Tải bản đầy đủ (.docx) (9 trang)

Đề 6- Cảm nhận về tác phẩm “ Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (104.33 KB, 9 trang )

Đề 6: Cảm nhận về tác phẩm “ Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài
Bài làm :
Tây Bắc từ lâu đã trở thành một “mảnh đất hứa” ,khơi nguồn cảm hứng sáng tác
cho nhiều cây bút. Viết về Tây Bắc ta phải kể đến: Nguyễn Tuân với “Người lái đò sông
Đà”, Tố Hữu với “ Việt Bắc”, Chế Lan Viên với “ Tiếng hát con tàu”,.... và thật là một thiếu
xót nếu quên đi Tô Hoài với “ Vợ chồng A Phủ”. “ Vợ chồng A Phủ” là một truyện ngắn tiêu
biểu cho phong cách sáng tác của Tô Hoài sau cách mạng tháng Tám. Tác phẩm là sự
đan xen giữa giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo, vừa phản ánh cuộc sống cơ cực, bị đè
nén của con người ở nơi núi rừng Tây Bắc, vừa thể hiện được khát khao hạnh phúc, khát
khao tự do của họ. Đoạn trích “Vợ chồng A Phủ” (SGK lớp 12 tập 1) đã thể hiện rất rõ điều
này. Qua đoạn trích ta cũng thấy được tài năng của Tô Hoài trong việc xây dựng, khắc họa
tính cách tâm lí nhân vật, đặc biệt là nhân vật Mị.
Mới đọc tác phẩm ta thấy nhan đề “Vợ chồng A Phủ” là một nhan đề rất bình thường.
Tại sao Tô Hoài không chọn một nhan đề khác hấp dẫn hơn, đặc biệt hơn giống như “ Vợ
nhặt” của Kim Lân hay như“ Tắt đèn” của Ngô Tất tố chẳng hạn? Nói về việc đặt nhan đề
cho tác phẩm nhà thơ Xuân Diệu có lần phát biểu: “đại ý các nhà văn khi đặt tên cho tác
phẩm cũng trăn trở như cha mẹ đặt tên cho con”. Thật vậy, tạo ra một tác phẩm đã khó để
đặt tên cho tác phẩm, nghĩ một cái nhan đề cho phù hợp nhất còn khó khăn hơn. Bởi lẽ
nhan đề là cái đầu tiên bạn đọc tiếp xúc khi đọc tác phẩm. Ở tác phẩm này, hẳn nhà văn Tô
Hoài cũng có dụng ý khi đặt nhan đề như vậy. Tưởng chừng đây là một nhan đề chẳng có
gì để khai thác nhưng khi đào sâu ngẫm nghĩ đây là một nhan đề rất ý nghĩa : Mị và A Phủ
vốn là hai người xa lạ, nhưng do một cảnh ngộ đặc biệt họ đã đến với nhau và trở thành
“vợ chồng”, quá trình trở thành “vợ chồng” của họ là một sự vươn lên từ bóng tối đến ánh
sáng, từ thân phận nô lệ để trở thành người tự do. Điều đó là biểu hiện của một sức sống
mạnh liệt, khao khát tự do,hạnh phúc và vươn tới tương lai. Nhan đề này là một nhan đề
có giá trị nhân đạo sâu sắc.
Truyện ngắn “ Vợ chồng A Phủ” gồm có hai phần: phần một là cuộc sống của Mị và A
Phủ khi ở nhà lí Pá Tra; phần hai là cuộc sống mới của họ ở Phiềng Sa. Đoạn trích học
thuộc phần đầu của tác phẩm nói về cuộc sống cực nhọc , u ám, bất hạnh, của Mị và A Phủ
trong nhà thống lí.
“ Ai ở xa về, có việc vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy một cô gái ngồi quay sợi


gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa,
dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước từ dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười
rười”. Đó là những gì Tô Hoài miêu tả về Mị - con dâu gạt nợ cho nhà lí Pá Tra. Mới đầu
người đọc sẽ nghĩ đây là con gái nhà thống lí nhưng phải đọc xuống dưới mới biết Mị là vợ
A Sử ( con trai lí Pá Tra). Mị vốn là một cô gái xinh đẹp, một bông hoa ban trắng tinh khôi
giữa núi rừng ngút ngàn lại có tài thổi sáo giỏi “ uốn lá thổi lá hay như thổi sáo”. Đúng như
Nguyễn Du nói “ hồng nhan bạc phận” :
“Có tài mà cậy chi tài,
Chữ tài đi với chữ tai một vần”
( Truyện Kiều)
Triết lí nhân sinh này của đại thi hào dân tộc dường như chưa bao giờ sai, đã mấy
trăm năm trôi qua mà nó vẫn dai dẳng đeo bám người phụ nữ, biến họ trở thành tù binh
của xã hội, bị giam hãm, kìm kẹp. Xinh đẹp,tài giỏi như Mị đáng ra phải được hưởng hạnh
phúc, phải được trân trọng nhưng Mị lại phải trở thành con dâu gạt nợ cho nhà giàu. Ngày
xưa, khi lấy nhau do không có đủ tiền nên cha mẹ Mị đã phải vay của nhà thống lí, bố của lí
Pá Tra mười đồng bạc trắng, mỗi năm phải trả một nương ngô. Sau khi mẹ Mị mất đi , cha
Mị lại già yếu món nợ truyền kiếp ấy lại chuyển sang vai Mị. Thấy Mị đã lớn, thống lí Pá Tra


bảo bói cha Mị cho con gái về làm dâu để xóa nợ. Món nợ ấy cả đời cha Mị cũng không trả
nổi, mỗi năm lại phải nộp không cho người ta một nương ngô. Để làm ra một nương ngô
không phải dễ, cga Mị đã phải bỏ bao công sức vào đó vậy mà năm nào cũng phải biếu
không người ta, cha Mị không khỏi tiếc của. Tiếc của nhưng ông vẫn thương con, không
muốn để con vào làm dâu nhà ấy. Không chỉ cha mà cả Mị cũng không muốn vào làm dâu
nhà A Sử : “ Con đã biết cuốc nương làm ngô, con làm nương ngô trả nợ thay cho bố, bố
đừng bán con cho nhà giàu.” Câu nói của Mị thể hiện khát khao được sống tự do, dù có
phải lao động vất vả cũng còn hơn là làm vợ A Sử. Đến đây không ít người đặt ra câu hỏi
rằng tại sao nhà A Sử là một nhà giàu có, có điều kiện mà Mị lại thà phải lao động cực nhọc
còn hơn là lấy A Sử? Vừa vào đầu tác phẩm ta đã thấy sự giàu có của nhà thống lí Pá Tra
hiện lên rất chân thực qua ngòi bút của Tô Hoài: “Nhà Pá Tra làm thống lí, ăn của dân

nhiều, đồn Tây lại cho đem muối về bán, giàu lắm, nhà lại có nhiều nương, nhiều bạc,
nhiều thuốc phiện nhất làng”.Nhà thống lí giàu nhưng lại thiếu tình người, coi những người
lao động như cỏ rác, đến hạnh phúc cả đời của Mị cũng bị đem ra để gạt nợ. Có lẽ Mị đã
nhìn thấu điều đó qua cuộc đời của cha mẹ mình, vào làm dâu nhà giàu rồi Mị cũng sẽ trở
thành nô lệ, cũng chẳng sung sướng gì. Vào làm dâu nhà thống lí, chấp nhận làm vợ A Sử
đồng nghĩa với việc Mị tự từ bỏ hạnh phúc, từ bỏ cuộc sống tự do hiện tại để sa vào áp
bức, kìm hãm. Và đương nhiên với một cô gái trẻ trung, đang tuổi yêu đương,khao khát tự
do như Mị sẽ không chọn con đường ấy. Mị chấp nhận lao động vất vả để có cuộc sống tự
do.
Thế nhưng dù có cố gắng thì Mị vẫn chỉ là một cô gái đáng thương bị trói buộc trong
chế độ phong kiến miền núi. Vào một đêm mùa xuân, nghe tiếng gõ vách và sờ được
“ngón tay đeo nhẫn” giống của người yêu, Mị bước ra với trái tim khao khát hạnh phúc
nhưng ai ngờ chính khao khát đến nóng vội ấy đã khiến Mị bi bắt làm dâu nhà thống lí: “ Mị
vừa bước ra, lập tức có mấy người choàng đến nhét áo vào miệng Mị rồi bịt mắt cõng Mỹ
đi.” Cái tục cướp vợ của người Mông đã biến Mị từ một cô gái tài giỏi, xinh đẹp, tự do
thành người “vợ hờ” của A Sử. Nói là “vợ hờ” vì sở dĩ giữa Mị và A Sử không hề có tình
cảm gì và về làm dâu nhà thống lí Pá Tra rồi Mị vẫn bị coi thường rẻ rúng, bị nhốt trong căn
phòng tối om như cái hộp. Không ai là không biết lí Pá Tra cưới mị cho con trai chỉ để có
thêm công cụ lao động, phục vụ cho sự tham lam của hắn. Không cam chịu sự tủi nhục đó,
trên đường chốn về thăm cha Mị đã vào rừng hái sẵn nắm lá ngón định tự tử. Mị thà chết
chứ không cam lòng sống ở nhà lí Pá Tra chịu kiếp trâu ngựa. Ở Mị sáng lên khát khao tự
do, khát khao hạnh phúc. Thế nhưng chữ “hiếu” lại khiến cho Mị không thể làm như vậy, Mị
còn đang gánh trên vai trách nhiệm trả món nợ truyền kiếp cho gia đình “ Mày chết nhưng
nợ tao vẫn còn, quan lại bắt trả nợ. Mày chết rồi không lấy ai làm nương ngô trả nợ được,
tao thì gài yếu quá rồi”. Câu nói của người cha lại làm cho chữ hiếu trong Mị sống dậy, Mị
phải sống , Mị phải chịu đựng để cha được sống yên ổn quãng đời còn lại. Thế là Mị “ném
nắm lá ngón xuống đất”, Mị đã quyết định phải sống vì cha. Một lần nữa, người đọc lại cảm
thấy rung động trước sự hiếu thảo, đức hy sinh cao cả của Mị. Mị làm cho người đọc nhớ
đến việc Thúy Kiều bán thân để lấy tiền chuộc cha. 200 năm trôi qua xã hội với sự thống trị
của đồng tiền lại một lần nữa làm xuất hiện thảm cảnh con bán mình vào nhà giàu để trả

món nợ truyền kiếp thay cha mẹ. Mị thật đáng nể phục , đáng trân trọng.
Những ngày tháng như ở địa ngục bắt đầu đến với Mị. Mị chấp nhận, Mị chịu sống
chung với nó, năm này qua năm khác rồi cả đời. Mấy năm sau đó, bố Mị mất, tưởng chừng
Mị sẽ tìm đến cái chết để tự giải thoát nhưng không. Mị không hề nghĩ gì đến cái chết , ở
lâu trong cái khổ, Mị quen rồi, “Mị tưởng mình như con trâu, mình cũng là con ngựa”. Cả
ngày Mị chỉ cắm cúi vào công việc mà nhà Pá Tra thì có bao giờ dỗi việc,Mị chẳng được
nghỉ ngơi chút nào : “Tết xong lên núi hái thuốc phiện giữa năm thì giặt đay; đến mùa đi


nương bẻ bắp. Và dù đi hái củi, bung ngô, lúc nào cũng có một bó đay trong cánh tay để
tước sợi”. Số phận của Mị cũng là số phận chung của tất cả “đàn bà con gái nhà này”. Ai
cũng lầm lũi, khổ cực như Mị.Có người đã từng nói : “ Cô đơn, đó là khi không có ai để trò
chuyện. Siêu cô đơn đó là khi có rất đông người bên cạnh nhưng chẳng có chuyện gì để
nói cùng nhau.” Mị cũng đang rơi vào trạng thái như vậy, cô tự cô lập mình với mọi người,
nhà lí Pá Tra có rất đông người nhưng chưa bao giờ ta thấy tác giả miểu tả việc Mị tiếp
xúc, trò chuyện với một ai. Mị càng ngày càng trở nên ít nói, cô tê liệt hoàn toàn về cảm
xúc, lúc nào cũng sống chỉ như một cái xác không hồn, “lùi lũi như một con rùa nuôi trong
xó cửa”. Nơi ở của Mị lại càng khiến Mị bị tách biệt so với mọi người, đó là một căn phòng
kín mít, ngột ngạt, tối tăm, “ chỉ có một chiếc cửa sổ một lỗ vuông ấy mà trông ra. Đến bao
giờ chết thì thôi”. Nhà lí Pá Tra như là đại diện cho xã hội phong kiến vùng cao, và trong xã
hội đó những con người nghèo khổ như Mị bị tước đi quyền sống, quyền làm người. Mị
bây giờ tuy sống mà như đã chết, trông bộ dạng còn thế thảm hơn lúc Mị định ăn lá ngón
tự tử. Khi còn nghĩ đến việc tự tử là người ta còn ý thức được nỗi khổ của mình. Nhưng khi
họ chẳng còn thiết đến việc giải thoát cho mình thì lúc đó tâm hồn họ thực sự đã chết.
Tưởng chừng như Mị cả đời này sẽ khoác lên mình lớp vỏ của “một con rùa” thì vào
lúc không ai ngờ tới tâm hồn khao khát tuổi trẻ của Mị hồi sinh. Đó là vào một đêm tình
mùa xuân. Ở mảnh đất Hồng Ngài, người ta tổ chức ăn Tết khi vừa gặt hái xong, không kể
đến thời gian, họ ăn Tết như vậy để kịp “ mưa xuân xuống, đi vỡ nương mới”. Vậy là không
khí ngày Tết đã tràn về nơi đây, khung cảnh thiên nhiên Tây Bắc hiện lên đầy thơ mộng,
trữ tình : “trong các làng Mông Đỏ, những chiếc váy hoa đã được phơi ra mỏm đá, xòe như

con bướm sặc sỡ. Hoa thuốc phiện nở trắng lại nở mầu đỏ hau, đỏ thậm, rồi nở mầu tím
man mát”. Khung cảnh hiện lên vừa hùng vĩ, hoang sơ, vừa sinh động và tràn đầy sức
sống. Tết đến không khí cũng thay đổi hẳn, sau một thời gian dài làm việc vất vả, bây giờ
khi mà “trên đầu núi, các nương ngô, nương lúa gặt xong, ngô lúa đã xếp yên các nhà kho”
là lúc con người thoải mái nghỉ ngơi, vui chơi , chào đón vụ mùa mới. Mọi thứ như có gì đó
náo nhiệt hơn, hồ hởi hơn: “Đám trẻ đợi Tết, chơi quay, cười ầm trên sân chơi trước
nhà.Ngoài đầu núi, đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi”. Chính tiếng sáo, chính sự xuất
hiện của tiếng sáo gọi bạn đã khơi dậy tâm hồn tưởng như đã chết của Mị. Ngày xưa, “có
biết bao nhiêu người mê, cứ ngày đêm thổi sáo đi theo Mị hết núi này sang núi khác”. Bất
giác Mị lẩm nhẩm theo tiếng sáo, tiếng sáo ôi sao quen quá:
“ Mày có con trai con gái
Mày đi làm nương
Ta không có con trai con gái
Ta đi tìm người yêu”
Tiếng sao bây giờ vẫn còn ở rất xa, Mị mới chỉ cảm nhận được nó rất mơ hồ. Hôm nay nhà
thống lí Pá Tra cũng làm bữa cơm tết cúng ma, không khí cũng vui tươi, rôm rả lắm. Mọi
người ăn cơm rồi uống rượu. Mị cũng uống rượu, hôm nay Mị uống rượu. Mị lấy trộm hũ
rượn, “ uống ực từng bát”. Ta vẫn biết đến hình ảnh những người phụ nữ Mường uống
rượu, nhưng “uống ực từng bát” như Mị thì đúng là chưa từng thấy. Mị uống như để thảo
mãn, để dội rửa tất cả những uất ức, cay đắng mà cô đã phải chịu. Hình ảnh của Mị thật
giống với nữ sĩ Hồ Xuân Hương:
“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”
( Tự tình II)
Khi buồn phiền sầu não con người ta hay tìm tới rượu để tiêu sầu, Mị hay cả Hồ Xuân
Hương cũng vậy, uống rượu để quên đời, để cái nồng của men rượu làm con người ta
thiếp đi khi dậy thì đã quên tất cả. Thế nhưng với Mị càng uống lại càng tỉnh, càng nghe rõ


tiếng sáo, tiếng sáo lại cứ như gần hơn, thôi thúc Mị. Tự dưng Mị thấy lòng phơi phới trở

lại, trong lòng đột nhiên vui lạ thường. Mặc dù không biết bên ngoài mọi người đang làm gì,
chỉ thấy “mờ mờ trăng trắng” qua ô cửa sổ “ bé bằng ban tay” nhưng tâm hồn Mị như trỗi
dậy. “ Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi. Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi Tết. Huống
chi A Sử với Mị, không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau. Nếu có nắm lá ngón trong
tay lúc này, Mị sẽ ăn mị cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa. Nhớ lại, chỉ thấy nước
mắt ứa ra.” Ngay lúc này, Mị đã trở về là một con người khao khát tự do, khao khát hạnh
phúc, tâm hồn Mị đang dần sống dậy và Mị lại thấy đau xót cho số phận mình. Mị buồn cứ
buồn, tiếng sáo gọi bạn vẫn cứ vang lên mỗi lúc một gần:
"Anh ném pao
Em không bắt
Em không yêu
Quả pao rơi rồi...".
Tiếng sáo lại thúc giục, lại làm tâm hồn Mị trỗi dậy mạnh mẽ hơn. Mị có sự thay đổi
mang tính đột phá: “Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ, sắn một miếng bỏ thêm vào đèn cho
sáng”. Ngọn đèn đã thắp sáng cả không gian và tâm hồn Mị. Trong nền văn học Việt
Nam, ngọn đèn là một hình ảnh mang giàu ý nghĩa biểu tượng: Ngọn đèn trong “Tắt đèn”
của Ngô Tất Tố thể hiện một hiện thực xã hội tăm tối trước cách mạng; viết về khát vọng
của những người dân phố huyện “Thạch Lam” có ngọn đèn leo lét của mẹ con chị Tý
trong “ Hai đứa trẻ”, mô tả khát vọng đổi đời của người nông dân có ngọn đèn của anh cu
Tràng trong “ Vợ nhặt” của Kim Lân. Đến lượt Tô Hoài, ông cho Mị thắp sáng ngọn đèn
để người đọc thấy được sự thay đổi rõ rệt của Mị: Bình thường Mị vẫn quen sống trong
bóng tối, trong u ám, tuyệt vọng, hôm nay lại thắp để làm sáng bừng không gian làm tan
biến bóng tối của cường quyền và thần quyên, mở ra cho con người một lối thoát về tinh
thần. Mị như không còn quan tâm đến mọi thứ xung quanh bây giờ trong dầu Mị chỉ có
khao khát được giải phóng, được tự do, được đi chơi Tết như mọi người: “Trong đầu Mị
đang rập rờn tiếng sáo. Mị muốn đi chơi. Mị cũng sắp đi chơi .” Thế là Mị bắt đầu hành
động “Mị quấn lại tóc. Mị với tay lấy cái váy hoa vắt phía trong vách.” Tới cái lúc mà
dường như Mị sắp được giải thoát thì cái ác xuất hiện cản trở mọi thứ. “ Chẳng năm nào
A Sử cho Mị đi chơi Tết” và năm nay cũng chẳng ngoại lệ. Thấy Mị sửa soạn, A Phủ đoán
ngay là Mị định đi chơi Tết hắn có hành động như mọi con thú dữ: “A Sử bước lại, nắm

Mị, lấy thắt lưng trói hai tay Mị. Nó xách cả một thúng sợi đay ra trói đứng Mị vào cột nhà.
Tóc Mị xõa xuống. A Sử quấn luôn tóc lên cột, Mị không cúi, không nghiêng được đầu
nữa. Trói xong, A Sử thắt cái thắt lưng xanh ra ngoài áo rồi phẩy tay tắt đèn, đi ra khép
cửa buồng lại.”Dù đã bị cố định về thể xác nhưng tâm hồn Mị A Sử không thể nào giam
dữ được. Mị vẫn mộng mơ, nửa tỉnh, nửa say “Hơi rượu còn nồng nàn. Mị vẫn nghe thấy
tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi. "Em không yêu, quả pao rơi rồi. Em yêu người
nào, em bắt pao nào...". Mị vùng bước đi.”Chỉ đến lúc này nỗi đau thể xác mới đưa Mị trở
về thực tạ, “ Mị không nghe thấy tiếng sáo nữa”, mọi thứ trở về đúng với cái bản chất
vắng lặng của nó. Cái sức sống mãnh liệt cũng dần mất đi, Mị chỉ còn lại một mình trơ trọi
trong màn đêm tăm tối. Nghe tiếng ngựa đạp vách, Mị tự thấy mình còn không bằng con
ngựa. Địa vị của Mị ngày càng hạ thấp xuống từ ‘cũng chỉ như con ngựa” bây giờ lại
“không bằng con ngựa”. Thật đáng thương, Mị giống như một con chim non mới tập bay
gặp mưa bão, dù có cố mấy cũng vẫn bị rơi xuống đất vì cánh vốn đã non yếu lại bị ướt
làm sao chống chọi được. Đành chấp nhận phó mặc cho trời, chịu bất lực trước bóng tối
quá lớn của thần quyền và cường quyền.
Như Sê-khốp nói: “ Nhà văn chân chính phải là một nhà nhân đạo từ trong cốt tủy”.
Tô Hoài với vai trò của một nhà văn chân chính sẽ không để cái ác lấn áp được cái thiện.


Ông đã để sự xuất hiện của A Phủ đánh thức tâm hồn, sức mạnh tiềm tàng ẩn chứa trong
con người Mị. A Phủ xuất hiện với đặc điểm của một chàng trai khỏe mạnh “một người to
lớn”,” chạy nhanh như ngựa “, lại còn “biết đúc lưỡi cày, biết đục cuốc, cày giỏi và săn bò
tót rất thạo”. Từ những điểm ấy khiến A Phủ trở thành “hoàng tử trong mộng” của biết bao
cô gái. “Nhiều người nói: "Đứa nào được A Phủ cũng bằng được con trâu tốt trong nhà.
Chẳng mấy lúc mà giàu". Nghĩ thì nghĩ thầm vậy chứ cho tới giờ này A Phủ vẫn chưa có
vợ. Lí do duy nhất là do phép làng không cho phép, tục lệ cưới xin phức tạp hà khắc.
Một người không có người thân thích nào như A Phủ thì sao lấy được vợ.Thế nhưng A
Phủ chẳng hề tự ti về điều đó “đang tuổi chơi, trong ngày Tết đến, A Phủ chẳng có quần
áo mới như nhiều trai khác, A Phủ chỉ có độc một chiếc vòng bằng sợi dây đồng vía lằn
trên cổ” , ngày Tết anh vẫn cùng bạn bè đem kèn, con quay, pao đi khắp các làng tìm

người yêu. Con người này bất chấp số phận vẫn muốn vươn tới hạnh phúc trọn vẹn. Và
cũng chính trong đêm mùa xuân ấy, cuộc xô xát giữa A Phủ và A Sử xảy ra. Sau khi trói
đứng Mị ở cột nhà A Sử đi chơi Tết nhưng khi hắn đến hội đã tàn nên tức lắm luôn tìm
cách phá bọn A Phủ. Với bản tính kiêu ngạo coi người như rơm rác A Sử ngang nhiên đi
gây sự với đám trai làng vì hắn tự tin rằng chỉ nhìn vào chiếc vòng bạc rủ xuống tua xanh,
chỉ đỏ trên cổ hắn , biết hắn là con quan sẽ chẳng ai dám chống lại. Bộ dạng của hắn
trông thật hách dịch khiến người đọc không khỏi bức xúc. Nhưng có một điều hắn không
ngờ tới, hắn vừa bước ra thì “Một người to lớn chạy vụt ra, vung tay ném con quay thẳng
vào mặt A Sử. Con quay gỗ ngát lăng vào giữa mặt. Nó vừa kịp bưng tay lên, A Phủ đã
xộc tới, nắm vòng cổ, kéo dập đầu xuống, xé vai áo, đánh tới tấp”. Việc làm của A Phủ
khiến cho người đọc cảm thấy hả hê vô cùng. Và cũng bởi hành động “trượng nghĩa”
quá bồng bột ấy của A Phủ mà anh đã phải trả một cái giá rất đắt. Trong phiên xử kiện, A
Phủ bị kết tội dám đánh con quan và buộc phải làm người ở trừ nợ cả đời cho thống lí Pá
Tra. Cảnh xử kiện được tác giả Tô Hoài miêu tả rất chi tiết và có lúc tưởng như nghịch lí.
Một bên là các lí dịch, quan làng thống quán, xéo phải thuộc tầng lớp trên tới để “dự xử
kiện và ăn cỗ”. Và cái cảnh ăn cỗ của các quan cũng được hiện lên rõ nét qua ngòi bút
của Tô Hoài “Trong nhà thống lý đã bày ra năm bàn đèn. Khói thuốc phiện tuôn ra các lỗ
cửa sổ tun hút xanh như khói bếp” rồi “ Suốt từ trưa cho tới hết đêm, mấy chục người
hút. Trên nhất là thống lý Pá Tra. Thống lý hút xong một đợt năm điếu, đến người khác,
lại người khác, cứ thế lần lượt xuống tới bọn đi gọi người về dự kiện”. Những con người
được coi là đúng đầu dân trong buổi xử kiện lại chỉ quan tâm vào việc hút, mơ màng,
chìm đắm trong khói thuốc phiện. Qua đó, ta thấy cuộc sống xa xỉ của nhà thống lí người sống trên mồ hôi xương máu của dân. Ngược lại với sự ung dung hưởng lạc của
các quan thì A Phủ lại bị đánh đập dã man bởi chính những kẻ đã từng lên tiếng nói “A
Phủ đâu? A Phủ đánh chết nó đi”. Thế rồi bây giờ chúng quay ra “ xô đến, trước nhất,
chắp tay lạy lia lịa lên thống lý rồi quay lại đánh A Phủ.”Phía A Phủ, anh chỉ quỳ giữa nhà,
im lặng chịu đòn y như tượng đá. Sự dã man của cường quyền thể hiện ở chỗ “Cứ mỗi
đợt bọn chức việc hút thuốc phiện xong, A Phủ lại phải ra quỳ giữa nhà, lại bị người xô
đến đánh. Mặt A Phủ sưng lên, môi và đuôi mắt giập chảy máu. Người đánh, người quỳ
lạy, kể lể, chửi bới. Xong một lượt đánh, kể, chửi, lại hút. Khói thuốc phiện ngào ngạt tuôn
qua các lỗ cửa sổ. Rồi Pá Tra lại ngóc cổ lên, vuốt tóc, gọi A Phủ... Cứ như thế, suốt

chiều, suốt đêm, càng hút, càng tỉnh, càng đánh, càng chửi, càng hút.” Chúng coi mạng
người như rác rưởi, có thể hành hạ tra tấn dã man chỉ để mãn nhãn hay ra uy. Sau khi bị
đánh tới nỗi “hai cái đầu gối sưng bạnh lên như mặt hổ phù” để mà cầm dao đi chọc tiết
lợn làm thịt cho chính những kẻ đang hả hê trước nỗi đau thể xác của mình ăn. Thật
không còn gì nhục nhã hơn, đau đớn hơn. Xã hội phong kiến miền núi với sự lấn áp của
thần quyền và cường quyền đã biến những người dân vô tội thành thứ “đồ chơi giải trí”
và “công cụ lao động”. Người dân bị bóc lột một cách triệt để để phục vụ cho mục đích
xấu xa, đáng ghê tởm của lũ chức việc. Thật đáng thương. Ở nhân vật A Phủ ta thấy sự
kiên cường, không chịu khuất phục, không nhún nhường trước thần quyền và cường
quyền.


Còn Mị, cho tới sáng hôm sau khi A Phủ được đưa về trong bộ dạng “chệnh choạng
vào buồng. áo rách toạc một mảnh vai. Cái khăn xéo trắng loang lổ máu, xụp xuống
quanh trán” Mị mới được chị dâu cởi trói. Và cái sự ngược đãi của xã hội phong kiến đối
với con người dường như cũng thể hiện ở nhân vật người chị dâu “ Người chị dâu ấy
chưa già, nhưng cái lưng quanh năm phải đeo thồ nặng quá, đã còng rạp xuống”. Những
con người ấy, Mị, A Phủ, người chị dâu và rất nhiều những con người khác đều thật đáng
thương, họ không sao thoát ra được sợi dây trói của chế độ phong kiến. Giống như A
Phủ, Mị cũng phải chịu nỗi đau thể xác khi bị trói đứng cả đêm, rồi trong nỗi đau ấy Mị
phải đi lên núi hái thuốc về cho chính kẻ đã chói mình. Xã hội không tồn tại hai chữ “công
bằng” con người trong xã hội ấy vẫn phải gồng mình lên hầu hạ chính kẻ đã đày đọa, chà
đạp mình. Khi hái được thuốc về, Mị lại phải “thức suốt đêm” để xoa thuốc cho A Sử. Mị
chỉ ngủ gục đi một lúc mà A Sử đã thô bạo “đạp chân vào mặt Mị”. Hành động của A Sử
không có chút nhân tính nào. Hắn đối xử với vợ, dù không có tình cảm với nhau nhưng
cũng là người đang chăm sóc mình như đối xử với một con vật. Ấy vậy mà Mị cũng
không nửa lời kêu than, hay đúng hơn là không thể kêu than bởi trong cái xã hội ấy, cái
nhà ấy Mị làm gì được quyền nói; Mị lại ngậm ngùi, “nhặt nắm lá thuốc xoa đều lên lừng
chồng”. Mị thật đáng thương, thật thảm hại…
Câu chuyện được đẩy lên đỉnh điểm khi Tô Hoài đã xây dựng lên tình huống Mị cởi

trói cho A Phủ rồi hai người cùng trốn đến Phiềng Sa. Phải đặt nhân vật vào tình huống
này thì tất cả những gì ẩn dấu trong tâm hồn nhân vật mới được bộc lộ ra ngoài. Chỉ có
thể là tình huống này mà thôi. Đó là thành công lớn của Tô Hoài trong việc xây dựng tình
huống truyện.
Từ khi trở thành người làm cho nhà thống lí Pá Tra, A Phủ phải “Đốt rừng, cày
nương, cuốc nương, săn bò tót, bẫy hổ, chăn bò chăn ngựa, quanh năm một thân một
mình rong ruổi ngoài gò rừng”. Rừng núi ở vùng dẻo cao Tây Bắc gợi cho ta nghĩ đến sự
chênh vênh, âm u và bao nguy hiểm tiềm ẩn. Đã thế lại còn là lúc “Hổ gấu từng đàn ra
phá nương, bắt mất nhiều bò ngựa” nên công việc của A Phủ lại càng hiểm nguy hơn.
Ngày nào cũng phải lũ lượt đi cho hàng chục con trâu, bò, ngựa đi ăn, có lúc còn phải
ngủ lại ở rừng “hàng tháng” trời. Vậy mà A Phủ vẫn làm tốt, với sức trai trẻ của mình “Đi
làm hay đi săn cái gì cũng phăng phăng”. Điều này chỉ thêm lợi cho nhà thống lí chứ A
Phủ đâu được gì. Biết là không được lợi lộc gì mà vẫn cắm đầu cắm cổ vào làm, tất cả là
do những bất công mà xã hội phong kiến với sự thống trị của cường quyền và thần quyền
đã tạo ra. Những con người nghèo khổ không có quyền quyết định hay thay đổi được,
muốn sống chỉ còn cách làm theo. Ta thường thấy trong các câu chuyện cổ tích như:
Thạch Sanh,... người tốt và có tài thường lại gặp nhiều khó khăn. Tuy không phải truyện
cổ tích nhưng A Phủ cũng không ngoại lệ, trong một lần đi chăn ngựa, do mải bẫy dím A
Phủ đã để họ ăn mất một con bò và đã bị Pá Tra trói đứng. Đọc tới đoạn này, ta lại càng
thấy bất công hơn cho sô phạn của những người nghèo khổ. A Phủ đã có ý sẽ chịu trách
nhiệm đi bắt hổ về nhưng Pá Tra lại hách dịch sai A Sử đem người đi bắt. Con A Phủ
phải tự đi lấy cọc, dây mây, tự tay đóng cọc để trói mình. Còn gì đau xót hơn khi mình
phải là người hành hạ chính bản thân. Người đọc có thể sẽ nghĩ tới lão Hạc trong truyện
ngắn cùng tên của Nam Cao: lão đã phải tự chuẩn bị, sắp xếp cái chết đầy đau đớn cho
mình. Số phận của con người trước cách mạng tháng Tám là vậy đấy: cùng quẫn, khổ
cực và chịu nhiều bất công. A Phủ tuy không phải chết nhưng cũng đang phải từng ngày
đối diện với cái chết. Bởi chỉ khi nào bọn A Sử đi bắt được hổ về thì A Phủ mới được tha.
Mà kẻ như A Sử thì làm sao đủ sức để mà bắt hổ. Kết quả mấy ngày liền,hắn trở về tay
không. Điều đó đồng nghĩa với việc A Phủ vẫn phải bị trói ở đó, giữa cái tiết trời lạnh lẽo,
giá rét không ăn, không uống gì. A Phủ đã cố gắng nhai đứt hai vòng dây mây để nới lỏng

người ra nhưng hôm sau khi phát hiện ra Pá Tra lại cột thêm lên tận cổ khiến A Sử không
thể ngọ nguậy được. Bị trói ở đó, ngày nào A Phủ cũng thấy “bếp lò bung ngô cao ngang
đầu người vẫn hừng hực đỏ rực. Mỗi hôm hai buổi, người ra người vào ăn uống tấp nập.
A Phủ đứng nhắm mắt, cho tới khuya”. Và lúc này hình ảnh Mị xuất hiện. Sau lần bị A Sử


trói đứng Mị lại trở về quỹ đạo cũ, lại “lầm lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”, lại tê liệt
hoàn toàn về cảm xúc, “chỉ biết, chỉ còn ở với ngọn lửa”. Điều đó thể hiện qua việc đêm
nào Mị cũng ra “thổi lửa, hơ tay, hơ lưng”. Có lần thấy Mị đang ngồi sưởi lửa A Sử “ ngứa
tay đánh Mị ngã xuống cửa bếp”. Dường như không hề quan tâm, hôm sau Mị lại ra “thổi
lửa, hơ tay, hơ lưng”. Ta thấy Mị thấy cô độc, thật đáng thương. Ngày nào khi đi ra sưởi
lửa Mị cũng qua chỗ A Phủ bị trói, nhưng Mị chẳng hề để ý , Mị chỉ biết đến việc sưởi lửa
của mình, “nếu A Phủ là cái xác chết đứng chết đấy, cũng thế thôi”. Đọc tới đây, ta thấy Mị
thật vô tâm nhưng không phải thế chỉ là cái khổ, sự cô đơn và tuyệt vọng đã lấn áp mất
lòng thương người ở Mị chứ thực chất, bản thân Mị, từ khi sinh ra không phải là người
như thế. Có trách thì chỉ có thể trách chế độ phong kiến đã làm thay đổi con người. Điều
ấy thể hiện qua hành động táo bạo của Mị: Mị đã cởi trói thả A Phủ ra. Bình thường Mị
chẳng bao giờ để ý nhưng hôm đó, khi đi ngang qua Mị bắt gặp “Dòng nước mắt lấp lánh
bò xuống hai hõm má đã xám đen” của A Phủ. Người xưa có câu “ Quân tử rơi đầu không
rơi lệ” thế mà cái sự chà đạp, giày xéo, bất công của xã hội phong kiến miền núi đã khiến
một chàng trai bản lĩnh, khỏe mạnh như A Phủ rớt nước mắt. Đó là giọt nước mắt uất ức,
căm phẫn, không đành lòng. Đó là giọt nước mắt tố cáo tội ác của chế độ cường quyền
và thần quyền ở vùng dẻo cao Tây Bắc trước cách mạng. Quan trọng hơn đó là giọt
nước mắt cảm hóa tâm hồn Mị, khơi dậy tình thương tưởng như đã chết của Mị, cứu vớt
tâm hồn chai sạn của Mị. Hình ảnh “giọt nước mắt” của A Phủ là một hình tượng nghệ
thuật chứa đựng nhiều ý nghĩa. Khi bắt gặp giọt nước mắt của A Phủ, tâm hồn Mị như
sống lại, Mị bắt đầu suy nghĩ, Mị nghĩ tới lần bị A Sử trói đứng ở cột nhà. Rồi Mị thấy tự
thương mình “Mị chợt nhớ đêm năm trước, A Sử trói Mị, Mị cũng phải trói đứng thế kia.
Nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không biết lau đi được”. Từ thương mình Mị
chuyển sang thương người, Mị thương cho A Phủ, ở Mị xuất hiện sự đồng cảm sâu sắc

với A Phủ “ Trời ơi nó bắt trói đứng người ta đến chết. Nó bắt mình chết cũng thôi. Nó đã
bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước ở cái nhà này”. Rồi “ Chỉ đêm mai là người kia
chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. Ta là thân đàn bà, nó đã bắt về trình ma rồi,
chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi... Người kia việc gì mà phải chết”. Thế rồi cuối
cùng Mị cũng phải thốt ra rằng “Chúng nó thật độc ác”. Câu nói của Mị thốt ra từ một tâm
hồn đầy căm phẫn, uất ức. Câu nói ấy lại góp phần tố cáo sự bất công của xã hội. Càng
suy nghĩ, lòng thương người trong Mị lại càng lớn, thôi thúc Mị hành động. Và rồi như
không hề còn sợ hãi gì Mị “rút con dao nhỏ cắt lúa, cắt nút dây mây” giải thoát cho A Phủ.
Mị cắt đứt dây mây thể hiện Mị đã thực sự thức tỉnh, đã dám hành động chống lại cường
quyền. Việc Mị cắt đứt dây mây có ý nghĩa giống như cắt đứt sợi dây tội ác của nhà
thống lí Pá Tra nói riêng và của cả chế độ phong kiến nói chung. Đó là hành động mang
tính đột phá. Được sự giải thoát của Mị, “A Phủ lại quật sức vùng lên, chạy”. Giờ lại một
lần nữa, một mình Mị trong bóng đêm đen tối, bỗng nhiên Mị lại thấy bối rối, lo sợ vô
cùng. Mị lo khi phát hiện Mị đã thả A Phủ đi thống lí Pá Tra sẽ bắt Mị chết thay vào chỗ A
Phủ, trước đây trong nhà này cũng đã có người đàn bà bị trói đứng cho tới chết. Đầu óc
Mị bắt đầu rối loạn hoang mang. Sự hoang mang này của Mị tưởng như vô lí ngưng thực
ra lại rất hợp lí. Không phải Mị hối hận vì đã thả A Phủ đi mà vì Mị muốn được sống,
muốn được tự do. Và thế là, bất giác, Mị đuổi theo A Phủ và giải thích bằng một câu ngắn
gọn :” Ở đây thì chết mất”. Đã giải thoát được cho người khác bây giờ đến lúc Mị tự giải
thoát cho mình, Mị không muốn tiếp tục sống cuộc sống của một cái xác không hồn nữa,
Mị muốn tự do. Hành động của Mị cho thấy sức mạnh tiềm tàng trong con người nay bộc
phát thành hành động. Hành động ấy gợi cho ta nghĩ tới chị Dậu trong “Tắt đèn” của Ngô
Tất Tố: Chị Dậu đã đứng lên đánh ngã hai tên tay sai để bảo vệ chồng con. Tuy chưa
mạnh mẽ bằng chi Dậu nhưng ở Mị cũng đã có sự đấu tranh dể tự giải thoát cho mình
khỏi sự kìm kẹp, áp bức của cường quyền, thần quyền. Sự giải thoát của Mị có hướng đi
rõ rệt chứ không như cách giải quyết bi kịch bằng một bi kịch khác như Chí Phèo trong
tác phẩm cùng tên ở Nam Cao. A Phủ và Mị đã chạy tới Phiềng Sa nơi có ánh sáng cách
mạng soi đường, được sự giác ngộ của cán bộ cách mạng A Châu, hai người họ trở
thành những người cộng sản. Và tại nơi đây họ sẽ bắt đầu một cuộc sống mới, một
tương lại mới của một người chiến sĩ chắc chắn sẽ tốt đẹp hơn cuộc sống ở Hồng Ngài:



“Đời cách mạng từ khi tôi hiểu
Dấn thân vào là chịu cảnh tù đày
Là gươm kề cổ, súng kề vai
Là thân sống chỉ còn một nửa.”
( Tố Hữu)
Qua tác phẩm “ Vợ chồng A Phủ” ta thấy được khát vọng sống tự do, hạnh phúc và
sức mạnh tiềm tàng ẩn chứa trong những con người nghèo khổ nơi núi rừng Tây Bắc.
Không chỉ thế từ tác phẩm ta còn thấy được bộ mặt của chế độ phong kiến Tây Bắc
trước cách mạng với sự thống trị của cường quyền và thần quyền, bất chấp đạo lí chà
đạp lên xương máu của nông dân nghèo để hưởng thụ; thái độ coi thường mạng sống
con người, coi người nghèo như rơm rác, biến họ thành những cỗ máy lao động không
nghỉ ngơi. Đồng thời ta cũng thấy được đặc sắc nghệ thuật trong tác phẩm. Đầu tiên là
biệt tài miêu tả tự nhiên và am hiểu về các phong tục của người dân tộc Hmong. Tô Hoài
tạo dựng được một không gian nghệ thuật mang đậm màu sắc dân tộc độc đáo ở vùng
cao Tây Bắc.. Đó là bức tranh thiên hùng vĩ và thơ mộng của mùa xuân Tây Bắc: mùi vị
của hương rừng gió núi, cái tê lạnh của không khí vùng cao, cái hôi hổi nồng nàn của
lòng người, cái rực rỡ sáng tươi của màu sắc. Những trái bí đỏ, những cái váy hoa phơi
trên mỏm đá xoè như những con bướm sặc sỡ, cỏ gianh vàng ủng, gió rét dữ dội, những
bếp lửa rực cháy hơi men. Đặc biệt thanh âm réo rắt của tiếng sáo trên núi rừng, khơi gợi
những khát khao.Đó là những bức tranh sinh hoạt và phong tục độc đáo mang màu sắc
xứ lạ phương xa: cảnh vui chơi trong ngày tết, cảnh thổi sáo gọi bạn tình, cảnh xử kiện,
tục cướp vợ được miêu tả chân thực, sinh động, giàu chất thơ. Tiếp đó là nghệ thuật
miêu tả tâm lí nhân vật, đặc biệt là nhân vật Mị.Tô Hoài đi sâu vào miêu tả thế giới nội
tâm nhân vật thông qua đối thoại và độc thoại. Đối thoại thường rất ít và nhỏ nhẹ. Diễn
biến tâm trạng của nhân vật Mị chủ yếu được khắc họa qua độc thoại nội tâm. Tô Hoài
hay sử dụng ngôn ngữ nửa trực tiếp khiến ngoài thế giới và những nhân vật hòa làm một
tạo nên giá trị nhân đạo cho tác phẩm. Cuối cùng là thành công trong việc sử dụng ngôn
ngữ trong sáng, biểu cảm, giàu chất tạo hình. Xen vào giữa những đoạn văn xuôi là

những câu hát trữ tình, đằm thắm, cháy bỏng khát vọng hạnh phúc và tự do.
Với những thành công về nghệ thuật trên truyện ngắn Vợ chồng A Phủ xứng đáng là một
trong những truyện ngắn xuất sắc của văn học Việt Nam, được tặng giải Nhất – giải
thưởng Hội Văn nghệ Việt Nam 1954 -1955.
“Vợ chồng A Phủ” có thể xem như một “kiệt tác” của nền văn học giai đoạn 唥 19451954. Tác phẩm này có thể coi là cách Tô Hoài trả ơn nghĩa sâu nặng cho mảnh đất và
con người một thời đã gắn bó máu thịt. Ở tác phẩm có sự kết hợp giữa tự sự với trữ tình,
giữa giá trị nhân đạo và giá trị hiện thực. Và bởi vậy mà thiên truyện này sẽ còn sống mãi
trong lòng độc giả yêu văn.

---------------------------------------------- Hết ---------------------------------------------------------


.A secrect make a woman woman .. .
By: Thảo hấp ����



×