Hội thảo Truyền thông nông nghiệp thông minh với Biến đổi khí hậu
và Phát triển nông nghiệp Tây Nguyên bền vững 01/2016
1
Hội thảo Truyền thông nông nghiệp thông minh với Biến đổi khí hậu
và Phát triển nông nghiệp Tây Nguyên bền vững 01/2016
MỤC LỤC
1. Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến sản xuất nông nghiệp vùng Tây Nguyên – Một
số giải pháp thích ứng và giảm nhẹ…………………………………………………... 2
2. Biến đổi khí hậu – Giải pháp giảm thiểu, ứng phó và phát triển nông nghiệp bền
vững tại Gia Lai……………………………………………………………………… 12
3. Công nghệ và thiết bị thời tiết thông minh iMetos ứng phó biến đổi khí hậu, phục vụ
canh tác cây hồ tiêu bền vững……………………………………………………….. 25
4. Dịch vụ truyền thông nông nghiệp đa phương tiện AgriMedia: Phục vụ nhà nông và
doanh nghiệp………………………………………………………………………… 42
5. Slide giới thiệu tại hội thảo………………………………………...……………… 47
2
Hội thảo Truyền thông nông nghiệp thông minh với Biến đổi khí hậu
và Phát triển nông nghiệp Tây Nguyên bền vững 01/2016
ẢNH HƯỞNG CỦA BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU ĐẾN SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP
VÙNG TÂY NGUYÊN - MỘT SỐ GIẢI PHÁP THÍCH ỨNG VÀ GIẢM NHẸ
Trương Hồng - Viện Khoa học Kỹ thuật Nông lâm nghiệp Tây Nguyên - WASI
1. Giới thiệu
Biến đổi khí hậu (BĐKH) là những thay đổi theo thời gian của các yếu tố khí
hậu, trong đó bao gồm cả những hoạt động do con người gây ra. Hiện nay BĐKH đã
và đang gây ra tác động xấu đến môi trường và sản xuất nông nghiệp của con người.
Theo dự báo của các nhà khoa học nếu như tình hình phát thải khí nhà kính
không giảm thì vào năm 2030 nồng độ của khí CO2 trong khí quyển sẽ tăng gấp đôi so
với thời kỳ tiền công nghiệp, khoảng 700 ppm. Hiệu ứng nhà kính làm nhiệt độ trái đất
tăng lên kéo theo hàng loạt các yếu tố khí hậu khác như: lượng mưa, độ ẩm, bức xạ…
thay đổi theo. Tần suất và cường độ hiện tượng El – Nino tăng đáng kể, gây lũ lụt và
hạn hán ở các vùng nhiệt đới và á nhiệt đới. Mưa trở nên thất thường hơn, cường độ
thay đổi.
Theo nghiên cứu của Ngân hàng thế giới (WB), Việt Nam được xem là một
trong những nước sẽ bị ảnh hưởng nặng do biến đổi khí hậu toàn cầu. BĐKH sẽ làm
hạn hán xảy ra hàng năm ở hầu hết các khu vực của cả nước. Nhiệt độ trung bình năm
tăng khoảng 0,10oC/thập kỷ. Nhiệt độ tăng và lượng mưa thay đổi sẽ ảnh hưởng đến
sản xuất nông nghiệp và nguồn nước. Mực nước biển có khả năng dâng cao 1m vào
cuối thế kỷ, lúc đó Việt Nam sẽ mất hơn 12% diện tích đất đai, nơi cư trú của 23% số
dân. BĐKH làm gia tăng nhiệt độ, do vậy sẽ làm tăng mực nước biển. Khi mực nước
biển dâng từ 0,2 - 0,6m sẽ có từ 100.000 - 200.000ha đất bị ngập, làm thu hẹp diện tích
đất sản xuất nông nghiệp. Hiện tượng xâm ngập mặn sẽ tăng lên đáng kể.
Bộ Tài nguyên - Môi trường thông báo: trong thập kỷ tới, khoảng từ năm 20102020, nhiệt độ trung bình của Việt Nam sẽ tăng không dưới 1,5 độ C; số trận lũ lụt trên
cả nước sẽ tăng khoảng 20%. Chương trình Phát triển Liên hiệp Quốc (UNDP) cũng
cảnh báo: mực nước biển chỉ cần tăng lên 1m thì Việt Nam sẽ bị tác động tới 12,2 %
diện tích đất đai; 19 % tổng dân số (17 triệu người); 7% nông nghiệp; giảm 10% GDP.
BĐKH làm thay đổi điều kiện sống của các loài sinh vật, phá vỡ cân bằng sinh
thái, làm biến mất đi một số loài và nguy cơ xuất hiện nhiều loại bệnh dịch mới trong
sản xuất nông nghiệp. BĐKH tác động đến thời vụ, làm thay đổi cấu trúc mùa vụ, tác
động xấu đến chăn nuôi, trồng trọt… cụ thể tác động đến sinh trưởng, năng suất cây
trồng, thời vụ gieo trồng và sự chuyển dịch về cơ cấu cây trồng, vật nuôi và diện tích
3
Hội thảo Truyền thông nông nghiệp thông minh với Biến đổi khí hậu
và Phát triển nông nghiệp Tây Nguyên bền vững 01/2016
cây trồng. BĐKH cũng làm tăng nguy cơ lây lan sâu bệnh hại cây trồng, ảnh hưởng
đến sinh sản, sinh trưởng của gia súc, gia cầm. Nhiệt độ và lượng bốc hơi tăng cùng
với hạn hán kéo dài sẽ tác động mạnh đến hệ sinh thái, đặc biệt hiện tượng cháy rừng
sẽ xảy ra nhiều hơn và làm suy giảm đa dạng sinh học.
2. Biến đổi khí hậu đã và đang làm tăng nhiệt độ và suy giảm nguồn tài nguyên
nước ở Tây Nguyên
2.1. BĐKH làm tăng nhiệt độ ở Tây Nguyên
Liên Hiệp Quốc dự báo BĐKH sẽ làm cho nhiệt độ tăng 2,39 oC vào năm 2100. Số
ngày nóng ở Tây Nguyên dự báo sẽ tăng lên 134 vào năm 2050 và 230 vào năm 2100.
Các nhà khoa học sử dụng số liệu quan trắc từ 30 năm đến 33 năm (1979 -2008)
để so sánh, đánh giá so với thập niên 1979 -1988, đã nhận thấy rằng nhiệt độ không
khí trung bình thập niên 1999 - 2008 cao hơn rõ rệt, nhất là vào các tháng mùa Đông
và trên độ cao từ 100 mét đến 800 mét. Nhiệt độ trung bình năm phổ biến cao hơn
từ 0,5oC đến 0,8oC; riêng Kon Tum, cao hơn 1oC. Trong khi đó nhiệt độ trung bình
năm ở Việt Nam tăng khoảng 0,5oC đến 0,7oC. Nhiệt độ trung bình các tháng mùa
Đông cao hơn hẳn so với các thời kỳ khác, tiêu biểu là tháng 1, phổ biến cao hơn từ
0,8oC đến 1,5oC, cá biệt có trạm ở Kon Tum cao hơn 1,7oC. Trong 3 tháng chính
Đông, nhiệt độ trung bình phổ biến cao hơn từ 0,8oC đến 1,4oC; riêng thành phố Pleiku
cao hơn 1,76oC; trong các tháng mùa hè, nhiệt độ trung bình phổ biến cao hơn 0,23 oC
đến 0,7oC. Điều này khẳng định sự tăng của nhiệt độ xảy ra ở tất cả các trạm quan trắc
và nhiệt độ mùa Đông tăng nhanh hơn mùa Hè rõ rệt.
Theo kịch bản về BĐKH của Bộ tài nguyên Môi trường năm 2009 thì Tây
Nguyên vào năm 2100, nhiệt độ sẽ tăng lên khoảng 2,39oC; thấp nhất trong 7 vùng
sinh thái của cả nước.
Kịch bản BĐKH các vùng của Việt Nam
(nhiệt độ tăng thêm 0C so với năm 1990)
Năm
Tây
Bắc
Đông
Bắc
Đồng
bằng
BB
Bắc
Trung
Bộ
Nam
Trung
Bộ
Tây
nguyên
Nam
Bộ
2050
1,41
1,66
1,44
1,68
1,13
1,01
1,21
2100
3,49
4,38
3,71
3,88
2,77
2,39
2,80
Nguồn: Bộ Tài Nguyên Môi trường, 2009
4
Hội thảo Truyền thông nông nghiệp thông minh với Biến đổi khí hậu
và Phát triển nông nghiệp Tây Nguyên bền vững 01/2016
Trong điều kiện El Nino, nhiệt độ trung bình các tháng ở hầu hết các vùng trong cả
nước có xu hướng cao hơn TBNN và xuất hiện nhiều hơn các kỷ lục về nắng nóng so
với những năm trung tính hay La Nina. Trong năm 2015, do tác động của El Nino,
Việt Nam đã xảy ra 14 đợt nắng nóng diện rộng ở miền Trung, Tây Nguyên và Nam
Bộ từ tháng 5 đến tháng 9 và nhiệt độ cao hơn trung bình nhiều năm từ 0,5 - 1o C.
Trong những năm El Nino, đặc biệt là năm 2015, 2016 d ng chảy năm ở các sông
thuộc Tây Nguyên nhỏ hơn TBNN từ 10% trở lên, có thể hụt tới 50-60%. Lượng dòng
chảy tháng nhỏ nhất ở hầu hết các trạm đều nhỏ hơn trị số trung bình nhiều năm và đạt
khoảng 6070%. Dòng chảy mùa lũ trong những năm El Nino thường nhỏ hơn trung
bình nhiều năm và thường đạt 65 - 90% dòng chảy năm.
2.2. BĐKH làm cho nguồn tài nguyên nước suy giảm
Tài nguyên nước mặt trên các sông suối điển hình ở lưu vực Tây Nguyên như
Sê San, Sê rê pốk, sông Ba và Đồng Nai đã kiệt dần từ lưu lượng 173.863l/s của những
năm 2004-2005 xuống c n trên dưới 125.000l/s hiện nay.
Sự phân bổ không đồng đều của lượng mưa theo không gian và thời gian, nơi
có lượng mưa hằng năm lớn hơn 3000 mm như Kon Plong (Kon Tum) và nơi có lượng
mưa chỉ trên dưới 1.500 mm như Krông Buk, Ea Súp… thì sự chênh lệch lưu lượng
nước ở đỉnh lũ lớn nhất với lưu lượng kiệt nhỏ nhất là rất cao. Những năm gần đây
rừng Tây Nguyên bị chặt phá nghiêm trọng, cộng với những yếu tố bất lợi như mùa
khô kéo dài, sự biến đổi thất thường của thời tiết làm cho lũ lụt, hạn hán trở nên trầm
trọng hơn. Ngoài ra, Tây Nguyên là nơi thượng nguồn của 3 hệ thống sông lớn (Sê rê
pốk - Sê San nằm ở phía Tây Bắc và sông Đồng Nai ở phía Nam), người dân tận lực
khai thác nước ngầm ngay tại đầu nguồn để tưới cà phê, hoa màu khiến mực nước
dưới l ng đất không ngừng bị hạ thấp, dẫn đến quá trình sản xuất tại các vùng hạ lưu
gặp khó khăn do thiếu nước.
Từ năm 1997, tổng trữ lượng nước ngầm (ở trạng thái tĩnh, không có sự tác
động bất thường của môi trường tự nhiên) tại Đăk Lăk là 120,9 x 10 9 m3 đến nay chỉ
còn khoảng 30-35%. Ngoài lượng mưa hàng năm có xu hướng ít đi, do mùa khô kéo
dài, cùng với tình trạng mất rừng nghiêm trọng đã làm thay đổi nhanh chóng của lớp
phủ bề mặt, tăng nguy cơ xói m n, suy thoái đất và mực nước ngầm sụt giảm. Theo
Đoàn Địa chất 704 thì một số vùng như ở huyện Krông Pách, Lăk, Krông Buk và vùng
phía Đông Buôn Ma Thuột… mực nước ngầm tiềm năng không c n nhiều như 10 năm
trước. Ví dụ vùng Krông Pách, Lăk…năm 2004 có thể khai thác tối đa 0,4 - 0,6 triệu
m3/ngày, thì nay c n chưa đầy 400 nghìn m3/ngày.
5
Hội thảo Truyền thông nông nghiệp thông minh với Biến đổi khí hậu
và Phát triển nông nghiệp Tây Nguyên bền vững 01/2016
Theo báo cáo khảo sát của Bộ Tài Nguyên Môi trường thì mực nước ngầm tại
các khu vực như: huyện Krông Pách, Krông Búk, Lắk (tỉnh Đak Lak), Đắk Min, Đắk
Song, Cư Jút (tỉnh Đắk Nông), Chư Sê (tỉnh Gia Lai)... đang đứng trước tình trạng suy
giảm nghiêm trọng, giảm từ 3 - 5m so với trước đây.
Theo Đài Khí tưởng Thủy văn tại khu vực Tây Nguyên, tính đến hết ngày
23/09/2015, lượng mưa chỉ đạt từ 65 đến 75% so với trung bình nhiều năm. Cụ thể ở
Kon Tum 64%; thành phố Pleiku tỉnh Gia Lai 75%; Buôn Ma Thuột tỉnh Đắk Lắk
61%. Lượng nước trên các sông ở khu vực này cũng chỉ đạt từ 60-70%. Đặc biệt, mùa
mưa năm 2015 ở Đắk Lắk lượng mưa thấp hơn các năm, chỉ đạt 60-80% và phân bố
không đồng đều, có nơi chỉ đạt trên 40% so với cùng kỳ năm trước. Trong 770 hồ chứa
trên địa bàn, chỉ mới có 250 hồ tích được 60-80% lượng nước, c n lại đều tích dưới
60% dung tích. Như vậy nguy cơ thiếu nước cho sản xuất nông nghiệp và sinh hoạt
trên địa bàn tỉnh Đăk Lăk năm 2016 là hiện hữu.
Ngoài yếu tố nhiệt độ có xu hướng tăng, nguồn nước giảm, diễn biến thời tiết ở
Tây Nguyên đang ngày càng có xu thế cực đoan hơn. Thiên tai xảy ra thường xuyên;
lũ lụt, lũ quét vào mùa mưa; hạn hán, nắng nóng vào mùa khô; các hiện tượng thời tiết
cực đoan khác như dông, lốc xoáy, mưa đá xuất hiện ngày càng nhiều và bất thường
hơn. Sự gia tăng biên độ nhiệt, ẩm ngày đêm, khiến một số nơi đang mất dần tính ổn
định, tính uy luật về thời tiết khí hậu vốn có của vùng. Trong một vài tháng của mùa
khô, hiện tượng nhiệt độ tăng cao, gây nắng nóng hơn bình thường đã xuất hiện ở một
vài nơi. Sự phân bố mưa theo không gian và thời gian cũng có những dấu hiệu thay
đổi. Trong đó, đáng lưu ý nhất là hiện tượng mưa lớn gia tăng khiến lũ quét xuất hiện
nhiều hơn. BĐKH cũng được xem là tác nhân chính làm cho d ng chảy sông suối ở
Tây Nguyên mất đi sự hiền h a vốn có, thể hiện nhiều qua mức độ cạn kiệt nghiêm
trọng trong mùa khô, và đỉnh lũ ngày càng nhọn hơn, cao hơn, cường suất lũ cao hơn
trong mùa lũ.
3. Biến đổi khí hậu ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp vùng Tây Nguyên
Những năm gần đây, khí hậu Tây Nguyên đang có những dấu hiệu chịu tác
động mạnh mẽ của biến đổi khí hậu (BĐKH) toàn cầu. BĐKH đang làm cho các hiện
tượng khí hậu và thời tiết ở Tây Nguyên diễn biến ngày càng phức tạp, những hiện
tượng thời tiết, khí hậu cực đoan gia tăng về mức độ tác động, qui mô ảnh hưởng và
tần suất xuất hiện; thêm vào đó, các áp lực khác bao gồm sự suy giảm đa dạng sinh
học, suy giảm nơi cư trú tự nhiên, ô nhiễm môi trường... càng làm gia tăng mức độ rủi
ro và khả năng dễ bị tổn thương của con người trước tác động tiêu cực của BĐKH.
6
Hội thảo Truyền thông nông nghiệp thông minh với Biến đổi khí hậu
và Phát triển nông nghiệp Tây Nguyên bền vững 01/2016
BĐKH không chỉ là tăng nhiệt độ, tăng hàm lượng CO2, mà c n làm thay đổi quy
luật thời tiết, từ đó ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất, chất lượng sản phẩm của cây
trồng. Tác động của BĐKH gây ra nhiều hậu quả khác nhau. Mưa lũ xuất hiện nhiều
làm tăng nguy cơ ngập lụt đối với các vùng đất canh tác cây lương thực mức độ rủi ro
trong sản xuất cao hơn. Bên cạnh đó, những đợt hạn hán trầm trọng kéo dài cũng đe
dọa các ngành sản xuất nông – lâm nghiệp, ảnh hưởng trực tiếp tới năng suất, sản
lượng của hầu hết các loại cây công nghiệp chủ lực của Tây Nguyên như cà phê, cao
su, điều, hồ tiêu.... Biến động của yếu tố nhiệt ẩm và các yếu tố khí hậu thời tiết khác
cũng khiến năng suất, sản lượng của cây trồng và vật nuôi bị giảm; sức đề kháng của
vật nuôi kém đi, đồng thời tạo môi trường thuận lợi cho các tác nhân gây bệnh phát
triển bùng phát, gây ra nhiều loại dịch bệnh trên gia súc, gia cầm như bệnh cúm gia
cầm, bệnh dịch heo tai xanh.... Mưa lũ lớn, hạn hán và nắng nóng làm cho đất đai bị
rửa trôi, cằn cỗi, tình trạng sa mạc hóa diễn ra nhanh hơn. Rừng mất dần, hệ sinh thái
rừng, kiểu rừng thay đổi, tăng nguy cơ tiệt chủng của động thực vật, mất đi những
nguồn gen quí hiếm.
Năm 1998, hiện tượng khô hạn xảy ra nghiêm trọng ở Tây Nguyên đã làm giảm
năng suất cà phê so với năm 1997 và 1999 từ 20-30%; chất lượng cà phê nhân giảm,
cụ thể tỷ lệ hạt trên sàng 16 giảm 45-50% so với các năm có lượng mưa bình thường.
Ngoài ra trong năm 1998 do hạn nặng nên số lần tưới cho cà phê đã tăng lên trung
bình từ 3 lần lên 5 lần, từ đó làm tăng chi phí và tăng khí phát thải nhà kính.
Cũng trong đợt hạn năm 1998 ở Tây Nguyên, trong tổng số 24.000 ha lúa Đông
- Xuân, có 7.800 ha bị thiệt hại; 110.000 ha diện tích cây công nghiệp và cây ăn quả bị
hạn và có 20.000 ha bị chết. Khoảng 800.000 người bị thiếu nước ngọt.
Năm 2009, 2010 nhiệt độ cao hơn các năm trước, nắng nóng kéo dài làm khô
hạn rất nhiều nơi trên khu vực Tây Nguyên nói chung và Gia Lai nói riêng. Ví dụ vào
cuối tháng 8/2009 đúng vào tháng có nhiều mưa nhất ở những năm trước, nhưng ở xã
Đak Tơ Pang (huyện Kông Chro) lại c n nắng nóng. Theo báo cáo của UBND huyện
Kông Chro thì các loại cây trồng vụ mùa của huyện đã có hơn 1.000 ha khô cháy, mất
trắng, con sông Đak Hway trơ ra toàn đá.
Do ảnh hưởng của hạn hán, vụ Đông - Xuân 2014-2015 của Đắk Lắk đã bị
thiệt hại gần 2.000 tỉ đồng, vụ Hè - Thu vừa qua (2016) thiệt hại 171 tỉ đồng do và
chính quyền sở tại phải đề nghị Chính phủ hỗ trợ kinh phí khắc phục thiệt hại.
Lượng mưa bình quân có xu hướng thay đổi, đặc biệt là từ tháng 4 - 7 giai đoạn
cây cà phê cần nhiều nước để đáp ứng cho nhu cầu sinh trưởng cây và phát triển của
7
Hội thảo Truyền thông nông nghiệp thông minh với Biến đổi khí hậu
và Phát triển nông nghiệp Tây Nguyên bền vững 01/2016
quả cà phê, song gần đây vào các tháng này, lượng mưa có xu hướng thấp, tần suất
mưa ít, gây thiếu nước, làm quả cà phê bị khô và rụng, hoặc nhân nhỏ, dẫn đến thiệt
hại về năng suất và giảm chất lượng cà phê nhân. Năm 2015 lượng mưa bình quân
năm chỉ bằng 60% so với bình quân nhiều năm và là năm có mức độ hạn khốc liệt nhất
trong những năm trở lại đây. Do tác động của hiện tượng El Nino cũng đã làm cho
kích cỡ hạt cà phê nhân giảm so với năm 2013 khoảng 30%, đặc biệt là ở vùng khô
hạn nặng thì giảm đến 45%.
Sự thay đổi về thời tiết, nhất là phân bố mưa, lượng mưa ở Tây Nguyên trong
v ng 10 năm trở lại đây là rất rõ. Tần suất xuất hiện mưa vào các tháng 12, 1 là khá
phổ biến. Điều này đã làm cho các loại cây trồng như điều, cà phê gặp trở ngại trong
quá trình thụ phấn thụ tinh. Vào những tháng cuối năm 2015 do có những cơn mưa
nhỏ bất thường cũng đã làm cho hoa cà phê nở ở nhiều vùng như Đăk Nông, Lâm
Đồng, một số nơi tỷ lệ hoa nở lên đến 20 %, gây khó khăn cho sản xuất cà phê của
nông dân.
Cây điều là cây ra hoa, thụ phấn trong mùa khô (tháng 1 - 3), song trong những
năm từ 2006 - 2012 quy luật mưa đã thay đổi, vào các tháng này thường có những đợt
mưa phùn xảy ra ở các vùng trồng điều, vì vậy hoa điều không thể thụ phấn thụ tinh
được. Nếu cây điều ra hoa nhiều đợt thì có thể có các đợt khác đậu quả, song nếu chỉ
ra hoa 1 đợt tập trung, gặp mưa phùn thì tỷ lệ đậu quả gần như bằng không. Và như
vậy điều sẽ không cho năng suất, nông dân thu nhập thấp. Trong v ng khoảng 5 năm
trở lại đây, năng suất điều giảm dần do tác động bất lợi của thời tiết. Điều tra, nghiên
cứu của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông lâm nghiệp Tây Nguyên cho thấy có tới 85,7%
nông dân cho rằng thời tiết bất thường (mưa, nắng, nhiệt độ cao lúc ra hoa và đậu quả)
đã làm cho năng suất điều giảm sút nghiêm trọng. Năng suất điều thấp, đời sống người
trồng điều gặp khó khăn, vì vậy ở tỉnh Gia Lai, đặc biệt ở các huyện Kon Chro, Krông
Pa, Đăk Lăk người dân đã phá bỏ cây điều và chuyển sang trồng sắn và các loại cây
khác có hiệu quả kinh tế cao hơn.
Năng suất điều giảm theo thời gian (tạ/ha)
Năm
Tỉnh Đak Lak
Tỉnh Gia Lai
2005
10,46
-
2006
8,53
7,72
2007
8,69
7,45
2008
7,78
6,95
2009
8,34
6,68
8
Hội thảo Truyền thông nông nghiệp thông minh với Biến đổi khí hậu
và Phát triển nông nghiệp Tây Nguyên bền vững 01/2016
2010
7,20
5,60
2013
6,55
5,70
Nguồn: Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Đak Lak (2010),WASI (2009, 2013)
Sự thay đổi về thời tiết có xu hướng nóng lên cũng làm cho sâu bệnh hại phát triển
nhanh và khó dự báo. Rệp sáp hại cà phê đã thành dịch vào những năm 2000 - 2003,
bệnh vàng lá do tuyến trùng và nấm đối với cà phê (2000 - 2004), ve sầu hại rễ cà phê
(2007 - 2009), bệnh chết nhanh, chết chậm cây tiêu (2005 - nay), rầy nâu hại lúa, bọ
xít muỗi hại điều, ca cao... đã làm thiệt hại đến năng suất và chất lượng sản phẩm đáng
kể.
Ngoài ra, do nhiệt độ tăng, thời gian khô hạn trong năm đến sớm và kéo dài cũng đã
làm cho diện tích sản xuất vụ Đông - Xuân giảm mạnh do thiếu hụt nguồn nước, gây
ảnh hưởng đến một bộ phận nông dân sản xuất cây lương thực, thực phẩm như lúa,
ngô, rau....
Sự nóng lên do bức xạ nhiệt tăng thì nhu cầu nước của cây cũng tăng lên, vì vậy
yêu cầu về lượng nước tưới sẽ tăng trong bối cảnh nguồn tài nguyên nước ngày càng
cạn kiệt sẽ là thách thức cho sản xuất nông nghiệp trong thời gian tới. Chí phí đầu tư
để thu được 1 đơn vị sản phẩm tăng, đồng nghĩa với thu nhập giảm và đời sống của
người nông dân càng khó khăn hơn.
Tóm lại, BĐKH trước mắt đã gây ra nhiều tác động có hại đối với sản xuất
nông nghiệp. Thiên tai, đặc biệt là hạn hán, ngày càng xảy ra thường xuyên và
nghiêm trọng hơn cả về cường độ và quy mô; quy luật phân bố mưa cũng bị thay
đổi. Nguyên nhân của biến đối khí hậu rất phức tạp và đa dạng, bao gồm cả nguyên
nhân do tự nhiên và nguyên nhân do con người. Vì vậy, để giảm thiểu tác hại của
BĐKH cần phải có những giải pháp đồng bộ mang tính đa ngành, đa lĩnh vực để
đối phó và thích ứng.
4. Các giải pháp đối phó và thích ứng với BĐKH
Hiện nay, cùng với việc tích cực nghiên cứu, đánh giá tác động của BĐKH ở Tây
Nguyên, người ta cũng đang thực hiện các biện pháp ứng phó mà trước hết là các biện
pháp chủ động ph ng tránh, giảm thiểu thiệt hại do thiên tai gây ra.
Để đối phó với biến đổi khí hậu, hiện ngành nông nghiệp đang tích cực áp dụng khoa
học công nghệ vào sản xuất nông nghiệp, tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông nghiệp, nông thôn kết hợp với quy hoạch tổng thể vùng sản xuất cũng những giải
pháp nhằm phát triển bền vững cho nền nông nghiệp. Những biện pháp đã được triển
9
Hội thảo Truyền thông nông nghiệp thông minh với Biến đổi khí hậu
và Phát triển nông nghiệp Tây Nguyên bền vững 01/2016
khai như: chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với nước biển dâng và biến đổi khí
hậu, bao gồm: xây dựng giải pháp quy hoạch đảm bảo 3,8 triệu ha diện tích đất lúa,
trong đó 3,2 triệu ha đất canh tác 2 vụ, đảm bảo an ninh lương thực quốc gia; giảm
phát khí thải nhà kính qua kỹ thuật 3 giảm, 3 tăng, 1 phải 5 giảm sử dụng tiết kiệm chi
phí đầu vào; thúc đẩy quy trình VietG P trong chăn nuôi; cải tiến kỹ thuật và công
nghệ trong hoạt động khai thác thủy hải sản; đẩy mạnh trồng rừng, phục hồi rừng, xúc
tiến tái sinh và làm giàu từ rừng; xây dựng các hệ thống chống ngập, nước biển dâng
tại các thành phố lớn.
Ngoài ra, để ứng phó với biến đối khí hậu, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã
xây dựng định hướng phát triển từ năm 2013 đến năm 2020 trên hầu hết các lĩnh vực
của ngành, trong đó dự kiến sẽ triển khai các dự án đầu tư ứng phó với biến đổi khí
hậu như: chương trình giảm phát thải, quản lý bền vững rừng ngập mặn, phát triển
thủy lợi... với tổng kinh phí hơn 900 triệu USD, ưu tiên kêu gọi các nguồn tài trợ.
Ở Tây Nguyên, bảo vệ rừng, siết chặt công tác quản lý rừng, đầu tư trồng rừng
cũng như các dự án trồng cây xanh, các biện pháp quản lý hệ thống thủy lợi và thoát
lũ... Rừng chính là “máy điều h a khí hậu” khổng lồ. Các nhà khoa học cho biết: Tạm
tính với diện tích 1.000.000 ha nếu chỉ 50% diện tích có rừng cây thân gỗ thì mỗi năm
rừng ở dãy Trường sơn giữ được 22-25 triệu tấn CO2, góp phần đáng kể vào giảm hiệu
ứng nóng lên toàn cầu mà không cần đầu tư gì ngoài bảo vệ rừng. Bảo tồn đa dạng
sinh học, đặc biệt là đảm bảo an ninh môi trường sẽ là một chiến lược thích ứng lợi hại
của Việt Nam nói chung và Tây Nguyên nói riêng trước tác động BĐKH.
- Trong sản xuất nông nghiệp, chủ yếu là xây dựng cơ cấu cây trồng phù
hợp, xây dựng các biện pháp kỹ thuật, tăng cường hệ thống tưới tiêu và các biện
pháp chống chịu với ngoại cảnh khắc nghiệt; trong quá trình canh tác cần quan tâm
đến các giải pháp quản lý xói m n, rửa trôi đất và thất thoát phân bón do sử dụng,
bón phân không đúng cách, thiếu cân đối, gây ngộ độc đất. Sử dụng các giống
kháng, chịu hạn (cà phê, lúa, ngô...), giống ra hoa nhiều lần (đối với cây điều), bộ
giống cây lương thực, thực phẩm ngắn ngày; bố trí thời vụ thích hợp để tránh hạn,
né lũ. Đặc biệt đối với cà phê cần quan tâm sử dụng bộ giống chín muộn để không
những tăng năng suất, chất lượng mà c n giảm áp lực tưới nước, góp phần bảo vệ
môi trường sinh thái và giảm chi phí đầu vào.
Tăng cường đa dạng sinh học trên vườn cà phê như trồng cây che bóng, cây ăn
quả, cây đai rừng sẽ là giải pháp thích ứng và giảm thiểu tác hại của BĐKH một
cách hiệu quả do hệ thống cây trồng này có tác dụng hỗ trợ lẫn nhau trong việc điều
10
Hội thảo Truyền thông nông nghiệp thông minh với Biến đổi khí hậu
và Phát triển nông nghiệp Tây Nguyên bền vững 01/2016
h a vi khí hậu, hạn chế bốc thoát hơi nước trên bề mặt đất và lá, cung cấp hữu cơ,
cải tạo đất, hạn chế xói m n và rửa trôi đất giúp sản xuất cà phê bền vững hơn.
Tưới nước tiết kiệm hợp lý cho cà phê, hồ tiêu... cũng là giải pháp kỹ thuật nhằm
thích ứng với sự BĐKH ở Tây Nguyên. Chuyển một số diện tích đất trồng điều ở
các vùng có điều kiện khí hậu bất thuận, sản xuất không hiệu quả sang trồng các
loại cây khác có hiệu quả hơn như sắn, khoai lang, khoai môn là những loại cây có
khả năng thích ứng cao với sự BĐKH và từng bước thay đổi khẩu phần lương thực
của chúng ta từ gạo là chủ yếu sang một phần các loại củ để giảm áp lực về an ninh
lương thực trong tương lai.
Đối với cây tiêu cần khuyến cáo trồng trên cây choái sống để góp phần hạn chế
phá rừng; tăng tính bền vững trong quá trình sản xuất; áp dụng công nghệ tưới nước
tiết kiệm và bón phân qua hệ thống tưới (Fertigation) để giảm chi phí đầu tư, đồng
thời cũng góp phần sử dụng nguồn tài nguyên nước hợp lý, bảo vệ môi trường sinh
thái.
Bón phân cân đối, hợp lý; sử dụng thuốc bảo vệ thực vật theo nguyên tắc 4
đúng cũng góp phần thiết thực trong việc giảm thiểu phát thải nhà kính, từ đó làm
hạn chế sự tăng nhanh nhiệt độ trái đất.
Ngân hàng Thế giới (WB), các tổ chức quốc tế đang hỗ trợ Việt Nam xây dựng, tái
cấu trúc ngành khí tượng thủy văn theo hướng hiện đại. Ngoài xây dựng hệ thống
quan trắc, dự báo thời tiết vĩ mô, tăng mật độ các đài, trạm khí tượng mặt đất, c n
hỗ trợ các tổ chức kinh tế xã hội xây dựng hệ thống các trạm thời tiết chuyên dụng,
góp phần xây dựng nền nông nghiệp thông minh thích ứng với BĐKH. Viện
KHKTVN, Viện KHKTNLN Tây Nguyên đang hợp tác với Công ty CP Truyền
thông Nông nghiệp Đa phương tiện ( griMedia JSC) xây dựng hệ thống Trạm quan
trắc, cảnh báo thời tiết, môi trường, sâu bệnh thông minh cho từng tiểu vùng sinh
thái Tây Nguyên; ứng dụng công nghệ truyền thông đa phương tiện, chuyển tải các
thông tin thời tiết nông vụ, khuyến nông, kỹ thuật chăm sóc các loại cây trồng, vật
nuôi, tưới tiêu tiết kiệm, chủ động ứng phó với các điều kiện bất lợi của BĐKH,
góp phần giúp nông dân và doanh nghiệp chủ động trong sản xuất nông nghiệp và
hội nhập kinh tế quốc tế.
Nhà nước cần đầu tư nguồn kinh phí thỏa đáng và mang tính chiến lược cho
nghiên cứu khoa học công nghệ nông nghiệp (thông qua các chương trình, dự án....)
trong việc chọn tạo giống kháng, chịu hạn; giống kháng/chống chịu sâu bệnh; giống
chín tập trung, hoặc rãi rác (tùy đối tượng cây trồng và tùy vùng sinh thái); xây
11
Hội thảo Truyền thông nông nghiệp thông minh với Biến đổi khí hậu
và Phát triển nông nghiệp Tây Nguyên bền vững 01/2016
dựng các phần mềm quản lý canh tác, dự tính, dự báo sâu bệnh, thiên tai (lũ lụt,
cháy rừng), nghiên cứu về các giải pháp canh tác tổng hợp cho từng loại cây trồng,
trên từng vùng sinh thái theo hướng thích ứng cao với BĐKH, trước mắt ưu tiên tập
trung nghiên cứu canh tác cà phê, hồ tiêu thích ứng với biến đổi khí hậu./.
12
Hội thảo Truyền thông nông nghiệp thông minh với Biến đổi khí hậu
và Phát triển nông nghiệp Tây Nguyên bền vững 01/2016
BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU – GIẢI PHÁP GIẢM THIỂU, ỨNG PHÓ
VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP BỀN VỮNG TẠI GIA LAI
TS. Đặng Bá Đàn - Trung tâm Nghiên cứu và phát triển cây Hồ tiêu
Tóm tắt
Biến đổi khí hậu (BĐKH) là vấn đề toàn cầu đang được quan tâm hiện nay.
BĐKH đã và đang tác động mạnh mẽ đến mọi mặt của đời sống kinh tế xã hội. Việt
Nam được đánh giá là một trong những nước chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của BĐKH.
Bài viết này nhằm mục tiêu khái quát lại những tác động của BĐKH đến nông nghiệp
tại Tây nguyên và tỉnh Gia Lai.
1. Giới thiệu
Biến đổi khí hậu (BĐKH), mà trước hết là sự nóng lên toàn cầu và mực nước
biển dâng, là một trong những thách thức lớn nhất đối với nhân loại trong thế kỷ XXI.
Thiên tai và các hiện tượng khí hậu cực đoan khác đang gia tăng ở hầu hết các nơi trên
thế giới, nhiệt độ và mực nước biển trung bình toàn cầu tiếp tục tăng nhanh đang là
mối lo ngại của các quốc gia trên thế giới. Nhiều nguyên nhân khác nhau gây ra
BĐKH toàn cầu trong đó nguyên nhân được chính đó là: Chu kỳ nóng ấm của Trái đất
mang tính tự nhiên được đẩy nhanh và trở nên nghiêm trọng hơn do những tác động
của khí thải công nghiệp và hiệu ứng nhà kính.
Theo dự báo của các nhà khoa học nếu như tình hình phát thải khí nhà kính
không giảm thì vào năm 2030 nồng độ của khí CO2 trong khí quyển sẽ tăng gấp đôi so
với thời kỳ tiền công nghiệp, khoảng 700 ppm. Hiệu ứng nhà kính làm nhiệt độ trái đất
tăng lên kéo theo hàng loạt các yếu tố khí hậu khác như: lượng mưa, độ ẩm, bức xạ…
thay đổi theo. Tần suất và cường độ hiện tượng El – Nino tăng đáng kể, gây lũ lụt và
hạn hán ở các vùng nhiệt đới và á nhiệt đới. Mưa trở nên thất thường hơn, cường độ
thay đổi.
2. Những biểu hiện của BĐKH trên hành tinh của chúng ta.
Theo báo cáo đánh giá lần thứ tư của Tổ chức liên chính phủ về biến đổi khí hậu
(IPCC - Intergovermental Panel Climate Change) năm 2007, nhiệt độ trung bình toàn
cầu đã tăng khoảng 0,740C trong thời kỳ 1906 - 2005 và tốc độ tăng của nhiệt độ trong
50 năm gần đây gần gấp đôi so với 50 năm trước đó.
Trong 100 năm qua, lượng mưa có xu hướng tăng ở khu vực vĩ độ cao hơn 300 và
giảm ở khu vực nhiệt đới từ giữa những năm 1970. Đồng thời, hiện tượng mưa lớn và
tập trung theo mùa có dấu hiệu tăng ở nhiều khu vực trên thế giới.
Mực nước biển toàn cầu đã tăng trong thế kỷ XX với tốc độ ngày càng lớn. Số
liệu quan trắc mực nước biển trong thời kỳ 1961- 2003 cho thấy tốc độ tăng của mực
13
Hội thảo Truyền thông nông nghiệp thông minh với Biến đổi khí hậu
và Phát triển nông nghiệp Tây Nguyên bền vững 01/2016
nước biển trung bình toàn cầu khoảng 1,8 ± 0,5mm/năm, trong đó đóng góp do giãn nở
nhiệt khoảng 0,42 ± 0,12mm/năm và tan băng khoảng 0,70 ± 0,50mm/năm. Số liệu đo đạc
từ vệ tinh TOPEX/POSEIDON trong giai đoạn 1993 - 2003 cho thấy tốc độ tăng của mực
nước biển trung bình toàn cầu là 3,1 ± 0,7mm/năm, nhanh hơn đáng kể so với thời kỳ
1961 – 2003.
3. Tác động của BĐKH tại Việt Nam
Việt Nam được xem là một trong những nước sẽ bị ảnh hưởng nặng do biến đổi
khí hậu toàn cầu. Theo dự báo thì BĐKH sẽ làm cho các trận bão ở Việt Nam thường
xuyên xảy ra hơn với mức độ tàn phá nghiêm trọng hơn. Trong 50 năm qua, nhiệt độ
trung bình năm tăng khoảng 0,5oC trên phạm vi cả nước và lượng mưa có xu hướng
giảm ở phía Bắc và tăng ở phía Nam lãnh thổ. Nhiệt độ trung bình năm tăng 0,50,6oC/50 năm ở Tây Bắc Bộ, Đông Bắc Bộ, đồng bằng Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ, Tây
Nguyên và Nam Bộ. Còn mức tăng nhiệt độ trung bình năm ở Nam Trung Bộ thấp hơn,
chỉ vào khoảng 0,3oC/50 năm (bảng 3.1).
Bảng 3.1. Mức thay đổi nhiệt độ (0C) trong 50 năm qua ở các vùng khí hậu Việt Nam
Tháng 1
Tháng 7
Năm
Tây Bắc Bộ
1,4
0,5
0,5
Đông Bắc Bộ
1,5
0,3
0,6
Đồng bằng Bắc Bộ
1,4
0,5
0,6
Bắc Trung Bộ
1,3
0,5
0,5
Nam Trung Bộ
0,6
0,5
0,3
Tây Nguyên
0,9
0,4
0,6
Nam Bộ
0,8
0,4
0,6
Vùng khí hậu
Nguồn: Kịch bản biến đổi khí hậu, nước biển dâng cho Việt Nam, 2013
Xu thế diễn biến của lượng mưa năm tương tự như lượng mưa vào mùa mưa, tăng
ở các vùng khí hậu phía Nam và giảm ở các vùng khí hậu phía Bắc. Khu vực Nam
Trung Bộ có lượng mưa mùa khô, mùa mưa và lượng mưa năm tăng mạnh nhất so với
các vùng khác ở nước ta, nhiều nơi tăng đến 20% trong 50 năm qua (bảng 3.2)
Bảng 3.2. Mức thay đổi lượng mưa (%) trong 50 năm qua ở các vùng khí hậu
Mùa khô (tháng 11-4)
Mùa mưa (tháng 5-10)
Năm
Tây Bắc Bộ
6
-6
-2
Đông Bắc Bộ
0
-9
-7
Đồng bằng Bắc Bộ
0
-13
-11
Bắc Trung Bộ
4
-5
-3
Nam Trung Bộ
20
20
20
Vùng khí hậu
14
Hội thảo Truyền thông nông nghiệp thông minh với Biến đổi khí hậu
và Phát triển nông nghiệp Tây Nguyên bền vững 01/2016
Tây Nguyên
19
9
11
Nam Bộ
27
6
9
Nguồn: Kịch bản biến đổi khí hậu, nước biển dâng cho Việt Nam, 2013
Bộ Tài nguyên - Môi trường chính thức thông báo: trong thập kỷ tới, khoảng từ
năm 2010-2020, nhiệt độ trung bình của Việt Nam sẽ tăng không dưới 1,5 độ C; số
trận lũ lụt trên cả nước sẽ tăng khoảng 20%. Theo thông báo của UNDP, nếu mực
nước biển ở Việt nam tăng lên 1m thì sẽ tác động tới 5% đất đai; 11% tổng dân số; 7%
nông nghiệp; giảm 10% GDP. Ở mức tăng 3m-5m có nghĩa là “thảm hoạ có thể xảy
ra”.
4. Biến đổi khí hậu tại Tây Nguyên
BĐKH đang hiện hữu rất rõ ở Tây Nguyên, thể hiện ở việc nhiệt độ có xu
hướng tăng, nguồn nước giảm, dường như diễn biến thời tiết ở Tây Nguyên đang ngày
càng có xu thế cực đoan hơn. Thiên tai xảy ra thường xuyên; lũ lụt, lũ quét vào mùa
mưa; hạn hán, nắng nóng vào mùa khô; các hiện tượng thời tiết nguy hiểm khác như
dông, lốc xoáy, mưa đá xuất hiện ngày càng nhiều và bất thường hơn. Trong một vài
tháng của mùa khô, hiện tượng nhiệt độ tăng cao, gây nắng nóng hơn bình thường đã
xuất hiện ở một vài nơi. Sự phân bố mưa theo không gian và thời gian cũng có những
dấu hiệu thay đổi. Trong đó, đáng lưu ý nhất là hiện tượng mưa lớn gia tăng khiến lũ
quét xuất hiện nhiều hơn. BĐKH cũng được xem là tác nhân chính làm cho d ng chảy
sông suối ở Tây Nguyên mất đi sự hiền h a vốn có, thể hiện nhiều qua mức độ cạn kiệt
nghiêm trọng trong mùa khô, và đỉnh lũ ngày càng nhọn hơn, cao hơn, cường suất lũ
lên lớn hơn trong mùa lũ.
Theo Sở Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn tỉnh Đắk Lắk, tính đến giữa
tháng 3/2013, tổng diện tích cây trồng bị hạn là hơn 25.000 ha, trong đó có hơn 7.000
ha lúa và hơn 17.000 ha cà phê. Đã có hơn 2.000 ha cây trồng mất trắng. C n theo báo
cáo của Bộ NN&PTNT, khu vực Tây Nguyên gồm các tỉnh Kon Tum, Lâm Đồng, Đắk
Nông, Đắk Lắk và Gia Lai đã có trên 50.000 ha cây trồng bị thiếu nước và hạn hán
(trong đó diện tích lúa hơn 14.000 ha, cà phê hơn 34.000 ha, cây trồng khác hơn 2.000
ha). Trong đó số diện tích bị hạn nặng, bị mất trắng hơn 4.000 ha.
Tài nguyên nước mặt (chỉ xét đến lượng nước hiện hữu trên các sông suối điển
hình như Sê San, Sê rê pốk, sông Ba và Đồng Nai) đã kiệt dần từ lưu lượng
173.863,54 lít/s của những năm 2004-2005 xuống c n trên dưới 127.000 lít/s hiện
nay.
Từ năm 1997, tổng trữ lượng nước ngầm (ở trạng thái tĩnh, không có sự tác
động bất thường của môi trường tự nhiên) tại Đak Lak là 120,9 x 109 m3 đến nay chỉ
15
Hội thảo Truyền thông nông nghiệp thông minh với Biến đổi khí hậu
và Phát triển nông nghiệp Tây Nguyên bền vững 01/2016
c n khoảng 30 - 35 %. Theo báo cáo khảo sát của Bộ Tài Nguyên Môi trường thì mực
nước ngầm tại các khu vực như: huyện Krông Pách, Krông Búk, Lắk (tỉnh Đắk Lắk),
Đắk Min, Đắk Song, Cư Jút (tỉnh Đắk Nông), Chư Xuê (tỉnh Gia Lai)...đang đứng
trước tình trạng suy giảm nghiêm trọng, giảm từ 3-5m so với trước đây.
5. Biến đổi khí tại Gia Lai
BĐKH tác động đến điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của Gia Lai thể hiện rõ
nhất qua sự thay đổi nhiệt độ và chế độ mưa hàng năm.
* Về Nhiệt độ
Phân tích số liệu thu thập tại ba trạm ở tỉnh Gia Lai (trạm Pleiku, An Khê và
yun Pa) trong 30 năm qua cho thấy: Nhiệt độ trung bình (NĐTB) ở tỉnh Gia Lai tăng
khoảng từ 0,2 – 0,30C/10 năm (bảng 5.1), nói cách khác mỗi năm nền NĐTB ở tỉnh
Gia Lai tăng khoảng 0,02 – 0,030C.
Bảng 5.1. Nhiệt độ TB (0C) trong các thời kỳ tại một số địa điểm ở tỉnh Gia Lai
NĐTB
Thời kỳ
1984 - 1993
Thời kỳ
1994 - 2003
Thời kỳ
2004 - 2013
Mức tăng trong
10 năm
Pleiku
21,7
21,9
22,2
0,2-0,3
An Khê
23,3
23,7
23,8
0,1-0,4
Ayun Pa
25,5
25,9
26,1
0,2-0,4
Trạm
Nguồn : Số liệu tổng hợp từ Đài KTTV khu vực Tây Nguyên, 2014
* Về chế độ Mưa
Số liệu quan trắc tại các trạm phản ánh tổng lượng mưa hàng năm có xu hướng
giảm dần từ năm 1984 đến nay 2013 ở khu vực phía Tây (Pleiku) và phía Đông Nam
(Ayun Pa) tỉnh Gia Lai; riêng khu vực phía Đông ( n Khê) có xu hướng tăng dần.
Bảng 5.2. Lượng mưa trung bình (mm) trong các thời kỳ ở tỉnh Gia Lai
Lượng mưa
Thời kỳ
1984 - 1993
Thời kỳ
1994 – 2003
Thời kỳ
2004 – 2013
Pleiku
2.287,4
2.175,9
2.133,4
An Khê
1.533,8
1.471,0
1.786,9
Ayun Pa
1.374,3
1.258,6
1.212,9
Trạm
Nguồn : Số liệu tổng hợp từ Đài KTTV khu vực Tây Nguyên, 2014
Gia Lai trong các giai đoạn tới, tổng lượng mưa năm nhìn chung không có biến
động lớn. Tuy nhiên, lượng mưa sẽ tập trung, hạn hán ngày càng nghiêm trọng hơn:
xảy ra trên diện rộng hơn, thời gian hạn kéo dài hơn, tập trung chủ yếu vào mùa khô.
Điều này có nghĩa là sự tăng lượng mưa thường xảy ra vào các tháng mùa mưa (vụ hè
16
Hội thảo Truyền thông nông nghiệp thông minh với Biến đổi khí hậu
và Phát triển nông nghiệp Tây Nguyên bền vững 01/2016
thu), còn các tháng mùa khô (vụ đông xuân) thì lượng mưa lại giảm đáng kể. Điều này
đã ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống, sản xuất nông nghiệp trên địa bàn.
Theo báo cáo của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Gia Lai năm
2013, toàn tỉnh có hơn 1.560 ha cây trồng bị hạn hán, trong đó cây lúa nước là hơn
1.100 ha. Theo Sở Lao động Thương binh và Xã hội Gia Lai, đến cuối tháng 2/2013,
trên địa bàn có 8.430 hộ (33.850 khẩu) bị thiếu đói.
*Dự báo kịch bản BĐKH tỉnh Gia Lai theo kịch bản BĐKH của Việt Nam và khu
vực Tây Nguyên.
Trên cơ sở NĐTB của chuỗi số liệu từ năm 1984 đến năm 2013 và dựa vào
Kịch bản biến đổi khí hậu, nước biển dâng cho Việt Nam đối với khu vực Tây
Nguyên và tỉnh Gia Lai. NĐTB ở tỉnh Gia Lai đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm
2030 đều có xu hướng tăng từ 0,5 – 0,7 oC, (bảng 5.3), lượng mưa tăng từ 0,3 –
0,4% (bảng 5.4).
Bảng 5.3. NĐTB ( 0C) đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030
NĐTB
Năm 2003
Năm 2013
Năm 2020
Năm 2030
Pleiku
21,9
22,40
22,76
22,96
An Khê
23,9
23,60
24,36
24,56
Ayun Pa
26,1
26,20
26,56
26,76
Trạm
Nguồn: Võ Văn Phú, 2015 “Nghiên cứu ứng phó với Biến đổi khí hậu cho ngành
Nông nghiệp Gia Lai đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030”
Bảng 5.4. Lượng mưa năm (mm) đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030
Lượng mưa
Trạm
Thời kỳ
1980 - 1999
Năm 2013
Năm 2020
Năm 2030
Pleiku
2.256,9
2.243,8
2.263,7
2.265,9
An Khê
1.538,7
2.363,5
1.543,3
1.544,9
Ayun Pa
1.368,8
1.387,9
1.372,9
1.374,3
Nguồn: Võ Văn Phú, 2015 “Nghiên cứu ứng phó với Biến đổi khí hậu cho ngành
Nông nghiệp Gia Lai đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030”.
6. Biến đổi khí hậu và sản xuất nông nghiệp tại Gia Lai
BĐKH tác động lên các yếu tố thời tiết, khí hậu theo hướng ngày càng bất lợi
cho việc sản xuất nông nghiệp truyền thống. Các hiện tượng thời tiết cực đoan như hạn
hán, lũ lụt,… gây nên nhiều tác động và đã để lại hậu quả không mong muốn đối với
ngành nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Gia Lai. Nó không chỉ làm thay đổi thời vụ, mất
17
Hội thảo Truyền thông nông nghiệp thông minh với Biến đổi khí hậu
và Phát triển nông nghiệp Tây Nguyên bền vững 01/2016
mùa hoặc giảm năng suất nghiêm trọng mà c n kéo theo sự chuyển dịch cơ cấu giống
cây trồng, vật nuôi. Đó là một sự chuyển dịch thụ động nhằm thích ứng với BĐKH.
Trên tầm vĩ mô, tác động của các hiện tượng thời tiết cực đoan c n ảnh hưởng tiêu cực
đến quá trình thu hoạch, bảo quản và luân chuyển nông sản, gián tiếp gây tác động lên
ngành nông nghiệp của tỉnh.
* BĐKH làm thay đổi lịch thời vụ
Bảng 6.1. Sự thay đổi lịch thời vụ một số cây trồng ngắn ngày
Nguồn: Võ Văn Phú “Nghiên cứu ứng phó với Biến đổi khí hậu cho ngành
Nông nghiệp Gia Lai đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030”, 2015.
Lịch thời vụ trên địa bàn tỉnh đang có dấu hiệu chuyển dịch, mức độ thay đổi tùy
thuộc vào từng năm, từng địa phương và từng nhóm cây trồng khác nhau. Sự chuyển mùa
vụ kéo theo việc gieo trồng, chăm sóc cũng như thu hoạch bị thay đổi theo rõ rệt.
Nhìn chung, trên địa bàn toàn tỉnh chủ yếu sản xuất 2 vụ chính: vụ Đông Xuân và
vụ Mùa. Nhiều năm trở lại đây, thời vụ gieo trồng vụ mùa thường trễ lịch 10 - 20 ngày.
Điển hình như năm 2009, nắng hạn kéo dài, mưa đến muộn nên hầu hết diện tích lúa
đến tháng 7 mới gieo trồng được (bảng 6.1).
* BĐKH làm thay đổi cơ cấu cây trồng
BĐKH gây tác động tiêu cực đến quá trình sản xuất nông nghiệp, đồng thời cũng
tạo nên sự thay đổi tích cực trong chuyển dịch cơ cấu cây trồng theo hướng thích nghi
hơn. Quá trình chuyển đổi biểu hiện khá rõ đối với nhóm cây ngắn ngày như: tăng diện
tích trồng sắn, mía và giảm diện tích lạc, thuốc lá;… tăng diện tích trồng lúa nước và
giảm diện tích lúa rẫy;... Các cây chịu hạn - năng suất cao được đưa vào trồng và dần
thay thế các cây trồng bản địa - năng suất thấp
18
Hội thảo Truyền thông nông nghiệp thông minh với Biến đổi khí hậu
và Phát triển nông nghiệp Tây Nguyên bền vững 01/2016
Nhìn chung, sự chuyển dịch cơ cấu cây trồng là xu thế tất yếu trong quá trình sản
xuất nông nghiệp nhằm hướng tới một nền nông nghiệp bền vững trước những tác
động của biến đổi khí hậu.
* BĐKH làm gia tăng tình hình dịch bệnh trên cây trồng
Sự thay đổi thất thường của thời tiết (nóng - ẩm; biên độ dao động nhiệt ngày đêm, giữa mùa mưa - mùa khô) không chỉ tác động trực tiếp lên cây trồng mà còn tạo
điều kiện thuận lợi cho nhiều loài sâu hại, dịch bệnh phát sinh, phát triển nhanh và khó
dự báo gây ảnh hưởng đến diện tích, năng suất, sản lượng. Rệp sáp hại cà phê đã thành
dịch vào những năm 2000 - 2003, bệnh vàng lá do tuyến trùng và nấm đối với cà
phê (2000 - 2004), ve sầu hại rễ cà phê (2007 - 2009), bệnh chết nhanh, chết chậm cây
tiêu (2005 - nay), rầy nâu hại lúa, bọ xít muỗi hại điều, ca cao... đã làm thiệt hại đến
năng suất và chất lượng sản phẩm đáng kể. Bệnh thường phát triển theo mùa, có khả
năng phát triển thành ổ dịch gây ảnh hưởng đến sinh trưởng và phát triển của cây
trồng.
* BĐKH làm giảm diện tích, năng suất và sản lượng
Theo kết quả điều tra tình hình thiệt hại do biến đổi khí hậu gây ra đối với lĩnh
vực trồng trọt ở tỉnh Gia Lai, cho thấy các hiện tượng thời tiết cực đoan tác động đến
lĩnh vực trồng trọt theo hướng tăng dần mức độ thiệt hại.
Hạn hán năm 2013 gây ảnh hưởng đến 1.353 ha lúa ruộng trong đó có 618 ha mất
trắng gây giảm năng suất 75%. Tương tự cây ngô cũng dễ bị ảnh hưởng do tác động của
thời tiết cực đoan. Năm 2008, hạn hán đã gây thiệt hại 8.917 ha ngô các loại trong đó
6.549 ha bị mất trắng, năng suất giảm 80% ước tính thiệt hại 114,1 tỷ đồng.
Năm 2009 lũ lụt xảy ra nhiều nơi trên địa bàn tỉnh đã gây thiệt hại 8.891,8 ha lúa
ruộng, 6.511,7 ha lúa nương, 6.247,5 ha ngô,... thiệt hại hàng chục tỷ đồng. Lũ lụt
cũng gây tác động đến diện tích lớn cây dài ngày như cà phê (1.062 ha), cao su (842
ha), hồ tiêu (91 ha).
Năm 2013 lũ lụt làm ảnh hưởng và thiệt hại đến 11.881,7 ha lúa ruộng, 7.531,7
ha lúa nương, 6.257,4 ha ngô, 15.530 ha cây trồng các loại, 1.074 ha cà phê, 745 ha
cao su và 83 ha hồ tiêu. Những cây công nghiệp dài ngày thường ít chịu tác động của
thời tiết, tuy nhiên biến đổi khí hậu đã làm thay đổi các qui luật chung của thời tiết.
Hậu quả là các đợt lũ diễn ra trên địa bàn ngày càng tăng cả về cường độ, tần suất và
quy mô kéo theo nhiều hậu quả nghiêm trọng.
* Dự báo tác động của hạn hán và lũ lụt đến nhóm cây ngắn ngày
Cây ngắn ngày (CNN) đang được trồng phổ biến ở Gia Lai. Tập trung nhiều nhất
ở các huyện phía Đông và Đông Nam của tỉnh. Bao gồm 4 nhóm cây chính: cây lương
19
Hội thảo Truyền thông nông nghiệp thông minh với Biến đổi khí hậu
và Phát triển nông nghiệp Tây Nguyên bền vững 01/2016
thực như lúa nước, lúa rẫy, ngô; cây tinh bột như sắn, khoai lang, dong riềng; cây thực
phẩm như đậu, rau các loại và một số cây công nghiệp ngắn ngày như mía, lạc, thuốc
lá,... Đây là nhóm cây chịu nhiều tác động bởi yếu tố thời tiết, đặc biệt là thiếu nước do
hạn hán và lũ lụt gây nguy cơ mất trắng.
Dựa vào diễn biến và sự biến động của nhiệt độ và lượng mưa ở Gia Lai đến năm
2020 và 2030, kết hợp với tình hình thiệt hại do hạn hán, lũ lụt, ngập úng gây ra đối
với nhóm cây ngắn ngày trong những năm qua (2000-2013), các nhà khoa học đã đưa
ra dự báo diện tích cây trồng ngắn ngày sẽ bị ảnh hưởng (bảng 6.2).
Bảng 6.2.Dự báo diện tích (ha) CNN bị ảnh hưởng do hạn hán và lũ lụt
đến năm 2020 và 2030
Lúa
Ngô
Sắn
Mía
2013
2020
2030
2013
2020
2030
2013
2020
2030
2013
2020
2030
Hạn hán
1.447
2.884
4.114
3.674
5.133
7.334
3.204
3.977
4.695
2.346
2.975
3.607
Lũ lụt
11.881
10.432
14.532
6.257
6.273
7.494
4.744
5.633
7.733
2.730
2.725
3.205
Nguồn: Võ Văn Phú “Nghiên cứu ứng phó với Biến đổi khí hậu cho ngành
Nông nghiệp Gia Lai đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030”, 2015.
* Dự báo tác động của hạn hán và lũ lụt đến nhóm CDN
Ở Gia Lai, nhóm cây dài ngày phát triển mạnh và là nhóm cây trồng chủ đạo trong
phát triển nông nghiệp toàn tỉnh. Nhóm cây này chủ yếu là các loại cây công nghiệp
như: hồ tiêu, cao su, cà phê, điều, chè, … Đây là các cây trồng lâu năm nên ít bị tác
động bởi hạn hán hơn so với nhóm cây ngắn ngày. Tuy nhiên, về lâu dài, BĐKH sẽ ảnh
hưởng đến sự sinh trưởng, ra hoa, tạo quả, tạo hạt cũng như tạo các loại sản phẩm khác
của nhóm cây này.
Bảng 6.3. Dự báo diện tích (ha) CDN bị ảnh hưởng do hạn hán và lũ lụt
đến năm 2020 và 2030
Cà phê
Hạn hán
Lũ lụt
Điều
Cao su
Hồ tiêu
2013
2020 2030 2013
2020
2030
2013
2020
2030 2013
5.462
6.366 9.096 6.093
7.144
10.190
660
775
1.108
1.074
1.492 1.925 7.881
10.511
12.093
392
897
1.341 1.465
294
2020
2030
345
490
1.359
1.417
Nguồn: Võ Văn Phú “Nghiên cứu ứng phó với Biến đổi khí hậu cho ngành
Nông nghiệp Gia Lai đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030”, 2015.
20
Hội thảo Truyền thông nông nghiệp thông minh với Biến đổi khí hậu
và Phát triển nông nghiệp Tây Nguyên bền vững 01/2016
Qua bảng 6.3 ta có thể nhận thấy, diện tích bị ảnh hưởng được dự báo ngày càng
tăng từ đây cho đến năm 2030. Do đó, qua những dự báo này chúng ta cần đề xuất
những giải pháp phù hợp để phát triển trồng trọt nhằm giảm thiểu tối đa những tác động
không đáng có do BĐKH gây ra đối với Nông nghiệp tỉnh Gia Lai.
7. Giải pháp ứng phó với BĐKH và phát triển nông nghiệp bền vững
7.1. Hạn chế tác động của con người đến môi trường
Bảo vệ rừng, siết chặt công tác quản lý rừng, đầu tư trồng rừng cũng như các dự
án trồng cây xanh trên lãnh thổ của mình, các biện pháp quản lý hệ thống thủy lợi và
thoát lũ... Rừng chính là “máy điều hòa khí hậu” “bể hấp thụ khí nhà kính” khổng lồ.
Các nhà khoa học cho biết: Tạm tính với diện tích 1.000.000 ha nếu chỉ 50% diện tích
có rừng cây thân gỗ thì mỗi năm rừng ở Trường sơn hấp thụ được 22-25 triệu tấn CO2,
góp phần đáng kể vào giảm hiệu ứng nóng lên toàn cầu mà không cần đầu tư gì ngoài
bảo vệ rừng. Bảo tồn đa dạng sinh học, đặc biệt là đảm bảo an ninh môi trường sẽ là
một chiến lược thích ứng lợi hại của Việt Nam nói chung và Tây Nguyên nói riêng
trước thảm họa BĐKH.
Giảm phát thải khí nhà kính thông qua việc sử dụng các nguồn năng lượng xanh
như năng lượng gió, năng lượng mặt trời,... thay thế dần các nguồn năng lượng như
than đá, dầu mỏ,...
7.2. Các nhóm giải pháp phát triển nông nghiệp bền vững thích ứng với BĐKH
* Nhóm giải pháp chuyển đổi cơ cấu cây trồng
Việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng phải theo hướng tăng diện tích trồng cây công
nghiệp dài ngày có hiệu quả kinh tế cao như cao su, cà phê, hồ tiêu, chè, điều,... và
giảm diện tích đất trồng cây hàng năm kém hiệu quả. Đồng thời chuyển dịch các
diện tích cây ngắn ngày theo hướng tăng cường thâm canh cây lúa, nhất là lúa
nước, mở rộng diện tích đối với các cây ngắn ngày chịu hạn, hình thành các vùng
chuyên canh, chăn nuôi tập trung có sử dụng công nghệ cao để ứng phó với sự tác
động biến đổi khí hậu đến sản xuất.
- Đối với cây ngắn ngày
Bảng 7.1. Chuyển đổi cơ cấu diện tích (ha) một số cây trồng ngắn ngày
Diện tích một số cây chủ
yếu (ha)
2013 (a)
2020 (b)
2030 (c)
+ Lúa
73.981
80.000
+ Ngô
52.649
+ Sắn
+ Cây mía
Tốc độ tăng bình quân (%)
2013-2020
2020-2030
78.000
8,1
-2,5
60.000
65.000
13,9
8,3
55.227
50.000
50.000
-9,4
0
35.000
25.000
25.000
-28,5
0
21
Hội thảo Truyền thông nông nghiệp thông minh với Biến đổi khí hậu
và Phát triển nông nghiệp Tây Nguyên bền vững 01/2016
Nguồn: a) Niên giám thống kê tỉnh Gia Lai, 2014
b) Quy hoạch tổng thể phát triển KTXH tỉnh Gia Lai đến năm 2020
c) Dự báo dựa trên chuỗi số liệu thu thập được
- Đối với cây công nghiệp dài ngày (CDN)
Định hướng trong thời gian tới, tiếp tục tăng mạnh diện tích các loại cây trồng
mang lại hiệu quả kinh tế cao như cây cà phê, cây điều, cây tiêu. Đối với các loại cây
công nghiệp dài ngày như cao su, chè, sẽ giảm nhẹ diện tích trồng đến năm 2020 và
sau đó ổn định đến năm 2030. Hồ tiêu là cây trồng có tốc độ tăng diện tích nhiều nhất
do khả năng chống chịu với thời tiết khô nóng và là loại cây trồng mang hiệu quả kinh
tế cao, thị trường đang được cải thiện.
Bảng 7.2. Chuyển đổi cơ cấu diện tích (ha) một số loại CDN
Diện tích một số cây CN
chủ yếu (ha)
2013 (a)
2020 (b)
2030 (c)
Tốc độ tăng trưởng (%)
2013-2020
2020-2030
+ Cây cao su
105.064
103.736
103.736
-1,2
0
+ Cây cà phê
78.030
80.000
82.800
2,5
3,5
+ Cây điều
17.808
18.200
18.800
2,2
3,1
+ Cây tiêu
10.391
15.000
24.500
44,3
63,2
+ Cây chè
880
851
851
-3,2
0
Nguồn: a) Niên giám thống kê tỉnh Gia Lai, 2014
b) Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2016-2020
c) Dự báo dựa trên chuỗi số liệu thu thập được
* Nhóm giải pháp về điều chỉnh lịch thời vụ
Điều chỉnh lịch thời vụ sản xuất phù hợp với tình hình BĐKH, tránh thiên tai
như: hạn hán, bão, lũ,... Với mức BĐKH đã được dự báo đến năm 2020, tầm nhìn đến
năm 2030 trên địa bàn tỉnh Gia Lai cho thấy, có khả năng mùa khô kéo dài, mùa mưa
sẽ đến muộn hơn và kết thúc sớm hơn, do đó, lịch thời vụ sẽ dịch chuyển phù hợp với
sự thay đổi trên.
Đối với nhóm cây công nghiệp dài ngày như cao su, cà phê, điều, hồ tiêu,.... Dự
báo đến năm 2020 tầm nhìn đến năm 2030, sự biến động của thời tiết chưa tác động
lớn đến lịch gieo trồng, có thể diễn ra chậm hơn khoảng 5 ngày so với hiện tại.
Đối với nhóm cây ngắn ngày, Dự báo đến năm 2020 tầm nhìn đến năm 2030,
BĐKH có ảnh hưởng lớn đến thời vụ gieo trồng. Vì vậy lịch thời vụ sẽ có nhiều dịch
chuyển theo sơ đồ 7.3.
22
Hội thảo Truyền thông nông nghiệp thông minh với Biến đổi khí hậu
và Phát triển nông nghiệp Tây Nguyên bền vững 01/2016
Bảng 7.3. Sự chuyển dịch thời vụ đối với cây ngắn ngày
Nguồn: Võ Văn Phú “Nghiên cứu ứng phó với Biến đổi khí hậu cho ngành
Nông nghiệp Gia Lai đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030”, 2015.
* Nhóm giải pháp về sử dụng các giống theo hướng thích ứng với biến đổi khí hậu
Các hiện tượng thời tiết cực đoan của xu thế biến đổi khí hậu ở tỉnh Gia Lai trong
thời gian tới tác động lên lĩnh vực trồng trọt chính là hạn hán và lũ lụt thông qua nhiệt
độ cao, mưa tập trung, hạn kéo dài. Do đó, việc lựa chọn sử dụng các giống kháng,
chịu hạn (cà phê, hồ tiêu, lúa, ngô...), giống ra hoa nhiều lần (đối với cây điều), bộ
giống cây lương thực, thực phẩm ngắn ngày được ưu tiên hơn cả.
* Hình thành các vùng chuyên canh
- Hình thành các vùng cây chuyên canh theo hướng thích ứng với BĐKH:
+ Đối với cây ngắn ngày
Ưu tiên phát triển ở những vùng có khả năng đáp ứng cung cấp nước tưới tiêu
gồm các huyện Kbang, Kông Chro, Phú Thiện, Krông Pa, Đăk Pơ, Ia Pa, thị xã n
Khê và thị xã yun Pa.
+ Đối với cây công nghiệp dài ngày
Định hướng phát triển ở thành phố Pleiku và các huyện Mang Yang, Đăk Đoa,
Chư Pưh, Chư Păh, Ia Grai, Đức Cơ, Chư Prông, Chư Sê. Tập trung phát triển vùng
cây công nghiệp dài ngày có giá trị kinh tế cao như cao su, cà phê, chè, tiêu… gắn với
phát triển công nghiệp chế biến.
* Nhóm giải pháp công trình cho nền nông nghiệp
Xây dựng một nền nông nghiệp ở Gia Lai theo hướng sinh thái gắn với thích ứng
BĐKH, ứng dụng các công nghệ mới nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp.
23
Hội thảo Truyền thông nông nghiệp thông minh với Biến đổi khí hậu
và Phát triển nông nghiệp Tây Nguyên bền vững 01/2016
- Phát triển, nhân rộng mô hình sinh thái nông nghiệp áp dụng 3 giảm – 3 tăng trên
cây lúa đó là: giảm giống, giảm phân đạm, giảm thuốc bảo vệ thực vật và tăng năng
suất, tăng hiệu quả kinh tế, tăng chất lượng sản phẩm
- Trồng rau sạch trong nhà kính, bón phân vi sinh.
- Xây dựng phương thức canh tác hiệu quả và bền vững phải thích hợp với điều
kiện tự nhiên, sinh thái của vùng, cung cấp nước và phát huy tính ưu việt trong tập quán
canh tác của người dân địa phương, phát huy được tiềm năng của vùng đồng thời cải
tạo, tăng độ phì, chống xói m n đất. Với các kỹ thuật gieo trồng, làm đất, điều chỉnh mật
độ, bón phân hợp lý tạo điều kiện cây trồng sinh trưởng phát triển tốt, tăng khả năng
chống chịu sâu bệnh,... Đây là những kỹ thuật đang được chỉ đạo mở rộng trên toàn tỉnh
và trên nhiều loại cây trồng.
- Ứng dụng công nghệ tiên tiến trong canh tác như bón phân theo độ phì đất, áp
dụng ICM trong canh tác, sử dụng công nghệ tưới tiết kiệm nước,... đây là hướng đi
nhằm phát triển nông nghiệp bền vững, thích ứng với BĐKH.
- Thực hiện biện pháp canh tác nông lâm kết hợp nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế,
đồng thời bảo vệ môi trường. Có thể nghiên cứu xem xét thực hiện giải pháp trồng cây
công nghiệp dài ngày xen dưới tán rừng khộp. Trồng cây công nghiệp hỗn giao theo
đám, theo băng (diện tích đủ lớn) với mật độ hợp lí xen kẽ với diện tích rừng tự nhiên để
các loại cây hỗ trợ sinh thái cho nhau như trong các khu rừng tự nhiên. Các loại cây có
thể áp dụng phương thức này bao gồm: hồ tiêu, cao su, mía, sắn, gỗ tếch,…
7.3. Xây dựng hệ thống cảnh báo, dự báo nông nghiệp
Trên cơ sở dữ liệu thu thập về điều kiện khí hậu cũng như các diễn biến thời tiết bất
thường ở tỉnh Gia Lai. Đã xây dựng được các hệ thống bản đồ số hóa về biến đổi khí hậu
tỉnh Gia Lai đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030.
Xây dựng các trạm thời tiết thông minh nhằm cung cấp các thông tin về thời tiết nông
nghiệp, cảnh báo các bệnh cây trồng, thiên tai,... thông qua dịch vụ thông tin nông nghiệp
thông minh thích ứng với BĐKH.
Đây là những cơ sở dữ liệu quan trọng để có thể giúp người dân, các nhà quản lý,
doanh nghiệp, nhà khoa học đưa ra các dự báo kịp thời để giảm thiểu các thiệt hại từ thiên
nhiên, phát triển nông nghiệp bền vững.
24
Hội thảo Truyền thông nông nghiệp thông minh với Biến đổi khí hậu
và Phát triển nông nghiệp Tây Nguyên bền vững 01/2016
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Tài nguyên và Môi trường, 2012. Kịch bản BĐKH và nước biển dâng cho
Việt Nam năm 2009, (cập nhật bổ sung năm 2012), Hà Nội.
2. Chi cục thống kê tỉnh Gia Lai, 2014. Niên giám thống kê tỉnh Gia Lai năm 2013.
3. Trương Hồng, 2009. Biến đổi khí hậu với sản xuất nông nghiệp vùng Tây
Nguyên.
4. Sở TNMT tỉnh Gia Lai, 2012. Báo cáo hiện trạng môi trường tỉnh Gia Lai
5. Sở TNMT tỉnh Gia Lai, 2012. Quy hoạch sử dụng đất năm đến 2020, kế hoạch sử
dụng đất 5 năm (2011 – 2015) tỉnh Gia Lai.
Võ Văn Phú, 2015. Báo cáo tổng kết đề tài “Nghiên cứu ứng phó với Biến đổi khí hậu
cho ngành Nông nghiệp Gia Lai đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030”.
25