Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

tiểu luận cao học vị trí, vai trò của tổ chức trong sự lãnh đạo của đảng, quản lý của nhà nước trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (234.79 KB, 32 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin từ lâu đã nói đến vị trí, vai
trò quan trọng, thậm chí quyết định của tổ chức đối với các hoạt động cách mạng
của giai cấp vô sản và chính đảng của nó.
Các – Mác đã từng chỉ rõ: “tư tưởng căn bản không thể thực hiện được cái
gì hết. muốn thực hiện tư tưởng cần có những con người sử dụng lực lượng thực
tiễn” (1). “Những con người sử dụng lực lượng thực tiễn” ở đây chính là tổ chức
và tổ chức việc thực hiện.
V.I. Lênin đã từng nói rằng: “trong cuộc đấu tranh giành chính quyền, giai
cấp vô sản không có vũ khí nào khác hơn là tổ chức” (2) và khi đã có chính
quyền, “lĩnh vực trọng yếu nhất và khó khăn nhất của cuộc cách mạng xã hội chủ
nghĩa là nhiệm vụ tổ chức” (3). Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Nga, có lúc
Ông đã nêu vấn đề này một cách khá gây gắt: toàn bộ nhiệm vụ của đảng cầm
quyền là “tổ chức, tổ chức và tổ chức” (4). Trong tác phẩm “làm gì”, Lênin đã
khẳng định: “hãy cho tôi một tổ chức những người cách mạng, tôi sẽ làm đảo lộn
nước Nga lên” một lần nữa nói lên sức mạnh của tổ chức.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương sáng về việc vận dụng sáng tạo và
phát triển của chủ nghĩa Mác – Lênin phù hợp với truyền thống dân tộc và thực
tiễn Việt Nam. Cùng với việc đề ra được phương hướng, nhiệm vụ cách mạng
đúng đắn trong từng thời kỳ, Người dành nhiều công sức cho việc xây dựng
Đảng và các tổ chức quản lý xung quanh Đảng, xây dựng chính quyền cách
mạng. Người kịp thời tổng kết những kinh nghiệm hết sức quan trọng về tổ chức
hoạt động thực tiễn.Sau hơn nửa thế kỷ lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đại hội V
của Đảng 1982 đã khẳng định: “tổ chức là một khâu quyết định đối với việc thực
hiện thắng lợi đường lối, chính sách của Đảng” (5).
(1) Mác – Ăngghen: toàn tập, nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t2, tr.181)
(2) Lênin: toàn tập, nxb.Sự thật, Hà Nội, 1963, t7, tr 481)
(3), (4) Lênin: toàn tập, nxb.Sự thật, Hà Nội, 1971, t27, tr 297)
(5) Báo cáo chính tri tại Đại hội lần thứ V của Đảng, nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội,
1982,



tr. 143.
1


Thật vậy, một sự nghiệp muốn thành công, một công việc muốn đạt hiệu
quả trước hết phải có đường lối, chủ trương đúng và qua một quá trình tổ chức
thực hiện công phu, theo một kế hoạch chặt chẽ với những giải pháp thiết thực,
hữu hiệu. Nói cách khác, muốn cho tư tưởng, đường lối, chính sách được thực
hiện, phải có tổ chức, phải tổ chức con người lại với những phương tiện nhất
định, chỉ đạo mọi hành động theo đúng những mục tiêu, phương hướng do tư
tưởng đó xác định.
Trên ý nghĩa đó, chúng ta khẳng định: khi đảng đã có đường lối, nhiệm vụ
chính trị đúng đắn thì công tác tổ chức, cán bộ là nhân tố quyết định sự thành
công của nhiệm vụ cách mạng, đảm bảo thực hiện thắng lợi đường lối, nhiệm vụ
chính trị. Vì vậy, việc nghiên cứu “vị trí, vai trò của tổ chức trong sự lãnh đạo
của Đảng, quản lý của Nhà nước trong giai đoạn hiện nay” là phù hợp với
thực tiễn và rất cần thiết cho sự nghiệp cách mạng nước ta trong giai đoạn mới.
2. Mục đích và phạm vi nghiên cứu đề tài
Nhằm nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức trong sự lãnh đạo
của Đảng và quản lý của Nhà nước, tác giả trình bày hệ thống tổ chức của Đảng
hiện nay và biện pháp tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với các tổ chức trong
sự lãnh đạo của Đảng. Dồng thời trình bày hệ thống tổ chức của Nhà nước và
biện pháp nâng cao sự quản lý của Nhà nước đối với các tổ chức.
Đây là đề tài nghiên cứu mang tính chất rộng lớn và phức tạp nên trong
một thời gian ngắn khó có thể trình bày một cách đầy đủ và hoàn chỉnh đề tài. Vì
vậy, trong quá trình viết bài, nếu có thiếu sót rất mong được sự đóng góp của quý
thầy, cô để tác giả hoàn thiện hơn bài nghiên cứu của mình khi nghiên cứu
chuyên sâu về đề tài này. Em xin chân thành cảm ơn!
3. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu

Đề tài đề cập đến vị trí, vai trò của tổ chức trong sự lãnh đạo của Đảng,
quản lý của Nhà nước.
Để hoàn thành bài nghiên cứu, tác giả đã tìm tòi, nghiên cứu các tài liệu
liên quan từ đó rút ra trình tự các khía cạnh nghiên cứu và trình bày theo hệ
thống thích hợp bằng các phương pháp chủ yếu: phân tích - tổng hợp, quy nạp diễn dịch, lôgic - lịch sử

2


NỘI DUNG
I. Một số lý luận chung về tổ chức
1. Khái niệm tổ chức:
Tổ chức là vấn đề phức tạp, mỗi khoa học có cách tiếp cận riêng. Mỗi một
thực thể tồn tại trong tự nhiên, xã hội, kể cả một tư tưởng cũng được coi là một tổ
chức. “Tổ chức, nói rộng, là cơ cấu tồn tại của sự vật. Sự vật không thể tồn tại
nếu không không có một hình thức liên kết nhất định các yếu tố thuộc nội dung.
Tổ chức vì vậy là thuộc tính của bản thân sự vật”
Chẳng hạn, trong lĩnh vực tự nhiên, mỗi thực thể tồn tại được coi là một tổ
chức, vì bản thân chúng được cấu thành từ những bộ phận, những thành tố khác
nhau, có sự liên hệ hữu cơ với nhau, tác động qua lại và biến đổi không ngừng.
Ví dụ: tổ chức của các vật thể vật lý, hóa học, cơ thể sinh học. Trong tư tưởng,
nội dung tư tưởng bao giờ cũng được thể hiện dưới những hình thức nhất định,
thể hiện bằng kết cấu ngôn từ và ngữ pháp, nghĩa là tổ chức tư tưởng.
Trong lĩnh vực xã hội, các tổ chức được hình thành từ hoạt động có ý thức
của con người. Vì vậy, tổ chức trước hết được hiểu là rập hợp người được tổ
chức lại hoạt động vì những quyền lợi chung, nhằm mục đích chung. Chẳng hạn,
tổ chức chính trị - xã hội được hình thành trong quan hệ giữa các thành viên của
nó. Mặt khác, tổ chức là hoạt động “làm thành một chỉnh thể, có một cấu tạo,
một cấu trúc và những chức năng chng nhất định; làm thành có trật tự, có nền
nếp làm những gì cần thiết để tiến hành một hoạt động nào đó nhằm có được hiệu

quả tốt nhất”.
Nhà nghiên cứu Xô-viết P.M.Kéc-gien-xtép cũng cho rằng: “tổ chức nghĩa
là liên hợp nhiều người lại để thực hiện một công tác nhất định. Chúng ta cũng có
thể gọi bản thân hình thức liên hợp đó là một tổ chức”. Theo quan điểm đó, trong
đời sống xã hội, phải phân biệt ý nghĩa hai mặt của khái niệm tổ chức:
Thứ nhất, tổ chức là một hoạt động – hoạt động liên hợp nhiều người lại để thực
hiện một nhiệm vụ, mục tiêu nất định.
Thứ hai, tổ chức là một tập hợp người có trật tự để thực hiện một nhiệm
vụ chung hoặc nhằm đạt được mục tiêu nhất định.
Trong quá trình hoạt động, do nhu cầu chung, những con người phải liên kết với
nhau nhằm đạt đến mục đích mà mỗi người không thể nào đạt được. con người
3


tập hợp nhau lại, bố trí, sắp xếp, phân công, phối hợp tạo nên sức mạnh hcung
gấp bội phần. Lê-nin viết: “tổ chức làm cho sức mạnh tăng thêm gấp mười lần”.
Như vậy, tổ chức là một hình thức, phương pháp hoạt động liên hợp của
con người, là phương thức tồn tại của xã hội. bản chấ hoạt động của con người
mang tính chất xã hội, do nhu cầu khách quan và hoạt động liên hợp mà xuất
hiện những hình thức tổ chức xã hội. Tổ chức là một trong những hoạt động có y
thức của con người với nội dung là xác lập các mối quan hệ trong những thể chế
nhất định, nhằm duy trì tính trật tự, để đạt mục đích mong muốn và hiệu quả cao.
Một tổ chức chỉ tồn tại và hoạt động có hiệu quả khi nó phù hợp với những điều
kiện khách quan và phục vu mục tiêu nhất định.
Tổ chức là hình thức liên kết cụ thể giữa con người với con người trong
một quá trình xã hội nhất định. Vì vậy nó được quy định bởi những điều kiện
khách quan và chủ quan nhất định. Về mặt khách quan, một tổ chức ra đời trước
hết được quy định bởi nội dung hoạt động của nó. Tổ chức là hình thức của nội
dung, do nội dung quyết định. Nội dung là tổng hợp tất cả các yếu tố của tổ chức,
các hoạt động và mục tiêu mà tổ chức đó cần đạt được. nội dung đó quy định

phương thức tồn tại, vận động, sự liên hệ tương đối bền vững giữa con người và
các bộ phận của tổ chức. một tổ chức ra đời còn được quyết định bởi hoàn cảnh
lịch sử, điều kiện lịch sử, thời gian, các điều kiện chính trị, kinh tế xã hội, tập
quán, truyền thống, tư tưởng… vì vậy, việc thiết lập hoặc xóa bỏ một tổ chức cần
tính đến những điều kiện khách quan
Về mặt chủ quan, tổ chức được tạo nên bởi con người. con người quy định
mục tiêu, thiết lập và vận hành tổ chức cho nên tổ chức bao giờ cũng mang đậm
dấu ấn chủ quan của con người.Con người phân công, phối hợp, liên hệ, đề ra
yêu cầu cho hoạt động, các chuẩn mực cho các thành viên trong tổ chức. nói cách
khác, trong xã hội, tổ chức nào cũng do con người lập nên để thực hiện mục tiêu
của mình. Tổ chức ra đời và hoạt động của nó là sự thống nhất các điều kiện
khách quan và nhân tố chủ quan. Hai nhân tố đó cần phải được coi trọng trong
việc xây dựng tổ chức cũng như trong việc tổ chức các quá trình xã hội.
Liên quan đến khái niệm tổ chức có các khái niệm sau đây:
- Cơ cấu tổ chức:
Cơ cấu tổ chức là cách bố trí, sắp xếp các bộ phận cấu thành tổ chức nhằm
thực hiện chức năng, nhiệm vụ của tổ chức. Mỗi bộ phận và các yếu tố cấu thành
4


có vị trí, vai trò nhất định, chúng liên hệ, tác động với nhau tạo ra cơ chế phức
hợp và vận hành của cả tổ chức. Nói gọn lại, cơ cấu tổ chức là sự kết hợp giữa
cấu trúc các thành tố và cơ chế tác động và vận hành để thực hiện chức năng,
nhiệm vụ của cả hệ thống tổ chức.
- Hệ thống tổ chức:
Hệ thống tổ chức là một chuỗi các bộ phận có liên kết và phụ thuộc lẫn
nhau được sắp xếp theo một tổng thể thống nhất. Mỗi sự vật, hiện tượng, quá
trình trong tự nhiên hay xã hội đều được coi là một hệ thống. Đặc điểm của hệ
thống là tính tương đối độc lập, thống nhất, chỉnh thể nhờ tương tác giữa các bộ
phận trong cùng một hệ thống. Sự xác định hệ thống nào đó cụ thể là có tính chất

tương đối, đó là mối liên hệ giữa hệ thống lớn và hệ thống con, giữa toàn thể và
bộ phận.
Mỗi hệ thống cần phân định chức năng, nhiệm vụ của rừng bộ phận và sự
thống nhất để đảm bảo rằng hệ thống không bị tách thành các bộ phận riêng rẽ,
độc lập.
2. Những quy luật cơ bản của sự hình thành và phát triển tổ chức
Sự hình thành và phát triển của tổ chức do nhiều yếu tố, nhiều quy luật tác
động. Việc xác định những quy luật cụ thể đó không dơn giản. Sau đây là những
quy luật cơ bản
- Quy luật mục tiêu rõ ràng và tính hiệu quả của tổ chức:
Tổ chức do con người lập ra nhằm những mục tiêu nhất định và mong
muốn hiệu quả cao. Mục tiêu khác nhau thì có tổ chức khác nhau. Từ mục tiêu
mới hình thành tổ chức phù hợp để thực hiện có hiệu quả nhất mục tiêu đó.mục
tiêu càng rõ ràng thì việc thiết kế và vận hành tổ chức càng thuận lợi và sẽ đạt
hiệu quả cao.
Khi xác định mục tiêu, cần xác định mục tiêu xa có tính chiến lược và
mục tiêu gần cụ thể. Mục tiêu chiến lược là phương hướng chung trong một thời
gin dài. Để đạt được mục tiêu chiến lược cần phân ra nhiều giai đoạn khác nhau
và xác định mục tiêu từng giai đoạn đó, gọi là mục tiêu cụ thể. Trong hệ thống tổ
chức, mục tiêu chung của cả hệ thống tổ chức là mục tiêu chiến lược, còn mục
tiêu của từng đơn vị trong cùng hệ thống là mục tiêu cụ thể.
Xác định mục tiêu phải tổng kết thực tiễn, rút kinh nghiệm, dự báo tương
lai phát triển; hiểu sâu sắc mục tiêu của hệ thống để xác định mục tiêu của tổ
5


chức mình cho phù hợp với mục tiêu của hệ thống. Mục tiêu càng ít, tính hiệu
quả càng cao.
Để tránh phạm sai lầm trong việc xây dựng tổ chức cần chú ý, không đặt
mục tiêu cao hơn khả năng của tổ chức; không nhầm lẫn mục tiêu và phương

tiện. Để xác định hiệu quả tổ chức cần chú ý ba yếu tố: yếu tố đầu vào, yếu tố
vận hành và yếu tố kết quả của tổ chức. Sự chênh lệch giữa yếu tố kết quả và yếu
tố đầu vào là hiệu quả của tổ chức.
Quy luật mục tiêu rõ ràng và tính hiệu quả là quy luật khách quan chi phối
cấu trúc và phương thức hoạt động của tổ chức.
- Quy luật hệ thống:
Tổ chức chính là hệ thống bao gồm những yếu tố liên kết trong những mối
quan hệ nhất định với những tính chất nhất định. Sức mạnh của tổ chức bắt
nguồn từ tính hệ thống của nó, tùy thuộc vào sự liên kết giữa các yếu tố của tổ
chức trật tự hay hỗn loạn, điều khiển hay không điều khiển được. Khi tìm hiểu tổ
chức trước hết phải tìm hiểu hệ thống của nó, xây dựng nó thành hệ thống trên
thực tế và đặt nó trong một hệ thống lớn hơn bao trùm.
Quy luât hệ thống không chỉ cho ta thấy cấu trúc của tổ chức mà còn cho
phép chúng ta hiểu được cách quản lý, điều khiển tổ chức hay hệ thống tổ chức
nào đó. Quá trình điều khiển tổ chức là quá trình tác động lên hệ thống tổ chức
để hoạt động đạt được mục tiêu thiết kế của nó. Muốn tác động có hiệu quả nên
quá trình vận động của tổ chức cần cần phải nghiên cứu cấu trúc bên trng của nó.
Cấu trúc bên trong gồm tập hợp các yếu tố cấu thành, trạng thái và cơ chế vận
hành, chuyển đổi trạng thái. Vấn đề quản lý, lãnh đạo là phải tìm cơ chế điều
khiển hệ thống thông suốt.
Trong hệ thống tổ chức phải quy định rõ quyền hạn, trách nhiệm, mối
quan hệ cùng cấp và các cấp trng hệ thống. Hệ thống tổ chức bắt đầu bằng tổ
chức cơ sở. Dù nhỏ nhưng tổ chức cơ sở cũng mang đầy đủ tính chất của hệ
thống tổ chức.
Các tổ chức cùng cấp tạo nên hệ thống ngang. Các tổ chức trong hệ thống ngang
có chức năng, nhiệm vụ rõ ràng thì mới không trùng lặp gây lãng phí, giảm sức
mạnh tổ chức. Hệ thống ngang cơ bản là hệ thống đồng cấp, ngoài việc quy định,
chức năng, nhiệm vụ của các tổ chức đồng cấp, cần phải quy định quan hệ giữa
các tổ chức đồng cấp với nhau để phát huy sức mạnh tổng thể của tổ chức.
6



Trong tổ chức còn có mối quan hệ khác cấp, quan hệ giữa cấu trúc thứ bậc
của hệ thống tổ chức. Trong hệ thống tổ chức đó là quan hệ lãnh đạo, chỉ đạo và
phục tùng, chấp hành của cấp trên và cấp dưới. Mối quan hệ khác cấp đảm bảo
phát huy sức mạnh của toàn bộ tổ chức, vì vậy, cần phải quy định rõ chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi cấp, tránh tình trạng cấp dưới lạm quyền, cấp trên
bao biện, hạn chế sức mạnh tổ chức. Mặt khác, trong hệ thống bị rối loạn chức
năng thì phần lớn các hiện tượng là “vừa đá bóng vừa thổi còi”.
- Quy luật cấu trúc đồng nhất và đặc thù của tổ chức
Mọi tổ chức đều là bộ phận của một hệ thống tổ chức lớn hơn bao trùm.
Quy luật cấu trúc đồng nhất và đặc thù đòi hỏi các tổ chức cấu thành phải có cấu
trúc đồng nhất trong khi vẫn duy trì tính đặc thù của chúng.
Sự đồng nhất là điều kiện để hình thành hệ thống. Những yếu tố không
đồng nhất thì không thể hợp thành hệ thống. Một hệ thống có thể có nhiều bộ
phận, nhiều chức năng khác nhau nhưng cũng phải mang tính đồng nhất, ít nhất
cũng đồng nhất về cơ chế tác động. Nếu ghép những tổ chức không đồng nhất hệ
thống thì không bao giờ hình thành hệ thống mới, có khi còn hủy hoại hệ thống.
Yêu cầu tính đồng nhất không loại trừ tính đặc thù của tổ chức. Tính đặc
thù được tạo nên từ sắc thái, truyền thống của tổ chức.
- Quy luật vận động không ngừng và vận động theo quy trình của tổ chức
Vận động là điều kiện tồn tại và phát triển của tổ chức. Quá trình thực
hiện mục tiêu đó chính là quá trình vận động của một tổ chức. Vận động diễn ra
thông suốt, không ngừng, từ các bộ phận đến toàn bộ hệ thống tổ chức. Một sự
ách tắt đâu đó dù là cục bộ củng ảnh hưởng đến sức sống của cả hệ thống.
Sự vận động của tổ chức là vận động theo quy trình, có điều khiển. Thông
thường các quy trình của tổ chức được xác định trong các điều lệ của tổ chức.
Một tổ chức vận động hợp lý phải xác định rõ sản phẩm của tổ chức, phải ra
quyết định đúng, xây dựng được điều lệ và từ chức năng, nhiệm vụ mà cụ thể hóa
thành quy chế hoạt động và hoạt động theo quy chế.

Tuân thủ quy luật này khi thiết kế tổ chức phải xác định cơ chế vận hành
của bộ máy, đảm bảo cho bộ máy vận động không ngừng và đúng quy trình đã
xác định.
- Quy luật tự điều chỉnh của tổ chức

7


Quá trình vận động thực hiện mục tiêu của tổ chức diễn ra trong môi
trường luôn thay đổi, sản phẩm tổ chức do vậy cũng luôn thay đổi. Cho nên, quá
trình tổ chức cũng phải luôn thay đổi nhằm đạt hiệu quả cao nhất. Mọi tổ chức
vững mạnh phải biết tự điều chỉnh để hoạt động của nó phù hợp với môi trường
luôn thay đổi. Để tạo điều kiện cho khả năng tự điều chỉnh của tổ chức, ngay từ
khâu thiết kế phải tạo điều kiện về cơ chế quản lý, chế độ, chính sách cho tổ chức
tự điều chỉnh trong quá trình thực hiện mục tiêu. Đồng thời, phải quy định rõ
quyền hạn của mỗi cấp trong điều chỉnh, phải xác định rõ, giao quyền thật cụ thể
để trách không dám điều chỉnh hoặc vượt quá quyền hạn.
- Quy luật về tính ổn định và bền vững tương đối của tổ chức
Tổ chức nào cũng có vai trò, sứ mệnh lịch sử của nó, tuy nhiên khi ra đời
thường hướng tới sự ổn định và phát triển bền vững. Tính ổn định, phát triển là
yêu cầu tất yếu để tổ chức thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ của nó. Một tổ chức
thiếu tính ổn định thì hoạt động kém hiệu quả. Ngược lại khi tổ chức đã hình
thành và hoạt động ổn định thì lại có sức ỳ, xu hướng bảo thủ, trì trệ, khép kín.
Quy luật này đòi hỏi xây dựng tổ chức phải đảm bảo tính ổn định, tránh
vội vàng, hấp tấp thay đổi tổ chức khi chưa nghiên cứu kỹ lưỡng, chưa có điều
kiện đầy đủ. Đồng thời, phải chú ý khắc phục xu hướng bảo thủ, trì trệ, khép kín
của tổ chức.
3. Các biện pháp nâng cao hiệu quả tổ chức
Những yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động của một tổ chức gồm nguồn nhân
lực, cơ cấu tổ chức, cơ chế hoạt động, thủ tục giải quyết công việc, phong cách

lãnh đạo, quản lý, môi trường làm việc của tổ chức – kết quả bố trí, sắp xếp các
yếu tố cấu thành tổ chức, cơ sở vật chất, phương tiện làm việc tổ chức. Các giải
pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của tổ chức:
- Củng cố, kiện toàn tổ chức là biện pháp thường xuyên của mọi tổ chức,
trên cơ sở bố trí, sắp xếp lại các bộ phận, điều chỉnh nhân sự…; thay đổi phương
thức hoạt động, đề xuất quy định mới, thay đổi các quy định cũ; chuyển đổi tính
chất, nội dung hoạt động, bổ sung nhiệm vụ mới cho tổ chức.
- Phân cấp, phân quyền, giao quyền và ủy quyền
Phân cấp, phân quyền thực chất là phân chia quyền lực trong một tổ chức
để đảm bảo tính hiệu quả của tổ chức. Trong hoạt động của tổ chức có 2 xu
hướng là tấp trung quyền lực và phân chia quyền lực. nhưng tập quyền và phân
8


quyền đến mức độ nào không phải theo ý muốn chủ quan của ngườ lãnh đạo
quản lý, mà phụ thuộc vào tầm quản lý có hiệu quả. Tầm quản lý tùy thuộc vào
năng lực, quy mô quản lý. Tầm quản lý quá rộng hay quá hẹp đều không tốt.
Phân cấp đi liền với phân quyền.
Khi phân cấp, phân quyền thì phải giao quyền và ủy quyền cho tổ chức
hay cá nhân nào đó, nhưng xét đến cùng quyền phải giao cho con người cụ thể.
Quyền hạn phải quy định cụ thể, tương xứng với quyền hạn là trách nhiệm. Chỉ
có trách nhiệm cac nhân mới có ý nghĩa thực tiễn, còn trách nhiệm tập thể là
trách nhiệm trừu tượng. Ủy quyền là giao cho người khác sử dụng một số quyền
của một chủ thể nào đó đã được tổ chức quy định.
- Tôn trọng các nguyên tắc hoạt động của tổ chức và sự kết hợp nhịp
nhàng giữa các bộ phận trong một cơ cấu tổ chức.
- Đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực, giáo dục, nâng cao tinh thần làm
việc, ý thức trách nhiệm và đoan kết cho các thành viên trong một tổ chức.
II. Vị trí, vai trò của tổ chức trong sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của
Nhà nước trong giai đoạn hiện nay

Đảng Cộng sản Việt Nam - đội tiên phong của giai cấp công nhân, đại
biểu trung thành lợi ích giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc.
Đảng là một bộ phận của hệ thống chính trị nhưng lại là hạt nhân lãnh đạo của
toàn bộ hệ thống chính trị. Vai trò lãnh đạo của Đảng đối với các tổ chức trong
hệ thống chính trị được thể hiện trên những nội dung chủ yếu sau:
Đảng đề ra Cương lĩnh chính trị, đường lối, chiến lược, những quan điểm,
chủ trương phát triển kinh tế-xã hội; đồng thời Đảng là người lãnh đạo và tổ chức
thực hiện Cương lĩnh, đường lối của Đảng. Đảng lãnh đạo xã hội chủ yếu thông
qua Nhà nước và các đoàn thể quần chúng.
Đường lối, chủ trương, quan điểm của Đảng được Nhà nước tiếp nhận, thể
chế hoá cụ thể bằng pháp luật và những chủ trương, chính sách, kế hoạch,
chương trình cụ thể. Vì vậy, Đảng luôn quan tâm đến việc xây dựng Nhà nước và
bộ máy của Nhà nước, đồng thời kiểm tra việc Nhà nước thực hiện các Nghị
quyết của Đảng.
Đảng lãnh đạo xã hội thông qua hệ thống tổ chức Đảng các cấp và đội ngũ
cán bộ, đảng viên của Đảng. Đảng lãnh đạo công tác cán bộ bằng việc xác định
đường lối, chính sách cán bộ, lựa chọn, bố trí, giới thiệu cán bộ có đủ tiêu chuẩn
9


vào các cơ quan lãnh đạo của Nhà nước và các đoàn thể quần chúng và các tổ
chức chính trị - xã hội.
Ngoài ra, Đảng lãnh đạo bằng phương pháp giáo dục, thuyết phục và nêu
gương, làm công tác vận động quần chúng, lãnh đạo thực hiện tốt quy chế dân chủ .
Ngay từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập năm 1930, Điều lệ tóm
tắt của Đảng đã quy định đảng được tổ chức gồm 5 cấp: Trung ương, Xứ bộ, tỉnh
bộ hay đặc biệt bộ, huyện bộ, thị bộ hay là khu bộ và chi bộ. Tại cấp trung ương
có Ban Chấp hành và Ban Thường vụ. Cấp xứ có Xứ ủy và Ban Thường vụ. Sau
đó Ban Chấp hành Trung ương lâm thời thành lập. Ba xứ Bắc kỳ, Trung kỳ ,
Nam kỳ thành lập Xứ ủy. Bí thư Xứ ủy Bắc kỳ đầu tiên là Đỗ Ngọc Du, Bí thư

Xứ ủy Trung kỳ đầu tiên là Nguyễn Phong Sắc và Bí thư Xứ ủy Nam Kỳ đầu tiên
là Ngô Gia Tự.
Cho đến năm 1934, nhiều tổ chức đảng bị Pháp khủng bố và phá vỡ, nhiều
thành viên Ban Chấp hành trung ương bị bắt và giết hại, Đảng tổ chức ra Ban
lãnh đạo của Đảng ở ngoài nước. Đến Đại hội I của đảng năm 1935, tổ chức của
đảng gồm 6 cấp. Giúp việc cho Ban Chấp hành Trung ương có các bộ (ban): Bộ
Tuyên truyền huấn luyện TW, Bộ Tài chính, Văn phòng TW (thay Ban đảng vụ),
Bộ Tổ chức -Kiểm tra TW (thay Bộ Tổ chức kiêm giao thông TW).
Năm 1948 hệ thống tổ chức của đảng có sự thay đổi. Tổ chức đảng ở Bắc
Bộ và Trung Bộ có 5 cấp, ở Nam Bộ có 6 cấp, có Xứ ủy Miên và Xứ ủy Lào.
Tháng 10 năm 1948 Ban Kiểm tra TW được thành lập, Trưởng ban ban đầu là
ông Trần Đăng Ninh. Bộ Tổ chức TW cũng được tổ chức lại tháng 12 cùng năm.
Trường Nguyễn Ái Quốc TW được thành lập năm 1949. Sau Đại hội II năm
1951, hệ thống đảng có 6 cấp. Giúp việc cho Trung ương đảng có các ban: Tuyên
huấn, Tổ chức, Mặt trận, Kinh tế, tài chính và 6 tiểu ban: Miên- Lào, Công vận,
Nông vận, Thanh vận, Phụ vận.
Thời kỳ 1954-1975 tổ chức đảng có nhiều thay đổi. Năm 1961 Ban Thống
nhất Trung ương được thành lập. Một bộ phận của TW đảng tại miền nam lấy tên
Trung ương Cục Miền Nam, và đảng bộ miền nam là Đảng Nhân dân Cách mạng
Việt Nam. Ban cán sự đảng ngoài nước cũng được thành lập.
Thời kỳ 1976-1986 tổ chức đảng có những thay đổi phù hợp, cơ bản tổ
chức 4 cấp tương ứng với hệ thống tổ chức bộ máy hành chính Nhà nước. Giải
thể TW cục Miền Nam và cấp khu.

10


Sau Đại hội VI năm 1986, cơ quan tham mưu giúp việc cho đảng có 17
ban như khóa trước cộng thêm Ban Cương lĩnh chiến lược và 15 đơn vị sự
nghiệp. Đến khóa VII chỉ còn 13 ban và 5 đơn vị sự nghiệp. Ngày 14 tháng 2

năm 1992 Bộ Chính trị ra quyết định thành lập lại đảng đoàn, ban cán sự ở các cơ
quan nhà nước, đoàn thể cấp trung ương. Sau đó Ban Bí thư quyết định lập đảng
đoàn , ban cán sự đảng ở các cơ quan cấp tỉnh và cấp huyện , lập thí điểm ban
cán sự tại một số doanh nghiệp trọng yếu của nhà nước.
Tại Đại hội VIII, thành lập Ban Thường vụ Bộ Chính trị thay thế Ban Bí thư.
Đến Đại hội IX, bỏ Ban Thường vụ Bộ Chính trị, lập lại Ban Bí thư, đồng thời bỏ
Ban Cố vấn. Ở cấp trung ương, có 12 ban và 4 đơn vị sự nghiệp.
Từ năm 1982 thành lập 10 đảng bộ khối cơ quan trung ương, đến khóa IX
còn có 7 khối: Khối I cơ quan Trung ương , Khối Kinh tế, Khối Tư tưởng, Khối
Khoa giáo, Khối Nội chính, Khối Đối ngoại, Khối Dân vận. Mỗi khối có Đảng
ủy. Ở các địa phương cũng tổ chức các Đảng bộ khối. Đến sau đại hội X năm
2006 bộ máy đảng được kiện toàn, có nhiều thay đổi, đáng kể nhất là sáp nhập
một số ban và tổ chức lại các đảng bộ khối cơ quan Trung ương.
Như chúng ta đã biết, khi tìm hiểu tổ chức trước hết phải tìm hiểu hệ
thống của nó. Vì vậy, để tìm hiểu vị trí, vai trò của tổ chức trong sự lãnh đạo của
Đảng, cần làm rõ hơn về hệ thống tổ chức của Đảng cộng sản Việt Nam.
a. Cơ cấu tổ chức bộ máy của Đảng
Đảng ta là đảng cầm quyền, “hệ thống tổ chức của Ðảng được lập tương
ứng với hệ thống tổ chức hành chính của Nhà nước” (Điều 10). Bộ Chính trị
Trung ương Đảng khá X quy định: “hệ thống tổ chức của Đảng được tổ chức
theo đơn vị hành chính lãnh thổ cấp xã, phường, thị trấn; cấp tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương và cấp trung ương. Đây là hệ thống tổ chức cơ bản của Đảng có
chức năng lãnh đạo toàn diện ở mỗi cấp và của toàn Đảng” (Quy định số 23QĐ/TW ngày 31-10-2006).
Ở mỗi cấp trong hệ thống tổ chức hành chính bốn cấp của Nhà nước đều
lập tổ chức Đảng tương ứng. Các tổ chức Đảng được tổ chức và hoạt động theo
nguyên tắc “tập trung dân chủ”: “thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng
cáp trên, cá nhân phục tùng tổ chức, các tổ chức trong toàn Đảng phục tùng Đại
hội Đại biểu toàn quốc và Ban Chấp hành Trung ương” (Điều 9).
11



Ở cấp nào lập đảng bộ ở cấp đó, có cơ quan lãnh đạo là đại hôi đảng viên
hoặc đại hội đại biểu đảng bộ các cấp (cơ sở, huyện, tỉnh hoặc tương đương)
gồm: đại biểu do đại hội cấp dưới bầu và đại biểu là cấp ủy viên đương nhiệm
của cấp ủy triệu tập đại hội; là ban chấp hành đản bộ (gọi tắt là cấp ủy đảng) gồm
các thành viên do đại hội cùng cấp bầu ra và có cơ quan chỉ đạo (đảng đoàn, ban
cán sự đảng) và cơ quan tham mưu, giúp việc (ban đảng, cơ quan sự nghiệp), do
cấp ủy lập ra:
1. Tổ chức cơ sở đảng (đảng bộ, chi bộ cơ sở) được lập tại đơn vị cơ sở
hành chính (xã, phường, thị trấn), đơn vị sự nghiệp hoặc công tác đóng trên địa
bàn huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh. Tất cả tổ chức cơ sở đảng “đặt
dưới sự lãnh đạo của cấp ủy huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh” (Điều
10). Tổ chức đảng trong lực lượng vũ trang có quy định riêng.
2. Đảng bộ huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh là cấp trên trực
tiếp của tổ chức sơ sở đảng, gồm các tổ chức cơ sở đảng (đảng bộ, chi bộ cơ sở)
ở xã phường, thị trấn và tổ chức cơ sở đảng ở đơn vị hành chính, sự nghiệp,
doanh nghiệp… đóng trên địa bàn.
3. Đảng bộ tỉnh, thành phố trực thuộc trung ươnglà cấp trên trực tiếp của
các đảng bộ huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh và đảng bộ tương
đương (đảng bộ cơ quan dân chính đảng tỉnh, đảng bộ đơn vị doanh nghiệp, sự
nghiệp lớn…trực thuộc cấp ủy tỉnh, thành phố trực thuộc tỉnh).
Các đảng bộ trực thuộc trung ương gồm các đảng bộ tỉnh, thành phố trực
thuộc; hai đảng bộ khối trung ương (đảng bộ khối các cơ quan trung ương và
đảng bộ khối doanh nghiệp trung ương) và các đảng bộ quân sự, đảng bộ công an
trung ương.
4. Cấp trung ương là cấp trên trực tiếp của các đảng bộ tỉnh, thành phố và
các đảng bộ trực thuộc khác, cũng có nghĩa là bao gồm toàn đảng, trong đó có
Đại hội đại biểu toàn quốc (họp 5 năm một lần) là cơ quan lãnh đạo cao nhất của
Ðảng; giữa hai kỳ đại hội, cơ quan lãnh đạo của Ðảng là Ban Chấp hành Trung
ương Đảng. Ban Chấp hành Trung ương bầu Bộ Chính trị, thành lập Ban Bí thư.

Mỗi cấp có Ban Chấp hành đảng bộ và cũng thành lập Ủy ban kiểm tra.
- Tổ chức đảng trong Quân đội nhân dân Việt Nam
Ðảng ủy Quân sự Trung ương (gọi tắt là Quân ủy Trung ương) do Bộ
Chính trị chỉ định, gồm một số Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương công tác
12


trong quân đội và một số Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương công tác ngoài
quân đội, đặt dưới sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương mà thường xuyên
là Bộ Chính trị, Ban Bí thư.
Cấp ủy đảng trong bộ đội chủ lực và bộ đội biên phòng ở cấp nào do đại
hội cấp đó bầu; Ðảng ủy quân khu, Ðảng ủy quân sự tỉnh, thành, huyện, quận, thị xã.
- Tổ chức đảng trong Công an Nhân dân Việt Nam
Ðảng ủy Công an Trung ương do Bộ Chính trị chỉ định gồm một số Ủy
viên Ban Chấp hành Trung ương công tác trong Công an nhân dân và một số Ủy
viên Ban Chấp hành Trung ương công tác ngoài Công an Nhân dân, một số đồng
chí công tác thuộc Ðảng bộ Công an Trung ương, đặt dưới sự lãnh đạo của Ban
Chấp hành Trung ương mà thường xuyên là Bộ Chính trị, Ban Bí thư.
Cấp ủy công an cấp nào do đại hội cấp đó bầu, trường hợp thật cần thiết
do cấp ủy cấp trên chỉ định.Tổ chức đảng công an nhân dân địa phương cấp nào
đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp về mọi mặt của cấp ủy cấp đó. Ðảng ủy công an
tỉnh, thành, huyện, quận, thị xã do đại hội đảng bộ cùng cấp bầu.
- Đảng lãnh đạo Nhà nước, đoàn thể thông qua Ban cán sự đảng và Đảng
đoàn (Điều 42 và 43 trong Điều lệ Đảng năm 2011).
Tại các cơ quan Nhà nước, đoàn thể cấp trung ương và cấp tỉnh cấp ủy
thành lập đảng đoàn và ban cán sự đảng nhiệm vụ chính lãnh đạo các thành viên
trong tổ chức thực hiện đường lối, chính sách của Ðảng.
Trong cơ quan lãnh đạo của Nhà nước và đoàn thể chính trị - xã hội cấp
Trung ương và cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, do bầu cử lập ra, cấp
ủy cùng cấp lập đảng đoàn. Hiện nay có Đảng đoàn Quốc hội, Đảng đoàn Hội

đồng nhân dân tỉnh, thành, Đảng đoàn các đoàn thể cấp trung ương và cấp tỉnh (
Mặt trận, Tổng Công đoàn, Hội nông dân, Hội phụ nữ, Hội cựu chiến binh).
Riêng Đoàn Thanh niên không thành lập Đảng đoàn.
Trong cơ quan hành pháp, tư pháp cấp Trung ương và cấp tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương, cấp ủy cùng cấp lập ban cán sự đảng. Hiện nay có Ban
cán sự đảng Chính phủ, Ban cán sự các bộ, ngành, Ban cán sự đảng Tòa án, Ban
cán sự đảng Viện kiểm sát ở cấp trung ương và cấp tỉnh, Ban cán sự đảng Ủy ban
nhân dân các tỉnh thành.
Ngoài ra còn thành lập Đảng đoàn tại một số hội quần chúng (tổ chức xã
hội) và thành lập Ban cán sự đảng tại một số tổng công ty.
13


- Cơ quan tham mưu giúp việc:
Sau sự hợp nhất một số ban của đảng theo QĐ45-QĐ/TW của Bộ Chính
trị, đến nay Trung ương đảng có các ban giúp việc: Văn phòng Trung ương
Đảng; Ban Tổ chức Trung ương; Ban Tuyên giáo Trung ương; Ban Dân vận
Trung ương; Ban Đối ngoại Trung ương; Ủy ban Kiểm tra Trung ương và cơ
quan Ủy ban kiểm tra Trung ương; và các đơn vị sự nghiệp sau: Học viện Chính
trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh; Báo Nhân dân; Nhà xuất bản Chính trị
quốc gia - Sự thật; Tạp chí Cộng sản.
Ở cấp tỉnh có Ban Tuyên giáo, Ban Tổ chức, Văn phòng, Ban Dân vận,
Ủy ban Kiểm tra, báo tỉnh và trường chính trị tỉnh. Cấp huyện có Ban Tuyên
giáo, Ban Tổ chức, Văn phòng, Ban Dân vận, Ủy ban Kiểm tra, trung tâm bồi
dưỡng chính trị. Riêng cấp xã chỉ có Ban Tuyên giáo, Ban Tổ chức, Văn phòng
và Ủy ban Kiểm tra
b. Một số giải pháp chủ yếu tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với
tổ chức trong hệ thống chính trị nước ta
- Đổi mới nhận thức về chức năng của các thành tố trong hệ thống chính trị
Trong khi khẳng định Đảng là thành viên của hệ thống chính trị, là hạt

nhân lãnh đạo hệ thống chính trị nhưng không thể coi Đảng như một hệ thống
công quyền, không được lấn sân vào các chức năng của các cơ quan công quyền.
Các tổ chức và những đảng viên chủ chốt của Đảng nếu không giữtrong bộ máy
Nhà nước thì sẽ không có quyền quyết định vị trí chức vụ
Đối với các tổ chức chính trị - xã hội, cần xác định ró chức năng quan
trọng của tổ chức này trong thời kỳ mới, từ đó có những định hướng, chính sách
và tạo môi trường pháp lý cần thiết cho các tổ chức này phát huy vai trò của
mình trong đời sống chính trị.
- Đảng phân định ranh giới, phạm vi hoạt động giữa Đảng, Nhà nước và
các tổ chức chính trị - xã hội.
Phân định ranh giới giữa phạm vi hoạt động của Đảng và Nhà nước là yêu
cầu cơ bản của xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Ở đó, tất cả
mọi thành viên trong xã hội kể cả Đảng và Nhà nước cũng phải tuân thủ, hoạt
động theo pháp luật. Vì vậy, sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước cũng phải
tuân theo pháp luật và có giới hạn xác định. Có như vậy mới khắc phục được
14


mâu thuẫn hoặc sự chồng chéo giữa một bên là chấp hành sự lãnh đạo của Đảng,
một bên là tuân thủ pháp luật. Mặt khác, luật hóa sự lãnh đạo của Đảng cũng sẽ
xác định được không gian hoạt động riêng của Nhà nước và các tổ chức chính trị
- xã hội, khắc phục được sự can thiệp tùy tiện, trực tiếp của Đảng đối với Nhà
nước và xã hội.
- Thể chế hóa sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội
Thể chế hóa sự lãnh đạo của Đảng sẽ tiến tới buộc Đảng phải hóa thân vào
Nhà nước, cầm quyền và chịu trách nhiệm trực tiếp trước nhân dân. Như vậy sẽ
khắc phục được tình trạng nhị nguyên trong thực thi quyền lực nhà nước, tránh
tình trạng Đảng đngs trên hay đngs ngoài lãnh đạo Nhà nước. Đồng thời, nó cũng
khắc phục được hệ thống song trùng về tổ chức giữa bộ máy của Đảng và bộ máy
của Nhà nước hiện nay.

- Định hướng sự phát triển đối với các tổ chức chính trị - xã hội trong
Nhà nước pháp quyền
Một là, phát triển các tổ chức chính trị - xã hội theo hướng độc lập, tự chủ.
Hai là, tinh giản tổ chức bộ máy và nhân sự, xóa dần các nấc trung gian
trong hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội.
Ba là, tiến tới phi công chức hóa đội ngũ cán bộ làm việc trong các tổ
chức chính trị - xã hội. Đây cũng chính là một phần quan trọng trong lộ trình tách
dần sự phụ thuộc của các tổ chức chính trị - xã hội khỏi bộ máy nhà nước, hướng
các tổ chức này quay trở về thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ của mình.
Bốn là, cùng với quá trình phát triển kinh tế, mở rộng và phát huy dân
chủ, chức năng giám sát và phản biện xã hội sẽ trở thành một trong những nội
dung chủ yếu trong hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội.
Năm là, hướng tới thu hẹp dần số lượng một người tham gia nhiều tổ chức
chính trị - xã hội. Đây cũng chính là quá trình đổi mới về chất trong hoạt động
của các tổ chức chính trị - xã hội ở Việt Nam theo hướng xã hội dân sự.
2. Vị trí, vai trò của tổ chức trong sự quản lý của Nhà nước trong giai
đoạn hiện nay
a. Hệ thống tổ chức của Nhà nước hiện nay:
Các tổ chức trong xã hội được hình thành, đào thải, phát triển không
ngừng theo tiến trình phát triển của con người và xã hội với nhiều hình thức tập
hợp, quy mô, nội dung và cách thức hoạt động khác nhau.
15


Các tổ chức hình thành trong xã hội hiện đại rất phong phú, đa dạng trong
tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội của từng ngành, từng địa phương, từng cơ
sở có quy mô cả nước hoặc mở rộng ra ở các nước trong khu vực và thế giới. Các
tổ chức trong xã hội hiện đại thường được chia ra: tổ chức chính trị, tổ chức
chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế, tổ chức tôn giáo…
Nhà nước quản lý tổ chức và hoạt động của các tổ chức trong xã hội bằng

pháp luật. Các tổ chức trong xã hội đều có điều lệ, quy chế, nội quy hoạt động,
quy định rõ trách nhiệm, quyền hạn của các thành viên và mối quan hệ của các
thành viên trong các tổ chức ấy.
Công tác tổ chức là những việc làm để tập hợp nhiều người lại với nhau,
xây dựng cơ cấu bộ máy làm việc, định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của từng bộ
phận, của từng cá nhân trong tổ chức, đưa ra khỏi tổ chức những người không
còn phù hợp, bổ sung thên người mới hoặc còn thiếu, đề ra chương trình, kế
hoạch và cách thức hành động của các thành viên để tổ chức đó hoạt động có
hiệu quả…
Nói đến tổ chức trong hoạt động xã hội là nói đến mối quan hệ và sự phối
hợp hoạt động giữa các bộ phận của một chỉnh thể; là hệ thống lãnh đạo và quản
lý các lĩnh vực hoạt động, các ngành, các cấp; hệ thống các hình thức và biện
pháp thực hiện các quyết định kể từ khi xác định mục tiêu, phương hướng, vạch
kế hoạch tiến hành đến đôn đốc, kiểm tra thực hiện, nghiệm thu cuối cùng kết
quả đạt được, rút ra nhẽng bài học thành công, đề ra những giải pháp phát triển
và tiếp tục xử lý những công việc còn lại.
Khi đã hình thành tổ chức thì phải có hoạt động quản lý. Hoạt động quản
lý bắt nguồn từ sự phân công, hợp tác lao động. Chính sư phân công, hợp tác lao
động nhằm đạt tới hiệu quả nhiều hơn, năng suất cao hơn trong công việc, đòi
hỏi phải có sự chỉ huy, phối hợp, điều hành, kiểm tra, chỉnh lý; phải có người
đứng đầu. Ở đây, người ta thường nhắc đến câu nói nổi tiếng của C.Mác: “một
nghệ sĩ vĩ cầm thì tự điều khiển mình, còn dàn nhạc thì cần nhạc trưởng”.
Quản lý là một quá trình thu thập và xử lý thông tin, ra quyết định và
chuyển tải quyết định dưới dạng thông tin tới các đối tượng bị quản lý. Quá trình
này diễn ra theo một chu trình khép kín với hai kênh truyền tin: thông tin điều
khiển và thông tin phản hồi. Có nhiều khái niệm về quản lý như: quản lý nhà
16


nước, quản lý kinh tế, quản lý khoa học… Trong hệ thống tổ chức nhà nước và

xã hội, việc quản lý cần một hệ thống các chủ trương, chính sách, giải pháp của
tổ chức, cơ quan có thẩm quyền (chủ thể quản lý) tác động vào tổ chức, cơ quan
dưới quyền (đối tượng bị quản lý), trên cơ sở các quy luật vận động khách quan
của chủ thể và các đối tượng bị quản lý và kết quả thu thập, xử lý thông tin về
trạng thái của hệ thống, nhằm làm cho các đối tượng bị quản lý vận hành theo
một mục tiêu đã định. Mục tiêu được đăt ra trên cơ sở phương hướng phát triển
của hệ thống quản lý và các biện pháp bảo đảm đạt được mục tiêu ấy.
Từ lý luận chung về tổ chức, để tìm hiểu vị trí, vai trò của tổ chức trong sự
quản lý của Nhà nước, ta cần tìm hiểu hệ thống tổ chức nhà nước ở nước ta hiện nay.
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay được tổ chức
theo nguyên tắc tập quyền xã hội chủ nghĩa. Từ nguyên tắc này, bộ máy nhà
nước được xây dựng theo hướng và đảm bảo sự thống nhất quyền lực, vừa có sự
phân công, phân nhiệm ngày càng rành mạch.
* Quốc hội
Quốc hội Việt Nam hiện nay là cơ sở của hệ thống các cơ quan nhà nước
khác. Theo quy định của Hiến pháp, Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của
nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Mọi quyền lực nhà nước được
thống nhất ở Quốc hội. Quốc hội làm việc theo nhiệm kỳ 5 năm, mỗi năm họp 2
kỳ. Quốc hội là cơ quan đưa ra quyết định thông qua các kỳ họp theo nguyên tắc
tập thể. Do đó, hình thức hoạt động chủ yếu của Quốc hội là các kỳ họp.
Quốc hội có những nhiệm vụ và quyền hạn chủ yếu như lập hiến và lập
pháp, giám sát tối cao việc tuân thủ Hiến pháp, pháp luật và các nghị quyết của
Quốc hội; quyết định những vấn đề quan trọng phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước; quy định tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước; bầu, miễn nhiệm
và bãi nhiệm Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Phó Chủ tịch
Quốc hội và các ủy viên của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ,
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao;
phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng về bổ nhiệm, miễn nhiệm và bãi nhiệm các
thành viên Chính phủ; phê chuẩn đề nghị của Chủ tịch nước về danh sách thành
viên Hội đồng Quốc phòng và an ninh; quyết định thành lập và bãi bỏ các bộ,

thành lập mới và điều chỉnh địa giới tỉnh; quyết định đại xá; quy định hàm cấp
17


lực lượng vũ trang và ngoại giao; quy định huân, huy chương; quyết định các vấn
đề chiến tranh và hòa bình; quyết định chính sách đối ngoại và trưng cầu dân ý, …
Ủy ban Thường vụ Quốc hội là cơ quan thường trực của Quốc hội, gồm
có Chủ tịch Quốc hội, các phó chủ tịch và các ủy viên. Ủy ban Thường vụ Quốc
hội có quyền công bố và chủ trì bầu cử đại biểu Quốc hội; giải thích Hiến pháp,
luật và pháp lệnh; ra quyết định về những vấn đề được Quốc hội giao; giám sát
việc thực thi Hiến pháp, pháp luật, hoạt động của Chính phủ, các cơ quan tư
pháp; giám sát, hướng dẫn hoạt động của hội đồng nhân dân; chỉ đạo, điều hòa
phối hợp hoạt động của Hội đồng Dân tộc và các ủy ban của Quốc hội. Ủy ban
Thường vụ Quốc hội họp ít nhất mỗi tháng một lần.
Các ủy ban của Quốc hội có nhiệm vụ nghiên cứu, thẩm tra các dự luật,
kiến nghị luật, dự án pháp lệnh và các dự án khác; giám sát hoạt động của các cơ
quan hành pháp và tư pháp trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn theo luật định.
Mỗi ủy ban có một thành viên làm việc theo chế độ chuyên trách.
Với tư cách là cơ quan lập pháp, Quốc hội có vai trò quan trọng trong việc
tạo dựng một môi trường xã hội, đảm bảo thực hiện nguyên tắc về tính tối cao
của pháp luật. Vai trò của Quốc hội được thể hiện, Quốc hội ban hành các đạo
luật, tạo ra khuôn khổ pháp lý cho hoạt động của công dân và thực hiện giám sát
đối với hoạt động của công dân để đả, bảo cho pháp luật được tôn trọng. Quốc
hội bảo vệ quyền con người bằng cách đặt ra các quy định ràng buộc, nhất là quy
định cho phép các công dân khi tham gia vào các quan hệ xã hội có thể tự kiểm
soát và bảo vệ được mình, ngăn chặn những nguy cơ xâm phạm từ các chủ thể
quyền lực khác.
Quốc hội Thực hiện giám sát tối cao đối với hoạt động của các cơ quan
hành pháp và tư pháp, giám sát đối với văn bản pháp luật nói chung, kể cả văn
bản quy phạm lẫn văn bản áp dụng. Hệ thống các văn bản áp dụng mà Quốc hội

trực tiếp hay gián tiếp thực hiện quyền giám sát gồm: Hiến pháp, luật, nghị quyết
của Quốc hội; pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; lệnh,
quyết định của Chủ tịch nước; nghị quyết, nghị định của Chính phủ; quyết định,
chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ; quyết định, chỉ thị, thông tư của Bộ trưởng, thủ
trưởng cơ quan ngang bộ; nghị quyết của hội đồng thẩm phán của Toàn án nhân
dân tối cao; quyết định, chỉ thị, thông tư của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân
18


dân tối cao; nghị quyết, thông tư liên tịch giữa các cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền với các tổ chức chính trị - xã hội; nghị quyết của hội đồng nhân dân; quyết
định của ủy ban nhân dân, …
Các văn bản thuộc quyền giám sát của Quốc hội là những văn bản được
ban hành bởi Quốc hội hay những cơ quan có thẩm quyền khác khi quyết định
những vấn đề trọng đại của đất nước. Nội dung giám sát của Quốc hội đối với
các loại văn bản này bao gồm việc giám sát tính hợp hiến, hợp pháp, tính thứ bậc
của các loại văn bản; giám sát những sơ hở, thiếu sót của văn bản trong quá trình
áp dụng, giám sát việc tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, tính hiệu quả của các văn
bản, tính phù hợp của các pháp lệnh, nghị định độc lập, …
* Chủ tịch nước
Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt đất nước về đối nội
và đối ngoại. Là một thành viên của Quốc hội và do Quốc hội bầu, Chủ tịch nước
phải báo cáo công việc của mình trước Quốc hội và chịu trách nhiệm trước Quốc
hội.
Theo các quy định hiện nay, Chủ tịch nước có quyền công bố Hiến pháp,
luật, pháp lệnh; thống lĩnh các lực lượng vũ trang; đền nghị Quốc hội bầu, miễm
nhiệm, bãi nhiệm Phó Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Tòa án
nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao; căn cứ vào nghị
quyết của Quốc hội bổ nhiệm, miễn nhiệm các chức danh Phó Thủ tướng, bộ
trưởng và các thành viên khác của Chính phủ; công bố đặt xá, bổ nhiệm, miễn

nhiệm, cách chức Phó Chánh án, thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Phó Viện
trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, quyết định phong hàm cấp sĩ quan cấp
cao trong lực lượng vũ trang, tặng thưởng các loại huân chương, danh hiệu, …
Chủ tịch nước đồng thời là Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng và An ninh, có quyền
tham dự các phiên họp của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, của Chính phủ.
Phó Chủ tịch nước do Quốc hội bầu trong số đại biểu Quốc hội, có nhiệm
vụ giúp Chủ tịch nước làm nhiệm vụ và có thể được Chủ tịch nước ủy quyền làm
thay một số việc.

19


* Chính phủ
Trong cơ cấu tổ chức quyền lực nhà nước ở nước ta hiện nay, Chính phủ
được xây dựng theo hướng tập trung vào lĩnh vực hành chính nhà nước. Vừa là
cơ quan chấp hành của các cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, Chính phủ
cũng được xác định là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất. Chính phủ thống
nhất quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an
ninh và đối ngoại của Nhà nước; bảo đảm hiệu lực của bộ máy nhà nước từ trung
ương đến cơ sở; bảo đảm việc chấp hành Hiến pháp và pháp luật; phát huy quyền
làm chủ của nhân dân trong việc xây dựng và bảo vệ tổ quốc; bảo đảm ổn định
và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Chính phủ bao gồm Thủ
tướng các phó Thủ tướng, các bộ trưởng và một số thành viên khác. Ngoài thủ
tướng, các thành viên khác của Chính phủ không nhất thiết phải là đại biểu Quốc
hội. Chính phủ nhiệm kỳ 2007 - 2011 gồm 5 phó Thủ tướng, 22 bộ trưởng và thủ
trưởng các cơ quan ngang bộ.
Chính phủ có những nhiệm vụ, quyền hạn chủ yếu như lãnh đạo công tác
của các bộ và các cơ quan trực thuộc Chính phủ, ủy ban nhân dân các cấp, xây
dựng và kiện toàn hệ thống bộ máy hành chính nhà nước từ trung ương đến cơ
sở; đảm bảo việc thi hành Hiến pháp và pháp luật trong các cơ quan nhà nước,

các tổ chức kinh tế tổ chức xã hội, đơn vị lực lượng vũ trang và công dân. Chính
phủ có quyền trình dự luật, pháp lệnh và các dự án khác trước Quốc hội và Ủy
ban Thường vụ Quốc hội; thống nhất quản lý việc xây dựng, phát triển nền kinh
tế, thực hiện chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia thi hành các biện pháp bảo vệ
các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân; đảm bảo an ninh quốc gia và trật tự
xã hội; thống nhất quản lý công tác đối ngoại, đàm phán, ký kết các hiệp ước
quốc tế nhân danh Nhà nước, …
Thủ tướng Chính phủ do Quốc hội bầu và chịu trách nhiệm trước Quốc
hội. Thủ tướng Chính phủ có nhiệm vụ lãnh đạo công tác của Chính phủ, các
thành viên của Chính phủ, ủy ban nhân dân các cấp; chủ tọa các phiên họp của
Chính phủ; đề nghị Quốc hội thành lập hoặc bãi bỏ các bộ, cơ quan ngang bộ,
trình Quốc hội bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức các thứ trưởng và các chức vụ
tương đương; phê chuẩn, miễn nhiệm, cách chức chủ tịch, các phó chủ tịch tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương; đình chỉ thi hành hoặc bãi bỏ những quyết định,
20


chỉ thị, thông tư của các bộ trưởng, các thành viên khác của Chính phủ, ủy ban
nhân dân tỉnh trái với Hiến pháp và pháp luật, …
Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ chịu trách nhiệm quản lý nhà
nước về lĩnh vực mà mình phụ trách trên phạm vi cả nước, bảo đảm quyền tự chủ
trong hoạt động sản xuất, kinh doanh của các cơ sở theo quy định của pháp luật.
Là cơ quan quản lý hành chính nhà nước cao nhất, Chính phủ phải bao quát
toàn bộ các ngành, lĩnh vực quản lý. Theo đó, khi quyết định một vấn đề quản lý nhà
nước nào đó, Chính phủ phải thảo luận tập thể và ra quyết định theo đa số.
* Tòa án nhân dân và Viện Kiểm sát nhân dân
Tòa án nhân dân
Theo quy định của pháp luật, Tòa án nhân dân tối cao, tòa án nhân dân các
cấp, Tòa án quân sự và các loại tòa án khác là những cơ quan giữ quyền xét xử.
Nguyên tắc hoạt động của tòa án là xét xử công khai, có sự tham gia của hội

thẩm nhân dân. Khi xét xử, thẩm phán và hội thẩm độc lập với nhau và chỉ tuân
theo pháp luật, quyết định theo đa số. Tòa án nhân dân tối cao là cơ quan xét xử
cao nhất. Tòa án này có nhiệm vụ giám đốc thẩm việc xét xử của các tòa án địa
phương, các tòa án quân sự và các loại tòa án đặt biệt khác. Chánh án Tòa án
nhân dân tối cao do Quốc hội bầu, chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước
Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước. Chánh án tòa án các
địa phương chịu trách nhiệm báo cáo công tác trước hội đồng nhân dân các cấp.
Theo cách thức tổ chức bộ máy nhà nước ở hầu hết các quốc gia trên thế
giới hiện nay, tư pháp phải là một nhánh quyền lực độc lập để kiềm chế và đối
trọng hai nhánh lập pháp và hành pháp. Các cơ quan tư pháp được thiết lập để
giải quyết các tranh chấp giữa Nhà nước và công dân, giữa công dân với công
dân, giữa các cơ quan nhà nước với nhau; giám sát việc tuân thủ Hiến pháp và
pháp luật, bảo vệ quyền của công dân trong quan hệ giữa các cơ quan nhà nước.
Ở nước ta, do không áp dụng cơ chế phân quyền, Tòa án không có chức
năng kiềm chế và đối trọng với Quốc hội và Chính phủ. Chức năng của Tòa án là
xét xử các vụ án hình sự, dân sự, lao động, kinh tế và hành chính theo luật định.
Viện kiểm sát nhân dân

21


Theo hiến pháp 1992, viện kiểm sát nhân dân là cơ quan thực hành quyền
giám sát chung, giám sát việc tuân thủ Hiến pháp và pháp luật của các cơ quan
nhà nước, các tổ chức và các công dân, đồng thời giữ quyền công tố và kiểm sát
các hoạt động tư pháp. Nhưng theo Hiến pháp 1992 (sửa đổi và bổ sung năm
2001), chức năng giám sát chung của viện kiểm sát nhân dân không còn, cơ quan
này chỉ tập trung vào chức năng công tố và giám sát các hoạt động tư pháp. Viện
kiểm sát nhân dân các địa phương, các viện kiểm sát quân sự thực hành quyền
công tố và quyền kiểm sát các hoạt động tư pháp trong phạm vi trách nhiệm theo
luật định.

Viện trưởng viện kiểm sát nhân dân cấp dưới chịu sự lãnh đạo của viện
trưởng viện kiểm sát nhân dân cấp trên và chịu sự lãnh đạo thống nhất của Viện
trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao. Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối
cao chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội, Ủy ban Thường vụ
Quốc hội và Chủ tịch nước. Viện trưởng viện kiểm sát nhân dân các địa phương
chịu trách nhiệm báo cáo công tác trước hội đồng nhân dân và trả lời chất vấn
của đại biểu hội đồng nhân dân.
Nhà nước thực hiện sự quản lý của mình thông qua các tổ chức và quá trình tổ
chức thực hiện nhiệm vụ.
b. Đổi mới và hoàn thiện hệ thống tổ chức Nhà nước
* Đối với tổ chức và hoạt động của Quốc hội
Chuyên nghiệp hóa hoạt động của đại biểu Quốc hội, tăng số lượng và
chất lượng các đại biểu hoạt động chuyên trách. Hậu quả của tình trạng kiêm
nhiệm của đại biểu Quốc hội có thể thông qua những đạo luật một cách vội vã do
thiếu thời gian và nhân lực để thảo luận, bàn bạc kỹ lưỡng, khiến cho nhiều đạo
luật vừa mới thông qua đã phải sửa đổi. Với tư cách là người đại biểu của nhân
dân, địa vị pháp lý của đại biểu Quốc hội là như nhau, không nên có một số đại
biểu hoạt động chuyên trách, một số khác lại hoạt động nghiệp dư và không thực
hiện đầy đủ sự ủy quyền của nhân dân.
Khắc phục tình trạng đại biểu vừa là thành viên Quốc hội vừa là thành
viên của Chính phủ (ngoại trừ Thủ tướng). Cơ cấu nhân sự kiêm nhiệm thích hợp
với các quốc gia đa đảng cạnh tranh trong các chế độ đại nghị, nhưng không cần
thiết ở một quốc gia có một đảng lãnh đạo như ở nước ta. Hiện nay số lượng
22


thành viên của Quốc hội đồng thời là thành viên của các cơ quan hành pháp lớn
tạo ra những bất lợi khi Quốc hội cần thông qua những chính sách liên quan đến
Chính phủ.
Các đại biểu Quốc hội được cung cấp thông tin đầy đủ. Là những người

đại diện cho nhân dân, là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, nên không có
thông tin gì mà các đại biểu này lại bị hạn chế quyền tiếp cận. Cần nâng cấp
trung tâm thông tin tư liệu của Quốc hội hiện nay thành một trung tâm thư liệu
tầm cỡ quốc gia, có nhiệm vụ khai thác và cung cấp các loại thông tin chính xác
về các vấn đề mà đại biểu Quốc hội quan tâm.
Xây dựng đội ngũ chuyên gia tham mưu cho các đại biểu Quốc hội. Để có
một đội ngũ giúp việc mang tính chuyên nghiệp cao, Văn phòng Quốc hội cần tổ
chức những kỳ thi tuyển công chức một cách thật sự công khai và khách quan để
tuyển lựa các chuyên gia có tài năng thật sự. Thay vì cơ chế tuyển chọn kiểu suốt
đời như hiện nay, cần nghiên cứu áp dụng cơ chế công chức chỉ làm việc theo
hợp đồng trong một môi trường mang tính cạnh tranh cao. Cách thức tuyển chọn
như trên sẽ có thể quy tụ những cán bộ giỏi, có năng lực vào làm việc tại các cơ
quan tham mưu cho các đại biểu Quốc hội.
Đổi mới quy trình lập pháp để cho các dự luật trở nên khách quan và hạn
chế tình trạng “cài cắm” lợi ích cục bộ của các cơ quan soạn thảo. Minh bạch hóa
quá trình này sẽ tạo điều kiện để công chúng có thể dễ dàng hơn trong việc tiếp
cận nội dung các dự luật, phát hiện những hạn chế, thiếu sót và có thể tham gia
đóng góp ý kiến vào các nội dung dự thảo. Sự tương tác giữa người dân và các
đại biểu Quốc hội sẽ tạo điều kiện để các đại biểu Quốc hội, các cơ quan của
Quốc hội có thể tham gia một cách hữu hiệu hơn vào quá trình lập pháp, hạn chế
những khuyết điểm có thể có của các dự thảo do những cách nhìn chưa thật sự
khách quan của cơ quan soạn thảo. Dưới gốc độ này có thể nói, việc minh bạch
hóa hoạt động lập pháp chính là nội dung cơ bản nhất của yêu cầu xã hội hóa
hoạt động lập pháp mà lâu nay chúng ta vẫn thường nói tới.
Quy định rõ hơn thẩm quyền ban hành các loại văn bản của các cơ quan
quyền lực. Quốc hội cần đưa ra những quy định cụ thể hơn, chi tiết hóa chức
năng và thẩm quyền của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cũng như của
Chính phủ trong việc ban hành các loại văn bản pháp luật để tránh tình trạng
23



“dẫm chân lên nhau”, không rõ quyền điều chỉnh các vấn đề thực sự thuộc về cơ
quan nào.
Đổi mới phương thức giám sát của Quốc hội theo hướng tăng cường hoạt
động xem xét báo cáo, chất vấn đối với các cơ quan nhà nước và những người có
chức vụ khác. Việc xem xét báo cáo nên tập trung vào kiểm điểm hoạt động của
Chính phủ, các bộ về việc tổ chức thực hiện các nghị quyết của Quốc hội. Hoạt
động chất vấn của Quốc hội đối với các bộ, ngành cần tập trung vào việc vạch rõ
những sai phạm do các cơ quan chịu sự chất vấn nêu ra; hạn chế tối đa những câu
hỏi chất vấn theo kiểu hỏi thông tin; thực hiện hình thức bỏ phiếu bất tín nhiệm
đột xuất hoặc thường kỳ đối với các chức danh cao cấp của Nhà nước do Quốc
hội bầu. Giải pháp ở đây là nên chăn mỗi kỳ họp chỉ chọn một số vấn đề đưa ra
chất vấn, thảo luận và đi đến kết luận để có phương hướng giải quyết vấn đề một
cách triệt để. Tăng cường giám sát việc tuân thủ Hiến pháp. Trong khi nước ta
vẫn chưa thiết lập một cơ chế bảo hiến (giống như Tòa án Hiến pháp ở các nước
khác), thì Quốc hội tăng cường công tác kiểm tra các văn bản dưới luật (các văn
bản của Chính phủ và các cơ quan nhà nước khác), và bãi bỏ chúng khi phát hiện
các văn bản này có dấu hiệu trái luật, trái với các quy định của Hiến pháp.
Kéo dài hơn thời gian họp của Quốc hội. Để có thời gian giải quyết công
việc một cách hiệu quả và kịp thời, chắc chắn Quốc hội phải họp dài ngày hơn.
Mỗi đạo luật thay vì phải chịu áp lực thông qua trong một vài ngày, thì nay có
thể kéo dài hơn thời gian thảo luận tại Quốc hội; thay vì các đạo luật chủ yếu
được thông qua theo quy trình một lần như hiện nay sẽ được chuyển sang quy
trình hai lần, cho phép các đại biểu nhìn hết các chiều cạnh của vấn đề, lường
tính được các rủi ro có thể, phân tích, lựa chọn được các phương án tối ưu khi
thông qua các dự luật. Để làm được điều này, thời gian họp của Quốc hội phải
chuyển sang cơ chế thường xuyên, trước mắt có thể 6 tháng/năm.
Đổi mới công tác bầu cử Quốc hội để tuyển lựa được những người có
năng lực thật sự. Hiện nay, Quốc hội nước ta vẫn mang nặng tính cơ cấu. Do vậy,
những người có thể đóng góp, đề xuất được những biện pháp để giải quyết những

vấn đề quốc gia đại sự không nhiều. Vấn đề đặt ra là phải đổi mới cơ chế bầu cử
để người dân có thể tuyển lựa được những người đại diện thật sự có tài, có đức.
Cuộc bầu cử đó phải được tiến hành trên cơ sở tự do và cạnh tranh giữa các ứng
24


cử viên. Cho phép các ứng cử viên được vận động tranh cử để người dân có thể
hiểu về năng lực, tầm mức tư duy của họ, làm căn cứ giúp họ đưa ra quyết định
trong ngày bầu cử.
* Đối với tổ chức hoạt động của Chính phủ
Xây dựng Chính phủ theo hướng gọn nhẹ. Điều này có nghĩa rằng, Chính
phủ sẽ chỉ bao gồm rất ít những tiêu cấu trúc bên trong, giảm thiểu những khâu,
những đầu mối của quy trình hành pháp. Các cơ quan của Chính phủ có khả năng
hoạt động hiệu quả, có thể giải quyết tốt, nhanh những vấn đề phát sinh trong xã
hội. Ở nước Tòa án hiện nay, yêu cầu tiếp tục đặt ra là phải sắp xếp, cơ cấu lại
các bộ và cơ quan thuộc Chính phủ thành các bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực.
Cần rà soát lại tổ chức, chức năng của các cơ quan phối hợp do Thủ tướng quyết
định thành lập, giảm đến mức thấp nhất các loại tổ chức này; cần có sự
chuẩn hóa, tinh giản đội ngũ công chức thông qua việc đỗi mới hệ thống
ngạch bậc và thi tuyển; ngăn chặn xu hướng gia tăng số lượng các cơ quan
quản lý như hiện nay.
Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính. Đây thực chất là việc bãi bỏ những
khâu bất hợp lý, phiền hà cho người dân trong sinh hoạt, sản xuất và kinh doanh,
tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Cụ thể, các bộ ngành
cần tiến hành rà soát lại toàn bộ các quy định hiện hành về thủ tục hành chính
thuộc lĩnh vực mình phục trách, từ đó bãi bỏ những quy định hành chính không
đúng thẩm quyền, không còn phù hợp với thực tế cuộc sống hoặc đang gây trở
ngại cho hoạt động của các cơ quan đơn vị và công dân. Các loại giấy phép do
các bộ quản lý chuyên ngành đặt ra để giữ quyền xin - cho, hòng mưu lợi riêng,
nhũng nhiễu người dân và doanh nghiệp cần được bãi bỏ tạo điều kiện thuận lợi

cho hoạt động sản xuất kinh doanh và cuộc sống của người dân. Thực tế ở nước
ta, sau khi một loạt những loại giấy phép con đã bị loại bỏ như là hệ quả của cuộc
cải cách hành chính, thì các loại giấy phép con mới lại có xu hướng xuất hiện trở
lại. Nếu không có biện pháp ngăn chặn kịp thời thì những thành quả ít ỏi mà
công cuộc cải cách hành chính vừa đạt được sẽ bị phá hủy. Các lĩnh vực được tập
trung giải quyết là cải tiến các thủ tục cấp phép (như xuất khẩu, nhập khẩu, đầu
tư, xây dựng, sửa chữa nhà cửa, cấp phép kinh doanh, …).

25


×