Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

nguyên nhân, thực trạng của giá dầu và tác động của giá dầu giảm tới nền kinh tế việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (330.13 KB, 23 trang )

Mục lục

MỞ ĐẦU
Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, vai trò của chính phủ trong việc điều tiết
nền kinh tế thông qua các chính sách kinh tế vĩ mô ngày càng trở nên quan trọng hơn bao giờ
hết. Đặc biệt, trong bối cảnh kinh tế chính trị thế giới có nhiều biến động mạnh mẽ, chính phủ
càng phải tính toán một cách cẩn thận để đưa ra những chính sách, chỉ đạo phù hợp với tình hình
thực tiễn nhằm thúc đẩy kinh tế phát triển, ổn định an sinh xã hội,…
Năm 2014 chứng kiến sự biến động mạnh của giá dầu thế giới do nhiều nguyên nhân khác nhau.
Dầu thô lại là một mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, đồng thời là nhiên liệu đầu vào cho
phần lớn các hoạt động sản xuất kinh doanh. Chính vì thế, giá dầu thế giới liên tục giảm sâu có
tác động không nhỏ tới nền kinh tế Việt Nam theo nhiều chiều hướng khác nhau. Đứng trước
tình hình này, chính phủ cần xác định được những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của giá dầu
giảm tới nền kinh tế nước ta, từ đó điều hành các bộ ban ngành phối hợp chặt chẽ với nhau, đưa
ra các kịch bản và phương án giải quyết.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề trên, nhóm nghiên cứu đã tìm hiểu nguyên nhân, thực
trạng của giá dầu và tác động của giá dầu giảm tới nền kinh tế Việt Nam, cũng như các chính
sách điều hành kinh tế vĩ mô của chính phủ. Đây là cơ sở để đánh giá hiệu quả của các chính
sách kinh tế vĩ mô, cũng như là tiền để để đưa ra các quyết định khi trường hợp tương tự xảy ra
trong tương lai. Hy vọng thông qua nghiên cứu này, bạn đọc sẽ có cái nhìn rõ hơn về thực trạng
giá dầu và nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn 2014 – 2015. Chúng tôi cũng rất mong nhận
được những đóng góp, bổ sung, chỉnh sửa của quý độc giả để có thể hoàn thiện nghiên cứu này
toàn diện hơn.

1


CHƯƠNG I. THỰC TRẠNG GIÁ DẦU, NGUYÊN NHÂN VÀ TÁC ĐỘNG TỚI NỀN
KINH TẾ THẾ GIỚI GIAI ĐOẠN 2014 – 2015
1. Thực trạng giá dầu thế giới: giá dầu suy giảm kéo dài:


Giá dầu thế giới giai đoạn 5/2012 – 3/2015 (Nguồn ieconomics.com)

Sự suy giảm kéo dài của giá dầu vẫn đang là mối quan tâm hàng đầu trên thế giới
trong thời gian qua. Giá dầu thế giới đã giảm sâu hơn 49% trong năm 2014. Từ giữa
năm 2014 và được dự đoán cho tới 6 tháng đầu năm 2015 giá dầu trên thế giới vẫn
tiếp tục giảm và có khả năng đụng sàn ở mức 30-40 USD / thùng.
Theo lịch sử giá dầu thế giới, rất nhiều cú sốc về giá dầu xảy ra, đặc biệt là năm
1986, 1998 và 2008. Trong đó, năm 2008 chứng kiến biến động tới 60% và thời gian
diễn ra lâu nhất với hơn 500 ngày.
Cuộc khủng hoảng dầu gần nhất năm 2014 mới diễn ra được khoảng hơn 100 ngày
cùng với mức biến động 50%. Qua đó, chúng ta thấy được sự nghiêm trọng của lần
biến động này.

2


Đã có thời điểm, giá dầu giảm tới 50%, mức thấp nhất là 45 USD/ thùng (cao nhất
gần 120 USD/thùng) điều này khiến cho việc dự báo gặp rất nhiều khó khăn và hầu
hết đều không chính xác.
Theo dự báo của Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA) công bố ngày 14/11, giá dầu
mỏ thế giới vẫn sẽ giữ xu hướng giảm sang đến năm 2015. Với diễn biến kinh tế,
chính trị thế giới ngày càng phức tạp, nhiều nhà kinh tế cho rằng, nếu không có sự
can thiệp sớm, giá dầu sẽ sớm chạm đáy lịch sử 42 USD/thùng vào thời điểm bước
sang năm 2015.

2. Nguyên nhân làm giảm giá dầu thế giới:
a. Do mâu thuẫn giữa các nhóm lợi ích:

OPEC - tổ chức các nước xuất khẩu dầu lửa, là một tổ chức đa chính phủ, gồm 12
nước thành viên. Trong một thông báo mới đây, các nước thành viên OPEC đã cho

biết sẽ không giảm sản lượng khai thác dầu mỏ cho dù giá dầu có mức rất thấp. Và
trong 3 tháng tới OPEC cũng sẽ không bàn về về việc có giảm sản lượng hay không.
Tuyên bố trên của OPEC được đánh giá đã gia tăng sức ép lên giá dầu thế giới.
Theo một số nhà phân tích, hành động này của OPEC nhằm tạo sức ép đối với các
nước xuất khẩu dầu ngoài khối như Nga, Mỹ,… Mặc dù đã đưa ra những lý lẽ thuyết
phục nhưng nghi vấn về âm mưu và mục đích thực sự của OPEC vẫn gây nhiều tranh
cãi. Trong thực tế, giá dầu giảm sâu có ảnh hưởng trực tiếp và nghiêm trọng đối với
nhiều quốc gia, trong đó có Nga, giá dầu sụt giảm sẽ khiến cho Nga bị thiệt hại lớn vì
ngành công nghiệp năng lượng là xương sống của nền kinh tế Nga, lâu nay Nga đã
đầu tư lớn vào ngành công nghiệp này, nếu không duy trì hoặc tăng được năng suất
thì Nga không những không thể thu hồi được vốn đầu tư mà còn dẫn đến khủng
hoảng kinh tế và chính trị nghiêm trọng hơn.
Mặc dù giá dầu giảm mạnh có tác động tiêu cực đối với các nước phương Tây do Mỹ
đứng đầu, nhưng vì một loạt lý do kinh tế và chính trị như muốn gây áp lực lên nước
Nga và V.Putin để Nga khó phục hồi được nền kinh tế nên các nước phương Tây vẫn
rất mong muốn nhìn thấy giá dầu giảm.
b. Giá dầu lao dốc do dư cung:

Hiện nay, nhu cầu năng lượng của toàn cầu giảm nhưng sản lượng dầu khai thác vẫn
ở mức cao kỷ lục và vượt quá nhu cầu sử dụng của thế giới. Năm 2014, cung dầu thế
giới đã vượt cầu tới 1,5 triệu thùng/ngày điều này dẫn tới giá dầu có thể giảm sâu
hơn.
Tổng sản lượng dầu khai thác của bộ ba OPEC - Mỹ - Nga không những không giảm
mà còn đang tăng lên.Cuộc chiến dầu mỏ của OPEC – Mỹ - Nga dường như vẫn
chưa đến hồi kết.Sản lượng dầu thô của các nước thành viên OPEC không hề suy
giảm, trong khi đó Nga vẫn giữ vững mức sản lượng khai thác dầu mỏ vì đây là
3


ngành công nghiệp chính mang lại lợi nhuận cho nước này.Sản lượng khai thác ngoài

OPEC sẽ tăng thêm 1,7% lên mức 56,98 triệu thùng/ngày trong năm 2015.
OPEC dường như cũng không còn giữ địa vị trí độc quyền của mình khi nguồn cung
dầu ngoài khối này đang tăng mạnh, đặc biệt là từ Bắc Mỹ. Chính phủ Mỹ đã tiếp tục
thành công với công nghệ sản xuất dầu đá phiến của mình và mang lại nguồn cung
rất lớn cho thị trường thế giới. Rõ ràng, bối cảnh thị trường dầu mỏ thế giới đang
thay đổi nhanh chóng với sự lớn mạnh của Mỹ. Có lẽ không còn mấy xa lạ khi nói
tới dầu đá phiến, một loại nhiên liệu được khai thác và sử dụng tương tự dầu mỏ. loại
dầu này được biết đến từ thời tiền sử và khai thác chủ yếu vào khoảng thế kỉ 19
nhưng sau đó do nhiều nguyên nhân như chi phí khai thác và xử lí cao, sản lượng
thấp, các túi dầu phân tán rải rác dưới lòng đất và quan trọng nhất là chi phí cho dầu
mỏ thì thấp hơn nhiều, nên dầu hết các dự án khai thác dầu đá phiến đều được dừng
lại. Các chuyên gia Nga tin rằng sẽ không thể có cách mạng dầu khí đá phiến do chi
phí đắt đỏ của nó, tốn kém hơn nhiều so với khai thác dầu truyền thống cho dù có
công nghệ hiện đại. Thế nhưng ngược lại với những lập luận trên, thế kỉ 21 chính là
một cuộc cách mạng của dầu khí đá phiến khi phương pháp khai thác mới với tên gọi
“Nứt vỡ thủy lực” được tìm ra bởi George Mitchell, người sau này được mệnh danh
là “cha đẻ của dầu khí đá phiến”. Nhờ đó Mỹ đã có thể “vắt đá ra dầu” với giá thành
rẻ, thời gian ngắn và sản lượng lớn hơn rất nhiều. Từ năm 2005-2013, sản lượng khai
thác dầu và khí đá phiến ở Mỹ tăng từ 5% lên đến 35% tổng lượng dầu khí khai thác
ở nước này. Hiện Mỹ đã vượt Nga, trở thành nước sản xuất khí đốt lớn nhất thế giới.
Sản lượng lớn dầu đá phiến được khai thác bằng công nghệ mới này đã góp phần
thêm vào lượng dư cung nhiên liệu khí đốt cho toàn thế giới. Xét về bản chất, chính
phần “lõi công nghệ” nứt vỡ thủy lực là nguyên nhân sâu xa khiến giá dầu mỏ tụt dốc
chứ không phải là bản thân dầu đá phiến.
Theo Cơ quan Thông tin Năng lượngEIA, sản lượng dầu thô Mỹ sẽ tăng lên mức
9,42 triệu thùng/ngày trong năm 2015, mức cao nhất từ 1970, tăng từ mức 7,46 triệu
thùng/ngày của năm 2013.Giám đốc EIA, ông Adam Sieminski viết: “Nguồn cung
dầu thô vẫn tiếp tục tăng trưởng bất chấp nhu cầu tiêu thụ suy yếu sẽ gây sức ép kéo
giá dầu thô xuống sâu hơn trong ngắn hạn. Giá trung bình của Brent dự đoán thấp
hơn 18 usd/thùng trong năm sau so với dự báo giá kỳ trước.”.

Bên cạnh đó, nguồn dự trữ dầu thế giới cũng tăng mạnh trong 15 năm trở lại
đây.Theo tin từ Reuters, Bộ Năng lượng Mỹ công bố báo cáo hàng tuần cho biết, dự
trữ dầu thô của nước này tăng 10,95 triệu thùng trong đầu tháng 4/2014- mức tăng
lớn nhất kể từ năm 2001 - đạt 482,39 triệu thùng. Trong đó, khối lượng dầu tồn kho ở
cảng dầu Cushing thuộc bang Oklahoma tăng 1,2 triệu thùng, lớn hơn dự báo trước
đó của giới phân tích.Trước đó, giá dầu đã trượt dốc khi có tin Saudi Arabia khai
thác dầu với tốc độ 10,3 triệu thùng/ngày trong tháng 3/2014, mức sản lượng cao
nhất từ trước đến nay.
c. Nhu cầu năng lượng toàn cầu giảm:
4


Nhu cầu đối với dầu giảm xuống vì nền kinh tế đang ngày một khó khăn. Bên cạnh
đó, việc chuyển đổi từ dầu sang các nguồn nguyên liệu khác ngày càng được khuyến
khích. Một mặt do việc tiêu thụ năng lượng ở các nước phát triển có xu hướng giảm
xuống, trong khi đó nhiều nước đã tìm ra những nguồn năng lượng mới, có thể tự sản
xuất phục vụ tiêu dùng trong nước, thậm chí xuất khẩu ra nước ngoài như Mỹ, Nhật
Bản,... Những năm gần đây về cơ bản Mỹ đã đảm bảo được việc tự túc năng lượng,
thậm chí còn có thể xuất khẩu vì nước này đã áp dụng được công nghệ chiết xuất dầu
và hơi đốt từ “nguồn đá phiến” rất dồi dào ở Mỹ. Mặt khác, Nhật Bản đã khởi động
lại ngành công nghiệp điện hạt nhân, việc nhập khẩu năng lượng sẽ giảm bớt. Nhu
cầu năng lượng của các nước đang phát triển, nhất là Trung Quốc và Ấn Độ cũng đã
ổn định.
Trong năm 2014 này, nhu cầu dầu mỏ ước tính chỉ tăng trung bình 68.000
thùng/ngày, ở mức thấp trong 5 năm qua, đạt 92,4 triệu thùng/ngày.
d. Sự phục hồi của nền kinh tế Mỹ:

Theo kết quả khảo sát, lần đầu tiên trong 5 năm, Mỹ đã vượt Trung Quốc trở thành
thị trường tăng trưởng ở nước ngoài quan trọng nhất của các CEO trên khắp thế giới.
Kết quả này tương đồng với nhận định mà Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) đưa ra trong

báo cáo về triển vọng kinh tế thế giới, công bố hôm 20/1. Trong báo cáo này, IMF hạ
dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2015 nhưng tăng dự báo tăng trưởng kinh tế
Mỹ.
Chính sách tiền tệ của Mỹ bước đầu có sự điều chỉnh theo hướng thắt chặt hơn, với
chương trình mua trái phiếu đang dần được thu hẹp và lãi suất có thể sớm được nâng
lên, trên cơ sở là sự lạc quan vào triển vọng phục hồi đủ mạnh của nền kinh tế. Gói
QE3 đã chính thức kết thúc theo tuyên bố của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) và có
hiệu lực từ 1/11/2014. Hiện nay, Mỹ vẫn giữ nguyên mức lãi suất điều hành ở mức
0,25%. Việc Mỹ chấm dứt QE sau một thời gian cắt giảm có lộ trình như dự báo đã
không gây ra cú sốc cho thị trường tài chính quốc tế; lãi suất trái phiếu chính phủ có
xu hướng tăng; kinh tế Mỹ tiếp tục có dấu hiệu phục hồi; đồng USD tiếp tục tăng giá
so với hầu hết các đồng tiền. Đồng đô la mạnh lên khiến giá dầu giảm xuống là điều
không tránh khỏi do giao dịch dầu thô trên thế giới được tính bằng đồng USD.

3. Tác động của giá dầu giảm đến nền kinh tế thế giới.
a. Tác động tích cực

Khi giá dầu giảm sẽ thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Đặc biệt, trong giai đoạn hậu
khủng hoảng tài chính tiền tệ hiện nay, đó chính là liều thuốc tăng trưởng giúp hồi
phục nền kinh tế vĩ mô của thế giới và các nước. Các chuyên gia ước tính rằng khi
giá dầu giảm 10$/thùng sẽ chuyển hóa thành 0.5% GDP toàn cầu.
Thứ nhất, giá dầu giảm tương đương với chi phí đầu vào giảm (nguyên liệu, kim loại,
sản phẩm nông nghiệp, thực phẩm...) và giảm chi phí vận chuyển. Từ đó doanh
5


nghiệp có thể giảm giá thành sản phẩm và giá bán ra thị trường, khuyến khích người
tiêu dùng tăng chi tiêu. Điều này làm tăng sức sản xuất của nền kinh tế, đóng góp vào
việc nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của kinh tế thế giớ, đồng thời làm giảm tỉ lệ
thất nghiệp.

Thứ hai, theo cơ quan đánh giá tín dụng Ficht Ratings, việc giảm giá dầu cũng tương
tự việc giảm thuế, sẽ kích thích chi tiêu đối với phần lớn các nước phải nhập khẩu
dầu mỏ vì giá dầu giả hơn 50$ đã chuyển hàng nghìn tỷ USD từ nhà sản xuất sang
người tiêu dùng. Lúc người dân cảm thấy mình có nhiều tiền dư thừa hơn trước đây,
họ có thể tăng tiêu dùng cá nhân, đầu tư hay gửi tiết kiệm. Mặt khác, hiện tượng này
có hiệu ứng lan truyền (còn gọi là hiệu ứng số nhân), nó kích hoạt từ từ vào nền kinh
tế, đóng góp vào quá trình mở rộng nền kính tế. Từ đó có thể nâng cao đời sống
người dân, cung cấp nhiều việc làm hơn, giảm thiểu tệ nạn xã hội.
Thêm vào đó, giá dầu giảm cũng có ảnh hưởng tích cực đến chính sách tài khóa, mở
ra nhiều cơ hội vàng cho các chính phủ giảm nhẹ gánh nặng trợ giá. Indonesia cũng
thực hiện tăng giá xăng được trợ cấp thêm 30%, giúp tiết kiệm cho ngân sách năm
2015 hơn 8 tỷ USD.
Theo đánh giá của Hãng tin Bloomberg, Trung Quốc là quốc gia được hưởng lợi
hàng đầu nhờ đà lao dốc của giá dầu. Là quốc gia tiêu thụ năng lượng lớn nhất thế
giới, nên khi giá dầu xuống thấp, Trung Quốc nhanh chóng thu mua dầu để tích trữ.
Trung Quốc đã dự trữ được 91 triệu thùng dầu, đạt tỷ lệ lấp đầy 88% đối với 4 khu
vực dự trữ dầu chiến lược xây vào năm 2009.
Tại châu Âu, những nước thuộc Eurozone, vốn phụ thuộc vào nhập khẩu dầu mỏ sẽ
giúp giảm nhẹ gánh nặng ngân sách. Kinh tế châu Âu, khu vực nhập khẩu dầu khí rất
lớn, sẽ tiết kiệm được khoản tiền đáng kể để nhập khẩu nhiên liệu.
Một loạt nền kinh tế châu Á khác như Philippines, Hàn Quốc và Đài Loan cũng
hưởng lợi từ giá dầu giảm.
Tại khu vực Trung Đông - Bắc Phi, giá dầu giảm sẽ giúp các nước như Ai Cập,
Marocco, Jordan, Lebanon tiết kiệm được một khoản tiền lớn cho ngân sách nhà
nước trong việc nhập khẩu dầu mỏ.
Mỹ cũng được lợi lớn từ việc giá dầu xuống thấp, nhất là trong thời điểm mùa mua
sắm cuối năm 2014. Theo tính toán của Ngân hàng Goldman Sachs, việc xăng giảm
giá trong 6 tháng qua tương đương với mức giảm thuế 75 tỷ USD cho người tiêu
dùng Mỹ. Điều này sẽ kích thích tiêu dùng, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế kinh tế Mỹ.
b. Tác động tiêu cực


Tuy nhiên, bên cạnh lợi ích, giá dầu giảm cũng gây ra nhiều ảnh hưởng tiêu cực.
Trước hết, việc giá dầu tụt dốc liên tục ảnh hưởng đến hòa bình và sự phát triển của
thế giới cụ thể là tác động không nhỏ đến bức tranh địa chính trị hiện nay. Giá dầu

6


giảm liên tục và bất thường sẽ gây ra nhiều thắc mắc. Là mặt hàng chiến lược, giá
dầu giảm liên tục tất yếu dẫn tới một cuộc chiến chính trị sử dụng dầu lửa làm vũ khí.
Đối với khu vực Trung Đông và Bắc Phi gồm cả những nước nhập khẩu và những
nước xuất khẩu dầu mỏ, những mâu thuẫn về lợi ích xuất phát từ việc giá dầu hạ có
nguy cơ gây ra căng thẳng mới trong khu vực. Giới chuyên môn cho rằng, đằng sau
việc giảm giá dầu tiềm ẩn những vũ khí gây bất ổn chính trị. Có thể dễ dàng nhận ra
rằng thu nhập từ dầu lửa bị giảm làm tăng nguy cơ bất ổn chính trị tại một số nước
xuất khẩu dầu mỏ, không còn khả năng chi cho chính sách xã hội. Đó là trường hợp
của Venezuela, Nigeria, Iraq, Iran, Algeria, Libya. Các nước này chỉ đạt được cân đối
thu chi ngân sách nếu giá một thùng dầu thô vượt qua mức 100 USD.
Tiếp thế, sự sụt giảm khá sâu và gây ngạc nhiên của giá dầu trên thị trường (giảm
35% chỉ trong vòng 6 tháng – từ 110$/thùng xuống dướ 50$/thùng) gây tác động lớn
đến các nước sản xuất dầu mỏ phụ thuộc vào nguồn thu xuất khẩu dầu thô và sử dụng
nguồn thu này cho ngân sách quốc gia. Đối với những quốc gia (như Nga, Venezuela,
Iran,...) khi nguồn thu ngân sách nhà nước phụ thuộc chặt chẽ vào dầu mỏ, nền kinh
tế đặc biệt nhạy cảm với những biến động của giá dầu thì sự lao dốc của giá dầu đe
dọa nghiêm trọng đến ổn định kinh tế của khu vực. Một vài hệ quả đáng lường như:
lạm phát tăng cao, đồng nội tệ mất giá, khủng hoảng nợ công, khủng hoảng tài chính,
dự trữ ngân sách quốc gia ngày một suy giảm có thể dẫn đến tình trạng vỡ nợ, suy
thoái kinh tế,... Việc giá dầu giảm kéo dài sẽ buộc chính phủ các nước phụ thuộc vào
dầu mỏ phải cắt giảm chi tiêu, ảnh hưởng đến khu vực tư nhân và làm giảm lợi nhuận
của phần lớn các ngân hàng thương mại. Lợi ích tài chính dành cho người lao động

dưới hình thức tăng lương và trợ cấp xã hội đương nhiên bị ảnh hưởng, mà hậu quả
của việc này là vô cùng.
Tại Venezuela, nền kinh tế phụ thuộc chặt chẽ vào dầu mỏ- chiếm đến 95% nguồn
thu xuất khẩu, giá dầu giảm mạnh khiến quốc gia này đứng trước nguy cơ vỡ nợ, đặc
biệt khi dự trữ ngoại tệ giảm dần, tỷ lệ lạm phát lên đến 60% và bị đe dọa lâm vào
suy thoái kinh tế trầm trọng. Đáng lưu ý, giá dầu tiếp tục giảm có thể khiến cho Tổng
thống Venezuela Nicolas Maduro tại điểm nhạy cảm này không thể đáp ứng đủ nhu
cầu của người dân và điều này sẽ làm gia tăng rủi ro chính trị và dẫn đến tình trạng
bất ổn.
Đối với Iran, nếu giá dầu tiếp tục lao dốc, chính phủ Iran sẽ phải đối mặt với tình
trạng thâm hụt ngân sách trầm trọng. Để cân bằng ngân sách quốc gia, Iran sẽ phải sử
dụng đến nhiều nguồn thu khác như cắt giảm trợ cấp giá dầu trong nước song điều
này tiềm ẩn những hậu quả đáng lường về cả kinh tế lẫn chính trị.
Nước Nga cũng là một trong những khu vực chịu ảnh hưởng nặng nề khi giá dầu
giảm liên tục: khó khăn về tài chính, đồng ruble mất giá, lạm phát tăng cao và bị các
nước phương Tây trừng phạt về kinh tế, nếu giá dầu giảm kéo dài, chắc chắn sẽ dẫn
tới một cuộc khủng hoảng kinh tế, thậm chí là bất ổn chính trị. Doanh thu từ dầu mỏ
7


và khí đốt chiếm tới 50% ngân sách của Nga bởi vậy nền kinh tế Nga phụ thuộc trực
tiếp vào các thông số cơ bản của giá dầu. Thậm chí, đã có chuyên gia dự đoán là kinh
tế Nga có thể sụp đổ như nền kinh tế Liên Xô nếu giá dầu trượt dốc đến mức
40USD/thùng.
Bên cạnh đó giá dầu lao dốc cũng ảnh hưởng xấu đến dự trữ ngoại hối và tỷ giá của
nhiều nước xuất khẩu dầu mỏ trên thế giới do nguồn nhiên liệu này luôn chiếm tỷ
trọng lớn trong nguồn thu ngoại tệ. Cụ thể giá dầu lao dốc khiến cho dự trữ ngoại hối
giảm và đồng nội tệ mất giá. Hãng tin CNBC dẫn một báo cáo do Viện Tài chính
Quốc tế (IFF) công bố mới đây dự báo, ngân sách của các nước xuất khẩu dầu thuộc
Hội đồng Hợp tác vùng Vịnh (GCC) sẽ thâm hụt 7,7% GDP trong năm nay, do tác

động của việc giá dầu thô Brent biển Bắc tại thị trường London giảm 50% trong vòng
1 năm trở lại đây. Trong dài hạn, nếu giá dầu cứ tiếp tục theo đà lao dốc như hiện
nay, nguồn dự trữ ngoại hối dồi dào của các nước thuộc GCC sẽ giảm đi đáng kể.
Điều nay gây bất lợi đến hoạt động kinh tế của các nước này đồng thời làm giảm tốc
độ tăng chi tiêu công so với những năm gần đây và cũng làm cho đồng nội tệ mất giá.
Giá dầu giảm khiến cho đồng USD tăng giá trong những phiên giao dịch gần đây
nhưng điều này cũng không ảnh hưởng nhiều đối với tỷ giá đồng tiền của các nước
vùng Vịnh, nếu so với đồng tiền của các nước sản xuất dầu lớn khác do nguồn dự trữ
ngoại hối dồi dào của các nước GCC đã cho phép các nước này chống lại được áp lực
phải giám giá đồng nội tệ do biến động giá dầu trong ngắn hạn. Trong vòng một
tháng qua, theo chỉ số Dollar Index - thước đo sức mạnh đồng USD, giá trị đồng USD
đã tăng lên 6%, trong khi các đồng Riyal của Saudi Arabia, Dirham của UAE và
Dinar của Bahrain đều đi ngang so với USD. Trái lại, Nga và Nigeria lại chịu ảnh
hưởng mạnh mẽ của việc giá dầu giảm minh chứng là đồng Rúp Nga và đồng Naira
của Nigeria cùng mất giá 2% so với đồng USD.

CHƯƠNG 2. TÁC ĐỘNG CỦA GIÁ DẦU GIẢM TỚI NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
1. Tác động đối với chính phủ:

Nguồn thu ngân sách Nhà nước vẫn dựa rất lớn vào thu từ khai thác tài nguyên và
hoạt động xuất nhập khẩu. Đây là những lĩnh vực phụ thuộc rất nhiều vào biến động
trên thị trường quốc tế, đồng thời làm cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, tài nguyên lao
động và nguồn lực tài chính. Trong đó, xuất khẩu dầu thô chiếm tới gần 10% tổng
thu ngân sách nhà nước. Vì vậy, việc giá dầu giảm mạnh sẽ ảnh hưởng không nhỏ
đến ngân sách nhà nước.
Số liệu thống kê của Bộ Tài chính cho thấy, nền kinh tế nước ta đã có bước chuyển
biến mạnh, điều này thể hiện ở số thu ngân sách 11 tháng đã vượt kế hoạch cả năm
2014. Tại kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa XIII, trước những tín hiệu tích cực này, các
đại biểu đều thống nhất cho rằng, thu ngân sách Nhà nước năm 2014 dự kiến vượt
63,7 ngàn tỉ đồng so với dự toán, tăng 12,3% so với năm 2013. Tuy nhiên, trước diễn

8


biến giảm sâu của giá dầu thô, Bộ Tài chính cho rằng, việc này sẽ tác động không
nhỏ đến thu ngân sách cả năm 2014.
Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng trong một cuộc trả lời báo chí gần đây đã
cho hay, từ đầu tháng 10 đến nay giá dầu thế giới đã giảm còn 68,5USD/thùng, điều
này ảnh hưởng rất lớn đến thu ngân sách Nhà nước trong tháng 12, cả năm 2014
cũng như năm 2015.
Theo ước tính, giá dầu thô cứ giảm 1 USD/thùng sẽ làm ngân sách Nhà nước hụt thu
khoảng 1.000 tỷ đồng. Trong khi đó, giá dầu thô thế giới đã giảm 33-38% chỉ trong
vài tháng đầu năm 2015. Giả thiết xấu nhất, nếu giá dầu thô bình quân năm 2015 chỉ
còn 40 USD/thùng - theo dự báo của một số chuyên gia kinh tế thế giới, thì Việt Nam
sẽ thiệt hại so với giá dự tính khoảng 120 nghìn tỷ đồng riêng từ khai thác và xuất
khẩu dầu thô. Theo đó, ngân sách Nhà nước hụt thu từ dầu thô khoảng 60.000 tỷ
đồng chưa kể khoản hụt thu từ giảm giá nhập khẩu và tiêu thụ xăng dầu. Với mức giá
dầu thô như hiện nay thu ngân sách Nhà nước do cơ quan thuế thực hiện sẽ giảm
khoảng 55.000-56.000 tỷ đồng.
Hơn nữa, biến động trong quy mô và cơ cấu thu ngân sách Nhà nước năm 2015 do
ảnh hưởng của khả năng giá dầu thô và xăng dầu giảm sâu sẽ gây hậu quả xấu hơn,
trong bối cảnh các nhiệm vụ chi theo dự toán đều không thể trì hoãn: cả chi đầu tư
phát triển lẫn chi thường xuyên và chi trả nợ
Tuy nhiên, bên cạnh việc thất thu ngân sách, giá dầu thô giảm lại tạo cơ hội thuận lợi
cho việc ổn định kinh tế vĩ mô, kích thích doanh nghiệp phát triển. Nhờ đó, thu ngân
sách Nhà nước từ hoạt động sản xuất kinh doanh và xuất khẩu có thể tăng được để bù
đắp cho phần hụt thu từ khai thác và xuất khẩu dầu thô cũng như từ nhập khẩu xăng
dầu thành phẩm.
Thậm chí, thu ngân sách Nhà nước còn có thể tăng lên nhờ lạm phát có xu hướng
giảm nên tỷ lệ thu ngân sách Nhà nước trong cơ cấu giá cả nhiều hàng hoá dịch vụ có
điều kiện tăng lên.


2. Tác động đối với doanh nghiệp
a. Đối với doanh nghiệp xuất khẩu dầu thô:

Đầu tiên là ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp
ngành khai thác dầu khí. Việc tiết giảm sản lượng, thậm chí phải dừng sản xuất hoặc
khai thác ở một số mỏ có chi phí giá thành cao là điều khó tránh khỏi.
Theo đại diện của Bộ Công Thương, nếu kịch bản giá dầu ở mức 40 USD/thùng thì
hoạt động sản xuất, xuất khẩu phải giảm từ 1,8-2 triệu tấn dầu thô. Như vậy, kế
hoạch năm 2015 mà Chính phủ giao cho ngành công thương là đạt chỉ tiêu khai thác
dầu thô trong nước 14,74 triệu tấn dầu quy đổi sẽ khó khả thi, thậm chí có thể chỉ đạt
13,08 triệu tấn nếu tình huống xấu nhất xảy ra khi giá dầu giảm xuống 40
9


USD/thùng. Đó là chưa kể tác động tới những dự án đầu tư lớn ở trong và ngoài
nước về khai thác, hóa dầu.
Trước bối cảnh này, ông Nguyễn Xuân Sơn, Chủ tịch Hội đồng thành viên, Tập đoàn
Dầu khí Việt Nam (PVN), cho biết giá dầu thô thế giới sụt giảm sẽ tác động không
nhỏ tới mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của tất cả các đơn vị thành viên thuộc
PVN.
Tập đoàn này cũng đã tự xây dựng phương án cho các chỉ tiêu, kế hoạch thực hiện
trong năm 2015. Theo đó, ở điều kiện bình thường khi giá dầu là 100 USD/thùng thì
tổng doanh thu toàn PVN sẽ đạt trên 718.000 tỷ đồng; nộp ngân sách Nhà nước
159.000 tỷ đồng và lợi nhuận trước thuế là 58.000 tỷ đồng.
Tuy nhiên, ở tình huống xấu nhất khi giá dầu xuống mức 40 USD/thùng thì tổng
doanh thu toàn PVN sẽ chỉ còn 434.500 tỷ đồng; nộp ngân sách Nhà nước 79.800 tỷ
đồng và lợi nhuận trước thuế còn 25.200 tỷ đồng.
Ông Sơn cũng nhấn mạnh PVN chủ động thực hiện các giải pháp tài chính để kịp
thời ứng phó với những biến động xấu nhất của giá dầu trong năm 2015. Cụ thể như

điều phối hợp lý giữa sản lượng khai thác, xuất khẩu và chế biến để đảm bảo hiệu
quả giữa chỉ tiêu tăng GDP, thu nộp ngân sách Nhà nước, đảm bảo an ninh năng
lượng và hiệu quả cho doanh nghiệp.
Tập đoàn này cũng đã tự xây dựng phương án cho các chỉ tiêu, kế hoạch thực hiện
trong năm 2015. Theo đó, ở điều kiện bình thường khi giá dầu là 100 USD/thùng thì
tổng doanh thu toàn PVN sẽ đạt trên 718.000 tỷ đồng; nộp ngân sách Nhà nước
159.000 tỷ đồng và lợi nhuận trước thuế là 58.000 tỷ đồng.
Tuy nhiên, ở tình huống xấu nhất khi giá dầu xuống mức 40 USD/thùng thì tổng
doanh thu toàn PVN sẽ chỉ còn 434.500 tỷ đồng; nộp ngân sách Nhà nước 79.800 tỷ
đồng và lợi nhuận trước thuế còn 25.200 tỷ đồng.
b. Đối với các doanh nghiệp khác:

Giá cước vận tải bắt đầu có xu hướng điều chỉnh giảm, tuy chưa nhiều nhưng cũng
được ghi nhận là có tích cực. Điều này giúp tiết giảm chi phí, gia tăng lợi nhuận và
mang lại kết quả tích cực cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của đại bộ phận các
doanh nghiệp hiện nay.
Xét về hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, xu hướng giảm của giá dầu cũng ảnh
hưởng nhiều lên giá cổ phiếu và lợi nhuận của doanh nghiệp. Theo thống kê, giá dầu
giảm hỗ trợ tích cực cho việc cải thiện các chỉ tiêu như EPS, biên lợi nhuận gộp và
ròng của VNINDEX trong giai đoạn 2008-2010. Theo đó, EPS của VNIndex trong
năm 2009 tăng 73,2% yoy. Một điểm sáng khác, trong khi biên lợi nhuận gộp của
VNIndex của năm 2009 chỉ đạt 19% so với mức 16,16% của năm 2008, biên lợi
nhuận ròng của Vnindex tăng mạnh lên mức 11,83% so với mức 6,63% (năm 2008).

10


Bên cạnh đó, năm 2014, Việt Nam đã kết thúc đàm phán các hiệp định tự do thương
mại FTA với Liên minh Hải quan Nga – Belarus – Kazakxtan, Hàn Quốc, và đang cố
gắng kết thúc đàm phán TPP gồm 12 nền kinh tế và một số đàm phán khu vực mậu

dịch khác. Cuối năm 2015, các nước ASEAN cũng bắt đầu thực thi Cộng đồng
ASEAN. Giá dầu giảm sẽ có tác động tích cực đến nền kinh tế nhiều nước, làm giá
đầu vào, giá thành nhiều sản phẩm và dịch vụ giảm, đóng góp vào việc nâng cao hiệu
quả và sức cạnh tranh của kinh tế thế giới. Vì thế, áp lực cạnh tranh trực tiếp tác
động đến toàn bộ nền kinh tế và từng doanh nghiệp. Các FTA thế hệ mới không chỉ
liên quan đến hàng rào thuế ở các đường biên, mà có nhiều thỏa thuận và yêu cầu
nâng cao năng lực cạnh tranh từ trong nội địa.

3. Tác động đối với các hộ gia đình:

Giá dầu thế giới giảm có tác động sâu rộng tới toàn bộ nền kinh tế của Việt Nam.
Không chỉ ảnh hưởng tới các cân đối lớn của chính phủ, hay quyết định sản xuất của
các doanh nghiệp, hiện tượng này còn tác động tới một bộ phận vô cùng quan trọng
của nền kinh tế đó chính là chi tiêu. Hệ quả trực tiếp của việc giá dầu thế giới giảm
mạnh đó chính là sự thay đổi giá cả của xăng dầu trong nước nói riêng và các toàn bộ
hàng hóa nói chung. Khi giá cả thay đổi, thu nhập thực tế của người dân sẽ ngay lập
tức thay đổi theo và đương nhiên điều này sẽ tác động tới các quyết định chi tiêu và
tiết kiệm của người dân.
a. Sự thay đổi của chỉ số giá tiêu dùng CPI:

Trước tiên, chúng ta sẽ tìm hiểu một chút về khái niệm chỉ số giá tiêu dùng CPI và
các yếu ảnh hưởng tới chỉ số này. Chỉ số giá tiêu dùng hay còn gọi là CPI (Consumer
Price Index) đo lường mức giá trung bình của giỏ hàng hóa và dịch vụ mà một người
tiêu dùng điển hình mua. CPI phản ánh xu thế và mức độ biến động của giá bán lẻ
hàng hóa tiêu dùng và dịch vụ dùng trong sinh hoạt của dân cư và các hộ gia đình.
Công thức tính CPI như sau:
,
trong đó và lần lượt là số lượng và giá cả của hàng hóa tiêu dùng thứ i trong giỏ
hàng hóa của người tiêu dùng điển hình tại năm t (t=0 ở năm cơ sở).
Quay trở lại với việc giá dầu thế giới giảm, khi Nhà nước không bù lỗ cho doanh

nghiệp kinh doanh xăng dầu nữa, thì giá xăng sẽ bị thả nổi và nương theo biến động
giá dầu trên thị trường quốc tế. Chính vì vậy giá xăng dầu trong nước đã giảm rất
mạnh và sâu trước tình trạng giá dầu thế giới “trượt dốc” liên tục, đồng nghĩa với
việc làm giảm CPI do xăng dầu là một mặt hàng tiêu dùng hàng ngày của các hộ gia
đình. Không những vậy, sự đi xuống của giá dầu cũng kéo theo sự tụt giảm giá cả
của các hàng hóa khác do đây là nguyên liệu đầu vào để sản xuất ra rất nhiều mặt
hàng tiêu dùng khác. Giá cả của phần lớn hàng hóa trên thị trường đi xuống sẽ khiến
chỉ số CPI giảm theo.
11


Diễn biến CPI qua các tháng - Nguồn: Tổng cục Thống kê.

Theo như tính toán của Tổng cục Thống kê, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 1/2015
tiếp tục giảm 0,2% so với tháng trước. Đây là mức tăng thấp nhất trong các tháng 1
từ khi Việt Nam bắt đầu tính CPI từ năm 1998 trở lại đây. Cũng giống như các tháng
trước, yếu tố xăng dầu vẫn là nguyên nhân chính khiến CPI cả nước tiếp tục giảm.
Giá xăng dầu các loại liên tục giảm trong thời gian qua được phản ánh bằng mức
giảm 3,96% so với tháng trước của nhóm giao thông. Đây là mức giảm lớn nhất
trong số 11 nhóm hàng chính tính CPI, đồng thời cũng là mức giảm mạnh nhất của
nhóm giao thông kể từ năm 2009 trở lại đây. Ảnh hưởng của giá dầu thô thế giới
thông qua các mặt hàng gas, dầu hỏa, khiến chỉ số giá nhóm nhà ở, vật liệu xây dựng,
điện, nước và chất đốt tiếp tục giảm 1,09% so với tháng trước, là mức giảm thấp nhất
trong hơn 2 năm qua. Việc CPI tháng đầu tiên của năm nay tiếp tục giảm còn do giá
cả các mặt hàng còn lại ổn định, không tăng mạnh như mọi năm. Nhóm hàng ăn và
dịch vụ ăn uống vốn tăng mạnh ở cùng thời điểm của các năm trước cũng chỉ tăng
0,28%, thấp hơn nhiều so với mức tăng 0,78% của tháng 1 năm 2014 hoặc mức tăng
1,34% của tháng 1 năm 2013. Mức tăng 0,28% của năm nay được cộng hưởng từ
nhóm lương thực tăng 0,03%, thực phẩm tăng 0,42% và ăn uống ngoài gia đình tăng
0,11%. Tuy nhiên, giá xăng dầu liên tục giảm không chỉ khiến chi phí vận chuyển

giảm theo, mà còn khiến tâm lý của người bán không thể đẩy giá lên quá cao. Do
vậy, giá các mặt hàng thực phẩm chỉ tăng nhẹ 0,42% so với tháng trước. Trong số
các địa phương được chọn để công bố, duy nhất CPI của Đà Nẵng tăng 0,05%, còn
lại các tỉnh khác đều giảm so với tháng trước.
12


Cũng theo Tổng cục Thống kê, lần đầu tiên trong 18 năm qua, chỉ số giá tiêu dùng
(CPI) tháng 2 lại giảm. Cụ thể, CPI tháng 2/2015 giảm 0,05% so với tháng trước và
giảm 0,25% so với tháng 12/2014, dù vẫn tăng 0,34% so cùng kỳ năm trước. Trong
11 nhóm hàng hóa và dịch vụ chính, có 3 nhóm chỉ số giảm giá. Chịu tác động mạnh
nhất từ do giá xăng, dầu được điều chỉnh giảm vào ngày 21/1, nhóm giao thông giảm
giá mạnh nhất với mức giảm 4,41%. Với mức giảm này, nhóm giao thông đóng góp
0,39% vào mức giảm chung của CPI cả tháng. Nhóm nhà ở vật liệu xây dựng giảm
0,41%. Chỉ số giá nhóm hàng này giảm chủ yếu ở một số mặt hàng. Nhóm bưu chính
viễn thông giảm 0,02%. Chỉ số giá thuộc nhóm thuốc và dịch vụ y tế, nhóm giáo dục
và nhóm văn hóa, giải trí và du lịch gần như không tăng. Ở chiều ngược lại, với nhu
cầu tăng ở dịp Tết Nguyên đán nên một số nhóm hàng hóa tăng giá nhưng mức tăng
không đáng kể. Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,53%. Nhu cầu của các mặt
hàng lương thực, thực phẩm tăng lên, nhưng do giá xăng dầu giảm mạnh, giá cước
vận tải giảm theo nên giá lương thực, thực phẩm không tăng cao. Chỉ số giá nhóm
hàng ăn và dịch vụ ăn uống tháng 2/2015 (nhóm chiếm tỷ trọng lớn nhất trong 11
nhóm hàng chính) chỉ tăng 0,53% so với tháng trước, thấp hơn nhiều so với tháng 2
của những năm trước.
Như vậy có thể thấy rằng chỉ số giá tiêu dùng CPI của Việt Nam đã biến động cùng
chiều với giá xăng dầu thế giới. Khi chỉ số giá tiêu dùng giảm nghĩa là mức giá trung
bình giảm. Kết quả là người tiêu dùng sẽ chi ra ít tiền hơn để có thể mua được một
lượng hàng hóa và dịch vụ như cũ nhằm duy trì mức sống trước đó của họ.
b. Sự thay đổi của tiêu dùng:


Chỉ số giá tiêu dùng CPI thay đổi sẽ kéo theo sự thay đổi trong tiêu dùng của người
dân. Đó là những khoản chỉ cho tiêu dùng cá nhân (Personal consumptio
expenditures) của các hộ gia đình về hàng hóa và dịch vụ.

Hàm tiêu dùng của một hộ gia đình
Nhân tố quan trọng nhất quyết định tiêu dùng là thu nhập. Tính trung bình, các gia
đình có thu nhập cao hơn tiêu dùng nhiều hơn. Chúng ta sẽ xem xét mỗi quan hệ giữa
tổng tiêu dùng và tổng thu nhập. Tổng tiêu dùng ở đây được hiểu là tổng tiêu dùng
của tất cả các hộ gia đình trong nền kinh tế. Thước đo thu nhập ở đây chính là thu
nhập khả dụng, tức là phần thu nhập còn lại sau khi các hộ gia đình nộp thuế. Hàm
tiêu dùng của nền kinh tế có thể được viết dưới dạng toán học như sau:
,
trong đó C là tiêu dùng, a là tiêu dùng tự định, MPC là xu hướng tiêu dùng cận biên
và là thu nhập khả dụng.

13


Quay trở lại với bài toán giá dầu giảm, việc giá cả trung bình của các mặt hàng giảm,
trong khi thu nhập của các hộ gia đình giữ nguyên, đã làm cho thu nhập khả dụng
của người tiêu dùng tăng lên một cách tương đối. Xét trong tổng thể nền kinh tế, thu
nhập khả dụng của cả nền kinh tế sẽ tăng lên và làm tăng tổng tiêu dùng của các hộ
gia đình. Trên thực tế, chi phí đi lại của người dân đã giảm đáng kể khi giá xăng chỉ
còn gần 16.000 đồng/lít thay vì 25.000 đồng/lít như trước kia. Người tiêu dùng chỉ
cần bỏ ra ít tiền hơn để phục vụ cho đi lại và gia tăng tiêu dùng các mặt hàng khác.

4. Đánh giá chung về tác động của giá dầu giảm tới tăng trưởng kinh tế Việt Nam:

Việc giá dầu giảm có thể ảnh hưởng tiêu cực đối với nền kinh tế Việt Nam, tuy nhiên
nhìn vào những so sánh trong quá khứ, câu trả lời cho triển vọng của nền kinh tế

trong năm nay là khả quan.
Giá dầu giảm có cả ảnh hưởng tích cực và tiêu cực. Trích dẫn hai nghiên cứu của Bộ
Kế hoạch và Đầu tư khi nói về giá dầu: “Giảm giá dầu làm giảm GDP nhưng khi giá
dầu giảm kéo theo giá xăng giảm thì GDP lại tăng. Theo mô hình AS- AD: kết cục là
giá giảm nhưng sản lượng thì chưa biết. Muốn sản lượng tăng thì việc định giá các
doanh nghiệp phải theo cơ chế thị trường và có sự kiểm soát của chính phủ (chi phí
giảm phải giảm giá).
Trong đợt giảm của giá dầu vào năm 2008, ngoại trừ hai chỉ tiêu tăng trưởng GDP và
SXCN (đặc biệt là hoạt động khai thác dầu thô) kém khả quan do nền kinh tế thời kỳ
này đang trong giai đoạn suy thoái, các chỉ tiêu khác đều ghi nhận mức cải thiện khả
quan trong năm 2009. Giá xăng trong nước, được phản ánh trong CPI, trong giai
đoạn này cũng có tỷ lệ giảm khá tương quan với giá dầu, tương ứng khoảng ~
14


24,14% vào năm 2009. Do đó, lạm phát trong giai đoạn này cũng có mức giảm khá
mạnh, tương ứng ~ 6,88% trong năm 2009 (so với mức tăng ~22,97% của năm
2008). Bên cạnh đó, các yếu tố vĩ mô như thâm hụt NSNN, cán cân thương mại và
chỉ số nợ chính phủ/GDP của Việt Nam đều cải thiện tích cực sau thời điểm giá dầu
giảm mạnh. Tuy nhiên, điểm khác biệt năm 2009 là năm đầu tiên Chính phủ bung
mạnh “gói kích cầu”, ~150.000 tỷ đồng, đi cùng với chính sách hỗ trợ lãi suất ~4%.
Trong khi đó, năm 2015, có chăng là năm lãi suất tiếp tục giảm nhưng dư địa giảm sẽ
không quá mạnh như năm trước.

So sánh các chỉ tiSố liệu kinh tế vĩ mô trong hai đợt giảm giá dầu.
Nguồn: GSO, RongViet tổng hợp
Theo Goldman Sachs, đợt giảm giá dầu lần này chủ yếu do ảnh hưởng bởi yếu tố
cung của thị trường hơn là liên quan đến suy thoái kinh tế như đã diễn ra trong năm
2008. Hiện nay, đà giảm của giá dầu vẫn chưa có nhiều dấu hiệu chững lại và theo
nhận định của tổ chức này sẽ khó tăng trong ngắn hạn. Nỗi lo sợ về việc giá dầu

giảm có thể ảnh hưởng tiêu cực đối với nền kinh tế Việt Nam, tuy vậy nhìn vào
những so sánh trong quá khứ, câu trả lời cho triển vọng của nền kinh tế trong năm
nay theo đánh giá của các chuyên gia là khả quan.
Thuận lợi không ít song đà phục hồi của kinh tế rất có thể bị cản trở, bởi nguy cơ
giảm phát đang tiềm ẩn. Việc giá dầu giảm mạnh đang gây ra nguy cơ giảm phát tại
Việt Nam, dù chưa lớn tại thời điểm gần dịp Tết Nguyên đán, khi giá cả các mặt
hàng đều có xu hướng tăng và sự sụt giảm của giá dầu gần như đã phản ánh hết vào
mặt bằng giá chung. Tuy nhiên, giảm phát có khả năng diễn ra trong quý 2/2015 khi
giá cả thế giới cũng chịu áp lực giảm lớn nếu giá dầu tiếp tục giảm.
15


Hiện tại, xu hướng giá dầu thế giới rất bất định do bị chi phối bởi cả yếu tố kinh tế và
chính trị. Những người xây dựng báo cáo cho rằng xu hướng giảm giá dầu có khả
năng tiếp diễn khi sản lượng khai thác tăng mạnh vào mùa xuân tới và đặc biệt là khi
quan hệ Nga - Mỹ trở nên căng thẳng hơn. Trong trường hợp này, nguy cơ giảm phát
sẽ gia tăng trên quy mô toàn cầu, do mức giá cả thế giới đã có xu hướng giảm từ năm
2014 và hiện tại, các nền kinh tế lớn như EU và Nhật đã đang đứng trước rủi ro rơi
vào thời kỳ giảm phát. Giá cả hàng hóa thế giới giảm sẽ ảnh hưởng tới hoạt động
xuất khẩu của Việt Nam, và nguy cơ giảm phát xảy ra tại Việt Nam cũng lớn hơn.

CHƯƠNG 3. PHẢN ỨNG CHÍNH SÁCH TRƯỚC XU HƯỚNG GIÁ DẦU GIẢM Ở VIỆT
NAM
Trước diễn biến phức tạp của giá dầu thế giới, những chính sách, phản ứng của chính
phủ có tác động rất lớn đến tình hình kinh tế của đất nước. Vì vậy Chính phủ đã
thành lập Tổ điều phối trong quản lý và điều hành kinh tế vĩ mô, với sự tham gia của
4 bộ ngành (Bộ KH&ĐT, Tài chính, Công Thương và Ngân hàng Nhà nước). Tổ
16



điều phối sẽ bàn thảo những kịch bản kinh tế; để khi kinh tế thế giới biến động mạnh
ta có giải pháp ứng phó kịp thời và hiệu quả để ít tác hại nhất. Các chính sách đúng
đắn sẽ giúp hạn chế tối đa tác động tiêu cực mà giá dầu thô thế giới mang lại cho
ngân sách nhà nước, các doanh nghiệp cũng như cuộc sống của các hộ dân.
1. Đối phó với nguy cơ giảm thu ngân sách Nhà nước:
a. Tính toán lại chi tiêu ngân sách

Áp lực thu ngân sách trước tình hình giá dầu thô giảm sâu là một vấn đề không hề
đơn giản. Ngay trước Tết Nguyên đán, khi thời điểm giá dầu giảm sâu, bốn bộ ngành gồm Tài chính, Công Thương, Kế hoạch và Đầu tư, Ngân hàng Nhà nước đã
họp bàn để tính kế đối phó. Ngay những ngày đầu năm mới 2015, trước tình trạng giá
dầu thô tiếp tục sụt giảm mạnh, Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng cho biết,
ngoài việc chủ động triển khai các giải pháp tăng cường quản lý thu NSNN, quyết
liệt chống thất thu và xử lý nợ đọng, thì điều chỉnh thuế suất thuế nhập khẩu các mặt
hàng xăng, dầu hỏa từ 26-27% lên 35%; nhiên liệu diesel, dầu mazut từ 24-26% lên
30% là một trong những biện pháp để ứng phó. Trước việc còn nhiều khó khăn,
thách thức, ảnh hưởng lớn đến NSNN như: Sản xuất kinh doanh phục hồi chậm; áp
lực của việc tham gia các hiệp định thương mại tự do ảnh hưởng đến các ngành sản
xuất trong nước; đặc biệt là dự báo giảm thu lớn do giá dầu thế giới đang giảm mạnh,
Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng cho biết, năm 2015 sẽ tăng cường công tác quản lý thu,
chống thất thu, buôn lậu, gian lận thương mại, chuyển giá, trốn thuế; tăng cường
thanh tra, kiểm tra thuế, kiểm tra, rà soát chi phí của doanh nghiệp; chủ động các
phương án điều hành, đảm bảo cân đối NSNN… Cùng với đó là việc tăng cường kỷ
cương, kỷ luật tài chính đồng thời thực hiện tiết kiệm 10% chi thường xuyên ngoài
lương của các cơ quan, đơn vị; cắt giảm tối đa kinh phí tổ chức hội nghị hội thảo, chi
lễ hội, lễ kỷ niệm, đi công tác nước ngoài; không mua xe công.
b. Điều chỉnh tăng thuế bảo vệ môi trường đối với xăng dầu:

Theo cam kết tại Hiệp định thương mại tự do trong nội khối ASEAN (Hiệp định
ATIGA), Hiệp định thương mại hàng hóa ASEAN-Trung Quốc (Hiệp định ACFTA)
và Hiệp định thương mại hàng hóa ASEAN-Hàn Quốc (Hiệp định AKFTA), Việt

Nam phải thực hiện Lộ trình cắt giảm mức thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt đối với các
mặt hàng xăng dầu. Với Lộ trình cắt giảm mức thuế nhập khẩu xăng dầu ưu đãi đặc
biệt theo Hiệp định ATIGA, Hiệp định ACFTA và Hiệp định AKFTA thì chênh lệch
giữa mức thuế nhập khẩu tối huệ quốc (mức thuế MFN) hiện hành với mức thuế
nhập khẩu theo các Hiệp định nêu trên là từ 5%-35% tuỳ chủng loại và khoảng cách
này ngày càng tăng vào các năm tiếp theo.
Như vậy, cùng một mặt hàng (xăng dầu) sẽ có nhiều mức thuế nhập khẩu khác nhau
(MFN, ATIGA, ACFTA, AKFTA), dẫn đến rủi ro về ngân sách nhà nước, cũng như
rủi ro cho cả kinh tế trong nước khi các nước xuất khẩu tăng giá bán xăng dầu. Để
thống nhất mức thuế nhập khẩu đối với xăng dầu thì cần phải điều chỉnh mức thuế
MFN bằng mức thuế ưu đãi nhất theo các cam kết quốc tế (mức thuế ATIGA). Điều
này chắc chắn sẽ tác động làm giảm thu ngân sách nhà nước.
17


Mặt khác, kể từ quý III/2014 đến nay, giá dầu liên tục giảm mạnh và duy trì ở mức
thấp. Để ứng phó với tình hình giá dầu giảm và duy trì ở mức thấp, nhiều nước đã
nghiên cứu điều chỉnh chính sách thuế theo hướng tăng và mở rộng đối tượng để đảm
bảo nguồn thu cho ngân sách nhà nước.
Như vậy, cùng với việc giảm thuế nhập khẩu xăng dầu, để ứng phó với tình hình giá
dầu giảm và duy trì ở mức thấp; đồng thời để tạo chênh lệch giữa giá bán xăng E5 và
xăng khoáng, từ đó khuyến khích người dân sử dụng nhiên liệu sinh học; ngày
10/3/2015, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã biểu quyết thông qua Nghị quyết sửa đổi,
bổ sung Nghị quyết số 1269/2011/UBTVQH12 ngày 14/7/2011 của Ủy ban thường
vụ Quốc hội về biểu thuế bảo vệ môi trường, trong đó đề nghị điều chỉnh mức thuế
bảo vệ môi trường đối với xăng dầu, như sau: Tăng mức thuế bảo vệ môi trường đối
với xăng từ 1.000 đồng/lít lên 3.000 đồng/lít; Nhiên liệu bay tăng từ 1.000 đồng/lít
lên 3.000 đồng/lít; Dầu diezel: tăng từ 500 đồng/lít lên 1.500 đồng/lít; Dầu mazut,
dầu nhờn: tăng từ 300 đồng/lít lên 900 đồng/lít; Mỡ nhờn: tăng từ 300 đồng/kg lên
900 đồng/kg. Dự kiến Nghị quyết có hiệu lực thi hành từ ngày 01/5/2015.

Việc điều chỉnh tăng thuế bảo vệ môi trường như trên sẽ không làm tăng giá xăng,
dầu trong nước khi cùng một mặt bằng giá xăng dầu thế giới, cơ cấu thuế trong giá
xăng, dầu không tăng mà còn giảm (mức tăng thuế bảo vệ môi trường như trên vẫn
thấp hơn mức thuế nhập khẩu giảm do thực hiện theo các cam kết quốc tế). Hơn nữa,
việc tăng thuế bảo vệ môi trường đối với xăng dầu là phù hợp với mục tiêu đánh vào
hàng hóa gây ảnh hưởng xấu đến môi trường của thuế bảo vệ môi trường (xăng dầu
là sản phẩm chứa các chất hóa học, gây ảnh hưởng xấu đến môi trường ở diện rộng,
do đó, cần quy định mức thuế cao đối với xăng dầu - trước đây, Nghị quyết số
1269/2011/UBTVQH12 chỉ quy định mức thuế bảo vệ môi trường đối với xăng dầu
ở mức tối thiểu trong khung thuế suất và bằng mức phí xăng dầu là để không gây xáo
trộn trong việc quản lý thu khi chuyển từ phí xăng dầu sang thuế BVMT đối với xăng
dầu).
Trên cơ sở mức thuế bảo vệ môi trường đối với xăng dầu đã được Ủy ban thường vụ
Quốc hội thông qua, Bộ Tài chính sẽ thực hiện điều hành chính sách thuế nhập khẩu
xăng dầu phù hợp để người dân được hưởng lợi khi giá xăng dầu thế giới giảm.
Nếu cộng thêm cả thuế bảo vệ môi trường đối với xăng tăng thêm (2.000 đồng/lít) thì
giá xăng Ron 92 của Việt Nam vẫn thấp hơn giá xăng Ron 92 của một số nước trong
khu vực (thấp hơn Campuchia: 4.198 đồng/lít; Lào: 5.290 đồng/lít; Trung Quốc: 918
đồng/lít; thấp hơn Thái Lan: 2.045 đồng/lít tại thời điểm ngày 10/03/2015.

2. Ổn định hoạt động xuất khẩu và tiêu thụ dầu mỏ:

Trong chiến lược ứng phó với sự lao dốc của giá dầu, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng
đã chỉ đạo Bộ Công Thương phải tính toán lại giá thành của từng mỏ dầu tại Việt
Nam, xem xét những mỏ nào có giá thành cao, mỏ nào có giá thành thấp. Trên cơ sở
đó, Bộ này sẽ phải tính toán lại cơ cấu khai thác dầu thô.
18


Xem xét giá dầu giảm tác động ở các lĩnh vực, đầu tiên là tác động trực tiếp đến khai

thác, xuất khẩu dầu mỏ. Nếu 60 USD/1 thùng thì sản xuất, xuất khẩu giảm nhưng
không đáng kể, sẽ chỉ phải xem xét tiết giảm sản lượng tại các lô có giá sản xuất cao.
Nếu 50 USD/1 thùng thì sẽ giảm khai thác nhiều hơn. Nếu ở mức 40 USD/1 thùng
thì sẽ giảm 1,8 đến 2 triệu tấn dầu khai thác. Kế hoạch năm nay của Bộ Công
Thương phải sản xuất và xuất khẩu 14,74 triệu tấn trong năm nay. Nếu các kịch bản
này diễn ra, Tổ công tác đang phân tích đánh giá, nếu giá dầu bình quân 50-60 USD/
1 thùng thì không gây nhiều xáo trộn đến sản xuất và tiêu thụ dầu của Việt Nam.
Mặc dù ảnh hưởng lĩnh vực khác nhưng không tác động nhiều lắm về mặt sản xuất.
Giá xuống 40 USD/1 thùng sẽ có nhiều ảnh hưởng xáo trộn. Đồng thời ảnh hưởng cả
đến những dự án mới đang dự kiến đầu tư.
Ngày 16/01/2015, Tập đoàn PVN cho biết đã cắt giảm sản lượng khai thác dầu thô
năm nay khoảng 500.000 tấn so với năm 2014.
Dự kiến, 4 mỏ có giá thành cao trong khoảng 60-70 USD/thùng sẽ được PVN tạm
thời giãn, dừng khai thác. Tổng sản lượng khai thác ở 4 mỏ này khoảng 450.000 tấn,
là những mỏ đa khai thác gần hết, hiện chỉ là tận thu. Phó Thủ tướng Hoàng Trung
Hải trước đó cũng đã đồng ý với việc tạm dừng, giãn hoãn những công trình khai
thác dầu khí chưa cấp bách, nhưng đồng thời yêu cầu PVN không được hoãn công
tác thăm dò, tìm kiếm dầu khí.

3. Quản lý giá cước vận tải:

Trước tình hình giá xăng dầu liên tục giảm trong thời gian vừa qua, Bộ Tài chính và
Bộ Giao thông Vận tải đã có công văn số 16176/BTCT-QLG ngày 6/11/2014 và
công văn số 14185/BGTVT-VT ngày 07/11/2014 gửi Ủy ban nhân dân các tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương đề nghị tiếp tục tăng cường công tác quản lý giá trên
địa bàn, trong đó đề nghị các địa phương kiểm tra, rà soát, yêu cầu doanh nghiệp kê
khai giảm giá cước vận tải ô tô phù hợp với biến động giảm của chi phí nhiên liệu;
đồng thời, Liên bộ cũng thành lập đoàn công tác liên ngành làm việc tại một số địa
phương về nội dung trên.
Đến nay, nhiều doanh nghiệp vận tải bằng xe ô tô đã thực hiện giảm giá cước vận tải

và kê khai lại giá với Sở Tài chính và Sở Giao thông Vận tải địa phương. Tuy nhiên,
qua theo dõi cho thấy đến thời điểm hiện tại vẫn còn nhiều doanh nghiệp kinh doanh
vận tải ô tô chưa thực hiện kê khai giảm cước trong khi giá xăng dầu tiếp tục được
điều chỉnh giảm sâu thêm 02 đợt trong tháng 11/2014.
Bên cạnh đó, kể từ ngày 01/12/2014 Thông tư liên tịch số 152/2014/TTLT-BTCBGTVT (thay thế Thông tư liên tịch số 129/2010/TTLT-BTC-BGTVT ngày
27/8/2010) hướng dẫn thực hiện giá cước vận tải bằng xe ô tô và giá dịch vụ hỗ trợ
vận tải đường bộ có hiệu lực thi hành.
19


Để tiếp tục tăng cường công tác quản lý giá cước vận tải bằng xe ô tô bảo đảm giá
cước vận tải ô tô vận động phù hợp với biến động của chi phí nhiên liệu và các yếu
tố đầu vào trong giá thành vận tải; đồng thời để triển khai thực hiện có hiệu quả
Thông tư Liên tịch số 152/2014/TTLT-BTC-BGTVT, Bộ Tài chính yêu cầu Sở Tài
chính, phối hợp với Sở Giao thông Vận tải triển khai một số nội dung sau:
1. Tiếp tục kiểm tra, giám sát việc thực hiện kê khai giảm giá cước vận tải bằng
xe ô tô phù hợp với biến động giảm của giá xăng dầu:
Sở Tài chính phối hợp với Sở Giao thông Vận tải và các cơ quan liên quan tiếp
tục tổ chức triển khai thực hiện chỉ đạo của Bộ Tài chính và Bộ Giao thông Vận tải
tại công văn số 16176/BTC-QLG ngày 06/11/2014 và công văn số 14185/BGTVTVT ngày 07/11/2014 nêu trên, trong đó chú trọng việc tiếp tục tăng cường công tác
kiểm tra, giám sát việc thực hiện kê khai giảm giá cước vận tải ô tô; đôn đốc, yêu cầu
các doanh nghiệp vận tải ô tô kịp thời tính toán lại giá thành, kê khai lại giá cước vận
tải phù hợp với tác động giảm của giá xăng dầu vào giá cước vận tải thời gian vừa
qua.
Trường hợp cần thiết, Sở Tài chính phối hợp với Sở Giao thông vận tải tham
mưu cho Ủy ban nhân dân tỉnh thành lập đoàn kiểm tra liên ngành tổ chức thanh tra,
kiểm tra chấp hành pháp luật về giá (trong đó chú trọng kiểm tra việc thực hiện kê
khai, niêm yết giá; kiểm tra yếu tố hình thành giá), kết hợp với thanh tra chấp hành
pháp luật về thuế đối với doanh nghiệp vận tải ô tô trên địa bàn; xử lý nghiêm các
hành vi vi phạm theo quy định của pháp luật và công bố công khai trên các phương

tiện thông tin đại chúng.
Diễn biến tình hình giảm giá cước và kết quả thanh tra, kiểm tra giá cước vận
tải đề nghị Sở Tài chính tổng hợp báo cáo về Bộ Tài chính (Cục Quản lý giá) trước
ngày 15/12/2014; đồng thời định kỳ tiếp tục cập nhật tình hình báo cáo về Cục Quản
lý giá trong báo cáo giá cả thị trường theo quy định.
2. Triển khai, hướng dẫn thực hiện Thông tư liên tịch số 152/2014/TTLTBTC-BGTVT, Sở Tài chính chủ trì, phối hợp với Sở Giao thông Vận tải tham mưu
trình Ủy ban Nhân dân cấp tỉnh:
- Xem xét bổ sung dịch vụ kinh doanh vận tải (kinh doanh vận tải bằng hợp đồng,
kinh doanh vận chuyển khách du lịch bằng xe ô tô, kinh doanh vận tải hàng hóa bằng
xe ô tô), dịch vụ hỗ trợ vận tải vào danh mục dịch vụ thực hiện kê khai giá tại địa
phương nếu thấy cần thiết trên cơ sở tình hình thực tế tại địa phương (đặc biệt tại một
số địa phương lớn có thị trường vận tải sôi động và có ảnh hưởng đến các địa phương
khác);
- Thông báo danh sách các đơn vị kinh doanh vận tải thực hiện kê khai giá cước vận
tải ô tô trên địa bàn địa phương; phân công cơ quan chủ trì tiếp nhận văn bản kê khai
giá của các đơn vị thuộc danh sách các đơn vị thực hiện kê khai giá trên địa bàn tỉnh,
đơn vị có trụ sở hoặc chi nhánh hạch toán độc lập trên địa bàn tỉnh;
20


- Hướng dẫn, giám sát việc thực hiện kê khai giá cước vận tải bằng xe ô tô, giá dịch
vụ hỗ trợ vận tải đường bộ trên địa bàn theo quy định của pháp luật; kiên quyết dừng
các trường hợp kê khai giá không phù hợp với tác động của yếu tố hình thành giá, xử
lý nghiêm các trường hợp chậm giảm giá cước khi giá nhiên liệu giảm sâu;
- Tiếp tục tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra việc chấp hành pháp luật về giá và
về thuế trên địa bàn đối với hàng hóa dịch vụ quan trọng thiết yếu nói chung, giá
cước vận tải ô tô nói riêng.
Bộ Tài chính yêu cầu Sở Tài chính phối hợp với Sở Giao thông Vận tải quan tâm,
triển khai thực hiện quyết liệt các nội dung nêu trên.


KẾT LUẬN
Từ những lập luận và số liệu trên, có thể thấy việc giá dầu giảm xuất phát từ nhiều nguyên nhân
khác nhau cả về chính trị và kinh tế. Biến động mạnh về giá dầu có tác động sâu rộng tới nền
kinh tế của nhiều quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam.
Giá dầu giảm đã trực tiếp tác động tới giá xăng dầu trong nước, tạo ra nguy cơ giảm thu cho
ngân sách nhà nước, tác động tới tăng trưởng kinh tế. Đồng thời, các doanh nghiệp khai thác và
xuất khẩu dầu mỏ cũng chịu ảnh hưởn nặng nề, có thể dẫn tới thua lỗ. Tuy nhiên, việc giá dầu
giảm sẽ khiến chi phí sản xuất giảm, khuyến khích doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. Giá xăng
dầu nói riêng và giá hàng hóa nói chung giảm sẽ khuyến khích tiêu dùng. Nhìn chung hiện tượng
này có tác động nhiều chiều tới nền kinh tế nước ta.
21


Trước những diễn biến phức tạp của giá dầu thế giới, chính phủ đã có những điều chỉnh kịp thời
để đối phó với những tình huống xấu nhất có thể xảy ra. Chúng ta đã biết phối hợp giữa các bộ
ban ngành để cùng nhau đề ra biện pháp giải quyết, khiến cho các chính sách vĩ mô có hiệu quả
và thực tế hơn, đa chiều hơn. Các chính sách này bước đầu đã đem lại những kết quả tích cực,
xong vẫn cần thận trọng và tiếp tục thay đổi cho phù hợp.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Nguyên lý kinh tế vĩ mô, Đại học Kinh tế quốc dân.
2. Công văn số 1769/BTC-QLG V/v tiếp tục quản lý giá cước vận tải bằng xe ô tô trên địa
3.
4.
5.
6.
7.

bàn và triển khai thực hiện TTLT 152/2014/TTLT/BTC-BGTVT.
/> /> /> /> />22



8. />
20150224101734615.htm
9. />11.
12.
13.

toi-nen-kinh-te-viet-nam.htm
/> />p_page_id=2202237&pers_id=2177082&item_id=165154321&p_details=1
/>p_page_id=2202237&pers_id=2177082&item_id=163525589&p_details=1
/>
23



×