Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Tư tưởng hồ chí minh về cán bộ và công tác cán bộ những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (212.31 KB, 28 trang )

Trường Chính trị tỉnh Bắc Giang

Lớp TCLL CT-HC

A. MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm qua, thế giới đã xẩy ra biết bao nhiêu những biến động
to lớn trên rất nhiều phương diện, nhưng công cuộc đổi mới ở Việt Nam vẫn
giành được những thành tựu quan trọng, được bạn bè thế giới khâm phục.Trong
xu thế toàn cầu hóa hiện nay, sự nghiệp đổi mới của nước ta đang đứng trước
những thời cơ và thách thức mới, đòi hỏi chúng ta phải tỉnh táo, phán đoán xử lý
kịp thời mới giữ vững ổn định chính trị và tiếp tục phát triển kinh tế.
Để đáp ứng và giải quyết được những yêu cầu, nhiệm vụ đó, điều đầu tiên
và cấp thiết nhất đối với Đảng ta là phải có được một đội ngũ cán bộ vừa “hồng”
vừa” chuyên” từ Trung ương đến cơ sở. Bởi vì như Lênin người thày của giai
cấp vô sản đã từng nói: “Trong lịch sử chưa có giai cấp nào giành được quyền
thống trị,nếu có đào tạo được trong hàng ngũ của mình những lãnh tụ chính trij,
những đại biểu tiên phong có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào”. Chủ
tịch Hồ Chí Minh cũng đã khẳng định:
Cán bộ là gốc của mọi công việc, công việc thành công hay thất bại cũng
do đội ngũ cán bộ tốt hay kém, có cán bộ tốt việc gì cũng xong. Vì thế hơn lúc
nào hết, chúng ta phải trở lại nghiên cứu một cách thấu đáo Tư tưởng Hồ Chí
Minh về cán bô để vận dụng sáng tạo vào thực tiễn cách mạng hiện nay.
Đó cũng là quan điểm chỉ đạo của Đảng ta trong giai đoạn cách mạng mới
thời kỳ “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa”. Cán bộ là khâu quyết định sự thành bai
của cách mạng gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ, là khâu
then chốt trong công tác xây dựng Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã
dầy công đào tạo,huấn luyện, xây dựng được đội ngũ cán bộ tận tụy, kiên cường,
hoàn thành xuất nhiệm vụ qua các giai đoạn cách mạng.
Để lãnh đạo thực hiện thắng lợi công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Vận dụng
tư tưởng Hồ Chí minh về cán bộ và công tác cán bộ, nâng cao năng lực lãnh đạo


là vấn đề mang tính cấp bách, có ý nghĩa rất căn bản và lâu dài. Với lý do đó, tác
giả chọn đề tài “ Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ những
giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ mới” làm
đề tài tiểu luận cuối khóa.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
1


Trường Chính trị tỉnh Bắc Giang

Lớp TCLL CT-HC

Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ là một vấn đề lớn và
rất quan trọng trong công tác xây dựng Đảng.
3. Mục đích và nhiệm vụ của tiểu luận
31. Mục đích
Trên cơ sở làm rõ một số nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về cán
bộ và công tác cán bộ nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ tron thời kỳ mới.
3.2. Nhiệm vụ
- Phân tích làm rõ những quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về cán bộ và
công tác cán bộ
-Làm rõ những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong
thời kỳ mới.
4.Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Tiểu luận nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác-Leenin, Tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng cọng sản Việt nam. Chủ yếu dùng
phương pháp logic và lịch sử.
5.Kết cấu tiểu luận.
Ngoài phần mở đầu, kết luận,danh mục tài liệu tham khảo và phục lục,tiểu
luận gồm 2 chương, 4 tiết.


2


Trường Chính trị tỉnh Bắc Giang

Lớp TCLL CT-HC

B. NỘI DUNG
Chương I
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÁN BỘ VÀ CÔNG TÁC CÁN BỘ
1- Một số vấn đề chung về tư tưởng Hồ Chí Minh
Xã hội Việt Nam thế kỷ XIX đến khi thực dân Pháp xâm lược là xã hội
phong kiến với nền kinh tế nông nghiệp nghèo nàn, lạc hậu với chính sách đối
nội đối ngoại bảo thủ, trì trệ. Do đó chế độ phong kiến Việt Nam không tạo
dựng được tiềm lực vật chất và tinh thần để bảo vệ Tổ Quốc, khi thực dân Pháp
xâm lược, triều đình nhà Nguyễn đã cam chịu đầu hàng để giữ lấy ngai vàng và
lợi ích của hoàng tộc.
Từ khi thực dân Pháp xâm lược (1985) đến cuối thế kỷ XIX, phong trào
đấu tranh vũ trang chống thực dân Pháp nổ ra ở nhiều nơi và lan rộng trong cả
nước. Các cuộc nổi dậy đó đã được thúc đẩy bởi tinh thần yêu nước nhiệt thành
và chí căm thù giặc sâu sắc, song cuối cùng đều bị thất bại vì chưa có một
đường lối kháng chiến đúng đắn.
Bước sang thế kỷ XX, sau cuộc khai thác lần thứ nhất của thực dân Pháp,
xã hội Việt Nam có sự chuyển biến và phân hoá giai cấp, hình thành giai cấp
công nhân, tầng lớp tư sản và xuất hiện các phong trào Đông Du, Đông Kinh
Nghĩa Thục, Duy Tân… song các phòng trào này cũng chỉ kéo dài được một
thời gian ngắn rồi lần lượt bị dập tắt.
Khi Nguyễn Tất Thành đã trưởng thành, phong trào cứu nước đang ở
trong thời kỳ khó khăn nhất, đen tối như không có đường ra. Người thanh niên

yêu nước suy nghĩ, phong trào cứu nước của nhân dân muốn thắng lợi, phải tìm
một con đường mới.
Với truyền thống rất quý báu của quê hương, gia đình và dân tộc, với tinh
hoa tư tưởng văn hoá và một tình thần yêu nước, thương dân vô bờ bến,
Nguyễn Tất Thành, sau lấy tên là Nguyễn Ái Quốc, đã ra đi tìm đường cứu nước
và đến với chủ nghĩa Mác – Lê Nin. Trong tác phẩm “Đường Cách Mệnh” (năm
1927) Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: để lãnh đạo cách mạng,
Đảng phải mạnh “Đảng có vững cách mạng mới thành công, cũng như người
cầm lái có vững thuyền mới chạy, Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm
cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà
3


Trường Chính trị tỉnh Bắc Giang

Lớp TCLL CT-HC

không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn 1, tàu không có bàn chỉ
nam.” (2). Theo Hồ Chí Minh, lý luận tiên phong của Đảng chính là chủ nghĩa
Mác – Lê Nin. Người tổng kết: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều,
nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa
Mác – Lê Nin”. (3)
Trải qua quá trình bôn ba, hoạt động cách mạng, tư tưởng Hồ Chí Minh
được hình thành và phát triển, đã trở thành cơ sở lý luận và thực tiễn của đường
lối cách mạng đúng đắn, ngọn cờ bách chiến bách thắng của cách mạng Việt
Nam. Nghị quyết 09 của Bộ Chính trị khoá XIII viết: “ Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
sớm nắm bắt sâu sắc bản chất cách mạng và khoa học, tinh thần biện chứng và
nhân đạo của học thuyết Mác - Lê Nin, vận dụng một cách sáng tạo học thuyết
ấy phù hợp với hoàn cảnh thực tế ở nước ta; đồng thời, Người đã kế thừa, phát
huy chủ nghĩa yêu nước, truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta và tinh hoa của

nhân loại. Tư tưởng Hồ Chí Minh được hình thành từ những nguồn gốc đó”.
Thực tiễn thắng lợi của cách mạng Việt Nam từ đầu những năm 40 của thế kỷ
XX cho đến nay là những minh chứng hùng hồn về tầm vóc vĩ đại của tư tưởng
Hồ Chí Minh; đó là thắng lợi của cách mạng Tháng Tám năm 1945, lập nên nhà
nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đầu tiên ở Châu Á, cuộc kháng chiến đánh
đuổi thực dân Pháp , đế quốc Mỹ và những thắng lợi trong công cuộc đổi mới
đều được bắt nguồn từ tư tưởng Hồ Chí Minh đó là tư tưởng về độc lập tự chủ,
tự lực tự cường; về đại đoàn kết dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc; về
chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; về Đảng
cộng sản Việt Nam, về nhà nước của dân do dân vì dân; về đại đoàn kết, về kết
hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, về chiến tranh nhân dân và quốc
phòng toàn dân, về đạo đức, tư tưởng nhân văn, tư tưởng về văn hoá, về phương
pháp cách mạng…v.v.
Để thực hiện được các nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh, đưa cách mạng
thành công thì vai trò của cán bộ và công tác cán bộ có tính quyết định. Vì vậy,
với Hồ Chí Minh cán bộ và công tác cán bộ luôn luôn giữ vị trí hàng đầu và
được Người thể hiện rất rõ dàng, sâu sắc.
2- Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ
2.1- Về vị trí cán bộ và công tác cán bộ
1

Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội – 2000, tập 2, tr.268
Sđd tập 2, tr.268

3

4


Trường Chính trị tỉnh Bắc Giang


Lớp TCLL CT-HC

- Cán bộ có vị trí rất quan trọng trong sự nghiệp cách mạng có nhiều
nhiệm vụ, nhiều công việc, trong đó Hồ Chí Minh coi “cán bộ là cái gốc của
mọi công việc”; “Muốn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc
kém”. Có cán bộ tốt, cán bộ ngang tầm thì việc xây dựng đường lối sẽ đúng đắn
và là điều kiện tiên quyết để đưa cách mạng tới thành công. Muốn biến đường
lối thành hiện thực, cần phải có đội ngũ cán bộ cách mạng tập hợp được quần
chúng cách mạng, có đủ phẩm chất và năng lực mới đưa được cách mạng đến
thắng lợi.
Hồ Chí Minh chỉ ra rằng: Cán bộ là những người đem chính sách của
Đảng, và Nhà nước giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem
tình hình của quần chúng nhân dân báo cáo cho Đảng, và Nhà nước hiểu rõ, để
đề ra chính sách cho đúng. Vị trí cán bộ là “cầu nối” giữa Đảng, Chính phủ với
quần chúng nhưng không phải là “ dây dẫn”, là sự chuyển tải cơ học mà đòi hỏi
người cán bộ phải có đủ tư chất, tài năng, đạo đức để làm nhiệm vụ cầu nối đó.
Để có thể giải thích rõ đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước đối với nhân
dân và hướng nhân dân thực hiện thì người cán bộ phải có một trình độ, và năng
lực nhất định, nếu không người cán bộ có thể không quán triệt hết thậm chí làm
sai lệch những nội dung cần quán triệt. Ngoài yêu cầu về trình độ phải ngang
tầm với nhiệm vụ được giao, người cán bộ còn phải có bản lĩnh chính trị, phẩm
chất đạo đức cách mạng. Mặt khác còn phải có khả năng tổ chức, tập hợp quần
chúng, nắm được tâm tư, nguyện vọng chính đáng của quần chúng, phản ánh
đúng thực chất tình hình để làm căn cứ cho việc hoạch định chủ trương, chính
sách. Với những yêu cầu và nhiệm vụ như vậy đòi hỏi người cán bộ phải có
năng lực nghiên cứu, tổng kết thực tiễn và khái quát thành lý luận. Đây là công
việc khó khăn, phức tạp đòi hỏi người cán bộ phải có kiến thức toàn diện, có tư
duy sang tạo, phương pháp làm việc khoa học và phải có nhiệt tình cách mạng.
Hồ Chí Minh rất coi trọng cán bộ và công tác đào tạo cán bộ, Người cho

rằng cán bộ có vị trí quyết định trong mọi nhiệm vụ bởi chính sách đúng đắn có
thể không thu được kết quả nếu cán bộ làm sai, cán bộ yếu kém. Người nói “Khi
đã có chính sách đúng, thì sự thành công và thất bại của chính sách đó là do cách
tổ chức công việc, do nơi lựa chọn cán bộ, do nơi kiểm tra. Nếu ba điểm ấy sơ
sài, thì chính sách đúng mấy cũng vô ích”.
- Cần coi trọng công tác cán bộ. Muốn tổ chức công việc tốt, yêu cầu
người cán bộ phải có tài, có đức, song việc lựa chọn và bố trí, sử dụng phải hợp
lý, đúng người, đúng việc. Nếu không rất có thể hỏng việc mà không phải do
5


Trường Chính trị tỉnh Bắc Giang

Lớp TCLL CT-HC

năng lực của cán bộ. Hồ Chí Minh luôn cho rằng trong dân ta không thiếu người
tài, có đức để làm cán bộ, vấn đề còn lại là phải biết phát hiện, bồi dưỡng và tin
tưởng ở họ.
Về công tác cán bộ, Hồ Chí Minh nêu ra các vấn đề lớn và các vấn đề đó
có quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau, đó là:
“Hiểu biết cán bộ
Khéo dùng cán bộ
Cất nhắc cán bộ
Thương yêu cán bộ
Phê bình cán bộ”
- Về hiểu biết cán bộ. Theo Hồ Chí Minh trước khi cất nhắc cán bộ, phải
nhận xét rõ ràng. Không chỉ xem xét về công tác của họ mà còn xem xét cả sinh
hoạt, chẳng những xem xét về cách viết, cách nói của họ mà còn xem xét việc
làm của họ có đúng với lời nói không, phải biết ưu điểm của họ và cũng phải
biết khuyết điểm 2của họ.(4)

- Khéo dùng cán bộ. Trong những bài viết, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: dùng
cán bộ như “dùng mộc”, tùy tài, tùy việc mà dùng người, tránh lạm dùng người
bà con, anh em quen biết, bầu bạn, những kẻ khéo nịnh hót mình, chán ghét
những người chính trực. Biết dùng cán bộ là phải khiến họ yên tâm, vui thú,
hăng say làm việc, khuyến khích cán bộ dám nói, dám làm, có gan phụ trách, có
gan làm việc.
- Cất nhắc cán bộ. Hồ Chí Minh cho rằng lựa chọn, cất nhắc đúng cán bộ,
dùng cán bộ cho đúng đó mới là “tình cảm”, hai việc đó phải đi đôi với nhau. Để
dùng được đúng cán bộ thì phải biết rõ họ. Bác chỉ rõ: Kinh nghiệm cho ta biết:
mỗi lần xem xét lại nhân tài, một mặt tìm thấy nhân tài mới, mặt khác những
người hủ hóa cũng lòi ra(5).
- Thương yêu cán bộ. Theo Hồ Chí Minh, đây là biện pháp có quan hệt
mật thiết đối với nhiều người trong công tác đào tạo cán bộ và có tác dụng lâu
dài trong xây dựng đội ngũ cán bộ của Đảng. Quan tâm, thương yêu cán bộ là
phải chú trọng đào tạo, bồi dưỡng, cất nhắc cán bộ, nhất là cán bộ nữ, cán bộ
miền núi vào cơ quan lãnh đạo.
24
5

Sđd, tập 5, tr.281
Sđd, tập 5, tr.274

6


Trường Chính trị tỉnh Bắc Giang

Lớp TCLL CT-HC

- Phê bình cán bộ. Tự phê bình và phê bình là một trong những nguyên

tắc xây dựng Đảng ta, chúng ta không sợ sai lầm, khuyết điểm. Điều quan trọng
là những người lãnh đạo phải biết cách giúp đỡ cán bộ sửa chữa những sai lầm,
khuyết điểm của họ. Sửa chữa sai lầm, khuyết điểm, trước hết người cán bộ có
sai lầm phải tự kiểm điểm và tiếp thu phê bình của các đồng chí để nhận ra
khuyết điểm của mình và tự giác sửa chữa. Mặt khác các cán bộ lãnh đạo phải
có trách nhiệm phê bình và giúp đỡ để cảm hóa cán bộ của mình sửa chữa
khuyết điểm. Song, không phải tuyệt nhiên không dùng hình thức xử phạt, xử
phạt là biện pháp giúp những cán bộ cố ý phá hoại nhận ra sai lầm của họ. Như
vậy, phê bình đúng, chẳng những không làm giảm uy tín của cán bộ, cuả Đảng
mà còn làm cho sự lãnh đạo mạnh mẽ hơn, đúng đắn hơn, nhờ đó mà uy tín và
thể diện càng được tăng lên.
Để có cán bộ tốt, đáp ứng được phong trào, nhiệm vụ cách mạng, phải coi
trọng công tác cán bộ. Người coi công tác cán bộ cũng như việc đào tạo nhân tài
là trọng yếu và rất cần thiết. Người nói: “Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi
ích trăm năm thì phải trồng người”.
Theo Hồ Chí Minh, cán bộ luôn gắn với tổ chức, chất lượng cán bộ là
kết quả tổng hợp của tất cả các khâu đào tạo, huấn luyện, bồi dưỡng, đánh
giá, sử dụng, đề bạt, kiểm tra, giám sát, phê bình… và sự nỗ lực phấn đấu
của từng người.
Muốn có cán bộ tốt thì phải có tổ chức vững mạnh, nếu tổ chức nơi nào trì
trệ, bảo thủ thì cán bộ nơi đó không thể năng động, sáng tạo. Ở đâu mà nội bộ
lục đục, bè cánh thì hoạt động của cán bộ nơi ấy là lo củng cố địa vị, phe cánh
chứ không phải lo cho công việc chung.
Bác Hồ đã chỉ ra rằng, cán bộ năng lực kém, động cơ có tính chất cục bộ
thì thường hay kéo bè kéo cánh, bà con bạn hữu mình không tài năng gì cũng
kéo vào chức này chức nọ, người có đức có tài nhưng không vừa lòng mình thì
đẩy ra ngoài.
Điều nguy hại hơn trong công tác cán bộ là thói tư túng và mù quáng.
Trong những trường hợp đó thì không theo tiêu chuẩn “đức”,“ tài” mà chỉ cần
người lãnh đạo cấp trên hoặc người làm công tác cán bộ ưa, lọt mắt.

Chất lượng cán bộ phản ánh toàn bộ chất lượng cao hay thấp, tốt hay kém
của công tác cán bộ. Nếu như tất cả các khâu của công tác cán bộ đều làm tốt thì
nhất định sẽ có đội ngũ cán bộ có chất lượng tốt. Chỉ cần một trong những khâu
7


Trường Chính trị tỉnh Bắc Giang

Lớp TCLL CT-HC

của công tác cán bộ bị coi nhẹ, làm không đến nơi đến chốn sẽ khiến cho chất
lượng đội ngũ kém đi rất nhiều. Mặt khác dù công tác cán bộ có làm tốt cũng
không thể thay thế cho sự cố gắng phấn đấu của từng cá nhân người cán bộ.
2.2- Về tiêu chuẩn cán bộ.
Đối với Hồ Chí Minh, Người quan tâm trước tiên là vấn đề đạo đức của
người cán bộ. Người coi đạo đức là “gốc”; phải có đạo đức cách mạng thì
người cán bộ mới có điều kiện để làm việc, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ
quốc. Nếu thiếu hoặc yếu kém đạo đức cách mạng thì sẽ không thể làm tốt
công việc được giao. Người cho rằng “cũng như sông có nguồn thì mới có
nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây
héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy
cũng không lãnh đạo được nhân dân”. Tư tưởng về đạo đức của người cách
mạng mà Hồ Chí Minh nêu không có nghĩa là người cán bộ không cần có
trình độ nhưng trong quan hệ đức – tài, thì đạo đức là “gốc”, có ý nghĩa quyết
định đối với người cán bộ. Theo Hồ Chí Minh làm cán bộ không phải làm
quan cách mạng cốt để “ thăng quan phát tài” mà phải là công bộc của nhân
dân, việc gì lợi cho dân ta phải gắng làm, việc gì hại cho dân ta phải hết sức
tránh. Đó là điểm xuyên suốt trong tư tưởng Hồ Chí Minh khi Người đặt ra
yêu cầu đạo đức của người cán bộ. Người luôn nhắc nhở đề phòng sự thoái
hoá biến chất của đội ngũ cán bộ khi có quyền hành trong tay. Bởi vì khi đã

có chính quyền, thì cán bộ, đảng viên nắm giữ các chức vụ trong bộ máy Nhà
Nước, có trong tay quyền lực thì rất dễ trở thành quan liêu, hách dịch, xa rời
quần chúng, lợi dụng chức quyền để vun vén lợi ích cá nhân, làm ngơ trước
sự nghèo khổ của nhân dân. Hồ Chí Minh luôn ý thức sâu sắc điều này,
Người lo điều này hơn là lo cán bộ kém năng lực. Hồ Chí Minh đã cảnh cáo
“những người trong các công sở đều có nhiều hoặc ít quyền hành. Nếu không
giữ đúng cần, kiệm, liệm, chính thì dễ trở lên hủ bại, biến thành sâu mọt của
dân”. Người viết:
“Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông
Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc
Người có bốn đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính
Thiếu một mùa thì không thành trời
Thiếu một phương thì không thành đất
8


Trường Chính trị tỉnh Bắc Giang

Lớp TCLL CT-HC

Thiếu một đức thì không thành người”
Người đã giải thích Cần, Kiệm, Liêm ,Chính rất cô đọng, rõ ràng:
- Cần là siêng năng, chăm chỉ, cố gắng, dẻo dai
- Kiệm là tiết kiệm không xa xỉ, không hoang phí…
- Liêm là trong sạch, không tham lam, không ham địa vị, không ham tiền
tài, không ham người tâng bốc mình, vì vậy mà quang minh chính đại, không
bao giờ hủ hoá.
- Chính là thắng thắn, đúng đắn. Để chính thì phải chớ tự kiêu, tự ái, chớ
nịnh hót người trên, chớ xem khinh người dưới”.
Theo Hồ Chí Minh, đạo đức phải tự rèn luyện một cách kiên trì, bền bỉ

mới có được, phải tự “tu thân tích đức”, Bác Hồ nêu rõ: “đạo đức cách mạng
không phải trên trời sa xuống nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà
phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng
trong”. Bác Hồ cho rằng muốn có đạo đức cách mạng thì phải rèn luyện, phải
đấu tranh và nếu có rèn luyện nhất định đi đến thành công.
“Gạo đem vào giã bao đau đớn
Gạo giã xong rồi trắng tự bông
Sống ở trên dời người cũng vậy
Gian lan, rèn luyện ắt thành công”
(Nghe tiếng giã gạo - Nhật ký trong tù)
Theo Hồ Chí Minh, muốn “thành người” và “ người cán bộ” thì trước hết
là phải học “Học ở trường, học ở sách vở, học lẫn nhau và học nhân dân, không
học nhân dân là một thiếu sót lớn”. Học là điều kiện tiên quyết để “thành người”
và “người cán bộ”. Người viết:
“Học để làm việc
Làm người
Làm cán bộ”
“ Nếu không chịu khó học thì không tiến bộ được, là thoái bộ. Xã hội
càng đi tới, công việc càng nhiều, máy móc càng tinh xảo. Mình đã không chịu
học, mà lạc hậu thì bị đào thải, tự mình đào thải mình”.
9


Trường Chính trị tỉnh Bắc Giang

Lớp TCLL CT-HC

Người chỉ ra rằng, lười học là “khuyết điểm rất to, khác nào người thày
thuốc chỉ đi chữa bệnh cho người khác mà bệnh nặng trong mình thì quên chữa”.
Theo Hồ Chí Minh, người cán bộ còn phải tự phê bình, Người giải thích:

“Ai cũng cần tắm rửa cho mình mẩy sạch sẽ, thì ai cũng cần tự phê bình cho tư
tưởng và hành động đúng đắn” “tự phê bình là thật thà nhận, công khai nhận
trước mặt mọi người những khuyết điểm của mình để tìm cách sửa chữa”.
Nói tóm lại, Hồ Chí Minh coi các đức tính, khiêm tốn, ham học hỏi,
không giấu dốt, thường xuyên tự phê bình, không chủ quan tự mãn, gặp thất bại
không nản chí… là những phẩm chất thuộc tiêu chuẩn hàng đầu của người cán
bộ. Hồ Chí Minh cho rằng những người sau đây có thể coi là đạt những yêu cầu,
tiêu chuẩn của người cán bộ:
a- Những người đã tỏ ra trung thành và hăng hái trong công việc, trong
lúc đấu tranh.
b- Những người liên lạc mật thiết với dân chúng, luôn luôn chú ý đến lợi
ích của dân chúng, như thế, thì dân chúng mới tin cậy cán bộ và nhận cán bộ là
người lãnh đạo của họ.
c- Những người có thể phụ trách giải quyết các vấn đề trong những hoàn
cảnh khó khăn.
Ai sợ phụ trách và không có sáng kiến thì không phải là người lãnh đạo.
Người lãnh đạo đúng đắn cần phải: khi thất bại không hoang mang, khi
thắng lợi không kiêu ngạo. Khi thi hành các nghị quyết kiên quyết, gan góc,
không sợ khó khăn.
d- Những người luôn giữ kỷ luật.
2.3- Phát hiện, lựa chọn, đánh giá, sử dụng và cất nhắc cán bộ:
Sinh thời Hồ Chí Minh đặt niềm tin rất cao vào quần chúng, việc phát
hiện, lựa chọn nhân tài không được phân biệt người trong Đảng hay ngoài
Đảng, vấn đề họ phải có tài thật sự. Người cho rằng cần thông qua thực tiễn
cách mạng để lựa chọn cán bộ: Khi “ Phong trào giải phóng sôi nổi, nảy nở ra
rất nhiều nhân tài ngoài Đảng, chúng ta không được bỏ rơi họ, xa cách họ.
Chúng ta phải thật thà đoàn kết với họ, nâng đỡ họ. Phải thân thiết với họ,
gần gũi họ, đem tài năng của họ giúp ích vào công cuộc kháng chiến cứu
nước” “phải trọng nhân tài”.
10



Trường Chính trị tỉnh Bắc Giang

Lớp TCLL CT-HC

Như vậy phát hiện, lựa chọn cán bộ trong kháng chiến cũng như trong
hòa bình, xây dựng đất nước đều phải thông qua thực tiễn và kết quả hoạt
động để xem xét lựa chọn cán bộ. Không được phân biệt Đảng viên hay quần
chúng, phải căn cứ vào tiêu chuẩn để lựa chọn và sử dụng. Điều cần chú ý là
phải căn cứ vào nhiệm vụ chính trị và yêu cầu của mỗi giai đoạn cách mạng
để cụ thể hoá tiêu chuẩn cán bộ, từ đó làm cơ sở để lựa chọn cán bộ, việc lựa
chọn cán bộ qua các giai đoạn cách mạng đều phải căn cứ vào lập trường
quan điểm của cán bộ, phải trung thành với lập trường của giai cấp công nhân
và phải thông qua công việc của cán bộ cũng như phong trào và chất lượng
của tổ chức nơi cán bộ đó sinh hoạt để đánh giá.
Hồ Chí Minh cho rằng cần phải thường xuyên đánh giá cán bộ. Theo
Người: “Mỗi lần xem xét lại nhân tài, một mặt thì tìm thấy nhân tài mới,
một mặt khác những người hủ hoá cũng lòi ra”.
Hồ Chí Minh chỉ rõ “ xem xét cán bộ, không chỉ xem ngoài mặt mà
còn phải xem tính chất của họ, không chỉ xem một việc, một lúc mà phải
xem toàn cả lịch sử, toàn cả công việc của họ. Có người lúc phong trào cách
mạng cao, họ vào đảng, họ làm việc rất hăng. Nhưng lúc phong trào hơi khó
khăn thì đâm ra hoang mang. Lúc gặp sự nguy hiểm hoá phản cách mạng…
Nếu ta không xem xét rõ ràng thì lầm nó là cán bộ tốt.
Vì vậy, lựa chọn, đánh giá cán bộ không nên chỉ xét ngoài mặt, chỉ xét
một lúc, một việc mà phải xét kỹ cả toàn bộ công việc của cán bộ.
Ai cứ cắm đầu làm việc, không ham khoe khoang, ăn nói ngay thẳng,
không che dấu khuyết điểm của mình, không ham việc dễ, tránh việc khó,
bao giờ cũng kiên quyết làm theo mệnh lệnh của Đảng, vô luận hoàn cảnh

như thế nào, lòng họ cũng không thay đổi, những người như thế, dù có công
tác kém một chút cũng là cán bộ tốt”
Hồ Chí Minh cũng đặt ra yêu cầu với công tác đánh giá cán bộ, Người
đòi hỏi muốn biết đúng về người khác thì trước hết phải “tự biết mình”, “đã
không tự biết mình thì khó mà biết người, vì vậy muốn biết đúng sự phải trái
ở người ta thì trước phải biết đúng sự phải trái của mình.
Nếu không biết sự phải trái của mình, thì chắc không thể nhận rõ
người cán bộ tốt hay xấu”

11


Trường Chính trị tỉnh Bắc Giang

Lớp TCLL CT-HC

Khi nhận xét đánh giá cán bộ, đánh giá người khác, Người đánh giá
thường hay phạm những chứng bệnh sau:
“1.Tự cao tự đại
2. Ưa người ta nịnh mình
3. Do lòng yêu ghét của mình mà đối với người
4. Đem một cái khuôn khổ nhất định, chật hẹp mà lấp vào tất cả mọi
người khác nhau”.
Nếu như ai bị mắc “một trong bốn bệnh đó thì cũng như mắt đã mang
kính có màu, không bao giờ thấy rõ cái mặt thật của những cái mình trông”.
Hồ Chí Minh cho rằng đánh giá cán bộ phải dựa trên quan điểm
“động”, quan điểm phát triển, vì “Trong thế giới cái gì cũng biến hoá. Vì
vậy cách xem xét cán bộ, quyết không nên chấp nhất, vì nó cũng phải biến
hoá…Một người cán bộ khi trước có sai lầm, không phải vì thế, mà sai lầm
mãi. Cũng có cán bộ đến nay chưa bị sai lầm, nhưng chắc gì sau này không

phạm sai lầm? quá khứ, hiện tại và tương lai của một người không phải luôn
giống nhau”.
Tóm lại, về đánh giá cán bộ, Hồ Chí Minh cho rằng hiểu người là việc
rất khó, nếu không hiểu đúng thì không dùng đúng, nếu không dùng đúng thì
không thể cất nhắc đúng. Nhưng muốn hiểu người trước hết phải hiểu mình.
Rõ ràng trong đánh giá cán bộ, người đánh giá phải có tâm và có tầm nhìn,
công bằng và trung thực mới lựa chọn được cán bộ tốt.
Nếu có tư tưởng tự cao tự đại, ưa nịnh hót, tâng bốc, xuất phát từ lợi
ích cá nhân, bó mình trong khuôn khổ chật hẹp thì không thấy rõ mặt thật của
cái mình trông, sẽ đánh giá sai và không lựa chọn được cán bộ tốt cho Đảng.
Đánh giá cán bộ là cơ sở để đề bạt và sử dụng cán bộ đúng người,
đúng việc, đúng lúc. Hồ Chí Minh yêu cầu khi “ cất nhắc cán bộ cần phải xét
rõ người đó có gần gũi quần chúng, có được quần chúng tin cậy và mến
phục không. Lại phải xem người ấy xứng với việc gì, nếu người có tài, mà
dùng không đúng tài của họ, cũng không được việc”. Do đó, thấm nhuần tư
tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ thì người đánh giá cán bộ phải khách
quan, vô tư và vì sự nghiệp chung của Đảng.

12


Trường Chính trị tỉnh Bắc Giang

Lớp TCLL CT-HC

Khi đề bạt, sử dụng cán bộ thì cần xem xét tiêu chí tổng hợp để xem
người cán bộ đó có đủ tiêu chuẩn đề bạt giữ một chức vụ nào đó và họ có
gần gũi và được quần chúng tin cậy mến phục không. Phải nói rằng đây là
một thước đo khá chuẩn xác và quan trọng trong đề bạt cán bộ.
Khi đã đủ tiêu chuẩn đề bạt thì phải xem người đó thích hợp với việc

gì, sở trường và năng lực như thế nào để bố trí, sử dụng cho đúng. Làm như
vậy là sử dụng đúng người đúng việc. Rõ ràng việc bố trí sắp xếp cán bộ phụ
thuộc vào sự công tâm và sáng suốt của của cơ quan tổ chức và người làm
công tác cán bộ. Như vậy, việc bố trí cán bộ ở cơ quan, tổ chức cần được lựa
chọn kỹ lưỡng. Tránh tình trạng sai chồng lên sai. Điều rất quan trọng nữa là
“khi cân nhắc cán bộ, phải xem kết quả học tập cũng như kết quả công tác
khác mà định”.
Về phương pháp, cách thức cất nhắc, Hồ Chí Minh đã chỉ ra cất nhắc
cán bộ không nên làm như “giã gạo” nghĩa là trước khi cất nhắc không xem
xét kỹ. Khi cất nhắc rồi không giúp đỡ họ. Khi họ sai lầm thì đẩy xuống, chờ
lúc họ khá lại cất nhắc lên. Một cán bộ bị nhắc lên hạ xuống ba lần như thế
là hỏng cả đời… Hồ Chí Minh chỉ rõ “sau khi cất nhắc phải giúp đỡ họ,
khuyên gắng họ, vun trồng lòng tự tin, tự trọng của họ”.
Mục đích lựa chọn, đánh giá, cất nhắc cán bộ là để dùng cán bộ sao
cho hiệu quả nhất. Hồ Chí Minh cho rằng, đối với mỗi con người: “ không
có ai cái gì cũng tốt, cái gì cũng hay. Vì vậy chúng ta phải khéo dùng người,
sửa chữa những khuyết điểm cho họ, giúp đỡ ưu điểm của họ. Thường chúng
ta không biết tuỳ tài mà dùng người, thợ rèn thì bảo đi đóng tủ, thợ mộc thì
bảo đi rèn dao. Thành thử hai người đều lúng túng. Nếu biết tuỳ tài mà dùng
người, thì hai người đều thành công”. Là người có lòng bao dung, độ lượng,
Hồ Chí Minh nhắc nhở chúng ta, trước hết là những người và cơ quan làm
công tác tổ chức cán bộ “ Người ở đời, ai cũng có chỗ tốt và chỗ xấu. ta phải
khéo nâng cao chỗ tốt, khéo sửa chữa chỗ xấu cho họ”.
Hơn thế nữa, biết dùng người đúng sở trường của họ, đúng tài của họ,
đúng lúc đúng chỗ, tức biết kheo dùng người thì phải “tài nhỏ có thể hoá ra
tài to” nhưng nếu không khéo dùng người thì “tài to cũng hoá ra tài nhỏ”.
Là một nhà tổ chức tài giỏi, sát thực tế, Hồ Chí Minh nhận thấy
nhiều cán bộ lãnh đạo có quyền hành về vấn đề này thường dễ mắc vào các
bệnh sau:
13



Trường Chính trị tỉnh Bắc Giang

Lớp TCLL CT-HC

“1. Ham dùng người bà con, anh em quen biết, bầu bạn, cho họ là chắc
chắn hơn người ngoài.
2. Ham dùng những kẻ nịnh hót mình mà chán ghét những người
chính trực.
3. Ham dùng những người tính tình hợp với mình, mà tránh những
người tình tình không hợp với mình”
Vì không khách quan và vì tư túi nên những người được giao quyền
cất nhắc, đề bạt cán bộ sẽ làm hại cho dân, cho Đảng. Biết vậy nhưng vì cái
“tâm” không sáng nên họ đã làm ngơ trước việc làm bậy của những người
được họ cất nhắc, họ bất chấp dư luận lên án, mặc nhiện “cứ bao dung che
chở, bảo hộ, khiến cho chúng ngày càng hư hỏng”, “ với người tốt, người
chính trực, lẽ ra phải được cất nhắc thì lại “ bới lông tìm vết để trả thù”.
Hồ Chí Minh cũng yêu cầu đối với người lãnh đạo, người làm công
tác tổ chức cán bộ có quyền đề bạt cán bộ phải có những đức tình và trình độ
sau:
“Phải có độ lượng vĩ đại thì mới có thể đối với cán bộ một cách chí
công vô tư, không có thành kiến, khiến cho cán bộ khỏi bị bỏ rơi.
- Phải có tinh thần rộng rãi, mới có thể gần gũi những người mình
không ưa.
- Phải có tính chịu khó dạy bảo, mới có thể nâng đỡ những đồng chí
còn kém, giúp cho họ tiến bộ.
- Phải sáng suốt, mới khỏi bị bọn vu vơ bao vây, mà cách xa cán bộ tốt.
- Phải có thái độ vui vẻ, thân mật, các đồng chí mới vui lòng gần gũi mình”.
2.4-Về huấn luyện, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.

Trong công tác cán bộ, Hồ Chí Minh rất coi trọng công tác huấn
luyện, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; nếu như “cán bộ là gốc của mọi công việc
thì “huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng”, Hồ Chí Minh khẳng
định “ Đảng phải nuôi dạy cán bộ như người làm vườn vun trồng những cây
cối quý báu. Phải trọng nhân tài, trọng cán bộ, trọng mỗi một người có ích
cho công việc chung của chúng ta”.
Trong công tác huấn luyện, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, có lúc Hồ Chí
Minh đã phê bình chương trình, nội dung huấn luyện là mênh mông, không
14


Trường Chính trị tỉnh Bắc Giang

Lớp TCLL CT-HC

thiết thực, học rồi không dùng được. Các chương trình đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ phải phù hợp với thực tiễn, lý luận phải bám sát đời sống và cập nhật
có tác dụng
Huấn luyện, đào tạo, bồi dưỡng là khâu có ý nghĩa quyết định đến
trình độ và chất lượng của cán bộ. Hồ Chí Minh chỉ thị học lý luận phải gắn
với thực tiễn, tránh đào tạo chung chung, học thuộc lòng. Thực tiễn không
ngừng biến đổi, do vậy lý luận cũng phải được bổ sung, phát triển, vì thế cán
bộ phải không ngừng học tập, nghiên cứu để nâng cao trình độ, thực hiện tốt
nhiệm vụ được giao.
Trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, Hồ Chí Minh đã chỉ
ra những cái được, cái chưa được, đồng thời chỉ ra những phương châm,
phương pháp để khắc phục những hạn chế trong huấn luyện, đạo tạo, bồi
dưỡng cán bộ như:
- Huấn luyện lý luận phải gắn với thực tiễn. Theo đó lý luận phải phục
vụ thực tiễn, sau huấn luyện người cán bộ phải có trình độ cao hơn để giải

quyết những vấn đề thực tiễn đặt ra.
- Huấn luyện chính trị cần phải có, song tuỳ từng loại cán bộ mà định
chương trình cho phù hợp. Đây chính là yêu cầu nói chung. Chương trình
đào tạo, bồi dưỡng phải đáp ứng đúng đối tượng và mục tiêu đào tạo.
- Các lớp học phải tổ chức theo trình độ văn hoá chứ không theo cấp
bậc cán bộ cao hay thấp. Bởi trong thực tiễn rất nhiều cán bộ có cùng cấp
bậc nhưng trình đồ văn hóa khác nhau, nếu học cùng một lớp sẽ khó khăn
cho việc tiếp thu kiến thức.
- Phải chú trọng xây dựng đội ngũ giáo viên. Giáo viên là người thầy,
người huấn luyện, cần phải được ưu tiên đào tạo, bồi dưỡng về mọi mặt để
có trình độ tốt mới hoàn thành được nhiệm vụ.
- Các phương thức đào tạo, huấn luyện cần phải cụ thể, phải căn cứ
vào đặc điểm, yêu cầu nghề nghiệp, trình độ cán bộ để tiến hành.
- Học tập là để nâng cao trình độ, để làm việc tốt hơn, chứ không phải
là để tiến thân, để “loẻ” người khác.
Theo Hồ Chí Minh, học tập là rất quan trọng, muốn trở thành người và
“người cán bộ” thì phải học: Học để làm việc - Làm người - Làm cán bộ.
15


Trường Chính trị tỉnh Bắc Giang

Lớp TCLL CT-HC

Người xưa có câu: “Thành tài thì chưa chắc đã thành nhân” và với Bác
Hồ thì cần phải “làm người” sau đó mới “làm cán bộ” để “thành nhân” rồi
mới “thành tài”, và điều đó trước hết là phải học. Theo Hồ Chí Minh thì
“Học ở trường, học sách vở, lẫn nhau và học nhân dân, không học nhân dân
là một thiếu sót rất lớn”.
2.5- Về công tác kiểm tra, quản lý và chính sách đối với cán bộ

Trong thực tiễn công tác cán bộ, tất yếu phải coi trọng công tác kiểm
tra và quản lý cán bộ.
Kiểm tra là để phát huy ưu điểm, ngăn ngừa khuyết điểm và ngăn chặn
kẻ xấu chui vào bộ máy. Đó chính là công việc của người phụ trách và cơ
quan làm công tác cán bộ, Hồ Chí Minh nói: “Phải thường xuyên kiểm tra để
giúp họ rút kinh nghiệm, sửa chữa khuyết điểm, phát huy ưu điểm. Giao
công việc mà không kiểm tra, đến lúc thất bại mới chú ý đến. Thế là không
biết yêu dấu cán bộ”.
Trong quản lý cán bộ phải thực hiện tốt: chế độ tự phê bình và phê
bình; chế độ khen thưởng và kỷ luật. Trong bài “ Tự phê bình” đăng báo
Nhân dân ngày 20 tháng 5 năm 1951, mở đầu bài báo, Người viết:
“Dao có mài, mới sắc
Vàng có thui, mới trong
Nước có lọc, mới sạch
Người có tự phê bình, mới tiến bộ. Đảng cũng thế”
Đó là sự cần thiết của chế độ tự phê bình và phê bình.
Hồ Chí Minh đã đề cao nguyên tắc tự phê bình, phê bình, khuyến khích
cấp dưới phê bình cấp trên, cấp trên phê bình, nhận xét phải công bằng, yêu
thương cán bộ, không thành kiến, trù dập, thưởng phạt phải công minh. Trong
thực tế, Người chú ý khen thưởng nhiều mà cũng xử nghiêm những ai có tội
lỗi. Tuy nhiên, Người cũng nhắc nhở đừng lạm dụng thưởng, phạt, bởi vì
thưởng, phạt tràn lan, không đúng lúc, đúng chỗ, thiếu chính xác, thiếu công
bằng thì cũng không có tác dụng tích cực.
Việc kiểm tra, quản lý cán bộ còn có nhiệm vụ ngăn ngừa, chống lại
những tệ nạn tham nhũng, quan liêu rất dễ xảy ra trong cán bộ khi có chức,
có quyền.
16


Trường Chính trị tỉnh Bắc Giang


Lớp TCLL CT-HC

Hồ Chí Minh quan niệm kiểm tra, phê bình cán bộ với mục đích là để
họ không kiêu căng, làm cho họ thêm hăng hái, thêm gắng sức: “Phải vun đắp
chí khí của họ để đi đến chỗ “ bại không nản, thắng không kiêu”. Phải xuất
phát từ tình thương yêu để phê bình và phê bình là mong cho đồng chí mình
tiến bộ”. “ Mục đích phê bình cốt để giúp nhau sửa chữa, giúp nhau tiến bộ.
Cốt để sửa đổi cách làm việc cho tốt hơn, đúng hơn. Cốt đoàn kết và thống
nhất nội bộ”.
Vì vậy mà phương pháp phê bình, tinh thần, thái độ phê bình “ phải ráo
riết, triệt để, thật thà, không nể nang, không thêm bớt. Phải vạch rõ cả ưu
điểm, khuyết điểm; Đồng thời, chớ dùng lời lẽ mỉa mai, chua cay đâm thọc.
Phê bình việc làm chứ không phải phê bình người”. Còn đối với “ những
người bị phê bình thì phải vui lòng nhận xét để sửa đổi. Không nên vì bị phê
bình mà nản chí hoặc oán ghét”.
Theo Bác Hồ, trong thực tế tự phê bình và phê bình còn khó khăn bởi
nhiều lẽ, mà trước hết do “cách lãnh đạo của ta không được dân chủ, cách
công tác của ta không được tích cực”. Họ không dám phê bình không phải vì
họ không có ý kiến, mà vì họ nghĩ: “nói ra cấp trên cũng không nghe, không
xét, có khi lại bị “ trù”, để lòng sinh ra uất ức, chán nản”… sinh ra thói không
nói trước mặt, chỉ nói sau lưng”.
Hồ Chí Minh căn dặn: điều quan trọng đối với nhận thức và hành động
của mọi người là : “không sợ có sai lầm và khuyết điểm, chỉ sợ không chịu cố
gắng sửa chữa sai lầm và khuyết điểm…, càng sợ những người lãnh đạo
không biết tìm cách để giúp cho cán bộ sửa chữa sai lầm và khuyết điểm”.
Đối với việc “phạt”, Bác Hồ cho rằng “ không phải tuyệt nhiên không
dùng phạt. Lỗi lầm có việc to, việc nhỏ. Nếu nhất luật không xử phạt thì sẽ
mất cả kỷ luật…hoàn toàn không dùng xử phạt là không đúng, mà chút gì
cũng dùng đến xử phạt cũng không đúng”.

Về công tác kiểm tra, quản lý và chính sách đối với cán bộ, Hồ Chí
Minh, không chỉ nêu những nguyên tắc, quan điểm, tư tưởng chung mà Người
còn rất chú ý đến phương pháp, cách thức, biện pháp một cách cặn kẽ, cụ thể:
a- Chỉ đạo: thả cho họ làm, thả cho họ phụ trách, dù sai lầm chút ít
cũng không sợ.

17


Trường Chính trị tỉnh Bắc Giang

Lớp TCLL CT-HC

b- Nâng cao: luôn tìm cách cho họ học tập thêm lý luận và cách làm
việc, làm cho tư tưởng, năng lực của họ ngày càng tiến bộ.
c- Kiểm tra:…thường xuyên kiểm tra để giúp họ rút kinh nghiệm, sửa
chữa khuyết điểm, phát huy ưu điểm, giao công việc mà không kiểm tra, đến
khi thất bại mới chú ý đến. Thế là không biết yêu dấu cán bộ.
d- Cải tạo: khi họ sai lầm thì dùng cách thuyết phục giúp cho họ
sửa chữa.
đ- Giúp đỡ: phải cho họ điều kiện sinh sống đầy đủ mà làm việc. Khi
họ đau ốm phải có thuốc thang. Tuỳ theo hoàn cảnh mà giúp họ giải quyết
vấn đề gia đình. Những điều đó rất quan hệ với tinh thần của cán bộ và sự
thân ái đoàn kết trong Đảng”.
Ngoài ra Hồ Chí Minh còn yêu cầu người cán bộ phải thường xuyên cái
tiến phương pháp công tác và lề lối làm việc để nâng cao hiệu quả công tác.
Điều này được thể hiện rõ ràng trong cuốn “Sửa đổi đường lối làm việc” của
Bác Hồ ra đời cách đây đã hơn nửa thế kỷ, nhưng qua thực tiễn của cách
mạng Việt Nam với hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chỗng Mỹ cũng như
qua công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đã khẳng định những đóng góp to

lớn về mặt tư tưởng của cuốn sách này. Đặc biệt trong giai đoạn đổi mới của
đất nước hiện nay cũng như trước yêu cầu hội nhập quốc tế, tư tưởng Hồ Chí
Minh trong tác phẩm “Sửa đổi đường lối làm việc” càng có ý nghĩa to lớn và
quan trọng không chỉ đối với cán bộ, Đảng viên mà còn có tác dụng đối với
toàn xã hội.
2.6-Về công tác cán bộ nữ.
Trong cuộc đời sự nghiệp của Người, Hồ Chí Minh rất quan tâm tới sự
nghiệp giải phóng phụ nữ. Trong công tác cán bộ, Hồ Chí Minh quan tâm sâu
sắc đến công tác cán bộ nữ. Ngay từ năm 1930 khi mới ra đời, Đảng cộng sản
Việt Nam do Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện đã đề ra: “ nam nữ bình
quyền” là một trong mười nhiệm vụ cốt yếu của cách mạng.
Trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc, lực lượng cán bộ nữ đã góp
phần to lớn trong công cuộc đấu tranh, bảo vệ và xây dựng đất nước ta qua
các thời kỳ lịch sử. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “ nói phụ nữ là nói phần
nửa xã hội. Nếu không giải phóng phụ nữ thì không giải phóng một nửa loài
người. Nếu không giải phóng phụ nữ là xây dựng CNXH một nửa”.
18


Trường Chính trị tỉnh Bắc Giang

Lớp TCLL CT-HC

Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm và dành những tình cảm tốt đẹp
cho phụ nữ Việt Nam, Người nói: “ non sông gấm vóc Việt Nam do phụ nữ,
trẻ cũng như già, ra sức dệt thêu mà thêm tốt đẹp rực rỡ”. Trong bản Di chúc
để lại cho dân tộc ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã dành cả tình cảm và
trách nhiệm đối với phụ nữ: “ Đảng và Chính phủ cần có kế hoạch thiết thực
để bồi dưỡng, cất nhắc và giúp đỡ để ngày thêm nhiều phụ nữ phụ trách mọi
công việc kể cả công việc lãnh đạo. Bản thân phụ nữ thì phải cố gắng vươn

lên. Đó là một cuộc cách mạng đưa đến quyền bình đẳng thật sự cho phụ nữ”.
Từ chỗ đánh giá đúng vai trò của phụ nữ Việt Nam trong sự nghiệp
cách mạng, khả năng vươn lên của phụ nữ, Bác nói: “ Hiện nay có nhiều phụ
nữ tham gia công tác lãnh đạo ở cơ sở, nhưng không phải ai cũng tự giác nhận
thức được vấn đề này. Ta cũng phải đấu tranh với bản thân mình, để tự cởi
trói và giải phóng cho chính mình, góp phần vào chữa bệnh thành kiến của
người khác. Tốt hơn hết, các cô, nhất là các cô ở huyện phải đấu tranh mạnh.
Vì các cô mà không đấu tranh thì các đồng chí nam có thành kiến với phụ nữ
sẽ không tích cực sửa chữa”. Người luôn kích lệ động viên: “Vậy phụ nữ phải
làm sao cho người ta thấy phụ nữ giỏi, lúc đó cán bộ không cất nhắc, anh chị
em công nhân sẽ cử mình lên”. Người đặc biệt quan tâm đến việc đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ nữ và rất chú ý đến việc mở các lớp bồi dưỡng của địa phương,
cơ sở. Bác nghiêm khắc phê phán các địa phương, cơ sở mở lớp học mà có ít
cán bộ nữ. Bác nói “cán bộ nữ ít như vậy là một thiếu sót, các đồng chí phụ
trách lớp học chưa quan tâm đến việc bồi dưỡng cán bộ nữ. đây cũng là một
thiếu sót chung ở trong Đảng. Nhiều người còn đánh giá không đúng khả
năng của phụ nữ, hay thành kiến hẹp hòi, như vậy là rất sai. Hiện nay có
nhiều phụ nữ tham gia công tác lãnh đạo ở cơ sở nhiều người rất giỏi”. Hồ
Chí Minh luôn mong muốn có thêm nhiều cán bộ nữ còn vì một lẽ liên quan
đến giới tính, Bác cho rằng chị em cán bộ phụ nữ là những người ít mắc tệ
tham ô, lãng phí, không hay chè chén, ít hống hách mệnh lệnh như một số cán
bộ nam. Trong thực tiễn cách mạng Việt Nam, phụ nữ đã có những đóng góp
to lớn, nhiều chị em đã được phong tặng anh hung lực lượng vũ trang nhân
dân, anh hùng lao động, chiến sỹ thi đua toàn quốc, nghệ sỹ nhân dân, nghệ
sỹ ưu tú, nhà giáo nhân dân, nhà giáo ưu tú, nhiều người đạt chức danh giáo
sư, phó giáo sư, là những nhà khoa học đầu ngành v.v… Đây lại là minh
chứng cho sự đúng đắn của tư tưởng Hồ Chí Minh đối với công tác cán bộ nữ
của Người.
19



Trường Chính trị tỉnh Bắc Giang

Lớp TCLL CT-HC

Chương II
NHỮNG GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐỘI
NGŨ CÁN BỘ VÀ CÔNG TÁC CÁN BỘ TRONG THỜI KỲ MỚI.
1- Nâng cao chất lượng công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng và rèn
luyện cán bộ.
Phải quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán
bộ để xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, trước hết, phải được bắt
đầu từ việc chăm lo đào tạo, bồi dưỡng, giáo dục và rèn luyện cán bộ. Đó là chìa
khoá của việc nâng cao chất lượng cán bộ trong thời kỳ mới, công tác quy
hoạch, đào tạo, bồi dưỡng và rèn luyện cán bộ cần tập trung vào một số vấn đề
sau đây:
Thứ nhất, đổi mới cách thức, quy trình thực hiện quy hoạch cán bộ.
Về mặt nhận thức, cần khẳng định phải có quy hoạch cán bộ, đưa công tác
quy hoạch cán bộ trở thành nhiệm vụ thường xuyên của cấp uỷ Đảng. Các cấp
uỷ Đảng, thủ trưởng và cơ quan tổ chức cán bộ cần tổng kết đánh giá kết quả,
tìm nguyên nhân, và khắc phục kịp thời những khiếm khuyết trong việc thực
hiện quy hoạch cán bộ của cấp mình. Có sự phối hợp đồng bộ giữa cấp trên và
cấp dưới, giữa cấp uỷ Đảng với cơ quan tổ chức cán bộ và các tổ chức đoàn thể
nhân dân. Có kết luận cụ thể về mức độ phấn đấu, trưởng thành của cán bộ trong
diện quy hoạch, khi họ đang có xu hướng phát triển đi lên.
Việc lựa chọn cán bộ đưa vào diện quy hoạch là khâu rất quan trọng,
trong quy hoạch cán bộ. Muốn lựa chọn đúng cán bộ đưa vào diện quy hoạch,
cần rà soát, đánh giá toàn bộ đội ngũ cán bộ, phát hiện mặt mạnh, mặt yếu của
từng cán bộ trong phạm vi cấp mình. Căn cứ vào yêu cầu, trách nhiệm của từng
vị trí, chức danh mà lựa chọn cho phù hợp, đủ tiêu chuẩn. Việc lựa chọn cán bộ

đưa vào diện quy hoạch phải được tiến hành kỹ lưỡng, dân chủ trong nội bộ cấp
uỷ, thường vụ. Ở những mức độ và phạm vi nhất định, có thể dựa vào sự giới
thiệu của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Công tác qui hoạch cần thực hiện theo
nguyên tắc động và mở để có thể lựa chọn, bổ sung được những cán bộ tốt mới
phát hiện.
Thứ hai, đổi mới chương trình, nội dung đào tạo.
20


Trường Chính trị tỉnh Bắc Giang

Lớp TCLL CT-HC

Đây là vấn đề cốt lõi của công tác đào tạo, bồi dưỡng, là nhân tố quyết
định chất lượng cán bộ. Đổi mới và nâng cao chất lượng công tác đào tạo và bồi
dưỡng cán bộ cần gắn lý luận với thực tiễn, học đi đôi với hành, đảm bảo hiệu
quả và thiết thực. Trong bối cảnh nước ta hội nhập quốc tế ngày càng sâu, rộng
đổi mới chương trình nội dung đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cần quán triệt phương
châm “Việt Nam, cơ bản và hiện đại”.
Chương trình, nội dung đào tạo, bồi dưỡng phải kết hợp trang bị kiến thức
nghiệp vụ với việc nâng cao tố chất chính trị, đạo đức, kiến thức pháp luật và kỹ
năng thực hành cho cán bộ.v.v...Trang bị kiến thức vừa rộng, vừa sâu, kết hợp
kiến thức cơ bản và kiến thức chuyên ngành, bổ sung cập nhật những tri thức
mới của thế giới.v.v...Tóm lại là phải đào tạo toàn diện.
Theo phân loại cán bộ trong Nghị quyết Trung ương 3 ( Khoá VIII) thì
nên phân thành bốn chuyên ngành: chuyên ngành công tác đảng, công tác chính
trị, nhằm đào tạo, bồi dưỡng kiến thức nghiệp vụ cho các cán bộ làm công tác
đảng; chuyên ngành công tác quần chúng nhằm đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ
cho cán bộ các đoàn thể nhân dân; chuyên ngành quản lý kinh tế cho các cán bộ
thuộc lĩnh vực kinh tế, kinh doanh; chuyên ngành quản lý nhà nước cho cán bộ

chính quyền. Có như vậy, chúng ta mới giải quyết được mói quan hệ giữa độ sâu
và bề rộng của kiến thức, mới có điều kiện trang bị kiến thức nghiệp vụ thiết
thực cho người học. Mặt khác phải triển khai ngay chương trình và nội dung bồi
dưỡng cán bộ theo chức danh (vị trí công tác) để tăng cường kỹ năng làm việc
cho đội ngũ cán bộ theo tinh thần Nghị Quyết 52 của Bộ Chính trị khóa X.
Thứ ba, tổ chức lại hệ thống đào tạo.
Phương hướng tổ chức lại hệ thống đào tạo là phải xây dựng các cơ sở
đào tạo thành những trung tâm khoa học lớn, có trang bị hiện đại, có trình độ
chuyên môn cao, là nơi đào tạo và cung cấp đủ nguồn nhân lực có chất lượng
cao, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Hệ
thống các cơ sở đào tạo cần được tổ chức theo hướng gọn, nhẹ, tập trung được
sự chỉ đạo, quản lý chặt chẽ.
Riêng đối với hệ thống các trường đào tạo cán bộ của Đảng, cần tập trung
mở rộng và nâng cấp trường chính trị tỉnh, thành phố, trong đó nội dung chương
trình, đối tượng đào tạo được phân ra làm hai cấp học (sơ cấp và trung cấp), hai
giai đoạn đào tạo và bốn chuyên ngành. Cùng với chức năng đào tạo, các trường
21


Trường Chính trị tỉnh Bắc Giang

Lớp TCLL CT-HC

chính trị tỉnh, thành còn có chức năng bồi dưỡng nghiệp vụ cho các loại cán bộ,
công chức.
Thu gọn được đầu mối hệ thống đào tạo sẽ giảm biên chế trong bộ máy tổ
chức, đội ngũ giảng viên cũng như việc điều hành, kiểm tra giám sát của cấp uỷ
Đảng, chính quyền trong đào tào cán bộ, tập trung được kinh phí, cơ sở vật chất
và có điều kiện đầu tư nâng cấp, hiện đại hoá công tác đào tạo.
Thứ tư, đổi mới công tác quản lý đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.

Công tác quản lý đào tạo quyết định đến chất lượng đào tạo, và do đó
quyết định đến chất lượng cán bộ. Cần tập trung vào khâu chỉ đạo, quản lý nội
dung, chương trình đào tạo đối với các học viện, các trường đại học, các trường
chính trị tỉnh, các Học viện trực thuộc Học Viện Chính trị - Hành chính quốc gia
Hồ Chí Minh và các trung tâm khác. Rà soát lại hệ thống quy chế, quy định theo
chuẩn quốc gia. Hệ thông này phải có hiệu lực và được thi hành thống nhất
trong toàn bộ các cơ sở, từ vấn đề chiêu sinh, thi cử, đến cấp phát văn bằng,
chứng chỉ… Tránh tình trạng mỗi cơ sở đào tạo có một quy chế riêng. Chấn
chỉnh lại các quy chế thi, kiểm tra theo hướng chặt chẽ cả “ đầu vào” và “ đầu
ra”. Khắc phục tình trạng người học quan niệm đã đi học là chắc chắn tốt
nghiệp, đã qua đầu vào thì chắc chắn sẽ tốt nghiệp ra trường.
Thứ năm, chăm lo xây dựng đội ngũ giáo viên, tăng cường cơ sở vật chất
cho các cơ sở đào tạo theo hướng hiện đại hoá.
Cần tăng cường đủ số lượng giáo viên để đảm nhiệm công tác giảng dạy.
xây dựng đội ngũ chuyên gia giỏi đầu ngành của các môn học, phát triển các
khoa học chuyên sâu đạt trình độ tiên tiến, hiện đại. Có chính sách thu hút số
sinh viên giỏi ở các trường đại học, các cán bộ đang công tác thực tiễn vào làm
giảng dạy ở hệ thống đào tạo cán bộ. Chú trọng nâng cao chất lượng toàn diện,
trước hết là chất lượng chính trị (trình độ, bản lĩnh, lập trường chính trị), của đội
ngũ giáo viên ở các học viện, các trường đại học, các trường chính trị tỉnh,
thành, các trung tâm đào tạo, bồi dưỡng của các bộ, ngành.
Thứ sáu, đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo quốc dân.
Hệ thống giáo dục, đào tạo quốc dân là nơi cung cấp những kiến thức cơ
sở và cơ bản, tạo ra sự phát triển toàn diện trong nhân cách mỗi người. Đổi mới
và nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo quốc dân là điều kiện cơ bản để nâng
cao trình độ dân trí, là cơ sở để nâng cao trình độ cán bộ. Chính vì vậy, để nâng
22


Trường Chính trị tỉnh Bắc Giang


Lớp TCLL CT-HC

cao chất lượng cán bộ, phải đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo
quốc dân.
Phương hướng đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo quốc
dân cần theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 2 ( Khoá VIII): chú ý kết hợp
diện rộng với đào tạo chuyên sâu, gắn đào tạo với thực tiễn đất nước, nâng cao
kỹ năng thực hành, phát triển hài hoà nhân cách con người mới Việt Nam, coi
trọng cả đức và tài. Nội dung giáo dục, đào tạo phải cập nhật trình độ tiên tiến
trên thế giới. Đồng thời, phải phát huy trí tuệ, tinh hoa của dân tộc, của cha ông.
Giáo dục và đào tạo quốc dân phải góp phần quan trọng trong việc đào tạo nhân
tài, đào tạo chuyên gia giỏi cho đất nước, là nơi cung cấp những cán bộ có chất
lượng cao.
2- Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện các quy chế, quy trình công tác
cán bộ, thực hiện tiêu chuẩn hoá cán bộ.
Xây dựng và hoàn thiện quy chế, quy trình công tác cán bộ nhằm làm cho
công tác cán bộ đi vào nền nếp, thực sự có tính khoa học, bảo đảm cho công tác
cán bộ hoạt động thống nhất theo nguyên tắc, chuẩn mực chung. Tránh được
tình trạng tuỳ tiện, áp đặt chủ quan, duy tình trong công tác cán bộ. Hệ thống
quy trình, quy chế trong công tác cán bộ còn là cơ sở và căn cứ để mỗi cấp uỷ,
cơ quan tổ chức cán bộ quản lý, kiểm tra, đánh giá hoạt động của mình theo quy
định chung.
Thứ nhất, tập trung xây dựng, hoàn chỉnh quy trình, quy chế đánh giá cán bộ.
Thứ hai, xây dựng quy chế tuyển chọn cán bộ mới.
Thứ ba, thực hiện nghiêm túc quy trình, quy chế bầu cử, bổ nhiệm và sử
dụng cán bộ.
Thứ tư, thực hiện nghiêm túc việc điều động và luân chuyển cán bộ
3- Nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, giám sát, quản lý và bảo vệ
cán bộ.

Kiểm tra, giám sát và quản lý cán bộ là hoạt động nhằm nắm chắc thông
tin, diễn biến về tư tưởng, hoạt động của cán bộ, giúp cho cấp uỷ và thủ trưởng
phát hiện vấn đề nảy sinh, kịp thời điều chỉnh và tác động, làm cho đội ngũ cán bộ
và công tác cán bộ luôn luôn hoạt động đúng hướng, đúng nguyên tắc, quy định.

23


Trường Chính trị tỉnh Bắc Giang

Lớp TCLL CT-HC

Thực tế cho thấy, một số cán bộ khi mới được đề bạt, bổ nhiệm, mới được
bầu cử đều là những người tốt, có đạo đức, trung thành, tận tuỵ, liêm khiết, có uy
tín. Song, trong quá trình hoạt động, một phần do thiếu tu dưỡng, rèn luyện, một
phần do thiếu sự kiểm tra, giám sát chặt chẽ, không được quản lý tốt đã dần dần
thoái hoá biến chất, sa ngã. Trong điều kiện giao lưu, mở cửa, hội nhập quốc tế
trong cơ chế thị trường, nhiều cán bộ nhiệt tình, năng động nhưng do không có
một “hành lang”, một “ dây cương” cần thiết nên đã trượt qua giới hạn cho phép.
Điều đó, có phần thiết sót cảu công tác kiểm tra, giám sát và quản lý cán bộ.
Để giữ gìn, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, cần phải làm tốt công tác
quản lý, kiểm tra, giám sát cán bộ theo phương châm:
- Phải tăng cường hơn nữa quản lý, kiểm tra và giám sát mọi hoạt động
của cán bộ để có thể hỗ trợ giúp đỡ hoặc uốn nắn phát hiện sớm những hành vi
sai trái để sửa chữa.
- Cấp uỷ, người thủ trưởng và tổ chức Đảng phải trực tiếp tiến hành quản
lý, kiểm tra, giám sát cán bộ thuộc quyền quản lý của mình.
-Tăng cường việc kiểm tra, giám sát của quần chúng đối với cán bộ, của
cán bộ cấp dưới đối với cán bộ cấp trên và ngược lại.
-Kiểm tra phải có kết luận cụ thể, rõ ràng, đảm bảo đúng nguyên tắc tập

trung, dân chủ, phải đạt được mục đích là nâng cao chất lượng của đội ngũ cán bộ.
Việc quản lý, kiểm tra, giám sát cán bộ phải chú trọng tính toán toàn diện,
tính kip thời cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức và về kết quả hoạt động chuyên
môn, về sinh hoạt và tư tưởng; quản lý và kiểm tra chế độ tự học tập, rèn luyện
của cán bộ..v..v..Kết hợp chế độ kiểm tra thường xuyên, đều đặn theo định kỳ
với việc kiểm tra đột xuất. Đẩy mạnh công tác kiểm tra, giám sát và quản lý cán
bộ của các tổ chức Đảng, chi bộ, đội ngũ đảng viên. Đặc biệt là xây dựng quy
chế bắt buộc mọi cán bộ, nhất là cán bộ chủ chốt, cán bộ cấp cao phải chịu sự
kiểm tra, giám sát của quần chúng. Thực tế trong những năm qua, quần chúng
có vai trò rất lớn trong việc quản lý, kiểm tra, giám sát cán bộ. Nhiều vụ việc
tiêu cực, tham nhũng của cán bộ đều do quần chúng hoặc các cơ quan thông tin
đại chúng phát hiện tố giác và đấu tranh. Cần có quy chế cụ thể để quần chúng
tham gia vào hoạt động này. V.I. Lê - Nin đã từng nói: chỉ khi nào quần chúng
thực sự tham gia vào kiểm tra, kiểm soát và thực sự kiểm tra và kiểm soát được
hoạt động của bộ máy nhà nước thì lúc đó sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội mới
có thể coi là chắc chắn được.
24


Trường Chính trị tỉnh Bắc Giang

Lớp TCLL CT-HC

4-Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách cán bộ.
Hệ thống chính sách là công cụ điều tiết cực kỳ quan trọng trong lãnh đạo,
quản lý xã hội. hệ thống chính sách có thể thúc đẩy, tạo động lực cho sự phát
triển cũng có thể kìm hãm, triệt tiêu các động lực, cản trở sự phát triển của một
hoạt động nào đó. Trong công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, hệ thống chính sách
đúng, hợp lý sẽ khuyến khích được tính tích cực, sự hăng hái, cố gắng, yên tâm
với công việc, nâng cao tính trách nhiệm của cán bộ, phát huy đựoc sự sáng tạo,

thu hút được nhân tài, làm cho nội bộ đoàn kết nhất trí, mọi người đồng tâm hiệp
lực,.v.v… Ngược lại, chính sách cán bộ sai, bất hợp lý sẽ tạo ra tâm trạng chán
nản, kìm hãm sự sáng tạo, triệt tiêu tính tích cực, nội bộ mất đoàn kết, nảy sinh
nhiều tiêu cực, có thể đẩy hàng loạt cán bộ đến chỗ sai lầm, làm cho hao phí tài
năng của đất nước,.v.v..Do đó, để nâng cao chất lượng cán bộ phải đồng thời
xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách cán bộ.
Việc dổi mới và hoàn thiện hệ thống chính sách cán bộ trong thời kỳ mới
phải đảm bảo các yêu cầu cơ bản sau đây:
-Phải quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ và những quan
điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, để từng bước xây dựng
được đội ngũ cán bộ đáp ứng được yêu cầu phát triển trong thời kỳ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
-Đảm bảo quyền lợi gắn liền với trách nhiệm, quyền lợi càng lớn, trách
nhiệm càng nặng nề.
-Hệ thống chính sách phải đảm bảo công bằng. Mọi hoạt động trong xã
hội cũng như người cán bộ phải đảm bảo nguyên tắc cơ bản, có làm, có hưởng,
làm nhiều, cống hiến nhiều, mang lại lợi ích nhiều cho tập thể, cho nhân dân,
cho đất nước thì được hưởng nhiều, hưởng tương xứng; không làm thì không
hưởng. Nói cách khác, chính sách phải đảm bảo trả công giá trị sức lao động
thực tế một cách thoả đáng. Đó là nguyên tắc phân phối của Chủ nghĩa Xã hội.
-Hệ thống chính sách cán bộ phải đảm bảo tính kích thích, khuyến kích tài
năng sáng tạo, có sự lôi cuốn, hấp dẫn mọi người phấn đấu vươn lên. Đồng thời
phải có tác dụng ngăn chặn, răn đe các hành vi, hoạt động sai trái, tiêu cực của
đội ngũ cán bộ. Thông qua hệ thống chính sách cán bộ mà điều tiết, luân chuyển
cán bộ, làm cho số lượng và chất lượng đội ngũ cán bộ cân đối, đồng đều hơn.

25



×