại của
Trung Quốc đối cùng với những động thái cứng rắn của quốc gia này đối với
khu vực Biển Đông càng làm cho những tranh chấp trong khu vực biển chiến
lược này trở nên phức tạp và trở thành nguy cơ gây bất ổn lớn trong khu vực.
Trước biến đổi phức tạp trong vấn đề Biển Đông, đặc biệt là những
chính sách của Trung Quốc đối với khu vực này, các quốc gia trong khu vực
phải nỗ lực tìm ra tiếng nói chung để giải quyết vấn đề tranh chấp Biển Đông
một cách hòa bình và phù hợp với thông lệ quốc tế. Bên cạnh đó, Việt Nam
cũng phải có những đối sách thích hợp đối với “Người láng giềng khổng lồ”
Trung Quốc và các quốc gia trong khu vực để giải quyết hòa bình những tranh
chấp trên khu vực Biển Đông.


CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA TRUNG QUỐC VỀ VẤN ĐỀ BIỂN ĐÔNG

Phần I. Phần mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Tranh chấp Biển Đông đang ngày càng trở thành một vấn đề nóng bỏng,
gây sự chú ý không chỉ đối với các nước trong khu vực mà đã dần trở thành
một vấn đề quốc tế quan trọng. Vấn đề Biển Đông được đánh giá là một trong
những tranh chấp căng thẳng, phức tạp vào bậc nhất trên thế giới hiện nay.

Đặc biệt từ năm 2007, những tranh chấp, căng thẳng trong khu vực Biển
Đông càng trở nên phức tạp và trở thành nguy cơ gây bất ổn rất lớn trong khu
vực trước những chính sách đối ngoại của Trung Quốc cùng với những động
thái cứng rắn của “Cường quốc Châu Á” trong khu vực này. Chính vì vậy, nhu
cầu làm rõ chính sách đối ngoại của Trung Quốc đối với khu vực Biển Đông
trở nên cần thiết. Làm rõ được những nhân tố tác động cũng như nội dung sẽ
giúp các quốc gia liên quan đến tranh chấp Biển Đông, trong đó có Việt Nam,
nhận thức rõ hơn tác động của Trung Quốc đến khu vực này và từ đó đưa ra
những chính sách ứng xử phù hợp. Trong khuôn khổ một tiểu luận người viết
sẽ phân tích những nhân tố ảnh hưởng trong chính sách đối ngoại của Trung
Quốc đối với vấn đề Biển Đông, những ảnh hưởng của chính sách đối với vấn
đề Biển Đông nói chung và Việt Nam nói riêng, nhằm đem đến một cái nhìn
1.1.

toàn diện về chính sách đối ngoại của Trung Quốc đối với vấn đề Biển Đông.
Tình hình nghiên cứu
Trong nhiều năm qua đã có nhiều nghiên cứu về chính sách đối ngoại
của Trung Quốc đối với vấn đề Biển Đông cũng như tác động của những
chính sách này đối với tình hình an ninh trong khu vực cũng như ảnh hưởng
đối với từng quốc gia. Nhiều công trình khoa học đi sâu nghiên cứu về những
yêu sách phi lý của Trung Hoa đối với khu vực Biển Đông nhằm biến khu vực
biển chiến lược này trở thành “ao nhà” của mình.


Vấn đề Biển Đông và chính sách đối ngoại của Trung Quốc đối với khu
vực này đã trở thành đề tài nghiên cứu của không chỉ các nhà khoa học trong
khu vực mà còn là trên thế giới vì tính chất phức tạp, căng thẳng của vấn đề
này đang gây sự chú ý ngày càng lớn của cộng đồng quốc tế. Do vậy tiểu luận
này chỉ xin trình bày một cách tổng quát chính sách đối ngoại của Trung
Quốc đến vấn đề Biển Đông và tác động của nó đến khu vực này

2. Mục đích và nhiệm vụ
2.1. Mục đích
Thông qua việc nghiên cứu, tiểu luận mong muốn hiểu rõ hơn về chính
sách đối ngoại của Trung Quốc đối với khu vực Biển Đông cũng như tác động
của những chính sách này đối với khu vực Đông Nam Á nói chung và Việt
Nam nói riêng.
2.2. Nhiệm vụ
Tiểu luận phân tích và làm rõ những động thái của Trung Quốc đối với
vấn đề Biển Đông , Những tác nhân tác động đến quá trình hình thành những
động thái đó, cho thấy những ảnh hưởng của chúng đối với an ninh, hòa bình
trong khu vực, và đề xuất những giải pháp căn bản để giải quyết vấn đề tranh
chấp Biển Đông một cách hòa bình, hợp với thông lệ quốc tế.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng
Tiểu luận sẽ nghiên cứu chính sách đối ngoại của Trung Quốc thông qua
các khía cạnh là những nhân tố ảnh hưởng đến chính sách đối ngoại của Trung
Quốc với vấn đề Biển Đông, nội dung chính sách, yêu sách phi lý của “cường
quốc Châu Á” đối với khu vực biển chiến lược này, tác động của chính sách
đối với vấn đề Biển Đông nói chung và Việt Nam nói riêng, từ đó đưa ra
những giải pháp giải quyết tranh chấp một cách hòa bình, hợp với thông lệ
quốc tế cho các quốc gia trong khu vực, trong đó có Việt Nam.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu sẽ tập trung vào chính sách đối ngoại và yêu sách
phi lý của Trung Quốc đối với vấn đề Biển Đông, đặc biệt là từ năm 2007 trở


lại đây với những động thái vô cùng phức tạp và ảnh hưởng sâu sắc đến tình
hình khu vực.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, người viết đã sử dụng các phương pháp

chung của các ngành khoa học xã hội như phương pháp phân tích, tổng hợp tài
liệu; phương pháp lịch sử; nghiên cứu định tính, định lượng, thuyết hành vi.
Bên cạnh đó, người viết sử dụng một phương pháp riêng của chuyên ngành
quan hệ quốc tế là phân tích quan hệ quốc tế của một thực thể dựa trên bốn
khía cạnh bao gồm mục đích quan hệ, quá trình tham gia quan hệ, khả năng
thực hiện quan hệ, ảnh hưởng của hành vi nhằm xác định xem xét tác động
của chủ thể quan hệ quốc tế trong một môi trường quan hệ nhât định. Ở đây
thực thể được xem xét là Trung Quốc trong quan hệ với các quốc gia tranh
chấp Biển Đông.
5. Bố cục nội dung
Phần nội dung được chia làm 3 phần như sau:
Chương 1. Cơ sở hoạch định chính sách đối ngoại của Trung Quốc đối
với vấn đề Biển Đông
Chương 2. Chính sách đối ngoại của Trung Quốc đối với vấn đề Biển
Đông
Chương 3. Ảnh hưởng của Trung Quốc đối với vấn đề Biển Đông và
Việt Nam


PHẦN II.
CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA TRUNG QUỐC ĐỐI VỚI VẤN ĐỀ BIỂN ĐÔNG

Chương 1: Cơ sở hoạch định chính sách đối ngoại của Trung Quốc đối
với vấn đề Biển Đông.
1. Trung Quốc và giá trị chiến lược của Biển Đông.
1.1. Khái quát chung về Biển Đông
Biển Đông (Vùng biển đông Việt Nam) là một biển rìa lục địa, một phần
Thái Bình Dương, bao phủ một diện tích từ Singapore tới eo biển Đài Loan
với diện tích khoảng 3.500.000 km2. Đây là một thể biển lớn nhất sau năm
đại dương.

Có 9 quốc gia ven Biển Đông là: Brunei, Indonesia, Thái Lan,
Campuchia, Singapore, Malaysia, Philippines, Trung Quốc và Việt Nam.
Biển Đông không những có tầm quan trọng chiến lược đối với 9 quốc gia này
mà còn đối với các quốc gia ngoài khu vực. Bên cạnh đó, Biển Đông cũng ẩn
chứa nguy cơ xung đột do những tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ và vùng
biển giữa các quốc gia trong khu vực.
1.2. Giá trị kinh tế của Biển Đông
Tiềm năng kinh tế được quan tâm nhất của Biển Đông là tài nguyên dầu
khí. Theo cục thông tin năng lượng Hoa Kỳ, Biển Đông có trữ lượng dầu lên
tới 7,8 tỷ thùng. Theo một nghiên cứu khác vào năm 1995 của Viện nghiên
cứu địa chất ở nước ngoài của Nga, riêng trữ lượng dầu mỏ ở quần đảo
Trường Sa có thể lên tới 6 tỷ thùng, đó là chưa tính đến trữ lượng về khí.
Trung Quốc đánh giá Biển Đông như một vùng vịnh thứ 2. Thậm chí có một
số chuyên gia còn cho rằng trữ lượng cả về dầu và khí ở khu vực này có thể
lên tới 150 tỷ thùng cả dầu và khí, trong khi trữ lượng dầu mỏ của Trung Quốc
chỉ có thể cung ứng cho nhu cầu nội địa trong khoảng 14 năm nữa. Mặc dù co
đến nay vẫn chưa có một thăm dò chính xác và tổng thể nào về trữ lượng dầu
khí ở Biển Đông, nhưng các quốc gia trong khu vực này vẫn có những kỳ
vọng xác đáng về triển vọng của khai thác dầu mỏ và khí đốt của khu vực đáy
giữa Biển Đông.


Ngoài giá trị kỳ vọng về tài nguyên dầu mỏ, khu vực Biển Đông được
đánh giá là có tài nguyên sinh vật - hải sản vô cùng phong phú. Biển Đông
được coi là một nước với các mức độ khác nhau. Hòa bình và ổn định ở Biển
Đông ảnh hưởng trực tiếp đến hòa bình và ổn định của khu vực và thế giới .
2. Bối cảnh về vấn đề Biển Đông.
2.1. Nhận định chung
Ở Biển Đông tồn tại chủ yếu 2 loại tranh chấp về biên giới và lãnh thổ,
đó là tranh chấp về phân định ranh giới các vùng thềm lục địa và vùng đặc

quyền kinh tế chống lấn nhau và tranh chấp về chủ quyền biển đảo đối với 2
quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa.
Tranh chấp về phân định biên giới các vùng biển và thềm lục địa bắt
nguồn từ việc các quốc gia ven biển mở rộng phạm vi của các vùng biển của
mình theo quy định của công ước của Liên Hợp Quốc về Luật biển 1982,
(Công ước luật biển 1982).
Đối với Việt Nam, ở phía Bắc, nước ta có vùng chống lấn đặc quyền kinh
tế và thềm lục địa với Trung Quốc trong vịnh Bắc bộ và khu vực ngoài cửa
vịnh. Ở phía Nam, nước ta có vùng chống lấn với Campuchia, Thái Lan,
Malaysia trong vịnh Thái Lan và vùng chống lấn với Indonexia ở nam Biển
Đông. Các nước ven Biển Đông khác cũng có một số vùng chống lấn thềm lục
địa và vùng đặc quyền kinh tế với nhau như: giữa Malaysia và Thái Lan, giữa
Thái Lan và Campuchia, giữa Indonexia và Malaysia. Các khu vực chồng lấn
này đã và đang được Việt Nam và các nước có trách nhiệm giải quyết một
cách thỏa đáng theo đúng quy định của Công ước luật biển 1982. Tranh chấp
về chủ quyền biển đảo của 2 quần đảo nằm trong khu vực trung tâm của Biển
Đông là Trường Sa và Hoàng Sa liên quan đến lịch sử chiếm hữu và quản lý
các đảo, đá, bãi ngầm thuộc 2 quần đảo này. Các vấn đề liên quan đến Biển
Đông rất phức tạp, hệ trọng, nhạy cảm đối với nhiều quốc gia liên quan và là
một “nguy cơ” gây bất ổn lớn trong khu vực. Tranh chấp Biển Đông đã trở


thành một trong những cuộc tranh chấp phức tạp nhất trên thế giới. Sự phức
tạp này là do các yêu sách phức tạp về chủ quyền của nhiều quốc gia đối với
các khu vực chồng lấn. Ngoài ra, nó không chỉ là tranh chấp về mặt luật pháp
quốc tế về biên giới biển, lãnh thổ trên biển mà còn được đan xen với lợi ích
và địa - chính trị, về kiểm soát con đường vận tải biển chiến lược, và về khai
thác nguồn tài nguyên biển, đặc biệt là dầu mỏ. Dù đã có nhiều nỗ lực giữa
các bên tranh chấp nhằm xây dựng những cơ chế, phương thức ứng xử tại
Biển Đông, nhưng đến nay tranh chấp vẫn còn bỏ ngỏ và Biển Đông vẫn là

một khu vực tiềm tàng xung đột. Đặc biệt, Trung Quốc - quốc gia có yêu sách
chủ quyền và tham vọng lớn nhất tại Biển Đông, đang không ngừng gia tăng
sự hiện diện quân sự tại Biển Đông, phát triển các cơ sở hạ tầng tại những đảo
mà nước này chiếm đóng, thực hiện những hành vi đơn phương gây mất an
ninh khu vực Biển Đông như tuần tra trên biển, ban bố lệnh cấm đánh bắt cá.
Trung Quốc đang dự định biến nơi đây thành “ao nhà” của mình.
Thực trạng những tranh chấp tại Biển Đông không chỉ nằm trong mối
quan tâm của riêng các quốc gia ven biển mà còn gây sự chú ý đối với các
quốc gia ngoài khu vực, trong đó có Mỹ vì những lợi ích quốc gia của đất
nước này liên quan mật thiết tới Biển Đông. Những lợi ích đó bao gồm: tự do
hàng hải, lợi ích thương mại và chiến lược quân sự. Từ đó đòi hỏi siêu cường
này phải dành mối quan tâm và thiết lập ảnh hưởng của mình tại Biển Đông
và khu vực Đông Nam Á.
Quá trình Mỹ tham gia vào Biển Đông được bắt đầu từ khi Chiến tranh
lạnh được khởi xướng cho đến nay. Đặc biệt, trong giai đoạn này, Mỹ tiến
hành những cải tổ trong chính sách đối ngoại của mình nhằm mở rộng quan hệ
ra toàn thế giới. Khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, đặc biệt là Đông Nam Á
được đặc biệt chú trọng trong chính sách đối ngoại của Mỹ. Đối với vấn đề


Biển Đông, Mỹ đã bày tỏ thái độ mạnh mẽ và sâu sắc hơn để đối phó và ngăn
chặn sự bành chướng của Trung Quốc tại Biển Đông.
Sự hiện diện quân sự của Mỹ tại Biển Đông và những mối hợp tác với
các quốc gia Đông Nam Á đã góp phần kiềm chế Trung Quốc mở rộng ảnh
hưởng ra Biển Đông. Sau chiến tranh lạnh, khi trên thế giới chỉ còn một siêu
cường duy nhất là Mỹ, Trung Quốc đã phải tính toán tới yếu tố Mỹ trong
những bước đi của mình tại Biển Đông và đã thực hiện những bước đi thận
trọng và ít rủi ro hơn tại Biển Đông. Kể từ sau hành động tấn công bãi Vành
Khăn của Trung Quốc và vụ khủng hoảng tại eo biển Đài Loan năm 1995 1996 làm Mỹ phản ứng, Trung Quốc đã không còn thực hiện thêm một vụ tấn
công nào nghiêm trọng tại Biển Đông nữa. Việc Mỹ tăng cường mối quan hệ

quân sự với các quốc gia đồng minh tại Đông Nam Á đã khiến Trung Quốc lo
ngại khả năng Mỹ tăng hiện diện quân sự và khả năng các quốc gia Đông Nam
Á kéo Mỹ vào nhằm đa phương hóa vấn đề. Sự gia tăng hơn nữa hiện diện
quân sự của Mỹ tại Đông Nam Á từ năm 2001 khiến Trung Quốc cũng tiến
hành những bước đi thận trọng hơn qua việc ký Tuyên bố ứng xử Biển Đông
giữa các bên năm 2002 với các quốc gia ASEAN, ký hiệp định phân vùng
Vịnh Bắc bộ với Việt Nam, thực hiện hợp tác khai thác chung với các công ty
của bên tranh chấp như Phillipines, Việt Nam.
Với các quốc gia Đông Nam Á, Mỹ đóng vai trò như một quốc gia đồng
minh đối trọng ảnh hưởng với Trung Quốc. Trên lĩnh vực quân sự, Mỹ triển
khai các hợp tác an ninh - quốc phòng với các quốc gia Đông Nam Á đã giúp
tăng cường khả năng đối trọng với Trung Quốc của những nước này. Cụ thể,
nhờ có sự giúp đỡ của Mỹ, Philippines trở nên mạnh mẽ hơn khi đối đầu với
Trung Quốc tại khu vực Biển Đông trong lĩnh vực quân sự. Mỹ cũng thực hiện
tăng cường quan hệ quân sự với Việt Nam như một động thái rõ ràng đối với
việc tranh chấp giữa Việt Nam và Trung Quốc.


Trước những diễn biến phức tạp mới đây tại Biển Đông, đặc biệt là vụ
tàu hải giám của Trung Quốc xâm phạm và phá hoại tàu của Việt Nam hôm
26/5 vừa qua, Mỹ đã bày tỏ sự quan ngại sâu sắc. Có thể nói những ảnh hưởng
của Mỹ đối với khu vực Biển Đông nói chung và tranh chấp Biển Đông nói
riêng đã tăng lên rõ rệt trong giai đoạn gần đây.
3. Những chuyển biến của Trung Quốc trong thời đại mới.
3.1. Trung Quốc lớn mạnh và đủ khả năng vươn lên trở thành siêu cường.
Trong những năm vừa quạ, Trung Quốc không ngừng lớn mạnh về mọi
mặt: kinh tế, chính trị và ảnh hưởng địa chính trị. Một điều không thể phủ
nhận là Trung Quốc đã vươn lên trở thành một cường quốc khu vực và là một
nước đóng vai trò chủ chốt trong quan hệ quốc tế.
Năm 2011, Trung Quốc trở thành nền kinh tế thứ 2 thế giới. Trung Quốc

ngày nay đã quá lớn mạnh về mọi mặt kể cả về kinh tế, quân sự, khoa học, kỹ
thuật và ngày càng có vai trò quan trọng trong quan hệ quốc tế, tham gia sâu
hơn vào đời sống quan hệ quốc tế đặc biệt là việc giải quyết các vấn đề toàn
cầu.
3.2. Sự điều chỉnh chính sách đối ngoại tổng thể của Trung Quốc trong
thời đại mới.
Những thay đổi lớn lao của Trung Quốc trong 30 năm qua với những lớn
mạnh về mọi mặt khiến quốc gia này đủ sức trở thành một siêu cường đã dẫn
đến những điều chỉnh trong chính sách đối ngoại tổng thể của Trung Quốc
nhằm giới thiệu đến thế giới một Trung Quốc đang trỗi dậu bằng đầy đủ sức
mạnh và tố chất một siêu cường. Sự điều chỉnh này chính là kết quả của nguồn
sức mạnh và vị thế mới của Trung Quốc trên trường quốc tế, khi cộng đồng
quốc tế đòi hỏi Trung Quốc phải gánh vác nhiều hơn các nghĩa vụ quốc tế.
Chính những biến đổi lớn trong nước cũng như quốc tế đòi hỏi Trung
Quốc phải có những điều chỉnh về chiến lược ngoại giao tổng thể. Cùng với
toàn cầu hóa được đẩy mạnh hơn, cơ cấu sức mạnh quốc tế đang có sự thay
đổi. Ưu thế tương đối của Mỹ đang dần giảm đi trong khi ưu thế của Trung


Quốc đang dần tăng lên. Việc giải quyết nhiều vấn đề quốc tế ngày nay cấn sự
tham gia của Trung Quốc, và những động hướng mới của tình hình quốc tế
kêu gọi Trung Quốc cần phải thay đổi mô hình ngoại giao. Cùng với những
cải cách kinh tế xã hội và sự tăng trưởng kinh tế thần kỳ là sự phân hóa xã hội
sâu sắc ở Trung Quốc, khiến xung đột gia tăng trong những năm gấn đây.
Điều đó đòi hỏi Trung Quốc cần phải có những điều chỉnh về chính sách
chính trị trong nước cũng như đường lối ngoại giao để đảm bảo sự phát triển
bền vững của đất nước.
Sự điều chỉnh chính sách đối ngoại tổng thể của Trung Quốc trong thời
đại mới cốt lõi là sự chuyển dần từ ngoại giao nhà nước thông thường sang
ngoại giao nước lớn, từ ngoại giao thế yếu sang ngoại giao thế mạnh, từ ngoại

giao tiêu cực bị động chuyển sang ngoại giao tích cực chủ động. Trung Quốc
đã trở nên chủ động hơn trong quan hệ quốc tế. Điều này thể hiện ở việc
Trung Quốc tham gia các hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên Hợp Quốc, cứu
nạn, chống cướp biển, tích cực tham gia vào các công việc khu vực, là chủ thể
tích cực trong việc thúc đẩy giải quyết các vấn đề toàn cầu cấp bách, gia tăng
sức ảnh hưởng đối với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Nằm trong sự điều chỉnh chính sách đối ngoại tổng thể của mình, Trung
Quốc cũng tiến hành hàng loạt những điều chỉnh trong chính sách đối ngoại
với vấn đề Biển Đông. Từ đó có những động thái nhằm gia tăng ảnh hưởng
của mình tại Biển Đông, đồng thời mong muốn mở rộng lợi ích quốc gia
Trung Quốc đối với khu vực chiến lược này.
3.3 Những nhân tố ảnh hưởng, chi phối chính sách đối ngoại của
Trung Quốc đối với vấn đề Biển Đông.
Chính sách đối ngoại của Trung Quốc là tổng hòa của nhiều nhóm lợi ích
và trường phái tư duy đối ngoại khác nhau. Những nhân tố này đã góp phần
tạo nên những chuyển biến quan trọng trong chính sách đối ngoại của Trung
Quốc nói chung. Vì vậy mỗi chủ thể đại diện cho các nhóm lợi ích đều có ảnh


hưởng nhất định trong việc hoạch định chính sách đối ngoại của Trung Quốc
đối với vấn đề Biển Đông.
Bên cạnh các chủ thể truyền thống như Đảng Cộng sản, chính phủ và
quân đội, các nhóm chủ thể mới có tác dụng đến chính sách đối ngoại của
Trung Quốc phải kể đến các nhóm doanh nghiệp, các nhà nghiên cứu hoạch
định chính sách, phương tiện truyền thông và dư luận xã hội. Với sự tham gia
ngày càng nhiều chủ thể và nhóm lợi ích, phạm vi “biên giới quyền lợi” của
Trung Quốc càng ngày mở rộng hơn. Chính vì thế, Trung Quốc hiện nay rất
quan tâm đến việc bảo vệ lợi ích an ninh chiến lược tại Biển Đông.
Ở Trung Quốc, khuynh hướng chủ nghĩa dân tộc, luôn đề cao việc giữ
gìn độc lập tự chủ, đảm bảo tối đa lợi ích quốc gia luôn có tác động đến tư duy

đối ngoại của nước này. Khuynh hướng này buộc Trung Quốc phải thực hiện
một đường lối đối ngoại cứng rắn, chủ động hơn. Những người theo khuynh
hướng này chủ yếu là những nhà nghiên cứu, hoạch định chính sách, cơ quan
tham mưu cho lãnh đạo quốc gia, cho rằng Trung Quốc cần chủ động tham
gia vào định hình một trật tự thế giới phù hợp hơn với lợi ích phát triển của
mình. Trong khi xu hướng dân tộc chủ nghĩa cũng luôn là hướng đi của quân
đội Trung Quốc, cộng với ảnh hưởng và quyền lực của quân đội Trung Quốc
đối với chính sách đối ngoại càng rõ rệt đã khẳng địn cho chiều hướng cứng
rắn của Trung Quốc trong chính sách ở Biển Đông trong thời gian tới. Quân
đội Trung Quốc thường có thái độ quả quyết đối với các vấn đề về biên giới
lãnh thổ và từng khẳng định cường quốc Châu Á này có “lợi ích quốc gia cốt
lõi” đối với các đảo tranh chấp ở Biển Đông. Với sự mở rộng vai trò của hải
quân, nhiều khả năng Trung Quốc sẽ tiếp tục đầu tư để tăng cường kiểm soát
và bành trướng lực lượng để khẳng định chủ quyền tại Biển Đông.
Các tập đoàn dầu khí nhà nước Trung Quốc cũng đóng vai trò quan trọng
trong chính sách đối ngoại của Trung Quốc ở Biển Đông. Việc đảm bảo nguồn
cung cấp năng lượng trở thành ưu tiên đối với Trung Quốc vì nó là yếu tố


quyết định sự tăng trưởng ổn định của nền kinh tế thứ 2 thế giới. Hoạt động
của các tập đoàn này đôi khi gắn chặt với lợi ích chiến lược của Trung Quốc
vì những hoạt động khai thác ngoài nước của các tập đoàn dầu khí có thể cùng
lúc phục vụ hai mục tiêu: giúp đa dạng hóa nguồn năng lượng và mở rộng ảnh
hưởng địa - chính trị của Trung quốc. Chính vì thế, lợi ích của các tập đoàn
năng lượng rất có sức nặng trong chính sách đối ngoại của Trung Quốc. Trong
thời gian tới, các tập đoàn này có thể đẩy chính sách Trung Quốc ở Biển Đông
theo chiều hướng tiếp tục các dự án khai thác chung, phục vụ lợi ích kinh tế
trước mắt nhưng mặt khác lại giúp Trung Quốc khẳng định chủ quyền thông
qua các hoạt động khai thác trên thực địa và giành lợi ích của nước lớn trong
các thỏa thuận khai thác chung.

Việc hiểu về các chủ thể, nhóm lợi ích và sự tác động của chúng đối với
chính sách đối ngoại của Trung Quốc tại biển Đông nói riêng sẽ đem đến cái
nhìn tổng quan và cách đánh giá chính xác về chính sách đối ngoại của Trung
Quốc tại khu vực biển chiến lược này.


Chương 2.
CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA TRUNG QUỐC ĐỐI VỚI VẤN ĐỀ BIỂN ĐÔNG

2.1. Trung Quốc tham gia “Tuyên bố về ứng xử của các bên tại biển
Nam Trung Hoa” (DOC)
2.1.1. Mục đích và nội dung “Tuyên bố Ứng xử của các bên tại biển
Nam Trung Hoa” (DOC)
Sau hơn 3 năm không tìm được tiếng nói chung, ngày 4.11.2002, tại Hội
nghị cấp cao ASEAN lần thứ 8 tại Phnom - Pênh (Campuchia), Trung Quốc
và 10 nước ASEAN đã cùng nhau ký Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển
Đông (DOC).
Tuyên bố Ứng xử của các bên tại biển Nam Trung Hoa (DOC) nhằm các
mục đích cơ bản sau:
- Tái khẳng định quyết tâm củng cố và phát triển tình hữu nghị và sự hợp
tác đang tồn tại giữa các chính phủ và nhân dân các nước với quan điểm thúc
đẩy mối quan hệ đối tác láng giềng tốt và tin cậy lẫn nhau hướng tới thế kỷ 21.
- Thúc đẩy một môi trường hòa bình, thân thiện và hài hòa trong vùng
Biển Nam Trung Hoa giữa ASEAN và Trung Quốc nhằm nâng cao hòa bình,
ổn định, tăng trưởng kinh tế và thịnh vượng trong khu vực.
- Nâng cao những nguyên tắc và mục tiêu của Tuyên bố chung của Hội
nghị những người đứng đầu nhà nước/ chính phủ các nước thành viên ASEAN
và Chủ tịch nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa năm 1997.
- Nâng cao những điều kiện thuận lợi cho một giải pháp hòa bình và bền
vững cho những tranh chấp và khác bieentj giữa các quốc gia liên quan.

Để thực hiện mục đích trên, DOC năm 2002 đã đề cập đến các nội dung
cơ bản như sau:
- Tuân thủ các nguyên tắc nêu trong Hiến chương Liên Hợp Quốc, Công
ước Luật biển cùng các văn kiện, tuyên bố khác nhau trong quan hệ giữa các
quốc gia.
- Tuân thủ nguyên tắc không sử dụng vũ lực, giải quyết các tranh chấp bằng
biện pháp hòa bình, thông qua đàm phán giữa các bên trực tiếp liên quan, phù
hợp với các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, kể cả Công ước Luật Biển


- Kiềm chế trong việc thực hiện các hành vi có thể gây phức tạp hoặc gia
tăng tranh chấp và ảnh hưởng đến hòa bình ổn định, kể cả việc không đưa người
đến ở trên những đảo, đá, bãi ngầm chưa có người ở.
DOC năm 2002 cũng đề cập đến các biện pháp xây dựng lòng tin của các
quốc gia tham gia ký kết tuyên bố này, bao gồm:
- Tiến hành tham vấn và trao đổi quan điểm giữa các quan chức quốc phòng
và quân sự.
- Đối sử bình đẳng và nhân đạo với tất cả những người đang gặp hiểm nguy
hoặc gặp nạn.
- Trên cơ sở tự nguyện, thông báo cho các bên khác về việc diễn tập quân
sự chung / kết hợp đang diễn ra cũng như các thông tin liên quan khác.
Ngoài ra DOC năm 2002 còn nêu ra những khả năng các bên tiến hành các
hoạt động hợp tác với hình thức, phạm vi và vị tri sẽ được thỏa thuận giữa cac
bên liên quan trước khi thực hiện; các lĩnh vực hợp tác có thể bao gồm: Bảo vệ
môi trường, nghiên cứu khoa học biển, an toàn hàng hải, tìm kiếm cứu nạn,
chống tội phạm có tổ chức. Thêm vào đó, DOC năm 2002 còn chứa đựng cam
kết tôn trọng quyền tự do hàng hải và hàng không tại Biển Đông theo luật pháp
quốc tế, kể cả Công ước Luật Biển.




×