Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

TIỂU LUẬN VỀ ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH XUẤT SIÊU VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (374.31 KB, 29 trang )

MỤC LỤC


DANH MỤC BẢNG VÀ HÌNH
Danh mục bảng

Danh mục hình

2


LỜI MỞ ĐẦU
Đối với các nước đang phát triển trong thời kỳ công nghiệp hóa và mở cửa hội nhập kinh tế
như Việt Nam hiện nay, thâm hụt cán cân thanh toán đã trở thành hiện tượng khá phổ biến vì
yêu cầu nhập khẩu rất lớn trong khi khả năng cạnh tranh của nền kinh tế còn hạn chế, do đó
mức tăng trưởng xuất khẩu trong ngắn hạn không thể bù đắp thâm hụt thương mại. Đặc biệt
ở Việt Nam, tình trạng nhập siêu đã kéo dài liên tục từ những năm 1990, đem lại nhiều hệ
lụy cho nền kinh tế.
Nhưng trong mấy năm trở lại đây, xuất siêu đã trở thành xu hướng và là hiện tượng kinh tế
nổi bật ở nước ta, sau nhiều năm nhập siêu. Đây là dấu hiệu cho một sự khởi sắc của cả nền
kinh tế. Đáng chú ý hơn, không những xuất siêu tăng nhanh trong 3 năm liên tục, xét về quy
mô thì đây còn là mức xuất siêu khá lớn, thậm chí là mức cao nhất từ trước đến nay. Trước
mắt, chúng ta đã giải quyết được vấn đề thâm hụt cán cân thanh toán quốc tế, chứng tỏ nền
sản xuất trong nước tăng trưởng, các sản phẩm trong nước đã đáp ứng tốt nhu cầu của thị
trường nước ngoài và phần nào phản ánh Việt Nam đã tham gia tích cực hơn vào chuỗi giá
trị toàn cầu.
Tuy nhiên, theo các chuyên gia kinh tế, xuất siêu tăng chưa thể nói trước được điều gì, chỉ
mới dựa vào xuất siêu thì chưa thể đánh giá được toàn diện bức tranh kinh tế Việt Nam. Để
có thể đưa ra những giải pháp, biện pháp kịp thời để ổn định được cán cân thanh toán, chúng
ta phải nắm rõ được bản chất vấn đề cũng như đánh giá được rốt cuộc thực trạng xuất siêu
ba năm liên tiếp của Việt Nam là bất thường hay bình thường.



3


Chương 1. Tổng quan về cán cân thương mại và xuất siêu
1.1. Cán cân thương mại và hiện tượng thặng dư cán cân thương mại
Cán cân thương mại ghi lại những thay đổi trong xuất khẩu và nhập khẩu của một quốc
gia trong một khoảng thời gian nhất định (quý hoặc năm) cũng như mức chênh lệch giữa
chúng (xuất khẩu trừ đi nhập khẩu).
Bởi vậy khi mức chênh lệch đó lớn hơn 0, cán cân thương mại có thặng dư và ngược lại,
nếu mức chênh lệch đó nhỏ hơn 0 thì cán cân thương mại lúc này đang trong trạng thái
thâm hụt. Ngoài ra, cán cân thương mại còn được gọi là xuất khẩu ròng hay thặng dư
thương mại. Khi có thặng dư cán cân thương mại thì xuất khẩu ròng/ thặng dư thương
mại mang giá trị dương. Khi có thâm hụt cán cân thương mại thì xuất khẩu ròng/ thặng
dư thương mại mang giá trị âm. Nếu trường hợp lượng xuất khẩu và nhập khẩu bằng
nhau, ta nói cán cân thương mại ở trạng thái cân bằng.
Xuất siêu là khái niệm dùng mô tả tình trạng cán cân thương mại có thặng dư ( có giá trị
lớn hơn 0 ). Nói cách khác, khi kim ngạch xuất khẩu cao hơn nhập khẩu trong một thời
gian nhất định, đó là xuất siêu.

1.2. Các nguyên nhân dẫn đến thặng dư cán cân thương mại
Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng tới cán cân thương mại, có yếu tố trực tiếp, gián tiếp, cụ
thể là:
Thực trạng xuất nhập khẩu chính là nhân tố trực tiếp quyết định có thặng dư hay thâm hụt
cán cân thương mại. Như đã nói ở trên, nếu chêch lệch của xuất khẩu với nhập khẩu lớn
hơn 0 ta có thặng dư, nhỏ hơn 0 thì thâm hụt. Tuy nhiên chỉ nói đến thặng dư hay thâm
hụt thì không thể biết được sự biến động xuất nhập khẩu có ảnh hưởng tiêu cực hay tích
cực tới cán cân thương mại. Cũng có nhiều yếu tố tác động đến thực trạng xuất nhập
khẩu, như tỷ giá hối đoái, tốc độ tăng trưởng GDP (tốc độ càng nhanh thì nhập khẩu cũng
tăng nhanh),... Xuất khẩu thì ảnh hưởng nhiều bởi sản lượng và nhu cầu của thị trường

nước ngoài. Biến động về xuất khẩu cũng gây ảnh hưởng tới cung cầu ngoại tệ.
Tỷ giá hối đoái là một yếu tố quan trọng tác động trực tiếp tới cán cân thương mại, phản
ảnh sức mua của đồng nội tệ và ngoại tệ. Thông thường có 2 cách niêm yết tỷ giá hối
đoái:
• Trực tiếp: một đồng ngoại tệ bằng bao nhiêu đồng nội tệ
• Gián tiếp: một đồng nội tệ bằng bao nhiêu đồng ngoại tệ
Ở đây ta sử dụng cách gián tiếp tức là một đồng nội tệ tương ứng bằng bao nhiêu đồng
ngoại tệ. Trường hợp tỷ giá tăng lên, đồng nội tệ tăng giá, hàng hóa trong nước đắt hơn
một cách tương đối so với hàng hóa đó ở nước ngoài, do đó người nước ngoài có xu
hướng mua hàng trong nước họ chứ không nhập khẩu, người trong nước thì có xu hướng

4


nhập khẩu hàng nước ngoài. Tức là xuất khẩu giảm, nhập khẩu tăng, dẫn đến xuất khẩu
ròng giảm, cán cân thương mại có xu thế thâm hụt. Tương tự trường hợp tỷ giá giảm
xuống thì ngược lại, xuất khẩu ròng tăng, cán cân thương mại có xu thế thặng dư.
Lạm phát giống như tỷ giá hối đoái, lạm phát cho biết về sức mua của đồng tiền, cụ thể
lạm phát là sự gia tăng liên tục mức giá cả chung, hay là sự suy giảm liên tục sức mua của
đồng tiền. Sự chênh lệch tỷ lệ lạm phát giữa hai nước cũng sẽ ảnh hưởng tới cán cân
thương mại. Nếu tỷ lệ lạm phát trong nước cao hơn tỷ lệ lạm phát của nước ngoài thì cả
sức mua đồng tiền của 2 nước đều giảm nhưng đồng nội tệ sức mua giảm mạnh hơn ngoại
tệ, dẫn đến hàng hóa trong nước rẻ hơn một cách tương đối so với hàng hóa nước ngoài.
Như vậy xuất khẩu tăng, nhập khẩu giảm. Ngược lại, nếu lạm phát trong nước thấp hơn
nước ngoài, xuất khẩu ròng giảm.
Chính sách thương mại quốc tế có ảnh hưởng lớn tới xuất nhập khẩu, có thể là khuyến
khích cũng có thể là hạn chế xuất khẩu, nhập khẩu. Chính sách tác động chủ yếu ở đây là
về thuế và phi thuế, ngoài ra còn có các chính sách điều tiết vĩ mô, các quy định về thủ
tục xuất nhập khẩu cũng ảnh hưởng ít nhiều tới hoạt động xuất nhập khẩu.



Chính sách về thuế: thuế nhập khẩu đánh vào hàng hóa nhập khẩu từ nước ngoài,
người tiêu dùng trong nước trực tiếp chịu thuế, theo đó, họ phải trả cho hàng nhập
khẩu của một nước một khoản lớn hơn so với người nước đó mua hàng hóa đó. Mục
đích của thuế này là giảm nhập khẩu, bảo vệ phát triển sản xuất, hướng dẫn tiêu dùng
hàng trong nước, góp phần làm tăng nguồn thu cho Nhà nước. Thuế xuất khẩu cũng
như vậy, thuế này tăng có thể làm giảm xuất khẩu ra nước ngoài. Với bối cảnh giao
lưu hợp tác phát triển hiện nay thì thuế quan giữa các nước có xu hướng giảm để
khuyến khích trao đổi hàng hóa dễ dàng hơn.



Chính sách về phi thuế: chủ yếu gồm hạn ngạch, các tiêu chuẩn về kỹ thuật, chính
sách trợ cấp. Hình thức hạn ngạch áp dụng như một công cụ chủ yếu trong hàng rào
phi thuế quan, hạn ngạch xuất khẩu hàng hoá được quyết định theo mặt hàng, theo
từng quốc gia, theo từng thời gian nhất định. Hạn ngạch hạn chế khối lượng hàng xuất
nhập khẩu, do đó cũng ảnh hưởng tới giá hàng nội địa, tác động tương tự như thuế
quan. Tuy nhiên hình thức này có xu hướng bãi bỏ vì gây ra tình trạng mua bán quyền
được cấp hạn ngạch (vì các doanh nghiệp phải đấu thầu để có quyền này, và cũng bị
hạn chế bởi tổng hạn ngạch của Nhà nước). Về trợ cấp xuất nhập khẩu, chính phủ có
thể áp dụng các biện pháp tự cấp trực tiếp hoặc cho vay với lãi suất thấp đối với các
nhà xuất khẩu trong nước, bên cạnh đó chính phủ còn có thể thực hiện một khoản cho
vay ưu đãi với các bạn hàng nước ngoài để có thể có các điều kiện mua các sản phẩm
do nước mình sản xuất ra và để xuất khẩu ra bên ngoài.

Lợi thế cạnh tranh của quốc gia: bao gồm nhiều yếu tố như kinh tế, xã hội, tự nhiên,...
Về xã hội, trên thế giới có nhiều nền văn hóa khác nhau và mỗi quốc gia có một phong
tục tập quán khác nhau. Mỗi quốc gia cần nhập khẩu hàng hóa mà họ thiếu, hoặc để thay
thế hàng trong nước, hoặc để tiếp tục sản xuất hàng phù hợp với nhu cầu và thị hiếu của
người dân trong một giai đoạn nhất định. Do đó, yếu tố này cũng ảnh hưởng tới hoạt động


5


xuất nhập khẩu, quyết định nhập khẩu cái gì và xuất khẩu loại hàng nào ở đâu để đạt hiệu
quả cao nhất, tạo ra sự biến động của cán cân thương mại. Về kinh tế, sự tăng trưởng kinh
tế cũng phần nào ảnh hưởng xuất nhập khẩu. Tăng trưởng kinh tế cao cũng có nghĩa là
ngày càng tạo ra được nhiều sản phẩm mẫu mã chất lượng tốt, cạnh tranh với hàng hóa
tương tự trên thế giới, sẽ được xuất khẩu được nhiều hơn. Biến động của nền kinh tế thế
giới cũng có tác động tới thương mại mỗi nước, nhất là trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện
nay, kinh tế các nước có xu thế phụ thuộc vào nhau, liên quan tới nhau. Không chỉ có các
chính sách ở trong nước mà cả chính sách của nước ngoài tác động rất nhiều tới hoạt
động thương mại. Ngoài ra còn có sự phát triển của hệ thống tài chính. Hệ thống tài chính
ngân hàng giúp cho việc quản lý, cung cấp vốn, đảm trách việc thanh toán một cách thuận
tiện, nhanh chóng, chính xác và an toàn cho doanh nghiệp điều này rất quan trọng đối với
doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xuất khẩu. Hiện nay, hệ thống tài chính ngân hàng
đã phát triển hết sức lớn mạnh, can thiệp đến tất cả các doanh nghiệp trong nền kinh tế,
làm cho hoạt động xuất khẩu hết sức thuận lợi. Về điều kiện tự nhiên bao gồm : vị trí địa
lý, khí hậu … cũng tác động đến hoạt động xuất khẩu, đặc biệt với những hoạt động xuất
khẩu sử dụng tài nguyên thiên nhiên làm nguyên liệu chính như hàng thủ công mỹ nghệ.
Tiếp đến có ảnh hưởng của hệ thống giao thông vận tải, thông tin liên lạc. Việc thực hiện
xuất khẩu gắn liền với công việc vận chuyển hệ thống thông tin liên lạc, nhờ có thông tin
liên lạc mà các thoả thuận có thể tiến hành nhanh chóng, kịp thời. Ngày nay, công nghệ
kỹ thuật rất phát triển, hệ thống thông tin hiện đại đã đơn giản hoá công việc của hoạt
động xuất khẩu rất nhiều, giảm đi hàng loạt các chi phí, nâng cao kịp thời nhanh gọn và
việc hiện đại hoá các phương tiện vận chuyển, bốc dỡ, bảo quản góp phần đem quá trình
thực hiện xuất khẩu được nhanh chóng và an toàn.
1.3. Tác động của thặng dư cán cân thương mại lên nền kinh tế
Góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế: Cán cân thương mại, hay còn gọi là xuất khẩu
ròng ( X-M) cùng với các yếu tố khác như chi cho tiêu dùng ( C ), đầu tư ( I), chi tiêu

chính phủ ( G) cấu thành nên tổng thu nhập quốc dân GDP. Bởi vậy mà có thể nói rằng
khi cán cân thương mại thặng dư, xuất khẩu ròng sẽ mang giá trị dương. Điều này sẽ dẫn
tới GDP tăng lên. Như vậy có thể kết luận rằng thặng dư cán cân thương mại góp phần
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, từ đó tác động tích cực đến các mặt khác của nền kinh tế
như tạo thêm công ăn việc làm, tăng tích lũy quốc gia dưới dạng dự trữ ngoại hối, tạo uy
tín và tiền đề để đồng nội tệ tự do chuyển đổi.
Tạo thêm công ăn việc làm: Cán cân thương mại thặng dư do tốc độ xuất khẩu lớn hơn
nhập khẩu thì việc phát triển các ngành hàng xuất khẩu sẽ cần thêm lao động, còn để
xuất khẩu có hiệu quả thì phải tận dụng được lợi thế lao động nhiều, giá rẻ ở nước ta. Khi
ấy thặng dư cán cân thương mại sẽ góp phần giải quyết công ăn việc làm cho người lao
động, tạo thu nhập và tăng mức sống người dân. Đây là điều vô cùng ý nghĩa khi mà thất
nghiệp hiện nay đang là nỗi lo ngại của cả xã hội.
Ổn định đồng nội tệ: Không chỉ có vậy, ở một khía cạnh nào đó, đồng tiền của một nền
kinh tế rất nhạy cảm với biến động bất ổn của nền kinh tế chủ yếu xuất phát từ sự thâm

6


hụt thương mại và giá trị đồng này chỉ ổn định khi số liệu cán cân thương mại cho thấy
nhu cầu hàng hoá và dịch vụ từ các nước khác nhiều hơn, dẫn tới thặng dư thương mại.
Như vậy thì thặng dư thương mại còn góp phần ổn định giá trị đồng nội tệ.
Góp phần thu hút đầu tư: Nếu như báo cáo cán cân thương mại thặng dư, nghĩa là kim
ngạch xuất khẩu của một quốc gia mở rộng nhiều hơn so với nhập khẩu, cho thấy dấu
hiệu nền kinh tế của quốc gia đó đang tăng trưởng mạnh mẽ và mở ra nhiều cơ hội đầu tư
hấp dẫn ở quốc gia đó.
Nâng cao uy tín đất nước trên thị trường thế giới tăng cường quan hệ kinh tế đối ngoại:
cán cân thương mại thặng dư dẫn tới xuất siêu, đồng thời tăng tích luỹ ngoại tệ, luôn đảm
bảo khả năng thanh toán với đối tác, tăng được tín nhiệm.
Thặng dư cán cân thương mại có thể là hệ quả của suy giảm kinh tế nếu chỉ đơn thuần vì
tốc độ nhập giảm mạnh hơn xuất mà dẫn tới thặng dư cán cân thương mại. Khi ấy thặng

dư cán cân thương mại không những không là một tín hiệu tốt cho nền kinh tế mà nó còn
cho thấy tăng trưởng sản xuất không bật lên được và sẽ có những tác động không tốt đến
việc thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế hiện nay và trong thời gian tới. nhập khẩu
giảm mạnh cũng có nghĩa là đầu tư xây dựng và sản xuất gia công cho xuất khẩu bị giảm.
Xét về dài hạn thì năng lực của nền kinh tế sẽ bị ảnh hưởng do chúng ta không duy trì
được sự đầu tư liên tục cho sản xuất. Đây chính là điều đáng được cảnh báo. Thặng dư
cán cân thương mại khi nhập khẩu giảm do khả năng hấp thụ đầu vào của nền kinh tế
giảm quá mạnh. Điều này đồng nghĩa với sản xuất gặp khó khăn nghiêm trọng và tăng
trưởng không mấy lạc quan.

7


Chương 2. Thực trạng và đánh giá tình hình xuất siêu của Việt Nam
2.1. Thực trạng xuất siêu VN
2.1.1. Quy mô xuất nhập khẩu
Đơn vị: Tỷ USD
Năm

Kim ngạch
xuất khẩu
(Tỷ USD)

Tăng trưởng
xuất khẩu
(%)

Kim ngạch
nhập khẩu
(Tỷ USD)


Tăng trưởng
nhập khẩu
(%)

Cán cân
thương
mại

2010

72,24

26,44

84,84

21,23

-12,6

2011

96,91

34,15

106,75

25,82


-9,84

2012

114,57

18,2

113,79

6,6

0,78

2013

132,17

15,4

132,03

16,03

0,14

2014

150,1


13,6

148

12,1

2,1

Nguồn: Tổng cục hải quan
Bảng . Xuất nhập khẩu hàng hóa và cán cân thương mại của Việt Nam giai đoạn 20102014

2.1.1.1. Quy mô xuất khẩu
Trong 5 năm từ 2010-2014, quy mô xuất khẩu của Việt Nam liên tục tăng với tốc độ
cao. Với mốc ban đầu là năm 2010, Việt Nam mới chỉ xuất khẩu 72,24 tỷ USD, thì tính
đến cuối năm 2014, con số này lên tới 150, 1 tỷ USD, tăng 107,78% so với năm 2010.
Tính chung cả năm 2014, tổng kim ngạch hàng hóa xuất khẩu đạt 150,1 tỷ USD, tăng
13,6% so với năm 2013. Khu vực kinh tế trong nước đạt 48,5 tỷ USD, tăng 10,4%, mức
tăng cao nhất từ năm 2012, chiếm 32,31% tổng kim ngạch xuất khẩu và đóng góp 3,5
điểm phần trăm vào mức tăng chung; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 101,6 tỷ
USD (gồm cả dầu thô), tăng 15,2%, chiếm 67,69% tổng kim ngạch xuất khẩu và đóng
góp 10,1 điểm phần trăm vào mức tăng chung (đạt 94,4 tỷ USD (không kể dầu thô) và
tăng 16,7%). Nếu loại trừ yếu tố tăng giá, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu năm 2014 tăng
9,1%.

8


2.1.1.2. Quy mô nhập khẩu
Trong 5 năm từ 2010-2014, quy mô nhập khẩu của Việt Nam liên tục tăng. Tính chung

cả năm 2014, tổng kim ngạch hàng hóa nhập khẩu ước tính đạt 148 tỷ USD, tăng 12,1%
so với năm 2013. Tăng trưởng nhập khẩu đến từ cả hai khu vực, trong đó kim ngạch
nhập khẩu của khu vực FDI đạt cao hơn khu vực kinh tế trong nước về cả số tuyệt đối
lẫn tốc độ tăng trưởng. Tính chung năm 2014, kim ngạch nhập khẩu của khu vực FDI
đạt 84,5 tỷ USD, tăng 13,6%, chiếm 57,09% tổng kim ngạch nhập khẩu; khu vực kinh
tế trong nước đạt 63,5 tỷ USD, tăng 10,2% so với năm 2013, chiếm 42,91% tổng kim
ngạch nhập khẩu.
Biểu đồ số liệu dưới đây mô tả kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa qua các năm của
Việt Nam, từ năm 2010-2014
Hình . Kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam giai đoạn 2010-2014

Nguồn: Tổng cục thống kê
Nhìn chung, quy mô xuất nhập khẩu của Việt Nam ngày càng tăng qua các năm. Từ
năm 2011 trở về trước, Việt Nam nhập siêu, cán cân thương mại bị thâm hụt. Nhưng từ
năm 2012 , Việt Nam xuất siêu, cán cân thương mại thặng dư. Năm 2014, Việt Nam
xuất siêu 2,1 tỷ USD, là năm thứ 3 liên tiếp xuất siêu kể từ khi gia nhập WTO.

9


2.1.2. Hàng hóa xuất nhập khẩu
2.1.2.1. Hàng hóa xuất khẩu
Đơn vị: Tỷ USD
Năm

Công nghiệp
nặng, khoáng
sản

Công nghiệp

nhẹ, tiểu thủ
công nghiệp

Hàng nông,
lâm, thủy sản

Hàng
thủy sản

2012

48,2

43,3

16,8

6,1

2013

58,6

50,3

16,5

6,7

2104


66,5

57,9

17,8

7,9

Nguồn: Bộ Công Thương
Bảng . Kim ngạch các nhóm hàng xuất khẩu
Hình . Chuyển dịch cơ cấu nhóm hàng xuất khẩu Việt Nam

Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam ngày càng chuyển biến tích cực, với sự
chuyển dịch dần từ xuất khẩu nguyên liệu thô, sản phẩm khai khoáng sang các mặt hàng
gia công, chế tạo. Năm 2014, nhóm hàng công nghiệp nặng và khoáng sản chiếm tỷ

10


trọng cao nhất, đạt 66,5 tỷ USD, tăng 12,0% so với cùng kỳ năm 2013, chiếm 44,31%
tổng kim ngạch hàng hóa xuất khẩu, trong đó: Mặt hàng điện thoại và linh kiện ước đạt
24,08 tỷ USD, tăng 13,4% và chiếm 16,04%; điện tử, máy tính và linh kiện ước đạt
11,66 tỷ USD và chiếm 7,77%; máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng đạt 7,26 tỷ USD,
tăng 21,6%, chiếm 4,84%; phương tiện vận tải và phụ tùng đạt 5,48 tỷ USD, tăng
10,4%, chiếm 3,65%. Nhóm hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp đạt 57,9 tỷ
USD, tăng 15,9% và chiếm 38,57%, trong đó: Túi xách, va li, mũ, ô dù đạt 2,31 tỷ
USD, tăng 33,4%; giày dép đạt 10,22 tỷ USD, tăng 23%, chiếm 6,81%; hàng dệt may
đạt 20,77 tỷ USD, tăng 18,2%, chiếm 13,84%; gỗ và sản phẩm gỗ đạt 6,1 tỷ USD, tăng
13,0%, chiếm 4,06%. Hàng nông sản, lâm sản ước 17,8 tỷ USD, tăng 11,4% và chiếm

11,86%, trong đó cà phê đạt 3,55 tỷ USD, tăng 34,3%, chiếm 2,38%. Hàng thủy sản đạt
7,9 tỷ USD, tăng trưởng cao nhất tại mức 17,6%, chiếm 5,26% tổng kim ngạch hàng
hóa xuất khẩu.

STT

Kim ngạch
(Tỷ USD)

Hàng hóa

1

Điện thoại các loại và linh kiện

24,04

2

Hàng dệt may

20,77

3

Điện tử, máy tính và linh kiện

11,66

4


Giầy dép

10,22

5

Hàng thủy sản

7,87

6

Máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ

7,26

7

Dầu thô

7,18

8

Gỗ và sản phẩm từ gỗ

6,1

9


Phương tiện vận tải và phụ tùng

5,48

10

Cà phê

3,55
Nguồn: Bộ Công Thương

Bảng . Kim ngạch 10 nhóm hàng xuất khẩu chủ lực
của Việt Nam năm 2014

11


12


Biểu đồ trên mô tả sự chuyển dịch cơ cấu nhóm hàng xuất khẩu của Việt Nam, còn biểu
đồ dưới dây mô tả chi tiết các mặt hàng và giá trị kim ngạch xuất khẩu năm 2014 như
sau:
Hình . 10 mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam năm 2014

Nguồn: fia.gov.vn

Xuất khẩu cả nước năm 2014 đạt 150,1 tỷ USD, tăng 13,6% so với năm 2013. Đặc biệt,
năm nay, cả nước đạt mức xuất siêu kỷ lục khoảng 2,1 tỷ USD. Đóng góp vào mức xuất

khẩu của năm 2014, có 10 nhóm hàng chủ lực đó là: điện thoại các loại và linh kiện;
hàng dệt may; điện tử, máy tính và linh kiện; giày dép; hàng thủy sản; máy móc, thiết
bị, dụng cụ; dầu thô; gỗ và sản phẩm gỗ; phương tiện vận tải và phụ tùng; cà phê. Tổng
kim ngạch xuất khẩu của 10 mặt hàng này đạt 104,13 tỷ USD, chiếm tới 69,37% tổng
kim ngạch xuất khẩu của cả nước năm 2014. Các nhóm hàng này đều có giá trị kim
ngạch xuất khẩu năm 2014 trên 3,5 tỷ USD, trong đó hai nhóm hàng có kim ngạch xuất
khẩu cao nhất là điện thoại và linh kiện (24,08 tỷ USD) và dệt may (20,77 tỷ USD), đây
cũng là hai nhóm duy nhất luôn đạt kim ngạch xuất khẩu ổn định ở mức trên 1 tỷ
USD/tháng.

13


2.1.2.2. Hàng hóa nhập khẩu
Hình . Chuyển dịch cơ cấu nhóm hàng nhập khẩu Việt Nam

Trong điều kiện trình độ phát triển kinh tế còn thấp, việc tăng cường nhập khẩu máy
móc, thiết bị, nguyên, nhiên vật liệu đã tạo thuận lợi để Việt Nam tiếp cận công nghệ,
thiết bị tiên tiến, cải thiện trình độ công nghệ, giải quyết sự thiếu hụt về nguyên, nhiên
liệu đầu vào, góp phần thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu. Cụ thể: Nhóm hàng tư liệu sản
xuất ước tính đạt 135 tỷ USD, tăng 12,5% so với năm 2013. Đây vẫn là nhóm hàng
chiếm tỷ trọng lớn nhất với 91,22%, trong đó nhóm hàng máy móc, thiết bị, dụng cụ,
phương tiện vận tải, phụ tùng đạt 55,6 tỷ USD, tăng 10,1% và chiếm 37,57%; nhóm
hàng nguyên, nhiên vật liệu đạt 79,4 tỷ USD, tăng 14,3% và chiếm 53,65%. Nhóm hàng
vật phẩm tiêu dùng đạt 13,0 tỷ USD, tăng 9,3% và chiếm tỷ trọng 8,78% tổng kim
ngạch nhập khẩu hàng hóa.
Kim ngạch nhập khẩu trong năm 2014 của một số mặt hàng phục vụ sản xuất tăng cao
so với năm trước: Nguyên phụ liệu dệt may, giày dép đạt 4,75 tỷ USD, tăng 25,6%,
chiếm 3,21%; bông đạt 1,4 tỷ USD, tăng 22,7%; máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng
đạt 22,46 tỷ USD, tăng 20,2%, chiếm 15,18%; vải các loại đạt 9,5 tỷ USD, tăng 14%,

chiếm 6,42%; chất dẻo đạt 6,3 tỷ USD, tăng 10,9%, chiếm 4,26%; hóa chất đạt 3,32 tỷ
USD, tăng 9,5%, chiếm 2,24%; xăng dầu đạt 7,62 tỷ USD, tăng 9,3%, chiếm 5,15%.
Một số mặt hàng có kim ngạch nhập khẩu lớn cũng tăng so với năm 2013: Điện tử, máy
tính và linh kiện đạt 18,77 tỷ USD, tăng 6%, chiếm 12,68%; điện thoại các loại và linh

14


kiện đạt 8,6 tỷ USD, tăng 6,7%, chiếm 5,81%; ô tô đạt 3,68 tỷ USD, tăng 53,1%, chiếm
2,49%, trong đó ô tô nguyên chiếc đạt 1,6 tỷ USD, tăng mạnh tới 117,3%.

2.1.3. Thị trường xuất nhập khẩu
2.1.3.1. Thị trường xuất khẩu
Hoa Kì và EU tiếp tục là hai thị trường dẫn đầu về xuất khẩu cũng như hai thị trường
xuất siêu lớn nhất của Việt Nam với giá trị xuất khẩu tăng mạnh giai đoạn 2012 – 2014.
EU là đối tác thương mại quan trọng lớn thứ hai đồng thời là khu vực chiếm tỷ trọng lớn
trong quan hệ thương mại giữa Việt Nam và châu Âu, đạt 90,08% kim ngạch xuất nhập
khẩu với khu vực thị trường châu Âu.
Đơn vị: tỷ USD
Năm
2011
2012
2013
2014

Xuất khẩu
Trị giá
Tăng
(%)
16,5

45,3
20,3
22,7
24,3
19,8
27,9
14,7

Nhập khẩu
Trị giá
Tăng
(%)
7,7
21,8
8,8
13,48
9,4
7,52
8,9
-5,9

Xuất nhập khẩu
Trị giá
Tăng (%)
24.,2
29,1
33,7
36,8

36,9

19,8
16,1
9,2

Bảng . Kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam-EU giai đoạn 2011-2014

Năm 2012 đánh dấu mốc EU vượt qua Mỹ trở thành thị trường xuất khẩu lớn nhất của
Việt Nam với kim ngạch xuất khẩu ước tính đạt 20,3 tỷ USD, tăng 22,5% (3,7 tỷ USD)
so với cùng kỳ. Năm 2013 EU tiếp tục là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam
với tổng kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam-EU đã đạt trên 33,7 tỷ USD, tăng 16% so
với năm 2012, trong đó xuất khẩu đạt 24,3 tỷ USD tăng 19%, nhập khẩu đạt trên 9,4 tỷ
USD tăng 7,5%.Năm 2014, EU xuống vị trí thứ hai sau Mỹ với kim ngạch xuất khẩu
ước đạt 27,9 tỷ USD1, tăng 14,7 % (tương đương 3,6 tỷ USD) so với năm 2013.

1 Nguồn: 1. Báo cáo tóm tắt tình hình sản xuất Công nghiệp và hoạt động Thương mại
năm 2014 và kế hoạch năm 2015, Bộ Công Thương
2. Báo cáo tóm tắt tình hình thực hiện nhiệm vụ kế hoạch năm 2013, giai đoạn
2011-2013 và kế hoạch năm 2014, 2015 của ngành Công Thương
3. Co-hoi-moi-voi-thi-truong-xuat-khau-lon-nhat-EU, Baodientu.chinhphu.vn

15


Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam sang thị trường EU là các sản phẩm
truyền thống có thế mạnh như hàng dệt may, giày dép...
Trong số các nước EU, Đức, Anh, Pháp và Hà Lan luôn là những thị trường xuất khẩu
lớn nhất của Việt Nam với tốc độ tăng trưởng trung bình trên 20%/năm. Năm 2013, Việt
Nam xuất khẩu vào Đức đạt trên 7 tỷ USD (tăng 18% so với năm 2012), Anh 4,2 tỷ
USD (tăng 19%), Hà Lan đạt 3,6 tỷ USD (tăng 13%), Pháp đạt 3,2 tỷ USD (giảm 14%),
Italy đạt 1,87 tỷ USD (tăng 22,3%), Tây Ban Nha đạt 1,79 tỷ USD (tăng 15,3%).

Việc Việt Nam ký kết Hiệp định FTA với EU có giá trị về mặt chiến lược và dài hạn vì
EU là thị trường lớn và rất tiềm năng gồm 27 nước, diện tích khoảng 4 triệu km2 và 490
triệu dân có thu nhập cao. Hơn thế, ta có thể tranh thủ đề nghị EU với tư cách đối tác, ta
đã đáp ứng các yêu cầu mở cửa thị trường của EU về mức độ nào đó tương đương với
EU thì EU có thể công nhận Việt Nam là nước có nền kinh tế thị trường, giúp Việt Nam
có cơ hội công bằng trong các cuộc điều tra chống bán phá giá mà EU có thể áp dụng
sau khi FTA có hiệu lực.
Thị trường Hoa Kỳ xếp thứ hai sau EU năm 2012 và 2013 với kim ngạch xuất khẩu là
29,7 và 23,8 tỷ USD thì đến năm 2014 đã vươn lên vị trí trí thứ nhất vượt qua EU vào
năm 2014 với kim ngạch xuất khẩu ước tính đạt 28,5 tỷ USD, tăng 19,6% (4,7 tỷ USD)
so với năm 2013.
Đơn vị: tỷ USD
Năm
2011
2012
2013
2014

Xuất khẩu
Trị giá
Tăng
(%)
16,9
19,1
19,7
16
23,8
20,8
28,5
19,6


Nhập khẩu
Trị giá
Tăng
(%)
4,5
20,2
4,8
6,8
5,1
6,1
8,9
20,3

Xuất nhập khẩu
Trị giá
Tăng
(%)
21,4
6,6
24,5
14,5
28,9
17,9
37,4
29,4

Bảng . Kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam-Mỹ giai đoạn 2011-2014
Năm 2014, Việt Nam đã trở thành một trong ba nước xuất khẩu lớn vào Mỹ trong số các
nước ASEAN, vượt qua cả Thái-lan và Ma-lai-xi-a. Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam

vào Mỹ chiếm 20% tổng kim ngạch xuất khẩu của ASEAN vào nước này. Năm 2013 tỉ
trọng xuất khẩu vào thị trường Mỹ chiếm 17,9% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt
Nam, riêng dệt may xuất khẩu vào Mỹ khoảng 7,7-8 tỷ USD và đến năm 2014 đã đạt
19%. Đây là một thị trường lớn và liên tục phát triển trong những năm vừa qua.

16


Hiện này Việt Nam đang trong quá trình tham gia vào Hiệp định Đối tác Kinh tế Chiến
lược xuyên Thái Bình Dương (TPP) với những ưu đãi trong khuôn khổ TPP sẽ giúp tạo
điều kiện cho quá trình xuất khẩu của Việt Nam vào Mỹ và có khả năng tăng lên mức
trên 20% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam, nghĩa là Mỹ sẽ trở thành thị trường
xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam. Tuy nhiên, Việt Nam cần lường trước rằng tính bảo hộ
cho sản xuất trong nước của Mỹ rất cao, những rào cản thương mại, kỹ thuật của Mỹ
ngày càng khắt khe đặc biệt đối với hàng nông sản, thực phẩm để có những chuẩn bị và
biện pháp hiệu quả.
Hình . Xuất khẩu hàng hóa theo thị trường giai đoạn 2011-2015

Nguồn: Thống kê hải quan Việt Nam
Trong giai đoạn 2011-2015, xuất khẩu tăng trên tất cả các thị trường, cụ thể năm 2014:

- Thị trường Châu Á: vẫn là thị trường chiếm tỷ trọng lớn nhất trong cơ cấu thị
trường xuất khẩu của Việt Nam, chiếm 49,7%, với KNXK ước đạt 74,5 tỷ USD,
tuy nhiên về tốc độ tăng trưởng lại tăng thấp (các nước thuộc nhóm Đông Nam Á
tăng 3,1%) hơn so với các khu vực thị trường khác.

- Thị trường Châu Âu: ước đạt 30,2 tỷ USD, chiếm 20,1% trong cơ cấu thị trường
xuất khẩu, tăng 12,3% so với năm 2013.

- Thị trường Châu Mỹ năm 2014 ước đạt 34,5 tỷ USD, chiếm 23% trong cơ cấu thị

trường xuất khẩu, tăng 22,3% so với năm 2013.

- Thị trường Châu Phi ước đạt 2,2 tỷ USD, mức tăng không đáng kể so với năm
2013.
- Thị trường Châu Đại Dương ước đạt 4,3 tỷ USD, tăng 14,3% so với năm 2013.

2.1.3.2. Thị trường nhập khẩu
Hình . Nhập khẩu hàng hóa theo thị trường giai đoạn 2011-2015

Nguồn: Thống kê hải quan Việt Nam
Năm 2014 Trung Quốc vẫn là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim
ngạch ước tính đạt 43,7 tỷ USD, tăng 18,2% so với năm 2013. Đứng thứ hai là ASEAN,
ước tính đạt kim ngạch 23,1 tỷ USD, tăng 8,2%. Hàn Quốc đạt 21,7 tỷ USD, tăng 4,9%.

17


Nhật Bản đạt 12,7 tỷ USD, tăng 9,4%. Thị trường EU đạt 8,9 tỷ USD, giảm 5,9% nhưng
thị trường Mỹ lại tăng mạnh 74,5 %. Cụ thể:
Thị trường Châu Á: vẫn là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam với tổng kim
ngạch nhập khẩu tăng mạnh qua các năm. Năm 2014, tổng kim ngạch nhập khẩu vào
Việt Nam từ thị trường này đạt 120,1 tỷ USD, tăng 12,3% và vẫn chiếm tỷ trọng lớn
nhất là 81,1% KNNK cả nước. Trong đó, chủ yếu nhập từ các nước Đông Á chiếm
hơn 60,9%, từ Đông Nam Á chiếm hơn 15,5%, riêng Trung Quốc chiếm hơn 29,5%
tổng KNNK.
Thị trường Châu Mỹ và Châu Đại Dương: có mức tăng cao 25,6%, chủ yếu tăng ở thị
trường Hoa Kỳ 20,3% và thị trường Ốt-xtrây-li-a 31,2%, đặc biệt các nước Mỹ La tinh
và Caribe 39,6%.
Thị trường Châu Âu: giảm 5,5% so với cùng kỳ do kim ngạch nhập khẩu từ thị trường
EU năm 2014 giảm 5,9%.


2.2. Đánh giá tình hình xuất siêu của Việt Nam
Dựa vào xuất thì chưa thể đánh giá toàn diện bức tranh kinh tế Việt Nam. Tuy nhiên,
xuất siêu phản ánh một mảng quan trọng trong bức tranh kinh tế Việt Nam thời gian
qua. Đặc biệt, nếu không có gì đột biến thì đây là năm thứ 3 liên tiếp kinh tế Việt Nam
xuất siêu.
Năm 2014, Việt Nam giữ vững thành tích xuất siêu 3 năm liên tiếp. Theo Tổng cục
thống kê, tính chung 11 tháng năm nay, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu ước tính đạt 137
tỷ USD, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 44,8 tỷ USD, khu vực có vốn đầu tư
nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 92,2 tỷ USD. Cái lợi của xuất siêu là chúng ta không
phải lo thâm hụt cán cân thanh toán quốc tế chứng tỏ nền sản xuất trong nước tăng
trưởng, các sản phẩm trong nước đã đáp ứng tốt nhu cầu của thị trường nước ngoài và
phần nào phản ánh Việt Nam đã tham gia tích cực hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu. Số liệu
thống kê về sản xuất trong nước ủng hộ cho lập luận này.
Theo đó, trong 11 tháng đầu năm 2014, chỉ số giá trị sản xuất công nghiệp tăng 7,5%.
Những mặt hàng sản xuất tăng mạnh là điện thoại di động; giầy dép; sữa tươi, vải dệt từ

18


sợi tự nhiên. Một số mặt hàng tăng khá là: điện sản xuất tăng 12,3%; tivi tăng 11,0%;
quần áo mặc thường tăng 10,3%; thủy hải sản chế biến tăng 10,0%.
Theo Tổng cục Thống kê, trong 11 tháng, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu
thô) xuất siêu ở mức khá cao với 15,54 tỷ USD, khu vực trong nước tiếp tục nhập siêu
với 13,48 tỷ USD. Điều này phản ánh mức độ tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu chung
của nền kinh tế tăng nhưng chủ yếu ở khu vực FDI chứ không phải khu vực kinh tế
trong nước. Các doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn rất nhiều việc phải làm để vươn ra
biển lớn.
Nhờ xuất siêu chuyển đổi vị thế trong quan hệ buôn bán của Việt Nam với nước ngoài,
góp phần cải thiện cán cân thương mại và cán cân thanh toán, dự trữ ngoại hối tăng, ổn

định tỷ giá trong thời gian tương đối dài, kiềm chế lạm phát, giảm tình trạng đô la hóa...
Tuy nhiên, có những mảng tối trong bức tranh kinh tế nếu xét sâu cấu trúc của xuất
siêu.Theo đó, xuất siêu thuộc về khu vực FDI (Xuất khẩu 92,2 tỷ USD, nhập khẩu 76,7
tỷ USD); khu vực kinh tế trong nước thậm chí còn nhập siêu (Xuất khẩu 44,8 tỷ USD,
nhập khẩu 58,3 tỷ USD). Hơn nữa, vài năm gần đây xuất siêu ở khu vực FDI tăng là do
các doanh nghiệp FDI lớn đang ở vào độ chín của một số dự án đầu tư, đó là kết quả của
việc nhập siêu máy móc thiết bị những năm trước trong giai đoạn đầu tư chưa ra sản
phẩm. Trong những năm tới khi đã hết giai đoạn tăng công suất của những dự án lớn do
các doanh nghiệp FDI đầu tư thì khả năng nhập siêu hoàn toàn có thể xảy ra.
Nhìn tổng quan, sản xuất hàng xuất khẩu chủ yếu từ doanh nghiệp FDI, xuất khẩu chủ
yếu xuất thô, đáp ứng nhu cầu trong nước là các tập đoàn đa quốc gia. Điều này cho
thấy khả năng đáp ứng yêu cầu thị trường quốc tế của doanh nghiệp Việt Nam còn thấp.
Nếu không có giải pháp vĩ mô phù hợp và các doanh nghiệp Việt Nam không nhận thức
rõ nguy cơ này thì chúng ta không chỉ không mở rộng được thị trường xuất khẩu ra
nước ngoài mà còn thua ngay trên sân nhà. Đương nhiên, nếu cứ như vậy chúng ta sẽ
phải chấp nhận “kiếp làm thuê” với đồng thù lao rẻ mạt và nền kinh tế Việt Nam sẽ khó
thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình như nhiều chuyên gia kinh tế đã cảnh báo.

19


Tổng cầu ở trong nước bị co lại trong thời gian khá dài chưa được phục hồi, làm cho
tăng trưởng nhập khẩu bị chậm lại (bình quân thời kỳ 2010-2013 tăng 17,2%/năm, 8
tháng 2014 tăng 10,7%), thấp hơn nhiều so với tốc độ tăng xuất khẩu dẫn đến chuyển
đổi khá đột ngột làm cho nền sản xuất trong nước không phản ứng kịp với bất ổn bên
ngoài.
Chuyển từ nhập siêu sang xuất siêu, nhập siêu tăng chậm lại, cộng hưởng với tăng
trưởng dư nợ tín dụng chậm lại kéo dài làm cho sản xuất, kinh doanh gặp khó khăn, số
doanh nghiệp giải thể, ngừng hoạt động, thu hẹp sản xuất kinh doanh kéo dài, tăng
trưởng kinh tế chậm phục hồi.


Chương 3. Xu hướng của xuất siêu và giải pháp giúp cán cân thương mại cân bằng
3.1. Xu hướng của xuất siêu Việt Nam
3.1.1. Xuất siêu chững lại, nhập siêu quay trở lại
Hình . Biểu đồ về xuất nhập khẩu Việt Nam từ 2012 đến 2014

Nguồn: Tổng cục thống kê
Nhìn vào biểu đồ, ta thấy trong 3 năm trở lại đây Việt Nam xuất siêu. Và sự chênh lệch
giữa giá trị xuất khẩu và nhập khẩu ở 2 năm 2012 và 2013 thấy rõ rệt, nhưng đến năm

20


2014 khoảng cách đã được rút ngắn lại. Trong 2 tháng đầu năm 2015, giá trị xuất khẩu là
22917900 (nghìn USD), giá trị nhập khẩu là 24246041 (nghìn USD). Vì vậy, những nhà
kinh tế nhận định: Xuất siêu sẽ chững lại và nhập siêu sẽ quay trở lại.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này.
Thứ nhất, trong 3 năm qua, khối các doanh nghiệp FDI đóng góp chủ yếu trong cải thiện
cán cân thương mại. Cán cân xuất siêu của khối các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước
ngoài không những khắc phục tình trạng nhập siêu của nền kinh tế mà còn đạt được xuất
siêu trong những năm qua. Tuy nhiên, thời gian tới, việc xuất siêu của khối doanh nghiệp
FDI sẽ tăng trưởng chậm lại. Xu hướng này thể hiện rõ qua các số liệu tăng trưởng kim
ngạch xuất khẩu của khối doanh nghiệp FDI: Năm 2012 là 31%, đến năm 2013, kim
ngạch xuất khẩu của khối này chỉ tăng 22% và 10 tháng năm 2014 là 12%. Nghĩa là, phần
lớn các doanh nghiệp FDI đã đạt được công suất thiết kế, đạt ngưỡng tăng trưởng sản
xuất, đồng thời là ngưỡng xuất khẩu, đảm bảo được lợi nhuận đã đề ra. Với đà giảm này,
trong năm 2015, nhiều khả năng tăng trưởng về xuất khẩu của các doanh nghiệp FDI sẽ
còn chậm hơn nhiều so với những năm trước. Trong khi đó, các doanh nghiệp trong nước
từ trước đến nay vẫn đang trong tình trạng nhập siêu.
Thứ hai, nhiều mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam sau thời gian dài tăng trưởng liên tục

với tốc độ cao đã đạt ngưỡng về khối lượng (nông sản, thủy sản,…), tốc độ tăng kim
ngạch xuất khẩu có xu hướng giảm dần. Trong khi đó, năng lực chế biến, tiếp thị, xúc tiến
thương mại nhằm tăng cường giá trị gia tăng của hàng hóa xuất khẩu chưa có cải thiện
đáng kể, vì vậy, rất khó có tốc độ tăng trưởng cao của nhóm những mặt hàng này.
Thứ ba, kinh tế thế giới năm 2015 được dự báo tăng trưởng tốt hơn, triển vọng thu hút
đầu tư từ các hiệp định thương mại tự do của nước ta với các đối tác sắp được ký kết
(Việt Nam-EU, Việt Nam-Hàn Quốc, Việt Nam-Liên minh Thuế quan… hay tương lai
gần là TPP), làm cho Việt Nam trở nên “hấp dẫn” đầu tư hơn. Bối cảnh đó góp phần làm
cho nguồn lực đầu tư từ nước ngoài vào Việt Nam để đón bắt cơ hội từ các hiệp định sắp
được ký kết sẽ gia tăng. Đây là nguyên nhân làm gia tăng giá trị nhập siêu, vì các doanh
nghiệp mới vào đầu tư sẽ phải triển khai dự án, tập trung nhập khẩu nhiều máy móc, thiết
bị.

21


Thứ tư, hưởng ứng chủ trương mở rộng, đa dạng hóa thị trường xuất nhập khẩu, để không
quá phụ thuộc vào bất kỳ một thị trường nào của Chính phủ, nhiều doanh nghiệp trong
nước chuyển hướng, nhập khẩu máy móc, thiết bị từ nhiều quốc gia khác với chất lượng
hàng hóa tốt hơn, đồng nghĩa với giá thành cao hơn, dẫn tới tổng kim ngạch nhập khẩu
tăng.
Giá trị nhập khẩu tăng trong năm 2015 còn có ảnh hưởng của việc chuyển dịch sản xuất,
kinh doanh của các doanh nghiệp nước ngoài từ các quốc gia khác vào Việt Nam, trước
triển vọng phát triển xuất khẩu sau các Hiệp định Thương mại tự do FTA sắp được ký kết
hay TPP. Chính các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài tăng cường nhập khẩu máy
móc, thiết bị để đón bắt cơ hội đón đầu các hiệp định.
Ngoài ra, trong thời gian tới, một số nhà máy nhiệt điện sẽ đi vào hoạt động, Việt Nam
phải nhập khẩu than vì nguồn cung than trong nước không đáp ứng đủ. Trong lĩnh vực
dầu khí, mặc dù Nhà máy lọc dầu Dung Quất hiện nay đã đáp ứng được khoảng 30% nhu
cầu xăng dầu trong nước, nhưng trong thời gian tới, ngoài việc giảm lượng xuất khẩu dầu

thô để chế biến xăng dầu, Việt Nam vẫn phải nhập khẩu dầu thô để chế biến xăng dầu
thay cho việc nhập khẩu trực tiếp.

3.1.2. Nhập siêu và những hệ lụy
Trong thời đại toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, nhập siêu đối với mỗi quốc gia mang cả ý
nghĩa tích cực và tiêu cực. Điều này tùy thuộc cơ cấu xuất nhập khẩu theo mặt hàng cũng
như thị trường, nguyên nhân đích thực dẫn đến nhập siêu. Với các quốc gia đang trong
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa như nước ta, nếu nhập máy móc, thiết bị, công
nghệ nguồn để phát triển sản xuất, tạo nguồn thu cho ngân sách, giải quyết công ăn việc
làm, nguồn hàng hóa xuất khẩu trong tương lai thì nhập siêu có thể coi là tình huống tích
cực, thể hiện trạng thái năng động của nền kinh tế. Đó chỉ là giai đoạn nhất định trong
một chu trình đầu tư.
Tuy nhiên, nhập siêu lớn trong thời gian dài cũng như cơ cấu nhập siêu bất lợi, tập trung
vào thị trường Trung Quốc, tác động bất lợi đối với ổn định kinh tế vĩ mô. Hơn nữa, nếu
phân tích cơ cấu thị trường cũng như hàng xuất nhập khẩu thì thấy nhập siêu tiềm ẩn
nhiều nguy cơ đối với an ninh tài chính quốc gia cũng như an ninh kinh tế nói chung. Vì

22


vậy, kiểm soát nhập siêu là một trong những nhiệm vụ cấp bách hiện nay, được Chính
phủ và các bộ, ngành rất quan tâm.
Nguyên nhân của tình trạng nhập siêu ở nước ta có nhiều nhưng có lẽ nguyên nhân quan
trọng nhất là do yếu kém về quản lý nhà nước dẫn đến (i) tình trạng yếu kém của nền
kinh tế do duy trì quá lâu mô hình tăng trưởng theo chiều rộng làm cho năng lực cạnh
tranh ở cả cấp độ quốc gia và doanh nghiệp chậm được cải thiện, chất lượng tăng trưởng
xuất khẩu trong dài hạn thấp; (ii) quản lý nhập khẩu còn nhiều bất cập (nhập khẩu công
nghệ trung gian, hàng xa xỉ, trong nước sản xuất được…); hiện tương gian lận thương
mại (buôn lậu, trốn thuế…) và tham nhũng chưa được ngăn chặn…
Có thể liệt kê những hạn chế trong quản lý nhà nước về nhập khẩu, dẫn đến không kiểm

soát được nhập siêu như:
- Hiệu lực thực thi và hiệu quả của hệ thống chính sách, cơ chế quản lý nhập khẩu, các
chế tài xử phạt vi phạm trong thực tiễn còn yếu kém;
- Các biện pháp kinh tế, kỹ thuật trong quản lý chưa được chú ý và áp dụng đúng mức,
thiếu các biện pháp phòng ngừa, kiểm tra. Nhiều dự án đầu tư công vẫn nhập khẩu những
trang thiết bị đắt tiền, gây lãng phí ngân sách nhà nước do không sử dụng hết công suất;
- Quản lý nhà nước đối với hoạt nhập khẩu còn phân tán và thiếu đồng bộ, chưa kiểm soát
hiệu quả các hành vi gian lận thương mại, thủ tục hành chính còn phức tạp, phiền hà, gây
ách tắc và làm tăng chi phí của doanh nghiệp;
- Còn có những biểu hiện của tư duy cục bộ, tầm nhìn ngắn hạn ở một số cá nhân, địa
phương trong quản lý nhập khẩu. Kết quả là nhiều mục tiêu của quản lý nhà nước đối với
nhập khẩu không hoàn thành (chuyển dịch cơ cấu hàng hóa và thị trường nhập khẩu,
giảm nhập siêu, cân bằng cán cân thương mại...).
Nhìn chung, vấn đề nhập siêu là tình trạng phổ biến đối với các nước mới công nghiệp
hóa và hội nhập kinh tế. Tuy nhiên, nếu phân tích tính chất tăng trưởng xuất khẩu và nhập
khẩu của nước ta trong những năm gần đây sẽ thấy tình trạng: Hiệu quả sử dụng vốn
thấp, tỷ lệ chi phí trung gian trên giá trị sản xuất tăng lên đáng kể, đầu tư vào những
ngành cần nhiều vốn và mức sinh lời thấp, thay thế nhập khẩu. Sản xuất chủ yếu mang
tính gia công. Sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp và chậm được cải thiện. Quá trình
xây dựng các thể chế của kinh tế thị trường diễn ra chậm. Nhập siêu nhiều từ thị trường

23


Trung Quốc bên cạnh nguy cơ phụ thuộc kinh tế còn cho thấy cơ cấu hàng nhập khẩu bất
hợp lý, nhập khẩu nhiều công nghệ trung bình, lạc hậu, tiêu tốn nguyên nhiên vật liệu và
ảnh hưởng tới môi trường.

24



3.2. Giải pháp giúp duy trì cán cân thương mại bền vững
3.2.1. Các chính sách tăng cường xuất khẩu
Cơ cấu hàng hóa xuất khẩu cần phải được tiếp tục chuyển dịch theo hướng gia tăng tỷ
trọng hàng công nghiệp chế biến dựa vào lợi thế lao động và công nghệ để tăng về quy
mô, đồng thời nhanh chóng chuyển sang phát triển các ngành sản xuất xuất khẩu dựa vào
vốn và kỹ thuật cao để gia tăng về giá trị. Các ngành kinh tế sử dụng nhiều lao động cần
được tập trung phát triển, từ đó từng bước xây dựng nền tảng để phát triển những ngành
kinh tế dựa vào công nghệ cao và tri thức, đặc biệt chú trọng phát triển các ngành dịch vụ
như thông tin, tài chính, du lịch, giáo dục và đào tạo.
Để góp phần giúp hoạt động kinh doanh trở nên hiệu quả, Chính phủ cần tạo điều kiện
thuận lợi và giảm chi phí đầu vào, chi phí trung gian cho doanh nghiệp, từ đó giảm bớt
chi phí sản xuất, bằng cách giảm giá các hàng hóa và dịch vụ công có tác động làm tăng
chi phí sản xuất của hàng hóa và dịch vụ như giá điện, nước, bưu chính viễn thông, năng
lượng, cước phí vận tải, phí dịch vụ bến cảng, sân bay, dịch vụ hành chính. Bên cạnh đó,
cải cách doanh nghiệp mà trước hết là doanh nghiệp nhà nước cần phải được đẩy mạnh.
Chính phủ cần có chính sách tiếp thêm sức mạnh cho khu vực tư nhân mà trước mắt là
chính sách toàn diện tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển, xóa bỏ các rào
cản hạn chế hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp trong nước cần được khuyến khích và hỗ trợ nâng cao giá trị gia tăng
trong sản phẩm xuất khẩu. Thay bằng việc bán sản phẩm thô, hay hàng gia công giá rẻ
như may mặc, da giày, chúng ta când phát triển các sản phẩm đã qua chế biến, tạo dựng
thương hiệu cho các sản phẩm gia công đã thâm nhập thành công vào thị trường các nước
tiên tiến; đồng thời tập trung phát triển một vài sản phẩm mang tính thương hiệu của Việt
Nam ở các ngành nghề mà Việt Nam đang có thế mạnh như nông sản, thủy sản, thủ công
mỹ nghệ, may mặc, da giày,.. sau đó phát triển rộng ra các mặt hàng khác.
Trên thị trường quốc tế, Chính phủ cần đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến và quảng bá
thương hiệu tại các nước mà hàng Việt Nam đã thâm nhập được vào thị trường để củng
cố vị trí sản phẩm, củng cố thương hiệu, từ đó phát triển bền vững sang các thị trường
khác. Các cơ quan xúc tiến thương mại cần hoạt động hiệu quả hơn, trợ giúp các doanh

nghiệp một cách thiết thực hơn bằng cách gửi thông tin miễn phí hằng tuần, hằng tháng
về các nghiên cứu, đặc thù của từng thị trường, các thông tin về hội chợ, triển lãm... đến
các doanh nghiệp, hoặc có những hình thức hỗ trợ thực sự hiệu quả khác; tránh việc các
nghiên cứu về thị trường rất chi tiết của các cơ quan xúc tiến thương mại lại không đến
được đúng đối tượng cần sử dụng.

25


×