Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

skkn ỨNG DỤNG CNTT trong dạy môn sinh THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (172.68 KB, 14 trang )

PHẦN I: MỞ ĐẦU
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, việc ứng dụng công nghệ hiện đại
vào quá trình giáo dục là xu thế tất yếu. Hiệu quả của việc sử dụng công nghệ, các trang
thiết bị dạy học hiện đại trong quá trình giáo dục đó được khẳng định trong thực tế, nhất
là khả năng làm cho bài giảng trở nên sinh động, giáo viên có thể định hướng học sinh
tiếp cận với một nguồn tri thức phong phú
Chương trình Sinh học 9 - THCS nghiên cứu về những quá trình phức tạp diễn ra
ở cấp độ phân tử hay cấp độ tế bào mà bằng mắt thường ta không thể quan sát được. Nên
khi học về những kiến thức này học sinh thường mơ hồ và không thể hiểu bài một cách
rõ ràng, chắc chắn được. Rất dễ dẫn đến sự nhàm chán và gây cảm giác ngại học ở học
sinh.
Qua một số năm công tác, học hỏi và rút kinh nghiệm tôi đã cố gắng khắc phục
tình trạng trên để học sinh tìm lại hứng thú học tập và đem lại hiệu quả cao hơn trong quá
trình dạy học. Những kinh nghiệm đó của tôi được thể hiện qua đề tài "Nâng cao hiệu
quả ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học sinh học 9".
Trong phạm vi SKKN này, tôi chỉ xin đưa ra một vài giải pháp và biện pháp dạy
học Sinh học ở trường THCS để nâng cao hiệu quả việc sử dụng CNTT vào tiết dạy.
II. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
1. Phạm vi nghiên cứu.
Trường PTDTBT TH&THCS Tả Lủng - Tả Lủng - Đồng Văn - Hà Giang.
2. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu là giáo viên và học sinh lớp 9 của trường PTDTBT
TH&THCS Tả Lủng.
III. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
- Nâng cao phương pháp giảng dạy cho giáo viên trong việc ứng dụng CNTT vào
tiết dạy, từ đó nâng cao chất lượng dạy và học.
- Tạo cơ sở cho việc giáo viên vận dụng CNTT vào từng bài giảng dạy và học tập
bộ môn sinh học đạt kết quả cao.
- Phát huy được tính tự giác, tích cực và tự lực, tính chủ động sáng tạo. Học sinh
tự tìm kiến thức dưới sự tổ chức và chỉ đạo của giáo viên, kiến thức thu được sẽ trở thành


tài sản của các em.
IV. ĐIỂM MỚI TRONG KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Từ khi tôi áp dụng đề tài này vào trong thực tiễn giảng dạy (bắt đầu từ tiết 16 học
kỳ I năm học 2014 - 2015) thì tôi thấy kết quả có chuyển biến, chất lượng bộ môn được
nâng lên. Số học sinh mà tôi dạy ngày càng yêu thích học môn Sinh học hơn. Các em bắt
đầu có nhu cầu muốn sử dụng máy tính và thích học những tiết có ứng dụng CNTT hơn,
đặc biệt là học sinh đã biết chuẩn bị bài ở nhà, biết hỏi cách làm các bài tập sinh học, hay
thao tác sử dụng máy tính... Mặc dù chỉ là một số em, nhưng đó là một tín hiệu đáng
mừng không chỉ cho riêng bản thân tôi mà kể cả những đồng nghiệp của tôi.
PHẦN II: NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN KHOA HỌC
Làm thế nào để ứng dụng CNTT hiệu quả trong các tiết dạy, đó là vấn đề mà bất
cứ một giáo viên nào cũng gặp phải khi có ý định đưa CNTT vào giảng dạy.

1


Việc ứng dụng CNTT trong dạy học là một phương pháp hay nhất và hữu hiệu
nhất trong giai đoạn giáo dục hiện nay nhất là đối với các vùng sâu vùng xa, vùng miền
núi và những vùng có điều kiện khó khăn như huyện Đồng Văn - tỉnh Hà Giang.
Sự ra đời của phương pháp dạy học mới bao giờ cũng gặp những khó khăn, đòi
hỏi phải có ý chí và quyết tâm tìm tòi, thử nghiệm với những bước đi vững chắc mới có
thể đạt hiệu quả cao.Áp dụng phương pháp giảng dạy bằng công nghệ thông tin đòi hỏi
giáo viên phải dành nhiều thời gian đầu tư vào mỗi bài dạy. Từng bước áp dụng các
phương tiện hiện đại như máy chiếu đa năng, đầu Ptojector, băng hình, tranh ảnh vào
trong giảng dạy các môn, đó là con đường hữu hiệu, có tác dụng tăng hiệu quả tiết học
lên gấp đôi.
II. CƠ SỞ THỰC TIỄN
1. Thực trạng chung
Hiện nay việc áp dụng và đưa CNTT vào giảng dạy ở các trường trên địa bàn

Huyện Đồng Văn còn gặp rất nhiều khó khăn như:
- Các trường còn chưa có phòng máy cố định riêng, vì vậy khi giảng dạy giáo viên
phải mất rất nhiều thời gian để lắp các thiết bị.
- Phần lớn các giáo viên ngại sử dụng bài giảng điện tử vì cho rằng mất nhiều thời
gian để chuẩn bị một bài giảng. Việc thực hiện bài giảng một cách công phu bằng các dẫn
chứng sống động trên màn chiếu (slide) là một điều không phải dễ dàng với nhiều giáo
viên. Để có một bài giảng như thế đòi hỏi phải mất nhiều thời gian chuẩn bị. Khi đã có
bài giảng thì giáo viên thường trình chiếu nội dung bài dạy suốt cả tiết học làm cho học
sinh mỏi mắt, đưa vào tình trạng mệt mỏi, kém tích cực, không thích hợp với phương
pháp dạy học tích cực hiện nay. Có một số nội dung không nhất thiết phải trình chiếu
cũng thể hiện lên. Chưa chắt lọc được phần kiến thức, hay bố trí các Slide cho khoa học
hợp lý. Thêm vào đó là kiến thức về CNTT, cách soạn một bài giảng điện tử hay việc ứng
dụng công nghệ hiện đại vào tiết dạy của giáo viên còn hạn chế.
- Học sinh chưa được tiếp xúc và sử dụng máy tính và mạng Internet nhiều.
Chính vì những khó khăn trên mà các giáo viên chỉ soạn, giảng có ứng dụng
CNTT khi có nhu cầu. Tức là chỉ có thao giảng, thì mới sử dụng và việc làm này chỉ
mang tính chất đối phó. Tình trạng này tương đối phổ biến trong các trường trên địa bàn
Huyện.
2. Thực trạng cụ thể
Nhìn chung các tiết dạy học sinh học có ứng dụng CNTT hiện nay còn mang tính
chất hình thức hoặc quá lạm dụng dẫn đến kết quả của tiết học chưa cao. Điều đó phụ
thuộc vào rất nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan song có lẽ nguyên nhân chính ở
đây là giáo viên chưa có đầy đủ những điều kiện cần thiết để tiếp cận với phương pháp
dạy học hiện đại, chưa có kinh nghiệm soạn bài giảng điện tử hay khai thác CNTT để đưa
vào giảng dạy có hiệu quả. Mặt khác đó là việc học sinh còn chưa được tiếp cận với máy
tính, Internet hay CNTT nhiều nên cũng dẫn đến hiện trạng như vậy.
III. CÁC BIỆN PHÁP THỰC HIỆN
Việc áp dụng và đưa CNTT vào giảng dạy không còn là vấn đề mới mẻ, tuy nhiên
để việc sử dụng có hiệu quả và đem lại kết quả cao thì không đơn giản. Muốn vậy ta cần
phải có giải pháp và biện pháp bài bản để từng bước đưa CNTT vào giảng dạy có hiệu

quả gây được hứng thú học tập với học sinh. Vì vậy tôi mạnh dạn đưa ra các giải pháp và
biện pháp thực hiện đối với giáo viên và học sinh như sau:
1. Các giải pháp thực hiện.

2


- Tham mưu cùng Tổ chuyên môn và Ban giám hiệu, đề nghị các cấp quản lí giáo
dục tạo điều kiện trang bị những thiết bị cần thiết cho việc thực hiện bài giảng điện tử
(BGĐT) như máy tính, máy chiếu đa năng (Multimedia projector)
- Tổ chức một số buổi học tập về cách sử dụng máy chiếu, thiết lập các hiệu ứng
trong PowerPoint, khai thác mạng Internet cho giáo viên để họ có thể tự thiết kế bài
giảng điện tử cho mình.
- Tìm hiểu và nghiên cứu thêm những kỹ năng cơ bản và nâng cao trong việc sử
dụng bài giảng điện tử, khai thác mạng Internet để làm phong phú thêm tiết học cũng như
những dạng bài tập khác nhau.
- Thăm dò và đánh giá chất lượng học sinh sau giờ học để nắm bắt được thực chất
chất lượng học tập của các em trong việc nâng cao hiệu quả áp dụng đề tài.
Tôi nghĩ rằng, với khả năng sư phạm vốn có cộng thêm một ít bồi dưỡng về kiến
thức tin học, các giáo viên hoàn toàn có thể thiết kế được bài giảng điện tử để thể hiện tốt
hơn phương pháp sư phạm, truyền đạt hết kiến thức trực tiếp lên màn chiếu, góp phần đổi
mới phương pháp giảng dạy, phù hợp với mục tiêu ứng dụng CNTT hiện nay.
2. Các biện pháp cụ thể:
2.1. Biện pháp 1: Trang bị kiến thức:
Đây là bước đầu tiên vô cùng quan trọng bởi nó sẽ trang bị cho giáo viên những
kiến thức cơ bản về CNTT để từ đó có thể lựa chọn hình thức để áp dụng vào bài giảng
sao cho hiệu quả để làm được điều đó thì giáo viên cần phải:
- Biết sử dụng máy tính với các phần mềm Word, Excel và phần mềm PowerPoint
hoặc Violet hay biên tập một đoạn video, clip.
- Biết cách truy cập Internet để sưu tầm tư liệu.

- Biết lắp và sử dụng máy chiếu SANYO.
Biết sử dụng máy tính ở mức độ soạn thảo thì đơn giản. Tuy nhiên nếu chỉ có làm
như thế thì chúng ta chưa thực sự thấy được sức mạnh của CNTT và cũng như một số
phần mềm khác lúc đó có nghĩa chưa phát huy hiệu quả của phương pháp giảng dạy mới
này. Đối với môn Sinh học bài giảng thường đi kèm với nhiều hình ảnh minh họa. Chẳng
hạn bài “Đột biến gen” mô hình minh họa trên máy chiếu sẽ khiến học sinh dễ hình dung
hơn thế nào là mất, thêm hay thế 1 cặp nucleotit; hoặc bài “Bệnh và tật di truyền” ở
người qua những hình ảnh sinh động trên màn hình có thể giúp học sinh dễ hiểu bài hơn
so với việc chỉ mô tả bằng ngôn ngữ nói.
Với hình thức giảng dạy như thế, tôi tin rằng các em học sinh sẽ cảm nhận và khắc
sâu, dể hiểu về bài học, qua đó giáo viên khỏi mất thời gian tìm tranh ảnh, không mất
thời gian xóa bảng mà chỉ khắc sâu và mở rộng kiến thức cho học sinh …
Bài giảng sau khi được thiết kế sẽ được trình chiếu lên màn hình thông qua đầu
chiếu SANYO. Điều đó dù muốn hay không mỗi giáo viên buộc phải biết cách sử dụng
nó. Đây là một trong những yêu cầu bắt buộc đối với giáo viên chỉ cần một vài thao tác
lắp máy chiếu với Case của máy vi tính hoặc Laptop (máy tính xách tay) và điều chỉnh độ
nét, độ lớn trên màn hình, lúc này giáo viên chắc hẳn có một bài giảng chất lượng, học
sinh sẽ có một tiết học thoải mái và sôi động nhưng không hẳn giáo viên nào cũng biết
cách sử dụng nó do vậy ta cần phải tăng cường bồi dưỡng kiến thức về CNTT cho giáo
viên, đồng thời giáo viên phải biết tự học hỏi bạn bè đồng nghiệp để nâng cao khả năng
của mình
Điều cuối cùng tôi muốn nói đến là nhờ bài giảng điện tử mà các giáo viên đã tạo
ra một không khí khác hẳn so với giờ dạy không có ứng dụng CNTT điều đó đã được
kiểm chứng qua tất cả các tiết học mà tôi cùng bạn bè đồng nghiệp đã áp dụng.

3


2.2. Biện pháp 2: Trang bị những nguyên tắc cơ bản khi thiết lập một bài giảng điện
tử (BGĐT)

Với những nội dung bài giảng, hình ảnh minh họa được đưa vào bài giảng, thao tác
cơ bản đòi hỏi người giáo viên phải nắm được, thiết lập được các hiệu ứng để làm sao
cho bài giảng được sinh động, mang lại không khí học tập sôi động và mới mẻ. Vậy các
hiệu ứng đó là gì? Đó là các hoạt cảnh của các đối tượng (văn bản, hình ảnh,...) được
thiết lập có thứ tự, có thể là dòng chữ hay hình ảnh này xuất hiện trước dòng chữ hay
hình ảnh kia, hay có thể là dòng chữ hay hình ảnh này xuất hiện sang trái, dòng chữ hay
hình ảnh xuất hiện sang phải….Chẳng hạn khi kiểm tra bài cũ, giáo viên đưa ra bài trắc
nghiệm A, B, C, D (học sinh chọn câu đúng). Giáo viên kiểm nghiệm kết quả trên màn
hình, như thế mới tiết kiệm được thời gian chép câu hỏi lên bảng, đồng thời tăng khả
năng tư duy của học sinh. Với đặc điểm này giáo viên tiết kiệm được thời gian viết nội
dung lên bảng, nội dung hiển thị đến đâu giáo viên giảng đến đó, làm cho thời gian giảng
bài nhiều hơn, logic hơn, học sinh hiểu bài sâu hơn.
Một trong những khó khăn nhất của giáo viên khi soạn BGĐT là đây, bởi không
phải giáo viên nào cũng am hiểu về máy tính, đặc biệt là làm cách nào để soạn được một
bài PowerPoint cho hợp lý, sinh động để học sinh dễ hiểu thì theo tôi khi soạn giảng
chúng ta nên chú ý các điểm sau:
a. Thiết lập các Slide trên một bài giảng:
Qua các tiết dự giờ tôi thấy còn mang tư tưởng áp đặt những kiến thức vào bài
giảng. Có nghĩa là giáo viên nói những gì, giảng những gì, hỏi những gì đều thể hiện toàn
bộ trong Slide. Điều này hoàn toàn sai lầm vì như thế học sinh sẽ cho rằng giáo viên chỉ
nói những điều trong sách, không mở rộng các kiến thức ngoài, gây cho học sinh sự
nhàm chán. Ngoài ra số lượng Slide lớn cũng là vấn đề đáng ngại bởi nếu giáo viên
không thực sự nắm vững làm chủ được bài sẽ làm cho bài giảng bị rối từ đó ảnh hưởng
tới sự tiếp nhận kiến thức của học sinh.
Chúng ta cần nhớ một điều: Slide (một trang màn hình của một phần mềm nào đó)
là nơi chỉ chứa tên bài học, các đề mục và các cụm từ “chốt” phục vụ cho bài giảng. Tùy
theo từng môn học, chúng ta có thể bổ sung các hình ảnh minh họa một cách hợp lý.
Việc đưa nội dung vào slide, giáo viên cũng nên lưu ý về số lượng Slide, số lượng
chữ, màu sắc, kích thước trên một Slide. Giáo viên nên tóm tắt vấn đề mình muốn trình
bày một cách rõ ràng, dễ hiểu đi sâu vào trọng tâm bài, nhìn vào Slide giáo viên có nhiệm

vụ giải thích kĩ càng và mở rộng nó ra chứ không phải đọc các dòng chữ trên Slide.
b. Thiết lập tư liệu, hình ảnh, video, clip
Hình ảnh được đưa vào bài giảng phải đúng với yêu cầu của nội dung bài dạy, hình
ảnh rõ ràng, sắc nét tránh những hình ảnh, tư liệu lòe loẹt không nhìn thấy rõ, hay quá
nhiều hình ảnh trong bài cũng dẫn tới việc khai thác thông tin hình ảnh bị hạn chế.
Một số tiết dạy giáo viên muốn lôi cuốn học sinh nhìn lên màn hình bằng cách thêm
vào những hình động hấp dẫn, điều này là chúng ta đã sai lầm, học sinh chỉ cuốn hút bởi
những hình ảnh mà không chú tâm vào nội dung, yêu cầu của câu hỏi đặt ra. Cần nên
tránh sử dụng hình động trong những hoạt động tìm hiểu kiến thức, chỉ được sử dụng
trong những trò chơi học tập.
Việc đưa video hay clip vào bài giảng cũng cần bố trí hợp lý, đúng trọng tâm tránh
miên man, giáo viên nên chọn nhưng video, clip về những sự vật hiện tượng hay những
điều mà các em chưa từng thấy, gặp hay nơi các em sinh sống không có như vậy mới
tăng hiệu quả của video hay clip giáo viên đưa vào.
Những tranh, ảnh hay đoạn phim minh họa dù hay nhưng mờ nhạt, không rõ ràng
thì cũng không nên sử dụng vì không có tác dụng cung cấp thông tin xác định cho học

4


sinh cũng như ảnh hưởng đến việc tiếp nhận hình ảnh của học sinh dẫn đến kết quả
không tốt như ta mong muốn.
c. Về màu sắc của nền hình:
Màu sắc không lòe loẹt, đồ họa vui nhộn gây mất tập trung cho học sinh. Cần tuân
thủ nguyên tắc tương phản, nếu thực sự không cần thiết thì nên sử dụng chế độ cơ bản
(nền trắng chữ đen)
d. Về font chữ và cỡ chữ:
+ Dùng các font chữ, khung, nền hợp lí. (vd: nền màu trắng, màu xanh cho các đề
mục có vai trò ngang nhau “cỡ chữ, kiểu chữ giống nhau)
+ Chỉ nên dùng các font chữ đậm, rõ và gọn (Arial, Tahoma, Time New Roman…)

hạn chế dùng các font chữ có đuôi (VNI-times…) vì dễ mất nét khi trình chiếu.
+ Giáo viên thường muốn chứa thật nhiều thông tin trên một slide nên hay có
khuynh hướng dùng cỡ chữ nhỏ. Điều đó là sai lầm bởi trong một lớp học như vậy thì ta
không nên để chữ quá nhỏ, chúng ta nên chọn cỡ chữ từ 28 trở lên là hợp lý nó vừa đảm
bảo tính sắc nét, dễ đọc cho học sinh cũng như tính thẩm mỹ cho một slide.
đ. Về trình bày nội dung trên nền hình:
Giáo viên không nên trình bày nội dung tràn lấp đầy nền hình từ trên xuống, từ trái
qua phải, mà cần chừa ra khoảng trống đều hai bên và trên dưới theo tỷ lệ thích hợp, để
đảm bảo tính mỹ thuật, sự sắc nét và không mất chi tiết khi chiếu lên màn. Các dạng đồ
họa (hình ảnh, âm thanh, hiệu ứng…) cần phải được lựa chọn cẩn thận, nếu không chúng
sẽ gây phân tán tư tưởng, tư duy lệch lạc trong học sinh.
e. Trình chiếu bài giảng:
Thật ra, ta phải giải quyết khó khăn của học sinh ngay từ người giáo viên và giải
quyết ở ba khâu: soạn bài giảng, trình chiếu và kiến thức trọng tâm mà học sinh cần nắm.
- Các trang trình diễn phải đơn giản, rõ ràng, khoa học làm rõ trọng tâm bài.
- Không sao chép nguyên văn bài dạy, chỉ nên đưa những ý chính, những nội dung
cần nhớ, những kiến thức trọng tâm vào mỗi trang trình diễn.
- Khi giáo viên trình chiếu một bài giảng điện tử để học sinh có thể quan sát kịp thì
nội dung trong mỗi slide không nên xuất hiện dày đặc cùng lúc. Ta nên phân dòng hay
phân đoạn thích hợp, cho xuất hiện theo hiệu ứng thời gian tương ứng. Trường hợp có
nội dung dài mà nhất thiết phải xuất hiện trọn vẹn cùng lúc, ta trích xuất từng phần thích
hợp để giảng, sau đó đưa về trang có nội dung tổng hợp, học sinh sẽ dễ hiểu và dễ tiếp
thu hơn.
Khi áp dụng biện pháp này các đồng chí giáo viên đã làm chủ được bài giảng của
mình, hạn chế được số lượng Slide trong các bài giảng, đồng thời cũng biết cách tạo ra 1
bài giảng PowerPoint hợp lý, sinh động và hiệu quả hơn. Ngay cả các giáo viên như Âm
nhạc, Mỹ thuật, Thể dục cũng đã áp dụng CNTT vào bài giảng.
2.3. Biện pháp 3: Sử dụng các phương tiện hiện đại trong giảng dạy:
Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, việc ứng dụng công nghệ hiện đại vào
quá trình giáo dục là xu thế tất yếu. Hiệu quả của việc sử dụng công nghệ, các trang thiết

bị dạy học hiện đại trong quá trình giáo dục đã được khẳng định trong thực tế, nhất là khả
năng làm cho bài giảng trở nên sinh động, giáo viên có thể định hướng học sinh tiếp cận
với một nguồn tri thức phong phú. Không thể phủ nhận những tiện ích mang lại từ việc
ứng dụng các phương tiện dạy học hiện đại vào quá trình dạy học. Khi sử dụng giáo án
điện tử với những môn học, tiết dạy phù hợp, bài giảng của giáo viên có tính trực quan
hơn. Những hình ảnh, đoạn video clips, đoạn nhạc xen ngang làm cho giờ học trở nên
sinh động, có khả năng cuốn hút, tạo hứng thú cho người học. Với việc ứng dụng công

5


nghệ thông tin, trong một tiết dạy, khối lượng kiến thức có thể được truyền đạt tới học
sinh nhiều hơn. Với những bài giảng điện tử, giáo viên giảm được đáng kể thời gian ghi
bảng hoặc đọc cho học sinh chép. Thay cho thời gian đọc chép hay ghi bảng, giáo viên có
thể lấy thêm nhiều ví dụ minh họa, dẫn dắt học sinh tiếp cận với các kiến thức phong phú
hơn. Mặt khác, việc ứng dụng các thiết bị dạy học hiện đại vào quá trình giáo dục cũng là
cơ hội giúp giáo viên và học sinh có điều kiện tiếp cận được với các phương tiện giảng
dạy và học tập tiên tiến trên thế giới. Đây cũng là động lực để cả giáo viên và học sinh
đều phải học tập, nâng cao trình độ công nghệ thông tin của bản thân nhằm bắt kịp xu
hướng của thời đại.
Đó là những hiệu quả tích cực không phải bàn cãi, tuy nhiên, nếu sử dụng không
phù hợp, lạm dụng quá mức sẽ dẫn tới phản tác dụng. Trong thực tế, có những tiết dạy,
giáo viên trình chiếu cho học sinh quá nhiều thông tin, hình ảnh, số liệu khiến cho học
sinh bị “quá tải” với những gì nghe và nhìn thấy. Thời gian lẽ ra phải giành để học sinh
suy nghĩ, tư duy, thảo luận nhóm thì chủ yếu chỉ để sử dụng cho việc nghe và quan sát.
Kết quả là, chuyển từ hình thức đọc - chép trước đây sang nhìn - chép, chiếu - chép, hiệu
quả của tiết dạy vì thế không được cải thiện nhiều.
Để tránh hiện tượng đó sảy ra ta phải xác định rằng bài giảng điện tử không phải là
phần mềm dạy học, nó chỉ trợ giúp cho việc giảng dạy của giáo viên (đối tượng sử dụng là
giáo viên, không phải là học sinh). Chính vì vậy, việc truyền đạt kiến thức vẫn dựa trên

phương pháp dạy học tích cực (học sinh tự tìm tòi kiến thức dưới sự chỉ đạo của giáo viên),
chứ không phải giao tiếp máy - người. Mặt khác, vì giáo viên là người trực tiếp điều hành
việc sử dụng phần mềm nên có thể khai thác tối đa được những kiến thức cần chuyển tải
trong phần mềm, tuỳ thuộc vào trình độ của học sinh và phương pháp giảng dạy của giáo
viên. Rõ ràng việc sử dụng các bài giảng điện tử sẽ tăng hiệu quả đáng kể đối với các tiết
dạy của giáo viên. Có thể nói đó là sự kết hợp những ưu điểm của phương pháp dạy học
truyền thống và của công nghệ hiện đại.
2.4. Biện pháp 4: Tăng cường trang bị kiến thức CNTT, máy tính cho học sinh
Tả Lủng là một xã nghèo của Huyện Đồng Văn, trên địa bàn xã chưa có một tiệm
máy tính hay Internet nào cả, thêm vào đó đa phần học sinh còn chưa bao giờ được sử
dụng máy tính, chưa biết sử dụng mạng Internet để khai thác kiến thức cho bài học nên
khi học tập các tiết học có ứng dụng CNTT học sinh đôi khi còn mất tập trung vào nội
dung chính của bài mà chỉ chú ý đến các hiệu ứng lạ trên máy. Đó cũng là 1 phần lý do
các giáo viên ngại áp dụng CNTT vào tiết dạy vì sợ bị “cháy” tiết. Vì vậy trong học kỳ I
năm học 2015 – 2016 tôi thường xuyên cho học sinh tiếp súc với máy tính và tiếp cận với
Internet thông qua các buổi học ngoại khóa, những giờ học buổi tối, hay những tiết tự
quản tôi nhận thấy rằng học sinh rất đam mê, tích cực tìm hiểu mày mò, thông tin. Qua
trao đổi và lắng nghe tâm tư nguyện vọng của các em, tôi thấy rằng việc trang bị kiến
thức CNTT cho học sinh là thực sự cần thiết, nó đảm bảo cho học sinh một vốn kiến thức
về máy tình nhất định, lại vừa đem lại hiệu quả cao hơn khi bài giảng của ta có sự tương
tác giữa thầy – trò – máy tính vì khi đó học sinh không chỉ bị động nghe, quan sát nữa mà
có thể tương tác với bài giảng thông qua ứng dụng CNTT.
IV. HIỆU QUẢ SÁNG KIẾN:
Qua những biện pháp nêu trên mà tôi đã thực hiện trong năm học 2014 - 2015 và
học kỳ I năm học 2015 - 2016 đã đạt được kết quả như sau:
Đối tượng dạy và nghiên cứu của tôi là học sinh lớp 9. Trong năm học 2014 –
2015 có một lớp 9 với tổng số 27 học sinh. Năm học 2015 - 2016 trường chỉ có 1 lớp 9

6



với tổng số 33 học sinh, nên tôi không thể chia làm 2 trường hợp đối chứng và thực
nghiệm trực tiếp được. Do vậy tôi đã chia năm học 2014 – 2015 thành 2 giai đoạn (giai
đoạn 1 trong học kỳ I, giai đoạn trong học kỳ II tôi đưa CNTT và bài giảng điện tử vào
giảng dạy). Năm học 2015 - 2016 tôi chia học kỳ I làm 2 giai đoạn (giai đoạn 1 từ tiết 01
đến tiết 15, giai đoạn 2 từ tiết 16 đến thi học kỳ I tôi đưa CNTT và bài giảng điện tử vào
giảng dạy) qua các bài kiểm tra học kỳ I và kỳ II (đề Phòng Giáo dục) năm học 2014 2015 và năm học 2015 – 2016 tôi cho làm một bài kiểm tra thử 1 tiết và lấy bài kiểm tra
học kì 1 (đề Phòng GD) tôi thu được kết quả như sau:
Năm
học

Giỏi
(9 - 10)

Sĩ số

SL
2014 2015
2015 2016

%

Khá
(7- <9)

Trung bình
(5 - <7)

Yếu
(3- <5)


Kém
(điểm <3)

SL

%

SL

%

SL

%

SL

%

HK I

27

0

3

11,1


18

66,7

5

18,5

1

3,7

HK II

27
33

0
0

6
11

22,2
33,3

19
17

70,4

51,5

2
4

7,4
12,1

0
1

3,1

33

0

13

39,4

18

54,5

2

6,1

0


1 tiết
Kì 1

Thông qua kết quả thu được trong năm học 2014 - 2015 và học kỳ I năm học 2015
- 2016 và việc nhận xét bài làm của học sinh cùng với không khí học tập trên lớp tôi nhận
thấy có một số đặc điểm sau
- Những giờ dạy sử dụng giáo án điện tử và phương tiện dạy học hiện đại trong
giảng dạy, thực sự giúp cho học sinh hứng thú trong học tập. Giúp học sinh hiểu bài sâu
sắc hơn và phát triển tư duy, rèn kỹ năng nhận biết, quan sát và rút ra kết luận tốt hơn hẳn
khi chưa nâng cao áp dụng CNTT vào giảng dạy.
- Tỉ lệ học sinh yếu giảm, học sinh kém không còn, tỉ lệ học sinh trung bình; khá;
giỏi tăng lên.
- Học sinh đã bước đầu biết sử dụng máy tính hay những điện thoại thông minh để
nên mạng mày mò kiến thức cho bài học.
- Các đồng nghiệp của tôi không còn ngại hay sợ mỗi khi đưa bài giảng điện tử
vào giảng dạy nữa mà ngược lại còn thấy tự tin hơn, thoải mải và có hứng thú hơn khi
đưa bài giảng điện tử vào tiết học.
PHẦN III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
I. BÀI HỌC KINH NGHIỆM:
Bản thân tôi nhận thấy việc tự học, tự nghiên cứu để không ngừng trau dồi về kiến
thức, về phương pháp giảng dạy, về khả năng áp dụng các phương tiện hiện đại trong
giảng dạy là việc làm vô cùng cần thiết, giúp học sinh hiểu bài sâu hơn và có hứng thú,
thích học, ham học và muốn học hơn. Có như vậy mới đáp ứng được lòng tin yêu của học
sinh và yêu cầu của xã hội, nhất là trong thời buổi công nghệ thông tin như hiện nay.
Bên cạnh việc tự học, tự nghiên cứu để nâng cao hiểu biết cho bản thân mỗi giáo
viên thì việc học hỏi thêm qua việc dự giờ đồng nghiệp, qua việc lắng nghe ý kiến rút
kinh nghiệm của đồng nghiệp và Ban giám hiệu trong từng giờ dạy cũng là bài học vô giá
đối với bản thân giáo viên.
Qua áp dụng sáng kiến này tôi nhận thấy cần chú ý một số vấn đề sau:

- Giáo viên là người hướng dẫn học sinh học tập chứ không đơn giản chỉ là người
phát động, cung cấp thông tin. Do vậy, giáo viên phải biết đánh giá và lựa chọn thông tin,
hình ảnh, đoạn phim phục vụ bài dạy có tính thiết thực, làm rõ nội dung bài dạy, tránh

7


tham lam, nhồi nhét các loại thông tin, phim, ảnh không phù hợp làm giảm hiệu quả bài
dạy.
- Trong quá trình giảng dạy, giáo viên cần lưu ý đến khả năng tiếp thu, lĩnh hội tri
thức, khả năng ghi chép bài học của học sinh để có hướng điều chỉnh kịp thời.
- Khi soạn giáo án điện tử, giáo viên cần lưu ý khi dùng hiệu ứng, âm thanh, tiếng
động phải phù hợp, không lạm dụng. Giáo án điện tử cần phải được thiết kế một cách
khoa học, để qua từng slide, từng chi tiết, học sinh phải nhận biết được những nội dung
nào là nội dung chính cần ghi chép, nội dung nào là phần diễn giải của giáo viên, ...
- Trong giáo án điện tử việc dùng màu chữ, phông chữ, cỡ chữ và màu phông nền
như thế nào cũng là điều cần lưu ý. Kênh chữ, kênh hình, các tư liệu phải rõ ràng phù
hợp với nội dung bài dạy, có tác dụng giáo dục. Hạn chế việc sử dụng khung hình động
để học sinh giảm sự phân tán suy nghĩ. Màu sắc phải phù hợp, không lòe loẹt chói mắt.
Bài giảng điện tử gây sự hứng thú học tập của học sinh thông qua các hình ảnh minh họa,
trò chơi học tập nhằm củng cố lại kiến thức trong tiết dạy.
- Không nên quá lạm dụng CNTT, xem CNTT là độc tôn, là duy nhất.
Trên thực tế, việc ứng dụng sáng kiến này mới chỉ trong một phạm vi hẹp, vì thế
cũng chưa thể đánh giá được toàn diện và chính xác nhất những ưu điểm và hạn chế của
việc ứng dụng CNTT trong dạy học.
II. Ý NGHĨA CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:
Việc ứng dụng CNTT trong dạy - học các trường THCS là rất cần thiết nó có tác
động mạnh mẽ, làm thay đổi nội dung, phương pháp, phương thức dạy và học theo một
chương trình thay sách giáo khoa hiện nay. Do đó việc soạn bài giảng điện tử là không
thể thiếu, để có được một bài giảng chất lượng thì giáo viên phải tự tìm tòi, học hỏi,

nghiên cứu và mất nhiều thời gian mới có được. Bài giảng điện tử là một phương tiện
dạy- học theo phương pháp mới hiện nay, nó đòi hỏi phải có sự đầu tư không chỉ kiến
thức mà còn là thời gian.
Qua thực tế giảng dạy và học tập, được sự giúp đỡ của các thầy cô, các bạn đồng
nghiệp, bản thân tôi đã tiếp thu được nhiều điều bổ ích, thiết thực cho quá trình giảng dạy
và công tác. Tôi mạnh dạn chọn đề tài này với mong muốn được đóng góp một phần
công sức nhỏ bé của mình vào sự nghiệp giáo dục của Huyện, nâng cao chất lượng giáo
dục của xã Tả Lủng cũng như trong việc đổi mới phương pháp dạy học.
Trong quá trình viết đề tài, do điều kiện về thời gian và năng lực có hạn, đề tài
không tránh khỏi những sai sót hạn chế. Tôi rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của
các thầy cô giáo và các đồng nghiệp để tôi có được kinh nghiệm quý báu cho bản thân
trong quá trình giảng dạy.
III. KHẢ NĂNG ỨNG DỤNG TRIỂN KHAI:
Qua kết quả đạt được trong học kỳ I năm học 2015 – 2016, bước đầu có thể khẳng
định sáng kiến kinh nghiệm này có tính khả thi và có thể áp dụng đối với các trường có
điều kiện cơ sở vật chất tương tự như trường PTDTBT TH&THCS Tả lủng. Tuy nhiên,
khi áp dụng đề tài này chúng ta có thể gặp nhiều khó khăn, vì khả năng ứng dụng CNTT
mỗi người đều có giới hạn. Vì vậy, khi áp dụng đề tài này ta nên kiên trì nhẫn nại, luôn
học hỏi rút kinh nghiệm cho bản thân. Điều cuối cùng tôi muốn nói với các bạn đồng
nghiệp là: "Hãy mạnh dạn ứng dụng Công nghệ thông tin vào tiết dạy của mình", dù chưa
quen, chưa chủ động, còn có sai sót khi ứng dụng nhưng đó là tiền đề để mỗi chúng ta
phấn đấu nâng cao phương pháp giảng dạy cho bản thân từ đó nâng dần chất lượng học
tập của học sinh, cũng như nền giáo dục của Huyện nhà.

8


IV. KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT
1. Đối với các cơ quan quản lý giáo dục
- Phòng GD&ĐT huyện Đồng Văn nên thường xuyên tổ chức hay tạo điều kiện

cho giáo viên được đi tập huấn các chương trình ứng dụng CNTT trong soạn - giảng để
bổ sung thêm kiến thức và học hỏi thêm kinh nghiệm của đồng nghiệp.
- Chính quyền xã nên tạo điều kiện hay mở các phòng máy tính miễn phí để học
sinh cũng như người dân được tiếp cận với CNTT nhiều hơn.
- Ban giám hiệu nhà trường cần theo dõi sát sao hơn việc giáo viên sử dụng CNTT
vào dạy học đặc biệt là tính hợp lí giữa nội dung bài học với việc sử dụng CNTT, để
tránh sử dụng mang tính chất hình thức.
2. Đối với HĐND – UBND huyện Đồng Văn – tỉnh Hà Giang
Một khó khăn trong việc ứng dụng CNTT vào dạy học nói chung là thiết bị cồng
cềnh, vận chuyển vất vả, cần phải có nhiều người trợ giúp trong việc vận chuyển, lắp đặt
vì chưa có phòng chuyên biệt, phòng nghe nhìn để lắp đặt cố định thiết bị máy chiếu,
màn chiếu nên việc ứng dụng còn đang hạn chế, đôi khi vì ngại phiền hà và phức tạp nên
những tiết cần thiết không được áp dụng mà chỉ sử dụng đến phương tiện này khi thao
giảng hoặc khi thi giáo viên giỏi … Vì vậy tôi đề xuất với các cấp có thẩm quyền cần tạo
điều kiện xây dựng một phòng máy riêng để lắp đặt cố định thiết bị máy chiếu.
Trên đây là những điều mà tôi đã áp dụng trong năm học 2014 - 2015 và học kỳ I
năm học 2015 - 2016 tại trường PTDTBT TH&THCS Tả Lủng đã bước đầu thu được
hiệu quả và tương đối thành công, đó cũng chính là tiền đề để tôi tiếp tục áp dụng trong
những học kỳ và năm học tiếp theo. Rất mong được cấp trên và các bạn đồng nghiệp
đóng góp ý kiến cho tôi để hoàn thiện hơn.
Tả Lủng, ngày 23 tháng 12 năm 2015
Người viết

Nguyễn Tuấn Anh

9


MỤC LỤC


Trang

PHẦN I. MỞ ĐẦU

01
01
01
01
01
01
01

I. Lý do chọn đề tài
II. Phạm vi nghiên cứu
1. Phạm vi
2. Đối tượng
III. Mục đích nghiên cứu
IV. Điểm mới trong kết quả nghiên cứu
PHẦN II: NỘI DUNG
I. Cơ sở lý luận
II. Cơ sở thực tiễn
1. Thực trạng chung
2. Thực trạng cụ thể
III. Các biện pháp thực hiện
1. Các giải pháp thực hiện.
2. Các biện pháp cụ thể:
2.1. Biện pháp 1: Trang bị kiến thức:
2.2. Biện pháp 2: Trang bị những nguyên tắc cơ bản khi thiết lập một
bài giảng điện tử
2.3. Biện pháp 3: Sử dụng các phương tiện hiện đại trong giảng

dạy:
2.4. Biện pháp 4: Tăng cường trang bị kiến thức CNTT, máy tính cho
học sinh
IV. Hiệu quả sáng kiến
PHẦN III: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
I. Bài học kinh nghiệm
II. Ý nghĩa của sáng kiến kinh nghiệm
III. Khả năng ứng dụng triển khai
IV. Kiến nghị đề xuất
1. Đối với cơ quan quản lý giáo dục
2. Đối với HĐND - UBND huyện Đồng Văn - tỉnh Hà Giang

10

01
01
02
02
02
02
02
03
03
04
05
06
06

07
07

08
08
09
09
10


XÁC NHẬN CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC NHÀ TRƯỜNG
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….

……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
………………………………………………………………………………………………
….……………………………………………………………………………………….
………………………………………………………………………………………………

11


….……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………

12


PHÒNG GD&ĐT ĐỒNG VĂN
TRƯỜNG PTDTBT TH&THCS TẢ LỦNG

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI:
“Nâng cao hiệu quả ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học sinh học 9”


Giáo viên: Nguyễn Tuấn Anh
Đơn vị công tác: Trường PTDTBT TH&THCS Tả Lủng

13


14



×