Tải bản đầy đủ (.docx) (5 trang)

Đè 8 rừng xà nu( nguyễn trung thành) cảm nhận chi tiết

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (81.98 KB, 5 trang )

Đề 8: Cảm nhận về tác phẩm “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành.
Bài làm:
Gắn liền với hai cuộc kháng chiến trường kì chống Pháp và chống Mĩ của dân tộc là sự
ra đời của hàng loạt các tác phẩm ca ngợi lòng yêu nước, tinh thần chiến đâu bất khuất của
dân tộc như “Đồng chí” của Chính Hữu, “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến
Duật, truyện ngắn “Làng” của Kim Lân,... Và nhắc đến văn học thời kì này ta không thể không
nhắc đến tập truyện “Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc” của Nguyễn Ngọc Nguyễn Trung Thành. Truyện ngắn “Rừng xà nu” được coi là “linh hồn” của tập truyện trên.
Lấy cảm hứng từ hình ảnh rừng xà nu với sức sống mãnh liệt, kiên cường Nguyễn Trung
Thành đã xây dựng nên một tác phẩm mang đậm chất sử thi phản ánh tiinh thần yêu nước
cũng như sức mạnh tiềm tàng, tinh thần chiến đấu anh dũng của những con người ở vùng
đất đỏ badan.
Nguyễn Trung Thành được coi là nhà văn của Tây Nguyên bởi ông không chỉ là người
có những trang văn hay nhất viết về Tây Nguyên mà còn bởi trong sự nghiệp sáng tác của
ông, các tác phẩm viết về vùng đất đỏ badan này là tiêu biểu nhất. Lần đầu tiên nhà văn bén
duyên với mảnh đất Tây Nguyên là năm 1954 với tiểu thuyết “Đất nước đứng lên” - viết về
cuộc nổi dậy của buôn làng Kông Hoa chống lại thực dân Pháp. Khi ấy, nhà văn không nghĩ
mảnh đất badan, với tiếng cồng chiêng âm vang và hạt bụi vàng lóng lánh này sẽ trở thành
mảnh đất “tri kỉ” trong sự nghiệp sáng tác của mình. Cho tới năm 1965, khi có dịp trở về chiến
trường Nam Trung Bộ chứng kiến lòng dũng cảm, tinh thần chiến đấu kiên cường và lòng
yêu nước nồng nàn của những con người Tây Nguyên, ông quyết định sẽ viết một truyện
ngắn về đồng bằng. Thế nhưng chẳng hiểu vì sao cái truyện ngắn dự định ấy của ông suốt
mấy đêm cũng không thực hiện được. Và những ấn tượng về rừng xà nu - loại cây chỉ có ở
Tây Nguyên lại khơi nguồn cảm hứng sáng tác trong ông. Vậy là lại một lần nữa nghiêng ngòi
bút về mảnh đất badan màu mỡ, Nguyễn Trung Thành gieo lên mảnh đất ấy một “Rừng xà
nu” đậm đà chất sử thi nhưng cũng không kém phần lãng mạn.
Nhan đề “Rừng xà nu” là một nhan đề rất đặc sắc và giàu tính biểu tượng. Không phải
ngẫu nhiên mà Nguyễn Trung Thành lại “vô ý” đặt tên cho truyện ngắn là rừng xa nu. Nhan đề
này chứa đựng nhiều dụng ý sâu sa của nhà văn. “Rừng” gợi cho ta đến sự bạt ngàn, đông
đúc, rộng lớn. “ Xà nu” là loại cây chỉ có ở vùng núi rừng Tây Nguyên. Ở đây, nhà văn không
dùng là cây xà nu hay đồi xà nu mà lại dùng là rừng xà nu nhằm thể hiện một tập thể người
mà cụ thể trong tác phẩm là dân làng Xô Man hay rộng hơn là tất cả đồng bào Tây Nguyên,


hơn nữa là cả dân tộc Việt Nam. Xà nu là một loại cây có sức sống bền bỉ, kiên cường, khao
khát ánh sáng là biểu tượng cho đức tính kiên cường, dũng cảm, bất khuất của những con
người dân tộc Strá. Ở một tầng nghĩa cao hơn thì hình ảnh rừng xà nu là biểu hiện cho sự bất
diệt của lòng yêu nước. Nhan đề này đã gợi lên toàn bộ chủ đề tác phẩm cũng như cảm hứng
sử thi, bi tráng chứa đựng trong đó.
Tác phẩm mở ra bằng lời giới thiệu ngắn gọn nhưng đầy đủ “Làng ở trong tầm đại bác
của đồn giặc”. Vị trí địa lí, sự nguy hiểm rình rập đối với ngôi làng đã được tác giả gói gọn
trong một câu văn tuy ngắn nhưng vẫn đầy uy nghi. Ngôi làng ấy là nơi sinh sông của những
con người dân tộc Strá. Đó chính là làng Xô Man. Ngôi làng được bao bọc bởi cánh rừng xà
nu bạt ngàn xanh tốt. Cánh rừng xà nu ấy như là một tấm áo giáp còn lợi hại hơn cả sắt thép
ngày ngày hứng chịu những cơn bão đạn thì giặc để bảo vệ cho dân làng Xô Man. Mỗi ngày
hai lần đều đặn “buổi sáng sớm và xế chiều, hoặc đứng bóng và xẩm tối, hoặc nửa đêm và
trở gà gáy” giặc Mĩ lại điên cuồng nhả đạn đại bác vào cánh rừng xà nu ấy khiến cho “Cả
rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào không bị thương. Có những cây bị chặt đứt ngang
nửa thân mình, đổ ào ào như một trận bão. ở chỗ vết thương, nhựa ứa ra, tràn trề, thơm


ngào ngạt, long lanh nắng gay gắt, rồi dần dần bầm lại, đen và đặc quện thành từng cục máu
lớn”. Nếu như ở miền Bắc, cây tre là biểu tượng cho con người trong chiến tranh :
“ Tre xung phong vào xe tăng, đại bác
Tre giữ làng, giữ nước
Giữ mái nhàn tranh
Giữ đồng lúa chín”
Còn ở Nam Bộ hình ảnh rặng dừa lại là hình ảnh tiêu biểu:
“Đất que hương nát bầm vết đạn
Đã nuôi dừa năm tháng xanh tươi
Ôi phải chăng dừa nuốt bao cay đắng
Để trổ ra những trái ngọt cho đời.”
Thì khi nhắc tới mảnh đất badan màu mỡ, nhắc tới những điệu cồng chiêng rộn rã của
Tây Nguyên ta phải nhớ ngay đến cây xà nu - loại cây đã gắn bó, đã thấm vào máu thịt của

những con người nơi đây. Đó là ông cụ Mết, là Tnú, Mai, Dít, bé Heng,... Chia sẽ về tác phẩm
của mình nhà văn Nguyễn Trung Thành nói nguyên mẫu nhân vật chính trong tác phẩm của
ông là một người đàn ông có tên gọi là Đề. Nhưng với ông “tên Đề nó Kinh quá, người Kinh
quá” bởi vậy mà ông đã gọi nhân vật của mình là Tnú. Cái tên ấy nó “không khí hơn nhiều”,
nghe hoang dã hơn, mang đậm chất sử thi hơn. Anh Đề trong cuộc sống thực là người dân
tộc Xê-đăng và cũng để cho “khí thế” Nguyễn Trung Thành lại xây dựng nên Tnú là người dân
tộc Strá sống ở buôn làng Xô Man. Nghe thôi cũng đủ thấy chất sử thi đậm đà rồi. Nguyễn
Trung Thành đã làm cho thiên truyện rất Tây Nguyên ngay từ những cái tên gọi.
Cây xà nu, qua ngòi bút của nhà văn nó trở thành một biểu tượng của sức sống bất
diệt, mặc cho Mĩ công phá ngày đêm, những cây xà nu vẫn không bị tiêu diệt “ Cạnh một cây
xà nu mới ngã gục, đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao
thẳng lên bầu trời. Cũng ít có loại cây ham ánh sáng mặt trời như thế. Nó phóng lên rất nhanh
để tiếp lấy ánh nắng, thứ ánh nắng trong rừng rọi từ trên cao xuống từng luồng lớn thẳng tắp,
lóng lánh vô số hạt bụi vàng từ nhựa cây bay ra, thơm mỡ màng. Có những cây con vừa lớn
ngang tầm ngực người lại bị đại bác chặt đứt làm đôi. Ở những cây đó, nhựa còn trong, chất
dầu còn loáng, vết thương không lành được, cứ loét mãi ra, năm mười hôm thì cây chết.
Nhưng cũng có những cây vượt lên được cao hơn đầu người, cành lá xum xuê như những
con chim đã đủ lông mao, lông vũ. Đạn đại bác không giết nổi chúng, nhưng vết thương của
chúng chóng lành như trên một thân thể cường tráng. Chúng vượt lên rất nhanh, thay thế
những cây đã ngã… Cứ thế hai ba năm nay, rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn của mình ra, che
chở cho làng…” Những cây xà nu ấy vững vàng, kiên cường như một người chiến sĩ nguyện
xông pha đến những nơi “đầu sóng ngọn gió” để bảo vệ đất nước, con người Việt Nam. Hình
ảnh những cây xà nu vừa là biểu tượng cho khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ, rộng lớn vừa là
biểu tượng cho sức mạnh, lòng yêu nước bất diệt, tinh thần chiến đấu anh dũng, kiên cường
của dân làng Xô Man.
Trước hết, điều đó thể hiện qua nhân vật già làng. Đó là cụ Mết. Cụ hiện lên qua lời kể
của Tnú khi xin nghỉ phép về thăm làng , đã già cả rồi nhưng “ Ông cụ vẫn quắc thước như
xưa, râu bây giờ đã dài tới ngực và vẫn đen bóng, mắt vẫn sáng và xếch ngược, vết sẹo ở
má bên phải vẫn láng bóng. Ông ở trần, ngực căng như một cây xà nu lớn”. Bàn tay ông cụ
vẫn nặng trịch, giồng nói vẫn “ồ ồ vang lên trong lồng ngực như âm vang của núi rừng”. Đặc

biệt, khi hài lòng nhất ông cụ không bao giờ khen “ Tốt, giỏi” mà chỉ nói như ra lệnhi “Được”,
giọng nói dứt khoát như một chân lí. Ở cụ Mết có bóng dáng của một người chỉ huy, một
người lãnh đạo. Ông đã chỉ huy dân làng chế tạo vũ khí để đánh giặc, rồi ông còn thận trọng,
bình tĩnh, ra sức can ngăn Tnú khi anh định chạy ra cứu mẹ con Mai bởi ông cụ ý thức được
rằng lúc đó cả ông, Tnú cũng như tất cả các thanh niên trong làng đều chỉ có hai bàn tay


trắng làm sao chống lại được súng đạn, gậy gộc của thằng Dục. Ngay sau khi Tnú bị bắt ông
đã chỉ huy trai làng đi lấy vũ khí rồi bí mật từ nhà ưng xông ra hô to :”Giết”, nhanh chóng giết
chết thằng Dục và tay sai. Điều đó thể hiện được sự sáng suốt trong suy nghĩ, hành động và
uy quyền của một già bản Tây Nguyên. Nguyễn Trung Thành cũng đã tuyên truyền Nghị quyết
15 của Đảng đến đồng bào Tây Nguyên “ Phải dùng bạo lực cách mạng để đánh đổ lực
lượng phản cách mạng” qua lời nói của cụ Mết “Chúng nó cầm súng, mình phải cầm giáo”.
Câu nói của cụ Mết có nét giống với “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” của Chủ tịch Hồ Chí
Minh : “Hỡi đồng bào! Chúng ta phải đứng lên! Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già,
người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên
đánh thực dân Pháp, cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có
gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước.”
Cụ Mết xứng đáng là một thủ lĩnh, một vị tướng tài ba. Không chỉ tham gia vào cuộc đấu tranh
của dân làng Xô Man chống Mĩ cụ Mết còn là người lưu giữ những truyền thống tốt đẹp của
buôn làng khi kể cho các thế hệ sau nghe về những nhân vật anh hùng mà tiêu biểu là
Tnú,qua đó giáo dục thế hệ trẻ lòng căm thù giặc và niềm tin đối với cách mạng. Chính ông
cụ là người châm bùng lên ngọn lửa cách mạng ở Tây Nguyên. Nhân vật cụ Mết là nhân vật
mang đậm tính sử thi và là nhân vật đánh dấu thành công trong nghệ thuật xây dựng nhân vật
của Nguyễn Trung Thành.
Tiếp đến là nhân vật Tnú - nhân vật chính của tác phẩm hiện lên chủ yếu qua chất
giọng khàn khàn của cụ Mết. Anh hiện lên với đầy đủ những phẩm chất của một anh hùng
dân tộc, một con người mang dáng dấp cả thời đại. Tnú sinh ra đã là một đứa bé mồ côi, anh
lớn lên trong tình yêu thương của dân làng Xô Man và anh cũng mang trong mình dòng máu
kiên cường, bất khuất của người Strá. Ngay từ nhỏ Tnú đã tỏ ra là người dũng cảm, gan dạ

nhận nhiệm vụ đưa cơm nuôi cán bộ và bảo vệ cán bộ. Khi đi tới chỗ cán bộ lúc bấy giờ là
anh Quyết Tnú “ Không bao giờ nó đi đường mòn, nó leo lên một cây cao nhìn quanh, nhìn
một lượt rồi xé rừng mà đi, lọt tất cả các vòng vây. Qua sông nó không thích lội chỗ nước êm,
cứ lựa chỗ thác mạnh mà bơi ngang, vượt lên trên mặt nước, cưỡi lên thác băng băng như
một con cá kình”. Mỗi khi đi rừng là đầu Tnú lại sáng lạ lùng. Nói vậy là bởi trong thời gian
làm nhiệm vụ T nú và Mai được anh Quyết dạy cho cái chữ với hy vọng sau này chúng sẽ
thay anh làm cán bộ. Do Mai học nhanh hơn còn T nú lại hay quên chữ nên một lần T nú đã
đập bảng trước mặt Mai và anh Quyết, sau đó lấy đá đập vào đầu cho “máu chảy ròng ròng”
chỉ vì nôn nóng muốn học thuộc chữ, muốn nhanh chóng trở thành cán bộ. Người đọc không
khỏi bật cười trước hành động ấy của T nú vừa ngây thơ, trẻ con, vừa thể hiện sự bản lĩnh,
gan dạ, tố chất của một người cộng sản. Sự gan dạ, dũng cảm của T nú còn thể hiện ở việc
anh nuốt thư mật vào bụng rồi ngang nhiên chỉ tay vào bụng dõng dác nói “Cộng sản ở đây
này” mặc những nhát dao cứa vào lưng ứa một giọt máu đậm, từ sáng đến chiều thì đặc
quện lại, tím bầm như nhựa xà nu. Ngay từ nhỏ T nú đã hứa hẹn là một người cộng sản đầy
bản lĩnh. Sau ba năm bị cầm tù, T nú trốn về được và đã gặp Mai, trở về làng đọc thư anh
Quyết để lại trước khi hy sinh rồi một mình đi bộ ba ngày đường lên núi Ngọc Linh lấy đá mài
về để chế tạo vũ khí chống lại Mĩ- Diệm. Anh và Mai lấy nhau, hai người sinh được đứa con
đầu lòng. Đứa con ấy rồi đây sẽ lại đi theo bước chân của cha nó bây giờ - người đọc ai cũng
nghĩ vậy. Nếu như với các tác phẩm khác việc T nú thoát được sự giam cầm của kẻ thù trở
về, lấy Mai làm vợ, hai người có cuộc sống hạnh phúc, sinh được đứa con đầu lòng sẽ khép
lại tác phẩm với kiểu kết thúc có hậu thì ở đây Nguyễn Trung Thành mới thực sự bắt đầu tác
phẩm. Biết được việc dân làng Xô Man đang chuẩn bị vũ khí để chống trả sự đàn áp của
mình mà người khơi nguồn việc ấy là T nú bọn thằng Dục đã cho quân đổ ập vào làng lùng
sục để bắt cho được T nú. Chúng không ngại hành hạ mẹ con Mai để dụ T nú ra mặt, chúng
đánh đập Mai dã man trong tiếng cười khoái chí, thỏa mãn. Không kìm được lòng, không thể


chịu đựng được cảnh vợ con bị hành hạ T nú đã xông ra khỏi chỗ trốn, mặc sự ngăn cản của
cụ Mết để cứu vợ và con. Thế nhưng chỉ với hai bàn tay trắng dù có chắc như lim T nú cũng
không thể bảo vệ được mẹ con Mai ngược lại còn bị bọn thằng Dục bắt chói và tra tấn dã

man. Chúng đã rất tàn nhẫn khi dùng chính nhựa cây xà nu,thứ đã cùng lớn lên với dân làng
Xô Man, cùng đánh giặc với dân làng Xô Man, loại cây đã ăn sâu vào nếp sống của con
người nơi đây tẩm lên giẻ quấn lên mười đầu ngón tay của T nú rồi châm lửa đốt. Mười đâu
ngón tay của T nú cháy như mười ngọn đuốc nhưng anh không hé răng nửa lời vì thấm
nhuần lời dạy của anh Quyết “Người cộng sản không thèm kêu van..”. Ngọn lửa không thể
làm T nú đau nữa mà nó đã nhóm lên ngọn lửa lớn trong lồng ngực anh, trong tận sâu con tim
anh “ Anh nghe lửa cháy ở trong lồng ngực, cháy ở bụng. Máu anh mặn chát ở đầu lưỡi.
Răng anh đã cắn nát môi anh rồi”. Ngọn lửa ấy là ngọn lửa của thù hận, kể từ ngày đó T nú
mất đi mỗi ngón một đốt ngón tay nhưng anh vẫn kiên cường quyết tâm cần súng, cầm giáo
đi tìm thằng Dục để tự tay giết chết nó trả thù. Anh mang trông mình ba mối thù hận lớn : mối
thù cá nhân,mối thù gai đình và mối thù dân tộc. Anh đã khẳng định rằng “ Còn thằng Dục thì
không còn T nú”. Qua đó cho ta thấy thái độ quyết liệt của T nú quyết tâm phải tiêu diệt quân
thù, còn kẻ thù thì không còn anh. Nói là làm, sau khi tay lành anh quyết định rời buôn làng
tìm cách mạng. Anh đã xung phong xuống hầm cố thủ của địch dùng chính bàn tay không
lành lặn - hậu quả mà tội ác của chúng gây ra- bóp chết hắn. Qua đây ta thấy được quyết tâm
trả thù, sự dũng cảm, gan dại của T nú. Đồng thời cũng phản ánh triết lí nhân sinh: “ Gieo
nhân nào, gặp quả nấy”. T nú không chỉ là một con người anh hùng mà anh còn là một người
rất kỷ luật: về nghỉ phép là phải có giấy của cán bộ; đơn vị cho về một đêm, anh chỉ về một
đêm. Anh là người biết hy sinh lợi ích cá nhân để phục vụ lợi ích của đất nước. Ở anh là sự
kết hợp giữa hình ảnh một người cách mạng cầm súng chiến đấu kiên trung, gan góc với một
con người giàu tình yêu thương, có tâm hồn nhạy cảm và rất tôn trọng kỉ luật. Nguyễn Trung
Thành đã rất thành công trong việc xây dựng nhân vật T nú. Đặt nhân vật vào bối cảnh chung
để nhân vật bộc lộ cái riêng rồi lại đặt nhân vật vào hoàn cảnh riêng để nhân vật thể hiện cái
chung. Đó là nét đặc sắc trong ngòi bút Nguyễn Ngọc.
Bên cạnh cụ Mết , T nú, Dít cũng hiện ra với phẩm chất của một con người rất can đảm,
mạnh mẽ. Dít là em gái của Mai, hai người giống nhau như hai giọt nước tới nỗi mà T nú
phải nghĩ rằng “Mai! Trước mắt anh là Mai đấy”. Dít mang vẻ đẹp sắc sảo của người con gái
Tây Nguyên nhưng có nét gì đó rất mạnh mẽ “Cái mũi hơi tròn của Dít ngày trước nay đã
thẳng và nhỏ lại, hai hàng lông mày đậm đến che tối cả đôi mắt mở to, bình thản, trong suốt”;
giọng nói có vẻ lạnh lùng. Phải nhận thấy một điều là Dít mạnh mẽ hơn Mai rất nhiều. Ngay từ

nhỏ Dít đã tỏ ra là người như vậy rồi. Cái lần bọn thằng Dục kéo đến lùng sục làng mấy hôm
liền Dít nhỏ người nên đã bò qua máng nướci đem gạo cho cụ Mết, T nú và nhiều thanh niên
trong buôn làng. Khi bị bắt, bị đe dọa bởi súng đạn, cái thứ mà không ai có thể đùa giỡn với
nó được : “Chúng để con bé đứng giữa sân, lên đạn tôm - xông rồi từ từ bắn từng viên một,
không bắn trúng, đạn chỉ sượt qua tai, sém tóc, cày đất quanh hai chân nhỏ của Dít. Váy nó
rách tượt từng mảng. Nó khóc thét lên, nhưng rồi đến viên thứ mười nó chùi nước mắt, từ đó
im bặt. Nó đứng lặng giữa bọn lính, cứ mỗi viên đạn nổ, cái thân hình mảnh dẻ của nó lại quật
lên một cái, nhưng đôi mắt nó thì vẫn nhìn bọn giặc bình thản lạ lùng, bình thản như đôi mắt
của chị bí thư bây giờ vậy.” Nó chỉ giật nảy người lên chứ không hề khóc. Hình ảnh Dít khiến
ta liên tưởng tới ba nữ thanh niên xung phong trong “ Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh
Khuê. Sau này khi lớn lên Dít trở thành Bí thư chi bộ kiêm luôn cả chính trị viên xã hội vẫn
mang dáng vẻ tự tin, kiên cường như trước thậm chí còn hơn trước. Điều ấy thể hiện ở việc
Díp nghiêm túc hỏi T nú về giấy nghỉ phép, xưng hô là “đồng chí” rất trang trọng. Còn khi đã
kiểm tra xong giấy nghỉ phép của T nú Dít lại có thái độ rất niềm nở, xưng hô anh em rất gần


gũi. Từ đây ta thấy Díp là một con người rất giàu tình cảm nhưng lại cực kì nghiêm túc trong
công việc.
Cuối cùng, sự kiên cường, dũng cảm còn được thể hiện qua các nhân vật như Mai, bé
Heng, bà Nhan, anh Xút,... Tất cả những con người ấy, những nhân vật ấy đều thể hiện được
những đức tính của con người Việt Nam trong chiến tranh. Thế hệ sau nối tiếp thế hệ trước,
lớp người sau theo bước lớp người trước cứ thế không bao giờ chấm dứt. Tình yêu nước, sự
kiên cường của những con người Xô Man không bao giờ bị tiêu diệt, nó sẽ mãi mãi xanh tốt,
phát triển như rừng xà nu kia.
Thiên truyện khép lại để vương trong lòng độc giả cái dư vị vừa bi tráng, hào hùng, vừa
trữ tình , lãng mạn. Đó là thành công lớn nhất mà tác giả đã đạt được khi sáng tác truyện
ngắn “Rừng xà nu”.
“Rừng xà nu” dạt dào âm hưởng sử thi, nó đã sáng tạo ra một nhân vật sử anh hùng. Cuộc
đời bi tráng của Tnú chính là cuộc đời của dân tộc Việt Nam mộ: thời điểm lịch sử trọng đại:
Chúng muốn đốt tu thành tro bụi

Ta hỏa vàng nhân phẩm lương tâm
Chúng muốn ta bán mình ô nhục
Ta làm sen thơm ngát giữa đầm.
(Tố Hữu)
Đồng thời tác phẩm cũng cho ta thấy tài năng của tác giả trong nghệ thuật kể chuyện :
xây dựng câu truyên theo kết câu vòng tròn từ hiện tại tới quá khứ rồi lại quay về thực tại, đan
xen giữa chất sử thi với chất trữ tình lãng mạn; truyện có kết thúc mở gợi nhiều suy nghĩ. Đặc
biệt tác giả đã rất thành công trong nghệ thuật miêu tả nhân vật. Từ đó vẽ nên chân dung
những con người Việt Nam thế kỉ XX.
------------------------------------------------------- Hết ------------------------------------------------------A secret make a woman woman �
By: Thảo Hấp



×