Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Một số đặc điểm, đặc trưng nổi bật của bát danh hương sơn hà cảnh thổ văn võ cổ kim ở quảng bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.75 MB, 84 trang )

hướng dẫn đọc toàn văn báo cáo KQNC

!
!

Bạn muốn đọc nhanh
những thông tin cần thiết ?
Hy đọc qua Mục lục bên tay trái bạn trước khi
đọc báo cáo ( với Acrobat 4.0 trở lên, cho trỏ chuột vào
mỗi đề mục để đọc toàn bộ dòng bị che khuất )

! Chọn đề mục muốn đọc và nháy chuột vào đó
!
!

Bạn muốn phóng to hay thu nhỏ
trang báo cáo trên màn hình ?
Chọn, nháy chuột vào 1 trong 3 kích th
thưước
có sẵn trên thanh Menu

, hoặc

! Mở View trên thanh Menu, Chọn Zoom to
! Chọn tỷ lệ có sẵn trong hộp kích th
thưước
muốn,, Nhấn OK
hoặc tự điền tỷ lệ theo ý muốn

Chúc bạn hài lòng
với những thông tin đđưược cung cấp




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan khóa luận tốt nghiệp này là công trình nghiên cứu của
riêng tôi, được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của Thạc sĩ Lê Trọng Đại.
Các số liệu và kết quả nghiên cứu trong khóa luận này là trung thực. Các thông tin
trích dẫn trong khóa luận có nguồn gốc rõ ràng và được chú thích đúng quy định.
Tác giả khóa luận
Lê Thị Bích Liên


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện bài khóa luận em đã nhận được nhiều sự giúp
đỡ, đóng góp ý kiến của quí thầy cô, gia đình, bạn bè và các địa phương liên
quan đến đề tài của bài khóa luận.
Trước hết em xin chân thành cảm ơn thầy giáo Th.S Lê Trọng Đại người
trực tiếp hướng dẫn, giúp đỡ em về kiến thức và phương pháp để em hoàn
thành được khóa luận tốt nghiệp này.
Em cũng xin trân trọng cảm ơn các thầy cô giáo khác khoa Khoa học Xã hội, trường Đại học Quảng Bình đã tận tình giảng dạy trong 4 năm học
qua và động viên, giúp đỡ em trong quá trình thực hiện khóa luận.
Em xin chân thành cảm ơn thư viện trường Đại Học Quảng Bình đã giúp
đỡ em trong quá trình tìm kiếm và khai thác tài liệu phục vụ cho việc nghiên
cứu hoàn thành khóa luận.
Cuối cùng, em xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới những người thân
trong gia đình, bạn bè đã luôn ủng hộ và động viên em hoàn thành tốt khóa
luận tốt nghiệp này.
Mặc dù có nhiều cố gắng nhưng do trình độ và thời gian có hạn nên
khóa luận này chắc chắn không tránh khỏi có thiếu sót và hạn chế. Tác giả
khóa luận rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của thầy cô và các bạn để
khóa luận được hoàn thiện hơn.

Em xin trân trọng cảm ơn!
Quảng Bình, tháng 05 năm 2014
Người thực hiện
Lê Thị Bích Liên


MỤC LỤC
A. PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................ 1
1. Lí do chọn đề tài. ............................................................................................. 1
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu. .............................................................................. 2
3. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu. ....................................................................... 3
3.1. Mục tiêu nghiên cứu. .................................................................................... 3
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu. ................................................................................... 4
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu. .......................................................................... 4
5. Phương pháp nghiên cứu. ................................................................................ 4
6. Đóng góp của khóa luận. ................................................................................. 4
7. Bố cục. ............................................................................................................ 5
B. PHẦN NỘI DUNG ......................................................................................... 6
CHƯƠNG 1: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH “BÁT DANH HƯƠNG” Ở QUẢNG
BÌNH................................................................................................................... 6
1.1. Quá trình hình thành và phát triển của làng xã người Việt ở Quảng Bình từ
thế kỷ XI - XIX. ..................................................................................................6
1.2. Khái niệm “Danh hương” và “Bát danh hương”............................................ 9
1.3. Tứ danh hương, bát danh hương ở Quảng Bình có từ bao giờ ? .................. 10
1.4. Một số khái niệm liên quan. ........................................................................ 11
1.4.1. Khái niệm làng. ....................................................................................... 11
1.4.2. Văn hóa. .................................................................................................. 12
1.4.3. Khái niệm làng văn. ................................................................................. 13
1.5. Một số tiêu chí của một danh hương văn vật ở Quảng Bình. ....................... 13
CHƯƠNG 2: CÁC ĐẶC ĐIỂM, ĐẶC TRƯNG NỔI BẬT CỦA “BÁT DANH

HƯƠNG” .......................................................................................................... 14
2.1. Làng Lệ Sơn. .............................................................................................. 14
2.1.1. Làng Lệ Sơn là làng nổi tiếng có truyền thống hiếu học từ xưa đến nay. .. 14
2.1.2. Lệ Sơn là làng có nhều danh sơn kỳ tú. .................................................... 16
2.1.3. Lệ Sơn có một loạt di tích lịch sử - văn hóa. ............................................ 17
2.1.4. Lệ Sơn có nhiều người làm quan thời phong kiến. ................................... 21
2.1.5. Lệ Sơn là làng có nhiều trai tài, gái sắc .................................................... 22


2.1.6. Lệ Sơn có nhiều phong tục tập quán tốt đẹp. ............................................ 23
2.1.7. Lệ Sơn có nhiều lễ hội đặc sắc. ................................................................ 23
2.1.8. Lệ Sơn có nhiều sinh hoạt văn hóa văn nghệ đặc sắc................................ 24
2.2. Làng La Hà, nay là thôn La Hà thuộc xã Quảng Văn, huyện Quảng Trạch.. 26
2.2.1. La Hà là làng có truyền thống hiếu học. ................................................... 26
2.2.2. Làng La Hà có nhiều người đỗ đạt thời phong kiến. ................................. 27
2.2.3. La Hà có nhiều di tích văn hóa lịch sử. .................................................... 28
2.2.4. La Hà có một nền văn hóa dân gian độc đáo giàu sức sáng tạo................. 30
2.3. Làng Cảnh Dương nay là xã Cảnh Dương huyện Quảng Trạch. .................. 31
2.3.1. Cảnh Dương là vùng đất có cảnh quan kỳ tú, có sông núi hùng vĩ............ 31
2.3.2. Cảnh Dương có nhiều di tích lịch sử văn hóa. .......................................... 32
2.3.3. Cảnh Dương là một làng hiếu học nhiều người đỗ đạt làm quan. ............. 33
2.3.4. Cảnh Dương có nhiều lễ hội nhất vùng Ròn ............................................. 35
2.3.5. Văn học dân gian Cảnh Dương có nhiều đóng góp đáng trân trọng cho kho
tàng văn học dân gian Quảng Bình. ................................................................... 37
2.4. Làng Thổ Ngọa ngày nay thuộc xã Quảng Thuận, huyện Quảng Trạch. ...... 38
2.4.1. Thổ Ngọa là làng có truyền thống hiếu học. ............................................. 38
2.4.2. Là làng có nhiều nhân tài. ........................................................................ 39
2.4.3. Làng Thổ Ngọa có nhiều phong tục thuần mỹ. ......................................... 39
2.4.4. Thổ Ngọa là làng có lễ hội rất phong phú. ................................................ 42
2.4.5. Làng Thổ Ngọa nổi tiếng với nghề làm nón. ............................................ 43

2.4.6. Thổ Ngọa có di tích lịch sử - văn hóa phong phú. .................................... 45
2.4.7. Thổ Ngọa là làng văn hóa nghệ thuật dân gian đặc sắc. ............................ 46
2.4.8. Thổ Ngọa cũng là một trong số những làng có nền văn hóa ẩm thực phong
phú với hàng mấy chục món ăn khác nhau......................................................... 47
2.5. Làng Văn La nay là thôn Văn La thuộc xã Lương Ninh huyện Quảng Ninh.
.......................................................................................................................... 48
2.5.1. Văn La có cảnh đẹp kỳ tú......................................................................... 48
2.5.2. Văn La nổi tiếng có truyền thống hiếu học. .............................................. 50
2.5.3. Văn La là làng có nhiều nhân tài. ............................................................. 51
2.5.4. Văn La có nhiều thuần phong mỹ tục. ...................................................... 52


2.5.5. Văn La có đời sống kinh tế, sinh hoạt văn hóa, xã hội phong phú. ........... 53
2.6. Làng Võ Xá nay thuộc xã Võ Ninh, huyện Quảng Ninh.............................. 55
2.6.1. Làng Võ Xá là mảnh đất được thiên nhiên ưu đãi với vị trí chiến lược. .... 55
2.6.2. Võ Xá là một làng có truyền thống hiếu học. ........................................... 57
2.6.3. Võ Xá là làng có nhiều nhân tài. .............................................................. 57
2.7. Làng Cổ Hiền nay là thôn Cổ Hiền thuộc xã Hiền Ninh, huyện Quảng Ninh.
.......................................................................................................................... 59
2.7.1. Cổ Hiền có nhiều danh thắng kỳ tú. ......................................................... 59
2.7.2. Cổ Hiền xưa nổi tiếng có truyền thống khoa bảng và hiếu học. ................ 60
2.7.3. Dưới chế độ phong kiến làng Cổ Hiền có số lượng quan văn, quan võ rất
đông đảo. ........................................................................................................... 61
2.7.4. Cổ Hiền có nhiều di tích văn hóa và lịch sử. ............................................ 61
2.7.5. Cổ Hiền là làng có nhiều lễ hội. ............................................................... 62
2.7.6. Cổ Hiền có một nền văn học dân gian đặc sắc mà phong phú về thể loại. 62
2.8. Làng Kim Nại nay là thôn Kim Nại thuộc xã An Ninh, huyện Quảng Ninh.64
2.8.1. Kim Nại là làng có phong cảnh kỳ tú. ...................................................... 64
2.8.2. Kim Nại là làng có truyền thống hiếu học. ............................................... 64
2.8.3. Kim Nại là làng có nhiều người làm quan. ............................................... 65

2.8.4. Kim Nại là làng có nhiều lễ hội. ............................................................... 66
2.9. Đề xuất một số giải pháp để kế thừa và phát huy các thành tựu văn hóa đặc
sắc của “bát danh hương”. ................................................................................. 68
C. PHẦN KẾT LUẬN ....................................................................................... 72
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................. 74


A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài.
Trong tiến trình giao lưu hội nhập với văn hóa, văn minh nhân loại việc gìn
giữ bản sắc văn hóa dân tộc đã và đang là yêu cầu lẫn thách thức đặt ra cho tất cả
các quốc gia trên hành tinh. Nghiên cứu các giá trị văn hóa truyền thống nhằm kế
thừa, khai thác, phát huy những mặt tích cực, loại bỏ các yếu tố tiêu cực để phát
triển văn hóa dân tộc, làm nền tảng cho việc giao lưu tiếp thu, hội nhập với văn
hóa nhân loại là vấn đề được Đảng và nhà nước ta quan tâm từ nhiều năm nay.
Trong công cuộc đổi mới và phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa việc xây dựng một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc
đã và đang là một trong những nhiệm vụ cơ bản của cách mạng nước ta hiện nay,
được nghị quyết các Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII của Đảng
Cộng Sản Việt Nam khẳng định. Hội nghị lần thứ 5 của ban chấp hành trung
ương Đảng Cộng Sản Việt Nam khóa VIII đã dành trọn kỳ họp để thảo luận và
thông qua nghị quyết với tiêu đề “xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm
đà bản sắc dân tộc” càng chứng tỏ tầm quan trọng của vấn đề này.
Trên dải đất cong cong hình chữ S của Việt Nam, Quảng Bình là vùng đất
giàu truyền thống văn hóa, lịch sử. Từ thuở bình minh của lịch sử, Quảng Bình
đã là một bộ phận lãnh thổ của nhà nước Văn Lang cổ đại. Trải qua bao thăng
trầm của lịch sử, trong tiến trình phát triển của mình, Quảng Bình đã trải qua
nhiều thay đổi về không gian lãnh thổ, về thể thức hành chính và cả về danh tính
để trở thành một Quảng Bình ổn định và phát triển về lịch sử, văn hóa và kinh tế
như ngày nay. Nhắc đến Quảng Bình là nhắc đến một mảnh đất với biết bao thiên

tai khắc nghiệt nhưng bấy nhiêu chưa đủ để gây khó khăn cho con người nơi đây.
Ngược lại nơi đây đã có biết bao nhiêu người anh hùng đã hi sinh xương máu để
bảo vệ tổ quốc. Quảng Bình đẹp từ trong câu hát từ những làn điệu dân ca mượt
mà, sâu lắng, đẹp từ những làng quê nghèo về vật chất mà lại có một nền văn hóa
truyền thống đậm đà bản sắc dân tộc.
Quảng Bình đã có truyền thống lịch sử lâu đời. Con người nơi đây luôn luôn
biết gìn giữ và phát huy bản sắc tốt đẹp của quê hương mình. Quảng Bình là
vùng đất gắn với các di chỉ thuộc nền văn hóa Hòa Bình đến Bàu Tró, Đông Sơn
1


và Sa Huỳnh. Quảng Bình xưa kia là địa phương có nhiều di tích lịch sử như:
Thành Khu Túc, Thành Nhà Ngo (văn hóa Chămpa); hệ thống Lũy Thầy, Quảng
Bình quan. Trong thế kỷ XX, Quảng Bình xuất hiện nhiều địa danh nổi tiếng
trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ như: Cự Nẫm, Cảnh Dương,
Lệ Sơn, Cha Lo, Cổng Trời Long Đại, đường Hồ Chí Minh…Qua lịch sử hàng
trăm năm liên tục phát triển Quảng Bình đã hình thành nên nhiều làng văn vật
nổi tiếng có những đặc trưng riêng của từng cộng đồng làng xã. Đặc biệt trong đó
các làng văn vật nổi lên bát danh hương “Sơn - Hà - Cảnh - Thổ - Văn - Võ - Cổ
- Kim”. “Bát danh hương” là tám làng văn vật gồm: Lệ Sơn, La Hà, Cảnh
Dương, Thổ Ngọa, Văn La, Võ Xá, Cổ Hiền, Kim Nại; chúng là hệ quả của sự
phát triển văn hóa làng xã Quảng Bình.
Từ lâu “bát danh hương” đã trở thành niềm tự hào trong mỗi người dân
Quảng Bình. “Bát danh hương” này xuất hiện từ lúc nào, thực chất là gì? Có
những tiêu chí nhất định để xác định một danh hương ở Quảng Bình hay không?
đã và đang được nhiều học giả băn khoăn đi tìm lời giải và cũng đã có không ít
nhà nghiên cứu tìm cách lý giải điều này. Là người may mắn được sinh ra và lớn
lên ở Quảng Bình có chút vốn hiểu biết văn hóa và lịch sử nên từ lâu tôi hằng ấp
ủ ước muốn đi sâu tìm hiểu những làng quê “văn vật” của tỉnh nhà được gọi là
“bát danh hương”. Đó là lý do khiến chúng tôi chọn vấn đề “Một số đặc điểm,

đặc trưng nổi bật của bát danh hương Sơn - Hà - Cảnh - Thổ - Văn - Võ - Cổ Kim ở Quảng Bình” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình.
Mặt khác, việc chọn vấn đề trên làm đề tài nghiên cứu còn có tác dụng giúp
tác giả nâng cao hiểu biết các giá trị văn hóa và lịch sử địa phương. Hy vọng kết
quả nghiên cứu phần nào có tác dụng góp phần gìn giữ và phát huy bản sắc văn
hóa tốt đẹp của quê hương Quảng Bình.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu.
Qua quá trình nghiên cứu chúng tôi thấy rằng việc tìm hiểu về “bát danh
hương ở Quảng Bình” đã được khá nhiều đối tượng quan tâm nghiên cứu ở
những mức độ và khía cạnh khác nhau. Đã có nhiều cuốn sách viết về các làng
văn vật nổi tiếng đã được công bố như: “Địa chí làng Thổ Ngọa” của Đỗ Duy
Văn, “Địa chí làng Cổ Hiền” của Nguyễn Tú, “Sinh hoạt văn hóa dân gian cổ
2


truyền làng biển Cảnh Dương” của Trần Hoàng. Mai Đình Lê Tộ trong bài viết
có nhan đề “Lệ Sơn Vải tiến” đăng tập san “Quảng Bình quê tôi” đã trình bày sự
kiến giải về “bát danh hương” song chỉ dành không quá 1 4 trang A4 kiến giải về
“bát danh hương”. Nhà nghiên cứu Nguyễn Tú trong “Quảng Bình non nước và
lịch sử” có đưa ra cách kiến giải vì sao Lệ Sơn được xếp đứng đầu “bát danh
hương” ở Quảng Bình. Các tác giả Nguyễn Thế Hoàn, Lê Thúy Mùi trong “lịch
sử Quảng Bình” cũng dành một bài giới thiệu sơ lược về “bát danh hương”.
Nguyễn Khắc Thái trong “lịch sử Quảng Bình 410 năm” đã dành gần 6 trang A4
để giới thiệu sơ lược về những nét nổi bật của 8 làng này. Tác giả Lê Trọng Đại
trong bài báo “Quảng Bình với bát danh hương” là công trình đầu tiên lý giải quá
trình hình thành và phát triển của văn hóa làng xã người Việt ở Quảng Bình, là
cở sở cho sự ra đời của bát danh hương. Trong bài viết này ông đã lý giải các
thuật ngữ “danh hương”; “bát danh hương”; xác định tiêu chí của một danh
hương và giới thiệu một vài đặc trưng nổi bật của tám làng văn vật nói trên. Bài
viết đã đề cập đến nhiều vấn đề song với khuôn khổ một bài báo tác giả chưa đi
sâu giới thiệu thật cụ thể các đặc trưng nổi bật của “bát danh hương”. Tuy nhiên

bài viết trên là cơ sở nền tảng cơ bản để tác giả khóa luận kế thừa, đi sâu nghiên
cứu và phát triển…Nhìn chung các công trình mới đề cập một cách rất sơ lược
hoặc nghiên cứu một làng chứ chưa làm rõ được những đặc trưng nổi bật của cả
tám danh hương ở Quảng Bình.
Do điều kiện thời gian, mục đích nghiên cứu, phương pháp tiếp cận khác
nhau cho nên việc làm nổi bật những đặc điểm, đặc trưng của bát danh hương
chưa được học giả nào đi sâu nghiên cứu một cách công phu.
3. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu.
3.1. Mục tiêu nghiên cứu.
Chọn vấn đề “Một số đặc điểm, đặc trưng nổi bật của bát danh hương Sơn Hà - Cảnh - Thổ - Văn - Võ - Cổ - Kim ở Quảng Bình” làm đề tài nghiên cứu
chúng tôi nhằm mục đích dưới đây:
- Làm rõ một số vấn đề khái niệm và đặc điểm, đặc trưng nổi bật về “bát
danh hương” ở tỉnh Quảng Bình.
- Giới thiệu những thành tựu văn hóa đặc sắc của “bát danh hương”
3


3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu.
- Tìm hiểu làm rõ các thuật ngữ về “danh hương” và “bát danh hương”.
- Nghiên cứu kỹ lưỡng văn hóa từng danh hương để lựa chọn giới thiệu
những đặc điểm, đặc trưng nổi bật của từng danh hương.
- Đề xuất một số giải pháp để bảo tồn và phát huy các thành tựu văn hóa đặc
sắc của danh hương nói riêng, làng xã Quảng Bình nói chung.
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu.
Do điều kiện thời gian, năng lực và tư liệu có hạn nên khóa luận chỉ tập
trung nghiên cứu các thành tựu văn hóa của “bát danh hương” từ khi Quảng Bình
xuất hiện danh hương thế kỷ XIX đến nay:
- Một số khái niệm liên quan đến “bát danh hương” như: Khái niệm làng,
làng văn hóa hay khái niệm về làng văn và đặc biệt là khái niệm về “danh
hương” và “bát danh hương”

- Những tiêu chí cơ bản của “bát danh hương”.
Trên cơ sở nghiên cứu đó chúng tôi đi sâu làm rõ những nét đặc điểm, đặc
trưng nổi bật của tám làng nổi tiếng ở Quảng Bình đó là: “Sơn - Hà - Cảnh - Thổ
- Văn - Võ - Cổ - Kim”.
5. Phương pháp nghiên cứu.
Để thực hiện được đề tài này chúng tôi sử dụng hệ thống phương pháp sau:
Sử dụng phương pháp lịch sử để dựng lại hiện thực khách quan trong quá
khứ kết hợp với phương pháp lôgic để làm sáng tỏ bản chất của vấn đề nghiên
cứu ngoài ra đề tài còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu liên ngành gồm:
- Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn gồm:
+ Phương pháp quan sát
+ Phương pháp điều tra cơ bản
- Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết gồm:
+ Phương pháp phân tích
+ Phương pháp hệ thống hóa
+ Phương pháp so sánh.
6. Đóng góp của khóa luận.
- Khóa luận bước đầu xác lập được một hệ thống thư mục tài liệu tham khảo
khá phong phú về “bát danh hương” và địa chí cho những ai quan tâm nghiên
cứu vấn đề.
4


- Khóa luận đã đề xuất được một số giải pháp nhằm bảo tồn và phát huy các
giá trị văn hóa làng xã Quảng Bình nói chung và bát danh hương nói riêng.
- Thực hiện khóa luận giúp cho tác giả nâng cao hiểu biết về lịch sử và văn
hóa Quảng Bình nói riêng, lịch sử dân tộc Việt Nam nói chung; làm hành trang
cho nghề nghiệp và cho cuộc sống sau này. Thực hiện khóa luận còn giúp tác giả
bước đầu làm quen với việc nghiên cứu khoa học.
- Khóa luận của chúng tôi đi sâu làm nổi bật được những thành tựu của tám

làng văn vật ở tỉnh Quảng Bình “Sơn - Hà - Cảnh - Thổ - Văn - Võ - Cổ - Kim”.
7. Bố cục.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phần phụ lục, nội dung của
đề tài được kết cấu gồm 2 chương:
- Chương I: Quá trình hình thành “bát danh hương” ở Quảng Bình.
- Chương II: Các đặc điểm, đặc trưng nổi bật của “bát danh hương”.

5


B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH “BÁT DANH HƯƠNG”
Ở QUẢNG BÌNH
1.1. Quá trình hình thành và phát triển của làng xã người Việt ở Quảng
Bình từ thế kỷ XI - XIX.
Dưới thời kỳ nước Đại Cồ Việt và 15 năm đầu của nước Đại Việt (1054 1069), lãnh thổ nước ta về phía Nam chỉ mới đến Hoành Sơn (Đèo Ngang). Năm
1069, Chiêm Thành đem quân ra cướp phá Nghệ An, Vua Lý Thánh Tông cùng
Lý Thường Kiệt xuất chinh đánh Chiêm Thành. Quân đội nhà Lý đánh bại Chiêm
Thành, bắt sống vua Chiêm là Chế Củ. Để chuộc mạng Chế Củ phải cắt ba châu
Bố Chính, Địa Lý và Ma Linh cho Đại Việt. Năm 1074, quân Chiêm lại tấn công
chiếm lại ba châu. Năm 1075, nhà Lý cử Lý Thường Kiệt đưa quân đánh lấy lại
ba châu. Lý Thường Kiệt bèn cho vẽ địa đồ và mộ dân phía Bắc khai hoang lập
làng. Nhờ đợt di dân đầu tiên này mà một số làng Việt đầu tiên được xác lập trên
đất Quảng Bình và Bắc Quảng Trị.
“Từ năm 1069 đến thế kỷ XIV, Quảng Bình là vùng đất biên viễn phía Nam
của Đại Việt, có vị trí trọng yếu nhưng tính đến cuối thế kỷ XIV, cư dân nơi đây
vẫn còn rất thưa thớt. Do đó nhà Trần đã ban hành chính sách khuyến khích các
quan lại quý tộc mộ dân khai hoang lập điền trang. Chính sách này đưa tới đợt di
dân thứ hai đến khu vực thứ hai phía Nam Quảng Bình (Hoàng Hối Khanh mộ
dân nghèo khai khẩn lập điền trang ở Lệ Thủy). Một số các tướng tá, binh lính

vào trấn giữ ở Quảng Bình sau khi xuất ngũ cũng ở lại khai khẩn đất hoang lập
nên làng xóm, thôn ấp để sinh sống. Nhờ có sự phát triển nhất định về cư dân và
xã hội mà trong thế kỷ XIV nhà Trần đã nâng Lâm Bình từ cấp châu lên cấp
phủ”[5;251]. “Năm 1366, Phạm A Song được phong làm Đại tri phủ Lâm Bình.
Năm 1375, nhà Trần đổi phủ Lâm Bình thành phủ Tân Bình. Năm 1397, nhà
Trần đổi phủ Tân Bình làm trấn Tây Bình”.
“Nhà Hồ lên cầm quyền trong những năm 1400 - 1407, tiếp tục chủ trương
vận động quan lại mộ dân nghèo ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ vào khai khẩn đất
hoang lập làng xã ở hai xứ Thuận Hóa và Quảng Nam. Do đó có đợt di dân thứ
ba đến Quảng Bình và một số làng Việt ở phía Nam Quảng Bình tiếp tục được
6


thành lập (phần lớn họ Hồ ở Quảng Bình có gia phả ghi chép là vào đây thời nhà
Hồ và lúc cha con Hồ Quý Ly bị nhà Minh bắt).
Thời Minh thuộc, vùng đất Quảng Bình được chính quyền đô hộ đổi tên từ
Trấn Tây Bình thành phủ Tân Bình. Sau mười năm khởi nghĩa rất kiên cường,
anh dũng nghĩa quân Lam Sơn đã giải phóng được đất nước khỏi ách thống trị
của nhà Minh, Lê Lợi lên ngôi vua (1428) lập ra nhà Hậu Lê (Lê Sơ). Nhà Hậu
Lê chia cả nước thành 12 Thừa tuyên, Quảng Bình vẫn là phủ Tân Bình thuộc
Thừa tuyên Thuận Hóa.
Đến giữa thế kỷ XV, về cơ bản khu vực phía Nam Quảng Bình gồm Lệ
Thủy, Quảng Ninh, Đồng Hới đã được nhân dân khai khẩn thành làng xóm đồng
ruộng khá sầm uất. Sách “Quảng Bình Thắng - Tích - Lục” phản ánh tình hình
trên như sau: “Về đời Hồng Đức, ở phía Nam Quảng Bình dân cư đã tiệm đông,
nhưng ở phía Bắc tức châu Bố Chánh (Tuyên Hóa, Quảng Trạch và Bố Trạch) vì
ruộng xấu, đất cao, sinh kế khó nhọc nên cư dân thưa thớt lắm. Năm 1467, nhân
có lời xin của quan Thừa chánh sứ ty Tham nghị Hóa châu là ông Đặng Chiêm,
vua bèn hạ dụ chiêu tập nhân dân vào khai khẩn ở châu Bố Chánh. Kể từ đó, lần
lần mới có người vào sinh cơ lập nghiệp ở phía Bắc Quảng Bình”. Đến đầu niên

hiệu Hồng Đức sau khi hộ giá nhà vua chinh phạt Chiêm Thành (1471) trở về
khá nhiều quan lại, tướng tá đã đứng ra mộ dân phiêu tán đến khai khẩn đất
hoang thành lập làng xã ở khu vực phía Bắc Quảng Bình”. Đây là đợt di dân khai
canh lập làng lớn thứ tư ở Quảng Bình. Một loạt làng xã của người Việt được
thành lập ở khu vực Bắc Quảng Bình trong 30 năm cuối thế kỷ XV. Nhờ đó đến
hết thế kỷ XV, những vùng đất hoang hóa của Quảng Bình về cơ bản đã được
khai khẩn biến thành làng xã gần hết nên từ thế kỷ XVI về sau mà làng xã ở
Quảng Bình đã khá ổn định”[5;252]. Số liệu thống kê làng xã năm 1490 (năm
xác định bản đồ) đời Hồng Đức và số liệu thống kê trong Ô châu Cận lục trước
năm 1555 dưới đây là minh chứng đầy thuyết phục tình hình này:

7


Thời Hồng Đức định
bản đồ (1490)

Huyện châu
Châu Bố Chính (Q. Trạch,
Tuyên Hóa, Minh Hóa)
Huyện Lệ Thủy
Huyện Khang Lộc (H. Quảng
Ninh)

Thời Dương Văn An
viết Ô châu cận lục
(1553 - 1555)




Thôn

Trang



Thôn

Trang

64

24

20

69

0

0

28

0

2

32


0

1

80

0

0

75

7

0

“Qua so sánh số lượng các làng xã từng huyện ở hai thời gian trên chúng ta
thấy châu Bố Chính số làng tăng 5 làng nhưng số thôn, phường, trang lại triệt
tiêu phải chăng là một số thôn, trang được sát nhập vào các làng lân cận hoặc
phát triển lên thành làng mới. Huyện Lệ Thủy số làng tăng lên 4, số thôn tăng lên
1 nhưng số trang lại giảm đến mức triệt tiêu. Huyện Khang Lộc số làng giảm 5
mà số thôn tăng lên 7 sự thay đổi nhỏ này chỉ có thể là một số làng đã tụt xuống
cấp thôn mà gần như không có sự thành lập thêm các làng mới. Năm 1558 khi
vào trấn thủ xứ Thuận Hóa, Nguyễn Hoàng vận động chiêu mộ khá đông nhân
dân ở Thanh Hóa, Nghệ An cùng vào mặt khác năm 1558, 1559 khu vực Thanh
Hóa, Nghệ Tĩnh đói lớn nên nhân dân dắt nhau vào xứ Thuận Hóa khá đông do
đó có đợt di dân thứ 5 đến Quảng Bình. Tuy nhiên qua khảo sát quá trình hình
thành làng xã thì số làng xã mới thành lập ở Quảng Bình giai đoạn này không
nhiều. Từ những căn cứ trên chúng ta có cơ sở để kết luận rằng đến đầu thế kỷ
XVI, về cơ bản hầu hết những nơi đất đai thuận tiện cho con người sinh cơ lập

nghiệp ở Quảng Bình đều đã được khai khẩn hệ thống làng xã được thành lập đi
vào ổn định và phát triển.
Như vậy, tính từ thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XIX, phần lớn các làng xã ở
Quảng Bình đã có quá trình hình thành và phát triển liên tục trên dưới 300 năm.
Độ dài thời gian nói trên là đủ để các làng xã ở Quảng Bình phát triển trên tất cả
các lĩnh vực về kinh tế xã hội - văn hóa và hình thành nên những sắc thái đặc
trưng những truyền thống văn hóa của các làng quê nói riêng. Những truyền

8


thống văn hóa đó tính đến thế kỷ XIX thì đã định hình và trở thành nền tảng
vững chắc cho làng xã ở Quảng Bình sau đó kế thừa và phát triển”[5;253].
1.2. Khái niệm “Danh hương” và “Bát danh hương”.
+ Thuật ngữ “danh hương”
“Thuật ngữ “danh hương” nếu giải thích theo lối duy danh định nghĩa thì
“danh” là danh tiếng, là sự nổi tiếng về những gì tốt đẹp “hương” là một cách gọi
khác của làng. Như vậy “danh hương” là “làng nổi tiếng”. Từ định nghĩa đó
chúng ta thấy rằng danh hương có nghĩa rất rộng nó dùng để chỉ một làng nổi
tiếng về một lĩnh vực nào đó. Trong tác phẩm “Khảo sát làng văn hóa xứ Thanh”,
nhà nghiên cứu Hoàng Văn Nhân và các cộng sự đã phân chia các làng nổi tiếng
ở Thanh Hóa và khu vực Bắc Bộ thành các loại hình gồm: làng văn và làng võ,
làng nghề truyền thống và làng nghệ thuật (làng tuồng quan họ, làng hát bội…).
Ở Quảng Bình qua nghiên cứu các tài liệu chúng tôi thấy rằng thuật ngữ
danh hương lần đầu xuất hiện ở thế kỷ XVI; trong “Ô châu cận lục” Dương Văn
An có viết: “Phước Lộc thì xây dựng danh hương”. Tuy nhiên trên thực tế lúc
này ở Quảng Bình chưa có sự xác định cụ thể làng nào là danh hương mà Dương
Văn An chỉ nói đến việc xây dựng danh hương mà thôi. Ở huyện Lệ Thủy ngay
từ thời nhà Mạc đến Lê Trung Hưng đã có một số làng nổi tiếng khoa bảng, có
người đỗ đại khoa; tiêu biểu là các làng Tuy Lộc, Đại Phúc Lộc, An Chế (An Xá)

song vẫn không có tài liệu nào xếp các làng đó vào trong số các danh hương ở
Quảng Bình. Dưới vương triều Nguyễn, qua thống kê về khoa bảng thì làng La
Hà dẫn đầu cả tỉnh về số lượng người đỗ đại khoa (6 vị), xếp thứ 2 là Lý Hòa (4
vị), kế đến là các làng An Xá, Cảnh Dương, Lộc Điền, Cao Lao, Lộc Long, Phù
Chánh (đều có 2 vị đỗ đại khoa). Riêng làng An Xá nếu tính cả 2 thời kỳ cũng có
tới 4 vị đỗ đại khoa. Tuy nhiên trong số các làng khoa bảng đó lại chỉ có La Hà
và Cảnh Dương là được xếp vào nhóm các danh hương của tỉnh Quảng Bình.
Qua khảo sát tám danh hương “Sơn - Hà - Cảnh - Thổ - Văn - Võ - Cổ Kim” so sánh với các làng khoa bảng khác; chúng ta có thể khẳng định rằng: ở
Quảng Bình khái niệm danh hương không đơn thuần chỉ có nghĩa là để vinh danh
một làng nổi tiếng về khoa cử hay một lĩnh vực nào đó. Mà danh hương ở Quảng
Bình là một khái niệm dùng để chỉ những làng văn vật gần nghĩa với “làng văn”
9


ở xứ Thanh và Bắc Bộ. Để hiểu một cách đầy đủ và chính xác về danh hương
văn vật của Quảng Bình chúng ta tìm hiểu thêm về khái niệm “văn vật”. Trong
giáo trình “Lịch sử văn hóa Việt Nam” tiến sĩ Huỳnh Công Bá giải nghĩa khái
niệm văn vật: theo nghĩa chữ Hán thì văn là vẻ đẹp, vật là vật chất, văn vật là di
sản văn hóa với số lượng di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh và các danh nhân
dồi dào phong phú. Văn vật còn hàm chứa nghĩa là nơi có bề dày quá khứ và
mang tính nhân bản sâu sắc”.
Tóm lại, các danh hương ở Quảng Bình là những làng văn vật với nghĩa là
những làng có bề dày lịch sử, nổi trội trên nhiều phương diện từ khoa cử đến di
tích, danh lam thắng cảnh, có sinh hoạt văn hóa, học thuật đặc sắc, lại có nhiều
danh nhân hoặc trai tài gái sắc, có lễ hội phong phú”[5;254].
1.3. Tứ danh hương, bát danh hương ở Quảng Bình có từ bao giờ ?
“Qua tìm hiểu, nghiên cứu các thư tịch cổ chúng tôi thấy rằng các cụm từ
“tứ danh hương”, “bát danh hương” ở Quảng Bình chỉ mới bắt đầu xuất hiện từ
đời Minh Mạng trở lại đây mà thôi. Các tác phẩm “Dư địa chí”, “Ô châu cận
lục”, “Phủ biên tạp lục”, “Phương Đình địa dư chí”, “Hoàng Việt địa dư chí”,

“Lịch triều hiến chương loại chí” khi viết về Quảng Bình đều chưa một lần đề
cập đến các cụm từ này. Phải từ các triều Minh Mạng đến Tự Đức (1820-1883)
thuật ngữ danh hương bắt đầu lộ diện mà bằng chứng là lần đầu tiên “tứ danh
hương” được các tác giả sách “Đại Nam nhất thống chí” nhắc tới. Trong tập 2
tỉnh Quảng Bình; ở phần phong tục có chép: “...bốn xã Sơn - Hà - Cảnh - Thổ
(Lệ Sơn và La Hà thuộc huyện Minh Chính, Cảnh Dương và Thổ Ngọa thuộc
huyện Bình Chính), đời nào cũng có người khoa giáp...”.
Đã có 4 danh hương ở phía Bắc thì theo lôgic là phải có 4 danh hương ở
phía Nam sẽ được bình chọn và xác định. Tại phủ Quảng Ninh sau đó đã xuất
hiện tứ danh hương: Văn - Võ - Cổ - Kim (là các làng Văn La, Võ Xá, Cổ Hiền,
Kim Nại). Như vậy thuật ngữ “bát danh hương” chỉ có thể là hệ quả của hai tứ
danh hương hợp thành.
Nhà nghiên cứu Mai Đình Lê Tộ trong bài “Lệ Sơn, vải tiến và cụ Lê Bính”
đăng trên tập san Quảng Bình quê hương tôi khẳng định: “Từ đầu triều Nguyễn,
Quảng Bình nổi tiếng đệ nhất danh hương có tám làng, Quảng Trạch có Sơn - Hà
10


- Cảnh - Thổ (Lệ Sơn, La Hà, Cảnh Dương, Thổ Ngọa), Quảng Ninh có Văn - Võ
- Cổ - Kim (Văn La, Võ Xá, Cổ Hiền, Kim Nại)”. Các làng ấy nổi tiếng nhờ có
khoa hoạn đông đời đời nối tiếp. Nhưng những làng như thế, phần nhiều cũng có
phong cảnh kỳ tú, có danh sơn đại xuyên bối sái hoặc cùng chiếu và nam thanh
nữ tú, có phong tục thuần mĩ cả”.
Từ các thông tin trên chúng ta có thể kết luận là: thời điểm bắt đầu có sự
phân chia các làng xã ở Quảng Bình thành các làng văn vật để tôn vinh về những
đặc điểm, đặc trưng văn hóa nổi trội so với các làng khác mới có từ đầu triều
Nguyễn. Các danh hương, tứ danh hương và bát danh hương mặc nhiên được mọi
người thừa nhận và được sử dụng phổ biến khi giới thiệu về lịch sử và văn hóa
của tỉnh Quảng Bình từ thế kỷ XIX đến nay”[5;255].
1.4. Một số khái niệm liên quan.

1.4.1. Khái niệm làng.
Dưới thời phong kiến làng còn được gọi là: kẻ, hương, lý, thôn, xã, buôn,
bản, mường, sóc, phum…
Làng là một danh từ dùng để chỉ một đơn vị hành chính hoặc đơn vị cư trú
cơ sở của quốc gia, là nơi cư trú, sinh hoạt và sản xuất của những người Việt thờ
một vị Thành Hoàng riêng.
Làng gồm các yếu tố sau đây:
+ Ranh giới làng: Gồm ranh giới cư trú và ranh giới lãnh thổ.
+ Tên làng: Vừa có tên Nôm, vừa có tên Hán Việt
+ Cấu trúc vật chất và hình thức của làng gồm nhà cửa, ruộng vườn, lũy tre
làng, đình làng, chợ làng, chùa, hệ thống điểm canh, cổng làng...
+ Cấu trúc xã hội của làng gồm: dân cư sống thành từng hộ, hộ là đơn vị xã
hội nhỏ nhất (gia đình), trên hộ xóm ngõ, gắn với gia đình là tộc họ.
Làng là nơi chôn rau cắt rốn của mỗi người dưới lũy tre làng có cha mẹ ông
bà tổ tiên, tình làng nghĩa xóm. Làng đóng vai trò tích cực trong sự bảo tồn và
phát triển văn hóa dân tộc, làng là pháo đài kiên cố ngăn cản sự du nhập và đồng
hóa của văn hóa ngoại bang, vì thế làng là nơi lưu giữ bản sắc văn hóa dân tộc, chi
phối sâu sắc tư tưởng tình cảm của con người và nhiều hoạt động văn hóa xã hội.

11


Ở nước ta có rất nhiều làng quê mỗi làng mỗi vẽ được phân loại theo nhiều
loại tiêu chí khác nhau như phân loại làng theo nghề nghiệp, làng nông nghiệp,
làng chài, làng thủ công.
Có kiểu phân loại khác dựa trên đặc điểm nổi bật về văn hóa như: Làng
thượng võ, làng văn…
Quá trình hình thành làng Việt trước hết bị chi phối bởi điều kiện tự nhiên
như địa lý, khí hậu, thủy văn, cảnh quan, môi trường, sinh thái…Tiếp theo là sự
tác động của các mối quan hệ xã hội như họ hàng, nghề nghiệp, nếp sống, tôn

giáo, tục lệ tập quán. Do đó giữa các làng bên cạnh nét tương đồng là những dị
biệt không làng nào giống làng nào về mặt địa thế, diện tích, hướng làng, số hộ,
số dân, các mặt sinh hoạt thậm chí nói một ngôn ngữ nhưng lại khác nhau về thổ
âm, thổ ngữ. Các dị biệt đó hun đúc nên đặc điểm tính cách tâm lý khác nhau
giữa các làng.
Làng hình thành theo nhiều cách song thường là do một nhóm người tìm
đến khai phá một vùng đất lập ra. Cuộc sống của họ dần dần ổn định sinh sôi nảy
nở, lôi kéo thêm những thành viên mới đến ở và trở thành một cộng đồng, khi đó
chính quyền phong kiến với tay sai tới ghi vào sổ, biến nó thành một đơn vị hành
chính để quản lý nhằm điều động nhân binh, thu thuế và cai trị. Để làng được
công nhận là một đơn vị hành chính thì phải có các tiêu chí dưới đây:
+ Có sổ địa bạ (Ghi diện tích ruộng đất).
+ Có sổ đinh (Thống kê tất cả nam giới từ 20 đến 59 tuổi).
+ Có sổ hương ước, hương ẩn
+ Có đình làng, có thành hoàng (Thần tích phải được triều đình sắc phong).
+ Có hội đồng bô lão.
+ Có hội đồng ngũ vị hương.
+ Có đồng triện.
1.4.2. Văn hóa.
Văn Hóa là thuật ngữ có trên 400 định nghĩa và được hiểu dưới nhiều cấp
độ khác nhau. Ở đây chúng tôi xem xét theo nghĩa rộng và thống nhất với giáo sư
Trần Ngọc Thêm: “Văn hóa là hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần

12


do con người sáng tạo và tích lũy trong quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự
tương tác với môi trường tự nhiên và xã hội của mình.
1.4.3. Khái niệm làng văn.
Các nhà nghiên cứu định nghĩa: “làng văn là làng nổi tiếng văn học được

mọi người kính nể, con cháu vẫn tiếp tục phát huy. Đó là những làng có truyền
thống học chữ Nho, nhiều người đỗ đạt cùng với sinh hoạt văn thơ của các gia
đình Nho học tạo ra nét văn hóa riêng cho làng”. Theo cách giải nghĩa này thì
thực chất các làng văn ở xứ Thanh và ở Bắc Bộ là những làng văn vật nổi tiếng.
1.5. Một số tiêu chí của một danh hương văn vật ở Quảng Bình.
Qua quá trình tìm hiểu chúng tôi nhất trí với quan điểm của Thạc Sĩ Lê Trọng
Đại về các tiêu chí nổi bật của một danh hương danh vật ở Quảng Bình gồm:
- Làng có truyền thống hiếu học, nhiều người khoa bảng đỗ đạt.
- Làng có sinh hoạt văn hóa, văn nghệ dân gian đặc sắc.
- Làng có nhiều danh nhân hoặc có nhiều người làm quan có danh tiếng tốt.
- Làng có nhiều danh thắng kỳ tú.
- Làng có số lượng di tích lịch sử, di tích văn hóa phong phú.
- Làng có nhiều phong tục thuần mỹ.
- Làng có nhiều trai tài gái sắc”[5;256].
Khảo sát kỹ bát danh hương: Lệ Sơn, La Hà, Cảnh Dương, Thổ Ngọa, Văn
La, Võ Xá, Cổ Hiền, Kim Nại chúng tôi thấy các làng này đều có các tiêu chí nói
trên. Như vậy “bát danh hương” ở Quảng Bình chính là những làng văn vật nổi
tiếng hàng đầu có các giá trị văn hóa nổi trội hơn so với các làng khác ở tỉnh
Quảng Bình.

13


CHƯƠNG 2: CÁC ĐẶC ĐIỂM, ĐẶC TRƯNG NỔI BẬT CỦA
“BÁT DANH HƯƠNG”
Nghiên cứu “bát danh hương” nhà thơ Văn Tăng đã sử dụng tám câu thơ
đường Luật đã khắc họa nên cho mỗi danh hương một đặc trưng riêng:
“Sơn ấy Lệ Sơn núi dựng thành
Hà La Hà mộng sóng viền quanh
Cảnh Dương nồm biển say câu hát

Thổ Ngọa sông Gianh ngát bãi xanh
Văn xứ Văn La long đáo địa
Võ miền Võ Xá cát trường sinh
Cổ xây lũy Cổ Hiền lưu giấu
Kim Nại tên vàng gợi nét tranh”
Để tìm hiểu các đặc điểm, đặc trưng nổi bật ấy của “bát danh hương” chúng
ta lần lượt khảo sát từng danh hương.
2.1. Làng Lệ Sơn.
2.1.1. Làng Lệ Sơn là làng nổi tiếng có truyền thống hiếu học từ xưa đến
nay.
“Làng Lệ Sơn nay thuộc xã Văn Hóa, thuộc huyện Tuyên Hóa là làng có bề
dày lịch sử với hơn 500 năm xây dựng và phát triển. Lệ Sơn là làng nổi tiếng có
truyền thống hiếu học từ xưa đến nay. Ngay từ buổi đầu lập làng, cố Lê Văn
Hành (vị Tiền khai canh làng Lệ Sơn) đã mời cụ Trần Cảnh Huống nguyên là
quan thái học ở trường Quốc tử giám nghỉ hưu tại làng Phù Kinh về làm thầy dạy
học cho con em Lệ Sơn. Cố Trần Cảnh Huống nổi tiếng là người học rộng, văn
chương uyên bác lại có phong cách sư phạm mẫu mực. Cố là người đầu tiên đến
mở trường khai trí cho con em Lệ Sơn. Làng Lệ Sơn trước đây là nơi khá cách
trở về giao thông.
Núi Lệ Sơn như một bức tường thành sừng sững chạy dọc phía nam của
làng; núi ăn ra ở đầu làng và cuối làng. Sông Gianh như một dải lụa uốn hình
chiếc võng ôm trọn phía bắc làng. Địa hình đó dẫn Lệ Sơn đến chỗ gần như bị cô
lập hoàn toàn với các làng xung quanh khi lũ lụt ngập về. Đất canh tác nông
nghiệp của Lệ Sơn không nhiều mà nguồn nước ngọt lộ thiên lại không đủ tưới
14


cho đồng ruộng khi trời hạn hán trong vụ đông xuân. Vụ hè thu ở Lệ Sơn hầu
như năm nào cũng bị ngập úng vì lũ lụt. Do đó mặc dù Lệ Sơn lấy trồng trọt làm
ngành kinh tế chủ đạo nhưng đời sống của người dân nơi đây luôn phải đối mặt

với đói rét trong các kỳ giáp hạt. Đó cũng là một trong những nguyên nhân thúc
đẩy người Lệ Sơn rất chú trọng đầu tư cho con em mình học hành để thoát cảnh
nghèo đói. Chính những khó khăn mà thiên tai tạo ra cho Lệ Sơn đã làm cho các
bậc làm cha làm mẹ dù thiếu thốn khổ cực đến đâu cũng ra sức động viên con,
cháu học tập. Truyền thống khuyến học, khuyến tài do đó sớm hình thành ở Lệ
Sơn. Qua thống kê chưa đầy đủ, dưới chế độ phong kiến, con em Lệ Sơn có trên
20 người đỗ cống sĩ (cử nhân) và khoảng gần 100 người đỗ tú tài. Thời nhà
Nguyễn, hầu như khoa thi nào cũng có người Lệ Sơn đi thi và đỗ đạt từ tú tài đến
cử nhân. Mặc dù không có người đỗ đại khoa, nhưng làng Lệ Sơn có một giải
nguyên là Cố Lê Thời Tập đỗ năm Minh Mạng thứ 9 (1828); hai Á nguyên là Cố
Lê Huy Côn đỗ năm Minh Mạng thứ 6 (1825) và Cố Lương Nhị đỗ năm Tự Đức
thứ 35 (1882). Có hai khoa thi làng Lệ Sơn có hai người cùng đỗ cử nhân. Đó là
năm Gia Long thứ 17 (1818) có Phan Nhật Thạnh và Lê Huệ; khoa thi năm Minh
Mạng thứ 8 (1828) có Lê Thời Tập và Lê Tư Duệ cùng đỗ. Lệ Sơn dưới triều
Nguyễn có hai cha con cùng đỗ cử nhân là Lê Huy Côn và Lê Huy Tuân. Đăc
biệt có ông Lương Khắc Kiệm là người tám khoa liền đỗ tú tài. Lệ Sơn có quy
định khuyến học bằng học điền, làng trích ruộng làm phần thưởng cho người đỗ
đạt. Một số phú ruộng trong làng đã hiến ruộng cho làng làm học điền. Theo nhà
Quảng Bình học Nguyễn Tú thì sở dĩ “Lệ Sơn được xếp vào bát danh hương vì
người Lệ Sơn từ nam phụ đến lão ấu ai cũng thuộc sách Tam tự kinh và Minh
tâm bảo giám phụ nữ ai cũng thuộc Truyện Kiều…”[5;256]
“Dưới triều Nguyễn, với số lượng nho sinh đông đảo. Hầu như khoa thi
hương nào cũng có người Lệ Sơn đi thi và đã có 11 người đỗ cử nhân, hàng chục
người đỗ tú tài. Thành tích khoa bảng của Nho sinh Lệ Sơn tuy không thật xuất
sắc nhưng cũng khá ấn tượng với một giải nguyên, ba Á nguyên, có người kiên
trì theo nghiệp đèn sách tới mức tám khoa liền đỗ tú tài và có một số khác có tới
3 khoa liền đỗ tú tài. Khoa Kỷ Mão - Gia Long thứ 18, ở trường thi Trực Lệ, xã
Lệ Sơn Thượng có hai Nho sinh là Phan Nhật Thạnh và Lê Huệ cùng đỗ cử nhân.
15



Khoa thi Mậu Tý - năm Minh Mạng thứ 9, tại trường thi Thừa Thiên, Lệ Sơn
Thượng lại có hai người cùng đỗ cử nhân Lê Thời Tập (chú) đỗ Giải Nguyên và
Lê Tư Duệ (cháu) đỗ Á nguyên”[4;133].
“Qua nghiên cứu về văn hóa và giáo dục của Lệ Sơn, một số nhà nghiên
cứu cho rằng dưới chế độ phong kiến, thực dân mà ở Lệ Sơn Thượng hầu như tất
cả nam, phụ, lão, ấu đều thuộc sách Tam tự kinh và Minh tâm bảo giám, phụ nữ
ai cũng thuộc truyền Kiều, truyện Hoàng Trừ - Bà Phó, truyện Phạm Công - Cúc
Hoa”[4;133]. Đây cũng được coi là một đặc trưng thể hiện tinh thần ham học hỏi
của người dân để thoát ra khỏi tình trạng mù chữ. Cùng với việc xây dựng nếp
sống ăn ở lành mạnh, thủy chung, lịch sự có văn hóa, lại có nhiều di tích, nhiều
người khoa bảng đỗ đạt làm quan nên thời nhà Nguyễn làng Lệ Sơn được xếp
vào nhóm tứ danh hương phía bắc tỉnh Quảng Bình.
2.1.2. Lệ Sơn là làng có nhều danh sơn kỳ tú.
“Ở Lệ Sơn gắn với dãy núi đá vôi có tới gần 100 đỉnh là truyền thuyết lèn
99 chóp, Lèn Đứt chân. Dãy núi này có một loạt các đỉnh nhấp nhô uốn lượn
được các bậc trí thức làng đặt cho những cái tên rất đẹp như Thi Đàn, Họa Các,
Vũ Tọa, Thần Vì…Núi Lệ Sơn có nhiều hang động như động Chân Linh, hang
Mụ Trằn đã đi vào huyền thoại, thi ca và cổ tích. Lệ Sơn có hệ thống di tích
phong phú thờ đủ cả tiên, thánh, thần, phật (miếu Chân Linh thờ tiên nữ, Văn
thánh thờ Khổng Tử (thánh), đình làng thờ Thành hoàng và các vị Tiền hiền khai
canh, khai khẩn (thần); chùa Phúc Tự và chùa Rôộc (thờ Phật))”[5;257].
Truyền thuyết Lèn 99 chóp
“Truyền thuyết kể lại rằng: lúc Chúa Nguyễn trên đường vào Nam kiếm
chốn lập nghiệp để chống trả với chúa Trịnh ở phương Bắc, khi đến làng Lệ Sơn,
thấy phong cảnh hữu tình, đất đai phì nhiêu, có núi sông che chắn; đồng thời phía
Nam, Đông Nam, Tây Nam lại có bảy lòng chảo lớn mà người bản xứ gọi là
Hung Tắt, Hung Cày, Hung Mít, Hung Xoong, Hung Thơm, Tràm, Hung Lụy có
thể lập đồn lũy để chống trả với kẻ thù.
Chúa Nguyễn quyết định lập đàn để xin trời đất, thần linh, Đức Phật…cho

đóng đô tại nơi này. Chúa Nguyễn ăn chay, hương hoa tế lễ năm ngày liền. Ngày
thứ năm, Ngài bỗng thấy một đàn chim Phượng Hoàng từ xa bay đến, lượn ba
16


vòng, che kín cả ánh nắng chói chang của ngày hè. Đàn chim bay tản ra, mỗi con
đỗ xuống một đỉnh núi (lèn). Người ta đếm đủ chín mươi chín con đã đổ xuống
trên chín mươi chín đỉnh núi của làng. Có một con mào đỏ, đuôi cong bay dọc
theo dãy núi tìm chỗ đậu…Không có nơi đỗ, con chim đầu đàn bay hút về
Phương Nam và cả đàn Phượng Hoàng cũng sải cánh bay theo”[4;89]. Năm
1902, cậu cả Hằng đã có câu thơ rằng:
“Đất Phong Thủy một bầu long hóa
Núi Trường Sơn ngựa thả Kỳ Lân
Phượng Hoàng gieo đậu mấy lần
Chín mươi chín chóp đã gần một trăm
Phong cảnh đẹp chim rừng gọi bạn
Thú yên hà đã rạng tam thiên
Bao nhiêu non nước u huyền bấy nhiêu…”
2.1.3. Lệ Sơn có một loạt di tích lịch sử - văn hóa.
Ở Lệ Sơn có nhiều di tích lịch sử văn hóa như: Đình làng, chùa Phúc Tự,
miếu của tám họ lớn, miếu thờ Bà Sơn, miếu Tam Tòa thờ Đại càn quốc gia Nam
Hải, miếu Hiền lương; miếu thờ các Đức ông gồm Thành Hoàng, Câu Kê quan,
Mậu Tiên hầu, Mạnh Linh; miếu thờ Tả phủ quận công, Chấn quận công, Hoa
quận công.
“Hiện nay chúng ta vẫn chưa xác định được chính xác thời gian làng Lệ Sơn
bắt đầu dựng đình song theo lôgic thì đình làng Lệ Sơn phải được xây dựng sau
khi công cuộc khai khẩn đất đai hình thành nên xóm làng đồng ruộng, thiết lập xã
hiệu và trước khi xây dựng chùa Phúc Tự (1757). Từ căn cứ này chúng ta có thể
khẳng định rằng ngôi đình làng Lệ Sơn Thượng đầu tiên được xây dựng trong
khoảng từ sau thế kỷ XVI đến trước năm 1757 là năm hoàn thành chùa Phúc Tự

và đúc chuông chùa. Theo các cụ cao niên thì Đình làng lần đầu được xây dựng ở
khu trạm Ý tế xã hiện nay thuộc thôn Đình Miệu. Đình làng lần đầu tiên chỉ là
một căn nhà gỗ 5 gian làm chủ yếu từ gỗ do nhân dân đóng góp theo đơn vị ấp
(xóm). Đình tọa lạc trên một khu đất có diện tích khoảng 600m 2 ”[4;56].
“Trận lụt lớn năm Ất Sửu 1865 đã đẩy đình làng trôi dạt về nằm lại khu đất
cao ráo ở trung tâm làng là nơi xây dựng trụ sở Ủy ban nhân dân xã (cũ) ở thôn
17


Trung Làng. Ở vị trí mới đó năm 1866, đình làng được trùng tu lần thứ nhất.
Đình được trùng tu với quy mô rộng lớn và kết cấu đẹp hơn trước, trong một
khuôn viên có diện tích gần 1000m 2 . Lần đầu trùng tu này đình được xây tường
đá. Đình có kết cấu nhà rường 5 gian 5 lòng cột, trếnh, kèo đều làm bằng gỗ mít,
gỗ lim và được chạm trổ công phu. Khi việc trùng tu đình làng hoàn tất, cố Lê
Huy Tuân lúc đó đang giữ chức Án sát sứ tỉnh Thanh Hóa đã gửi về cúng cho
làng một cái trống đại và một bức hoành phi. Trống đại có đường kính 0,8m, tang
trống dài 1,2m; bức hoành phi ở giữa khảm bốn chữ lớn “Vạn phúc du đồng” hai
bên có ghi thời gian tặng là năm Mậu Dần - Tự Đức thập cửu niên (1866) với
ước nguyện đủ loại hạnh phúc và may mắn luôn đồng hành cùng với làng Lệ
Sơn. Bức hoành phi đó ngày nay trở thành một trong những cổ vật văn hóa rất có
giá trị còn lại của làng và hiện vẫn được cất giữ tại hội trường Ủy ban nhân dân
xã Văn Hóa”[4;56]
“Đến năm 1924, đình làng bị xuống cấp nhiều do đó hội đồng kỳ mục của
làng đã quyết định huy động sự đóng góp của nhân dân để trùng tu đình lần thứ
hai. Là một làng có truyền thống văn hóa nên quyết định của Hội đồng kỳ mục
được toàn thể dân làng nhất trí và nhiệt tình hưởng ứng; người góp của, trẻ góp
trí, góp công để phục dựng chùa khang trang hơn. Cố Lê Bình Nguyên là Đốc
học Quảng Ngãi từ quan về quê mở trường dạy học và cũng là vị Tiên chỉ của
làng lúc đó được dân làng dao trọng trách đứng ra chủ trì công việc trùng tu đình
làng lần thứ hai. Đình được trùng tu với quy mô rộng lớn hơn lần trước trên diện

tích khoảng 2000m 2 ”[4;57]. “Xung quanh đình có khuôn viên là tường cao bao
bọc. Mặt trước đình nhìn về hướng Nam lấy núi Thần Vì làm tiền án, phía sau và
cách đình khoảng 200m là Sông Gianh uốn khúc làm Thanh long. Trước cổng
đình là một ao rộng khoảng 700m 2 được trồng sen, kế tiếp ao sen là con đường
dọc chạy qua cổng đình. Cổng đình là cổng mở không có cánh cổng. Cổng rộng
2,7m, hai trụ cổng là hai cột nanh cao 6m trên đỉnh là hai con nghê chụm đầu vào
nhau”[4;58]. Chân cột nanh vuông cạnh 0,9m phía trước khảm sành câu đối do
cố Lê Bính sáng tác:
Khí tác sơn hà công minh chính trực nhi nhất
Đức hợp thượng hạ cao minh bác hậu vô cương
18


“Sau cổng 1,3m là một bức bình phong vuông vức có cạnh bằng bề rộng
của cổng là 2,7m. Mặt tiền bình phong đắp phù điêu hình hổ phục, Mặt hậu đắp
hình hai con chim hạc hầu mặt trăng. Hai góc sân phía Tây Bắc và Đông Nam sát
tường rào trồng hai cây đa tỏa bóng mát cho sân đình. Sân đình là nơi tổ chức hội
làng. Đình có kết cấu gồm hai hồi lang ở hai phía Tây Bắc và Đông Nam, giữa là
đình trung năm gian chia thành hai phần: tiền đình và hậu đình. Nền đình được
láng xi măng trơn bóng. Khu vực tiền đình khá rộng nối liền cả 5 gian (để thông
các gian không ngăn cách) được trải chiếu là nơi lễ bái, dọn tiệc và hội họp của
quan viên. Khu vực hậu đình có mái cong vòm cuốn lộng lẫy với các hình rồng
chầu, phượng múa. Hậu đình là nơi “tối linh từ” đặt tượng thờ, vò hương, bài vị
và sắc phong của các vị thần. Hồi lang ở hai đầu là nơi để giá treo mủ áo, dù lộng
của quan viên”[4;59].
“Đình trung 5 gian rộng, vì kèo kết cấu 5 lòng kiểu nhà rường. Năm lòng
tính từ ngoài vào gồm: lòng tiền - cù, lòng tiền, lòng giữa, lòng hậu và lòng hậu cù. Vật liệu làm đình phần lớn là gỗ lim và gỗ mít. Cột đình gồm: 8 cột cái
đường kính chân cột khoảng 0,7m, 8 cột con đường kính chân cột khoảng 0,4m
và 4 cột cù đường kính 0,25m. Băng, xà, kèo làm đình đều chạm trỗ Long, Ly,
Qui, Phượng; đòn tay chạm cuốn thư, bầu rượu, đai kiếm, cung đàn. Phần đình

hậu được xây bàn thờ nhiều cấp. Ở bậc trên hết thờ các thiên thần gồm: Thần
nông, Sơn thần chủ quản sơn lâm,…Bậc kế tiếp thờ các nhân thần, đặt vò hương
kèm bài vị các nhân thần. Bậc kế tiếp là nơi đặt cờ, lộng, mâu kiếm, long đao và
các sắc phong của triều đình cho các vị thần là các Đức ông Thành hoàng, tiền
Khai canh, hầu Khai canh; các nhân vật khoa bảng đỗ đạt làm quan to được triều
đình sắc phong và giao cho làng cúng tế…”[4;59].
Tóm lại, trên bàn thờ ở hậu đình ngoài một số vò hương kể trên còn có các
vò hương khác để thờ cúng rất nhiều vị cả thiên thần lẫn nhân thần song hiện nay
vẫn chưa xác định được một cách chính xác và đầy đủ là đình làng còn thờ những
vị thần nào ngoài các vị thần đã kể phần trên và trật tự sắp xếp vò hương trên bàn
thờ ra sao? Tuy nhiên chúng ta có thể khẳng định chắc chắn rằng đình làng đảm
nhận ba chức năng cơ bản và quan trọng sau: Thứ nhất, đình là nơi thờ tự cúng tế
các vị Thành hoàng, Tiền Khai canh, Hậu Khai canh. Đình làng là nơi tổ chức
19


×